Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phân tícH QUAN Quan điểM Hồ Chí Minh Nhà nước pháp quyền và sự vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.04 KB, 29 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TUYÊN TRUYỀN
---     ---

TIỂU LUẬN

MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài:
Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh Nhà nước pháp quyền và sự vận dụng
vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Họ và tên
Lớp
Mã sinh viên
Giảng viên

: Ninh Hồng Nam
: Xây dựng Đảng K39
: 1952020019
: Lê Thị Thảo

HÀ NỘI – 2020


HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MƠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài:


Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh Nhà nước pháp quyền và sự vận dụng
vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

Học viên: Ninh Hồng Nam
Mã sinh viên: Xây dựng Đảng K39
Lớp tín chỉ:

HÀ NỘI - 2020



Mở Đầu
1. Lý do chọn đề
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành
các cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, từng bước giành lại độc lập, tự do
cho dân tộc, đi lên chủ nghĩa xã hội. Sở dĩ đạt được những thắng lợi vĩ đại
và vẻ vang đó là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng theo ngọn cờ
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ kinh nghiệm lịch sử và
từ yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước, Đại hội lần thứ IX
(2001) của Đảng một lần nữa khẳng định: Đảng và nhân dân ta quyết tâm
xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận bao gồm nhiều lĩnh vực rất
phong phú, nhằm hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân ta đấu tranh bảo vệ thành
quả cách mạng và lao động sáng tạo, xây dựng một nhà nước Việt Nam hịa
bình, thống nhất độc lập, dân chủ giàu mạnh và văn minh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là quan điểm tư
tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là kim chỉ nam định hướng cho
tồn bộ q trình tổ chức, xây dựng và hoạt động của nhà nước ta. Tư tưởng

Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là
bước phát triển mới và sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin kết
hợp với chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa Việt Nam, tinh hoa văn
hóa phương Đơng và phương Tây.
Nghiên cứu và vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự
nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.
Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là một hệ thống quan điểm rõ ràng, nhất quán, phù hợp với đặc điểm
nước ta. Tư tưởng này của Người có vai trị quyết định đến sự thành lập nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Ngày nay, Đảng ta đã vận dụng một
cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền vào điều kiện
cụ thể để từng bước xây dựng thành cơng nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân.
Nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về hình thức chính thể nhà nước có
thể tìm ra lời giải đáp cho hàng loạt các vấn đề lý luận của việc hồn thiện
mơ hình tổ chức nhà nước Việt Nam hiện nay.
Vì vậy em chọn đề tài tiểu luận của mình là “ Phân tích quan điểm Hồ
Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và sự vận dụng vào xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay ”.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên
Làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
Khẳng định giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp xây dựng nhà nước ta hiện nay.

Thấy được sự vận dụng đúng đắn vào xây dựng Nhà nước nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa để thấy được những lý luận và thực tiễn to lớn đối với sự nghiệp xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở, quá trình hình thành và phát triển quan điểm Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Giá trị của quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa từ khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhà nước nói chung, nhà nước chun chính vơ sản, nhà nước xã hội chủ
nghĩa nói riêng. Sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng ấy trong giai đoạn
hiện nay.
3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Đề tài sử dụng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp
luật.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, tổng hợp,
lịch sử và lơgic; phương pháp văn bản học, gắn liền lý luận với thực tiễn.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1 Ý nghĩa lý luận
Với những kết quả nghiên cứu bước đầu, luận văn góp phần hệ thống
nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và chỉ
ra giá trị của những tư tưởng này trong quá trình vận dụng vào xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
5.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những nhiên cứu.


5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận,tài liệu tham khảo, phần nội dung của tiểu
luận gồm có 2 chương.
Chương 1: Cơ sở, q trình hình thành quan điểm Hồ Chí về Nhà nước
pháp quyền.
Chương 2: Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Chương 3: Sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay


NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở, quá trình hình thành quan điểm Hồ Chí về Nhà nước pháp
quyền.
Quan điểm Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền hết sức phong phú,
toàn diện, khơng chỉ có giá trị đối với cách mạng Việt Nam mà cịn mang
tính phổ biến, đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng.
1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
1.1.1. Cơ sở khách quan
 Điều kiện lịch sử xã hội
Thực tiễn lịch sử Việt Nam
Giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách
thống trị của chúng lên dân tộc ta. Vua quan nhà Nguyễn đầu hàng thực dân
Pháp, phản bội truyền thống yêu nước quật cường và phong trào đấu tranh

anh dũng liên tục của các tầng lớp nhân dân ta. Tình cảnh đó đã đặt trước
dân tộc Việt Nam câu hỏi: Làm thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành
chủ quyền cho đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân?
Do đó, vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nước ta đã xuất hiện những
dòng tư tưởng mới và các cuộc vận động cách mạng lớn và có mục đích
chung là đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, tuy nhiên lại khác
nhau về con đường cách mạng. Trong đó, một trong những nội dung cơ bản
của cách mạng là phương tổ chức quyền lực nhà nước sau khi giành
Đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng tư sản đã ảnh hưởng đến
Việt Nam, làm xuất hiện những dòng tư tưởng mang màu sắc mới. Đại biểu
xuất sắc đầu tiên là Phan Bội Châu. “Ông chủ trương đánh Pháp giành độc
lập dân tộc, sau đó xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chính ở Việt Nam
theo kiểu quân chủ lập hiến Nhật Bản hoặc một chính quyền cộng hịa dân
chủ theo kiểu Âu - Tây [47, 14]. Khác với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
là người chống đối triều đình quyết liệt và đấu tranh cho một nền cộng hòa ở
Việt Nam. Mơ hình tổ chức nhà nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
mặc dù có những mặt tiến bộ nhưng không phù hợp với cách mạng Việt
Nam cho nên đều thất bại.
Sự thất bại của các cuộc vận động cách mạng đã chứng tỏ rằng:
nhà nước tư sản và nền dân chủ tư sản không phải là mục tiêu của cách
mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Hay nói cách khác, mơ hình nhà nước tư sản
khơng phải là mơ hình phù hợp ở Việt Nam, bởi lẽ nhà nước đó chỉ có thể
mang lại quyền lợi và dân chủ cho một số ít người trong xã hội - đó là giai
cấp tư sản và tiểu tư sản. Trong khi đó yêu cầu cấp bách nhất, chủ yếu nhất


của cách mạng Việt Nam là giải phóng kiếp người nô lệ và đem lại cuộc
sống mới cho nhân dân lao động.
Trong thời điểm đó, “Nguyễn Tất Thành - một thanh niên mới
mười lăm tuổi đã sớm hiểu biết và đau xót trước cảnh thống khổ của đồng

bào, lúc bấy giờ Anh đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp. Anh đã tham gia
cơng tác bí mật, nhận cơng việc liên lạc” [47, 15]. Tuy rất khâm phục nhưng
không tán thành đường lối cách mạng của họ, trong đó có vấn đề chính
quyền nhà nước. Có thể thấy rằng đây là lúc bắt đầu hình thành tư tưởng về
một nhà nước độc lập, có chủ quyền. Như vậy, việc Nguyễn Tất Thành
khơng đồng tình với con đường cách mạng của những nhà yêu nước đương
thời, trong đó có vấn đề nhà nước, cho thấy rằng, tuy chưa tìm ra một cơ sở
lý luận toàn diện, nhưng bước đầu Người đã nhận thấy nhà nước quân chủ
chuyên chế, quân chủ lập hiến, cộng hịa dân chủ kiểu tư sản khơng cịn phù
hợp với con đường cách mạng Việt Nam.
Như vậy, xuất phát từ điều kiện lịch sử xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ là thực dân Pháp xâm lược và sự thất bại của các phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã khơng đồng tình với con đường
cách mạng của những nhà yêu nước trước đó, đó là con đường cách mạng tư
sản. Chính vì thế đã thơi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc đem lại một Nhà nước độc lập, tự chủ, thống nhất.
Đặc điểm thời đại
Cuối thế kỷ XIX sang đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai
đoạn tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn tư bản độc quyền, tức giai
đoạn đế quốc chủ nghĩa. Sự hình thành chủ nghĩa đế quốc và hệ thống thuộc
địa của chúng đã làm nảy sinh một mâu thuẫn cơ bản của thời đại: mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc ở thuộc địa. Phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc với “sự thức tỉnh của châu Á” là một nét nổi bật của
tình hình thế giới đầu thế kỷ XX.
Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sự
ra đời của Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới đã phá vỡ tính thống
nhất của chủ nghĩa tư bản thế giới, mở đầu cho thời đại mới - thời đại quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, tạo ra
mâu thuẫn cơ bản xuyên suốt thời đại là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội
với chủ nghĩa tư bản. Chính sự ra đời của nhà nước Xơ viết và sau đó là

Quốc tế cộng sản đã tạo điều kiện cho phong trào cách mạng thế giới phát
triển, trong đó có phong trào giải phóng dân tộc các nước phương Đơng, mở
ra sự chuyển hướng của cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của
cách mạng vô sản.
Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra cho nhân dân ta thấy rằng cách mạng
Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản. Tìm hiểu cách


mạng Mỹ, Người nhận định: “Mỹ tuy rằng cách mạng thành công đã hơn
150 năm, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo cách mạng lần thứ hai.
Ấy là vì cách mạng Mỹ là cách mạng tư bản, mà cách mạng tư bản chưa
phải là cách mạng đến nơi” [28, 270]. Người đánh giá: “Cách mạng Pháp
cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách mạng tư bản, cách mạng khơng đến
nơi, tiếng là cộng hịa dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục cơng nơng,
ngồi thì nó áp bức thuộc địa” [28, 274]. Cách mạng đến nơi trong tư tưởng
Nguyễn Ái Quốc là cách mạng vô sản theo kiểu Cách mạng tháng Mười
Nga: “trong thế giới bây giờ chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là thành
cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được được hưởng cái hạnh
phúc, bình đẳng thực sự… Cách mạng tháng Mười Nga cho chúng ta thấy
rằng muốn cách mạng thành cơng thì phải lấy dân chúng làm gốc, phải có
đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại phải
theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” [28, 280]. Như vậy, xuất phát từ đặc
điểm thời đại đặc biệt là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga
năm 1917 là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc chỉ ra cho nhân dân ta thấy rằng cách
mạng Việt Nam không thể đi theo con đường cách mạng tư sản mà phải đi
theo con đường cách mạng vơ sản. Đó là cơ sở quan trọng hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
 Những tiền đề tư tưởng lý luận
Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam.

Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, đất nước Việt
Nam đã trở thành Tổ quốc thiêng liêng của toàn thể dân tộc ta, tinh thần yêu
nước đã trở thành đạo lý sống, và là một nhân tố cơ bản đứng đầu trong bảng
giá trị tinh thần của người Việt Nam. Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh thần đó
và tinh thần này đã trở thành một định hướng cơ bản trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta có một
lịng nồng nàn u nước đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một
làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn,
nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và cướp nước” [35, 171]. Tư tưởng u
nước đó là cơ sở truyền thống đồn kết của dân tộc ta. Truyền thống yêu
nước và đoàn kết dân tộc khơng chỉ là tình cảm, phẩm chất tinh thần mà cịn
là trí tuệ, hành động và phát triển thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam, thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử
dân tộc, là động lực mạnh mẽ của sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Cùng với chủ nghĩa u nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng
của văn hóa phương Đơng và phương Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có


phê phán tư tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh
sáng, của cách mạng tư sản phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh; những giá trị
tư tưởng của Nho giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự nhiên của Lão
gia, từ bi bác ái của nhà Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí
Minh về một nhà nước vì con người, một nhà nước của dân, do dân và vì
dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội
Pháp họp ở thành phố Tua, đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia
nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện

này đánh dấu một bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người,
bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, bước ngoặt đứng
hẳn về con đường cách mạng tháng Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa MácLênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng sản. Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn
gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh. "Khơng có chủ nghĩa Mác- Lênin thì cũng khơng có tư tưởng
HồChí Minh sánh ngang tầm thời đại và giải quyết được những nhiệm vụ
lịch sử của cách mạng Việt Nam".
Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Suốt chặng đường 30 năm đi tìm đường cứu nước, vừa lao động,
vừa học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa tham gia trực tiếp các
phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động, Người đã tích lũy
được những tri thức và kinh nghiệm phong phú, từng bước hình thành tư
tưởng lý luận và phương pháp cách mạng của mình.
1.2.2. Nhân tố chủ quan
Năng lực hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh.
Ngồi cơ sở khách quan - tư tưởng Hồ Chí Minh còn phải đề cập
đến nhân tố chủ quan - yếu tố quan trọng trong việc hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, chính từ trong
cuộc đời hoạt động thực tiễn cách mạng - xã hội mà từng bước Hồ Chí Minh
đã tìm ra quy luật vận động xã hội, hiện thực của thời đại, khái quát nhận
thức của mình thành lý luận. Lý luận ấy lại được Người vận dụng và kiểm
nghiệm trong thực tiễn. Cũng từ trong hoạt động thực tiễn cách mạng của
mình, tư tưởng lý luận cách mạng, về chính quyền nhà nước của Hồ Chí
Minh đã hình thành và phát triển hồn thiện.
Từ thực tiễn hoạt động cách mạng sơi nổi, phong phú, Hồ Chí
Minh đã tìm ra những quy luật, đúc kết thành lý luận. Trong những năm bôn
ba ở các nước tư bản phát triển, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu cách tổ chức
nhà nước ở đó, phê phán những mặt tiêu cực, tiếp thu những yếu tố hợp lý
cho quá trình xây dựng mơ hình nhà nước cách mạng Việt Nam. Cũng chính



xuất phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng mà Người có những bước phát
triển lớn trong tư tưởng về hình thức nhà nước trên con đường cách mạng
Việt Nam, cụ thể là sự chuyển biến trong tư tưởng của Người từ một nhà
nước công - nông - binh sang nhà nước cộng hịa dân chủ nhân dân.
Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là con người có phẩm chất chính trị và phẩm chất cá
nhân tiêu biểu đặc sắc nhất của con người. Lẽ sống của Người là suốt đời
đấu tranh cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh là
người lịch thiệp, tế nhị, giàu lòng nhân ái lại rất thơng minh, sắc sảo, nhạy
bén về chính trị, ham học hỏi có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ uyên bác,
kiến thức sâu rộng, biết nhiều ngoại ngữ. Người là hiện thân của phẩm chất
cao quý, toàn tâm toàn ý phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, ln khắc
phục và vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vững vàng trong lập trường cách
mạng, sáng suốt trong đường lối, chính sách, dũng cảm trong hành động,
thắng khơng kiêu, bại khơng nản…
Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ Chí Minh là ln gần
gũi với nhân dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến nguyện
vọng của mọi tầng lớp nhân dân. Người thương yêu, kính trọng, tin tưởng
vào con người nên có sức cảm hóa lớn. Ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà thơ Xô
viết Ôxip Manđextam đã nhận định: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏ ra một thứ văn
hóa, khơng phải văn hóa châu Âu mà có lẽ là một thứ văn hóa tương lai”
[27,478]. Là một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, Người đã cho ta một ý niệm
đầy đủ nhất về phẩm chất chính trị nhân văn hết sức tiêu biểu của con người.
Phẩm chất đó được phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ
vậy, giữa vô vàn đường lối, học thuyết khác nhau, Hồ Chí Minh đã tìm ra
được mục tiêu lý tưởng và con đường cách mạng đúng đắn ấy là lựa chọn
đảng kiểu mới, lựa chọn nhà nước kiểu mới - nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phấn đấu vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Như vậy, cơ sở để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm cơ sở
khách quan và nhân tố chủ quan trong đó cơ sở khách quan là yếu tố quan
trọng nhất, chủ đạo nhất quyết định bản chất về vấn đề nhà nước trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, cụ thể là học thuyết Mác - Lênin về nhà nước nói
chung, nhà nước chun chính vơ sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng.
Nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cách
mạng Việt Nam, phương thức đúng đắn để giải quyết vấn đề chính quyền
nhà nước, hiểu biết thấu đáo bản chất nhà nước và cách thức tổ chức nhà
nước.


Trên cơ sở các tiền đề tư tưởng đó, Hồ Chí Minh đã dần dần hình
thành các quan điểm lý luận riêng về một kiểu nhà nước phù hợp với thực tế
Việt Nam - nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
CHƯƠNG 2
Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền
Để nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ
là phải xây dựng nhà nước pháp quyền nhằm làm cho hoạt động của nhà
nước đem lại hiệu quả xã hội thực sự. Và quan niệm của Người về một nhà
nước pháp quyền kiểu mới, mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân là một tư
tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và có giá trị lâu bền.
Theo quan điểm Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền khơng phải là một
nhà nước gắn với một giai cấp (nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà
nước tư sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa) mà là hình thức tổ chức quyền lực
nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động của nhà nước tuân theo quy định của
pháp luật, thực hiện được quản lý xã hội theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền
và quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Tiếp thu các giá trị tích cực, tiến bộ, khoa học về nhà nước pháp quyền
trong lịch sử, đồng thời quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của hiến pháp, quản lý xã
hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do đảng
tiền phong
2.1. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là Nhà nước hợp pháp và hợp
hiến.
Hồ Chí Minh đã sớm thấy được tầm quan trọng của Hiến pháp và pháp
luật trong quản lý xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu sách của nhân
dân An Nam do Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Vécxây
(Pháp) năm 1919. Bản Yêu sách đó nêu ra yêu cầu "Cải cách nền pháp Lý ở
Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những
bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu; xóa bỏ hồn tồn các tịa án
đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất
trong nhân dân An Nam"; "Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra
các đạo luật".
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là: “trước
chúng ta bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân


khơng kém phần chun chế, nên nước ta khơng có hiến pháp. Nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản hiến
pháp dân chủ” [30,8].
Chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị tổ chức Tổng tuyển cử
càng sớm càng tốt để lập Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ
quan, bộ máy chính thức khác của nhà nước mới. Có được một nhà nước
hợp hiến, thể hiện quyền lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới
có cơ sở pháp lý vững chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới có một

mối quan hệ quốc tế bình đẳng, mới thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp
pháp theo đúng thông lệ của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.
Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6 – 1-1946 với chế
độ phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Và lần đầu tiên trong lịch
sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam
châu Á. Tất cả mọi người dân từ 18 tuổi trở lên. không phân biệt nam nữ,
giàu nghèo, dân tộc, đảng phái, tôn giáo... đều đi bỏ biết bầu cử những đại
biểu của mình tham gia Ọuốc hội. Ngày 2 - 3 - 1946, Quốc hội khóa I nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã họp phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ
máy, và các chức vụ chính thức của Nhà nước. Hồ Chí Minh được bầu làm
Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây chính là Chính phủ có đầy đủ tư
cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề đối nội và đối
ngoại ở nước ta.
Sau 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp 1946
khơng cịn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành Hiến
pháp mới - Hiến pháp 1959. Hiến pháp 1959 quy định các nguyên tắc để bộ
máy nhà nước hoạt động như: nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện
trong điều 4 của Hiến pháp, ngun tắc bình đẳng đồn kết, tương trợ giữa
các dân tộc quy định trong điều 8 và nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
nằm trong điều luật của Hiến pháp. Trong tư duy Hồ Chí Minh, một khi điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật gốc - Hiến pháp,
cũng phải thay đổi theo, mới có khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã
hội đã phát sinh và định hình.
Ngồi hai bản Hiến pháp năm 1946 và bản Hiến pháp năm 1959, Hồ
Chí Minh cịn cơng bố 16 sáu đạo luật và 1.300 văn bản dưới luật, khối
lượng văn bản đó ln thể nhiện rõ việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn,
đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và hiệu lực thực tế của các điều luật.
Tính hợp pháp và hợp hiến cịn được thể hiện thơng qua việc nhà nước



được lập ra để đại diện cho dân, do dân cử ra, bầu ra. Nếu như nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa khơng do dân bầu ra thì khơng phải là một nhà
nước hợp pháp, hợp hiến.
2.2. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật
2.2.1. Vai trò của pháp luật
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, phạm trù “pháp trị” dùng để chỉ
sự quản lý, cai trị đất nước bằng pháp luật. Tiếp xúc với nền văn minh Âu Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, điều hành đời sống xã hội, Hồ Chí Minh
cho rằng: quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính phổ
biến đối với các xã hội hiện đại. Vai trò của luật pháp được Người nhìn nhận
trên các khía cạnh chủ yếu:
Thứ nhất, khi chưa có chính quyền, dựa trên cơ sở cơng pháp quốc tế và
pháp quyền tư sản châu Âu để đấu tranh đòi những quyền cơ bản của dân
tộc,
của con người.
Hai là, pháp luật là cơ sở khẳng định tính hợp pháp, hợp hiến, tính hợp
lý của các quyền dân tộc cơ bản, đặc biệt là quyền dân tộc tự quyết.
Ba là, sau khi giành được chính quyền, pháp luật là cơ sở để nhân dân
lao động làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội, bảo vệ và thực hiện các quyền
cơ bản của con người.
Bốn là, pháp luật đảm bảo cho chế độ xã hội có trật tự, kỷ cương theo
mục đích và đường lối phát triển của giai cấp cầm quyền; trong chế độ ta, đó
là mục đích và đường lối của giai cấp cơng nhân.
Năm là, pháp luật có vai trò hạn chế, ngăn chặn hiện tượng lạm dụng
quyền lực ở một số cơ quan nhà nước, một số cán bộ công chức nhà nước,
đảm bảo cho quyền lực Nhà nước luôn luôn thuộc về nhân dân lao động.
Sáu là, pháp luật có tác dụng điều chỉnh các hành vi, quan hệ dân sự,
ngăn chặn một bộ phận công dân này xâm phạm quyền, lợi ích của một bộ
phận công dân khác
2.2.2. Pháp luật phải dân chủ, phải nghiêm minh và phát huy

tính hiệu lực thực tế
Pháp luật phải dân chủ
Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã hội, nhưng pháp
luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp cơng nhân,
là một loại hình pháp luật kiểu mới. Theo Hồ Chí Minh: “Pháp luật của ta là


pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho
nhân dân lao động” [16, 185]. Ở Hồ Chí Minh, pháp luật dân chủ được xem
xét trong các mối quan hệ hết sức đặc trưng:
Thứ nhất, trong quan niệm về thực chất của dân chủ: “Không nên hiểu
lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết
định rồi thì khơng được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi
hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm
chỉ những hành động tự do quá trớn ấy” [32, 108].
Thứ hai, trong việc xác định rõ giới hạn của các quyền tự do cá nhân
“nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của
mình ,nhưng phải tơn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền
tự do của mình quá mức là phạm đến tự do của người khác, là phạm pháp.
Khơng thể có tự do cho bọn Việt gian, bọn phản động, bọn phá hoại tự do
của nhân dân” [16, 108].
Thứ ba, trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân,
pháp luật dân chủ vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân, nhưng cũng
quy định rõ các nghĩa vụ mà mọi người dân phải thực hiện, hưởng quyền và
thực hiện nghĩa vụ là thuộc tính hai mặt của một người dân làm chủ.
Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: pháp luật của ta là pháp luật dân chủ;
mọi công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đều bình đẳng trước
pháp luật cả về quyền lợi và nghĩa vụ; ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý
nghiêm khắc, cho dù người đó ở vị trí nào trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của Đảng, Nhà nước. Theo Người, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi

mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; pháp chế chỉ đảm bảo khi
các quy phạm pháp luật được thực thi trong các quan hệ xã hội; mọi hành vi
vi phạm pháp luật phải bị xử lý. Như vậy, trong thực thi luật pháp, việc
thưởng phạt phải nghiêm minh, vì nếu thưởng phạt khơng nghiêm minh thì
người tận tụy lâu ngày cũng thấy chán nản, còn người hư hỏng, vi phạm
pháp luật, kỷ luật sẽ ngày càng lún vào tội lỗi, làm thiệt hại cho nhân dân.
Hồ Chí Minh cho rằng “Trong một nước thưởng phạt nghiêm minh thì nhân
dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” [30,
163 - 164].
Pháp luật phải nghiêm minh và phát huy tính hiệu lực cao
Muốn pháp luật nghiêm minh, phát huy hiệu lực, theo Hồ Chí
Minh, cần phải có các điều kiện sau:
Thứ nhất, pháp luật đó phải đúng và phải đủ. Pháp luật đúng là pháp luật
phản ánh trung thành bản chất các quan hệ khách quan, tiếp cận đến chân lý;
mà chân lý là tất cả những gì phù hợp với lợi ích của nhân dân. Cịn pháp
luật đủ nghĩa là phải có tính đồng bộ, bao qt được các mặt, các loại quan
hệ, các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Thứ hai, pháp luật phải đến được với dân. Đi vào giữa dân gian, để pháp
luật được thực thi trong đời sống xã hội phải chú trọng giáo dục, tuyên
truyền pháp luật cho mọi đối tượng dân cư, làm cho họ biết, hiểu và thực
hiện. Trong điều kiện dân trí còn thấp, học vấn hạn chế việc tuyên truyền,
giáo dục pháp luật càng trở nên cần thiết, đây là vấn đề rất được Hồ Chí
Minh quan tâm.
Trong quan niệm Hồ Chí Minh, tun truyền, giáo dục pháp luật là một
cơng đoạn trong tồn bộ quy trình xây dựng - thơng qua, ban hành - thực
hiện - theo dõi, giám sát - sửa đổi, điều chỉnh pháp luật. Tại hội nghị thảo
luận Luật Hơn nhân và Gia đình, vấn đề này đã được Hồ Chí Minh chỉ
rõ:“Cơng bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải

tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt” [35, 524]. Muốn dân
hiểu, dân nhớ để làm theo, trong tuyên truyền phải biết cách diễn đạt đơn
giản, ngắn gọn, nhưng tuyệt đối chính xác, phù hợp với đặc điểm tâm lý,
tính cách, văn hóa của các đối tượng dân cư từng khu vực, từng miền trên
đất nước.
Thứ ba, cán bộ thực thi luật pháp phải thực sự công tâm và nghiêm minh.
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ: “gương mẫu chấp
hành pháp luật của nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng quần
chúng mà mình tham gia” [35, 524]. Người nhiều lần phê phán cán bộ đảng
viên không chấp hành pháp luật của nhà nước, do cá nhân chủ nghĩa mà sinh
ra tự do chủ nghĩa, không tôn trọng pháp luật và thể chế nhà nước, làm
gương xấu cho quần chúng.
Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ
làm cơng tác tư pháp có vai trị quan trọng; họ chính là người trực tiếp thực
thi luật pháp, đại diện cụ thể cho cán cân công lý. Vì thế, Hồ Chí Minh u
cầu ở họ phải có những phẩm chất đạo đức cần thiết. “Trong cơng tác xử án
phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của
mình trong khung tịa àn. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp
dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm cơng bằng... Tóm lại, các
chú phải cơng bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học
dân” [16, 188].
Đối với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc
xử lý không đúng, không nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà
nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích
vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử lý kịp
thời… như vậy là kỷ luật chưa nghiêm” [17, 145]. Người yêu cầu kiên quyết
trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền của cơng dân, làm
cho nhân dân bất bình, oan ức.



Như vậy, pháp luật của ta là pháp luật thực hiện tốt nền dân chủ, nghiêm
minh và phải phát huy tính hiệu lực trong thực tế. Đó là biện pháp căn bản
để phát triển đất nước.
Dân chủ là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nội
dung căn bản và là hình thức biểu hiện tập trung của dân chủ trong nhà nước
pháp quyền. Khơng có nhà nước pháp quyền thực sự thì cũng khơng thể có
nền dân chủ thực sự và bền vững. Bởi, chỉ có thơng qua nhà nước pháp
quyền, nhân dân mới có thể cùng nhà nước tạo ra những thiết chế, cơ chế xã
hội thích ứng đảm bảo dân chủ và tự do trong xã hội. Là điều kiện, vừa là
động lực thúc đẩy sự hình thành, phát triển hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, dân chủ phải có pháp luật tốt, phản ánh đúng
xu thế phát triển của xã hội, ý chí nguyện vọng của nhân dân là việc thực thi
pháp luật ln nghiêm minh có hiệu quả. Đồng thời, khơng ngừng củng cố,
hồn thiện nhà nước. Nền dân chủ trong đời sống xã hội pháp quyền càng
được củng cố và hồn thiện cùng với việc khơng ngừng mở rộng dân chủ là
nhiệm vụ cơ bản, thiết yếu của nhà nước pháp quyền và luôn phát huy hiệu
lực trong thực tế.
2.1.3. Sự thống nhất giữa quản lý xã hội bằng pháp luật với việc nâng
cao giáo dục đạo đức - Nét đặc sắc trong quan niệm Hồ Chí Minh về Nhà
nước pháp quyền
Điều cần chú ý ở Hồ Chí Minh là pháp luật không phải thống trị con
người mà là cơng cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp
quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong
văn bản pháp luật mà còn thấm đẫm một tấm lòng thương yêu nhân dân,
chăm lo cho dân, chăm lo cho ấm no hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm
lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc
Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là một loại pháp quyền đặc biệt,
pháp quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm

tính dân tộc và dân dã, sâu sắc vơ cùng.
Trên thế giới, từ cổ chí kim, từ Đơng sang Tây tồn tại hai phương thức
trị nước chủ yếu: đức trị và pháp trị. Bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần
đề cập đến chế độ pháp trị: “…Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện
chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân
chủ nhân dân” [16, 250]. Nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ
việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục
đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân, giác ngộ lý tưởng cách
mạng cho cán bộ và nhân dân. Pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh
hành vi của con người nâng con người lên, hướng con người tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đạo đức là cơ sở để xây


dựng, thực hiện pháp luật, nền pháp quyền của ta là nền pháp quyền hợp đạo
đức, có nhân tính. Điều này được bản thân Hồ Chí Minh lý giải rất rõ: “Nghĩ
cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn
đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân,
thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho
nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ” [16, 187].
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh
cịn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Ngun tắc “có lý”,
“có tình”. Chi phối mọi hành vi ứng xử của con người, tôn trọng cái lý, đề
cao cái tình, tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn
mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải kịp
thời, nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai, nhằm ngăn
chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái
thiện vốn có trong mỗi con người, chứ khơng đơn thuần trừng phạt, răn đe.
Trong việc thực thi pháp luật cũng phải đảm bảo tính hài hịa giữa các mặt
tưởng chừng như đối lập nhau. Phương châm của Hồ Chí Minh là: khơng xử
phạt là khơng đúng. Song, cái gì cũng trừng phạt cũng là không đúng, tránh

lạm dụng pháp luật.
Thực hiện chủ trương đó, cần hướng vào một số nội dung chính sau
đây, trên thực tế là trở về và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
pháp quyền trong những điều kiện và yêu cầu phát triển mới của đất nước:
Thứ nhất, cần phải nhận thức đúng đắn vai trò của pháp luật trong nhà
nước pháp quyền, đảm bảo để pháp luật trở thành phương tiện cho người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình, sống và làm việc theo hiến pháp,
pháp luật.
Thứ hai, xây dựng đồng bộ và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đáp ứng tốt
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ ba, kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan làm luật, xây dựng
đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp đủ phẩm chất và năng lực.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, coi
trọng tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật, nhất là vùng nơng thơn,
vùng sâu vùng xa.
Thứ năm, pháp luật phải được thực thi nghiêm chỉnh từ cơ quan nhà
nước, cán bộ công chức xã hội và công dân; mọi hành động vi phạm pháp
luật phải được xử lý đúng, kịp thời, khơng để sót người, sót tội, khơng gây
oan ức cho người vơ tội…
Thứ sáu, tăng cường vai trò và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
trong xây dựng nhà nước pháp quyền.


Chương 3
Sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền vào
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
3.1 Vận dụng xây dựng bản chất dân chủ và đội ngũ cán bộ của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Xây dựng môi trường dân chủ trong Nhà nước pháp quyền
Trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí

Minh không chỉ một lần đề cập đến dân chủ. Từ sau thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “ nước ta là
nước dân chủ”. Theo Người dân chủ là “ dân làm chủ và dân là chủ”. Dân
chủ là một giá trị văn hóa, một động lực to lớn của cách mạng. Thắng lợi của
cách mạng tháng Tám lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
thắng lợi của khát vọng dân chủ. Hạnh phúc, tự do, dân chủ là giá trị của độc
lập. Dân chủ trong xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và phát huy quyền làm chủ
thực sự của nhân dân, đó là bản chất, quy luật hình thành, phát triển và tự
hồn thiện của nhà nước pháp quyền của chúng ta. Nó là cái chìa khóa vạn
năng để giải quyết các nhiệm vụ. Bởi vì như Hồ Chí Minh nói: “dân chủ,
sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm
cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” [27, 244]. Kinh nghiệm cho thấy,
nếu phát huy được dân chủ thì dân chúng sẽ giải quyết được nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ.
Vận dụng tư tưởng này, Đảng và Nhà nước ta xác định: Quyền làm chủ
của nhân dân phải được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhưng trước hết và quan trọng nhất là làm chủ về kinh tế. Khơng làm chủ
được kinh tế thì nhân dân khơng thể làm chủ đuợc các lĩnh vực khác đuợc.
Phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở để nâng cao quyền làm chủ của nhân dân.
Đồng thời quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hóa bằng pháp
luật, phải được đảm bảo bằng pháp luật. Năng lực làm chủ của nhân dân chỉ
được nâng cao bằng nhiều biện pháp đồng bộ; bằng nhiều hình thức gián
tiếp và trực tiếp, và cuối cùng phải được thể hiện trên thực tế, trong hai chữ
“thật sự”. Đây mới đích thực là chiều sâu của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
để từ đó phân biệt với dân chủ trong xã hội tư bản. Trong Văn kiện Đại hội


XI khi bàn về dân chủ và phát huy dân chủ trong xã hội Đảng ta đã khẳng
định: “ Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ,
tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực

hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. Thực hiện tốt hơn Quy chế dân
chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn…”
[15,19]. Đồng thời kiên quyết chống các biểu hiện lệch lạc như dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối, làm tổn hại lợi ích công
dân và Nhà nước.
3.1.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong sạch, vững mạnh Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải tăng cường giáo dục pháp luật đi đôi với
giáo dục đạo đức cách mạng, phát huy tinh thần phục vụ nhân dân, phụng sự
tổ quốc. Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh cải cách hành chính cùng với
xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức
đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới .
Sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa đòi hỏi phải có nguồn nhân lực trình độ cao mới đáp ứng yêu cầu đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gắn với nâng cao toàn diện chất
lượng và hiệu quả cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại
hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: "Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao,
đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học,
cơng nghệ, văn hóa đầu đàn..." [15, 216] được coi là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. "Thực hiện tốt Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa" .[15, 261].
Để xây dựng được thành công của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những nhiệm vụ quan
trọng mà Đảng và Nhà nước ta tập trung xây dựng: Đó là nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước. Chính vì vậy, trong những năm
vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã luôn coi trọng xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ, công chức, coi đây là nguồn lực quan trọng để phát triển đất

nước.
Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức phải tiếp tục được cải cách
theo hướng rõ hơn về phân công và phân cấp. Có sự phân định rõ về trách
nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức hành chính của Thủ
tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương.
Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng, kỷ
luật cán bộ, công chức cũng phải được xác định rõ cho người đứng đầu các


cơ quan hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Đặc
biệt, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp,
dịch vụ công phải được nâng cao phù hợp với các cơ chế đã có về quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công.
Với Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003, tiếp tục có sự phân
biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị nước ta: cán
bộ qua bầu cử, cơng chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức
vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức
cấp xã. Trên cơ sở đó đã xác định những yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ,
năng lực phẩm chất, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi ngộ thích hợp.
Chủ trương, quan điểm của Đảng về tách rõ hành chính với doanh nghiệp,
với sự nghiệp đã được cụ thể hố và triển khai thơng qua các quy định, thể
chế về Cơng chức hành chính, viên chức sự nghiệp
Tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các tiêu chuẩn chức danh cơng chức
hiện có để từ đó có những điều chỉnh cũng như ban hành mới một số chức
danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Đặc biệt, triển
khai Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi 2003, đã ban hành chức danh tiêu
chuẩn công chức chun mơn của chính quyền cấp xã, thơng qua đó đẩy
nhanh q trình chuẩn hố và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở.
Những giải pháp mang tính đổi mới, theo hướng hiện đại hóa cơng tác

quản lý cán bộ, công chức, (như phân cấp, tăng cường trách nhiệm và thẩm
quyền của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, xây dựng hệ
thống thông tin quản lý đội ngũ cán bộ, công chức v.v…) phải nhanh chóng
triển khai.
Chú trọng giáo dục đạo đức cho cán bộ công chức: công tác giáo dục,
nâng cao đạo đức cho cán bộ công chức phải được các cấp ủy đảng quan tâm
đúng mức, trở thành nhiệm vụ thường xuyên. Cần trang bị đầy đủ kiến thức
cơ bản, giúp cán bộ công chức phân biệt rõ đúng sai, những việc cần làm và
những việc cần tránh. Thông qua giáo dục đạo đức giúp cán bộ công chức
nhận thức và rèn luyện theo những chuẩn mực cần có để hồn thiện nhân
cách của mình trong q trình hoạt động thực tiễn. Nội dung giáo dục cán bộ
công chức ở chi bộ, đảng bộ trước hết phải đặt lên hàng đầu việc giáo dục
Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì đây là nền tảng của nhận
thức, giúp cán bộ công chức nâng cao hiểu biết, là cơ sở của việc củng cố,
nâng cao đạo đức, lối sống cách mạng, giữ vững lập trường giai cấp.
Chú trọng giáo dục những vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân mà trực tiếp là những nhiệm vụ chính trị của chi
bộ nơi đảng viên công tác, làm việc. Nội dung giáo dục phải gắn với nhiệm
vụ của người cán bộ và những yêu cầu, tiêu chuẩn cán bộ mà Nghị quyết


Trung ương 2 (khóa VIII) về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hố đất nước đã xác định. Đặc biệt coi trọng giáo dục
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh mà cốt lõi là tư tưởng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cho mọi cán bộ đảng viên của chi bộ.
Bên cạnh đó cũng cần giáo dục truyền thống yêu nước, cần cù, nhân ái,
ham học, cầu tiến bộ để từng cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần tự giác,
phấn đấu rèn luyện, loại bỏ tư tưởng cũ, nhất là tư tưởng thực dụng, vụ lợi cá
nhân, địa vị, ích kỷ….
3.2 Những vấn đề đặt ra trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh
3.2.1. Vấn đề thực hiện dân chủ XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Thực hiện quyền dân chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta, do sự phức tạp của vấn đề nên có nhiều nơi, nhiều lúc tình
trạng dân chủ chưa thực sự được đảm bảo.
Từ nhận thức đến chỉ đạo của các ngành, các cấp về ý nghĩa, tác dụng của
dân chủ chưa thật sâu sắc, đầy đủ. Một số cơ quan, tổ chức và cấp ủy đảng
có biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quan liêu, mất dân chủ
và dân chủ hình thức, khơng thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình.
Năng lực tổ chức thực hiện dân chủ của đội ngũ cán bộ Nhà nước ở cơ sở
vẫn còn nhiều hạn chế, một bộ phận cán bộ cịn có tư tưởng sợ nảy sinh
phức tạp, thiếu mạnh dạn trong triển khai.
3.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong q trình thực hiện ngun tắc
thống nhất, phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực của Nhà
nước Việt Nam hiện nay.
Trong số những vấn đề còn vướng mắc về mặt lý luận khi tiến hành xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay là nguyên tắc thống
nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Mặc dù
Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực đổi mới và cải cách, nhưng tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước ta cịn bộc lộ khơng ít nhược điểm, cịn nhiều
mặt chưa theo kịp và đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Một là, bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh, hiệu quả hoạt động quản lý
còn thấp.
Đội ngũ cán bộ thừa về số lượng và thiếu về chất lượng, mang nặng
phong cách tư duy cũ. Trong khi đó, do tác động của nền kinh tế thị trường,
nhiều cán bộ đảng viên bị thối hóa, biến chất về đạo đức, tư tưởng, lối
sống, làm giảm lòng tin của nhân dân. Do đó, vấn đề đặt ra là cần phải đổi
mới hệ các cơ quan Nhà nước nhằm giữ vững định hướng XHCN thống

chính trị, đặc biệt là của nước ta. Bên cạnh đó, những quy định được đặt ra


trong Hiến pháp 1992, xác định cơ cấu tổ chức, quyền hạn, trách nhiệm,
nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước với việc thực hiện các quy định đó
trong thực tiễn vẫn còn khoảng cách.
Hai là, Quốc hội chưa phát huy hết khả năng của mình với tư cách cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Do vẫn còn vướng mắc về lý luận khi nghiên cứu đổi mới các thiết chế
trong bộ máy Nhà nước, hoạt động của Quốc hội cũng gặp những khó khăn
trong q trình thực thi quyền lực, đặc biệt là chưa đủ khả năng giải quyết
những mâu thuẫn nảy sinh giữa lý thuyết xây dựng nhà nước pháp quyền và
những vấn đề thực tiễn đặt ra. Quyền lực tập trung thống nhất ở Quốc hội,
nhưng với chất lượng đại biểu còn hạn chế, đa số đại biểu là kiêm nhiệm,
thời gian hoạt động ít, tiêu chuẩn đại biểu chưa rõ ràng, chưa có tính chun
nghiệp, dẫn tới chất lượng luật chưa cao, việc lập pháp mới chỉ dừng lại ở
thảo luận và thông qua, các dự luật chủ yếu do Chính phủ đệ trình. Vấn đề
giám sát tối cao chưa được thực hiện hiệu quả, nội dung giám sát thực tiễn
chưa xác định rõ.
Ba là, tổ chức và hoạt động của Chính phủ chưa thể hiện được tính
chun nghiệp, bộ máy cịn cồng kềnh, hoạt động thiếu nhịp nhàng, chưa
thông suốt.
Hoạt động của các cơ quan hành chính cịn mang nặng tính quan liêu,
bao cấp, các thủ tục hành chính cịn nặng nề, phức tạp; chức năng, thẩm
quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo, lẫn lộn; tình trạng tham ơ, lãng
phí trong bộ máy hành chính cịn tồn tại và ngày càng trở nên nghiêm trọng,
gây mất niềm tin đối với nhân dân và trở thành một trong bốn nguyên nhân
dẫn tới chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bốn là, hoạt động của cơ quan tư pháp còn nhiều hạn chế
Về tổ chức, các tòa án ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp

giữa thẩm quyền xét xử và tổ chức hành chính lãnh thổ từ cấp huyện trở lên.
Điều này dẫn tới việc hệ thống tòa án mang nặng tính hành chính, trong khi
các hành vi vi phạm pháp luật rất đa dạng, phức tạp và tập trung ở một số
địa bàn nhất định, làm cho có tồn thì xử khơng hết các vụ việc, có tịa lại
khơng có việc để xử, gây lãng phí nguồn lực đất nước. Về hoạt động, cơ
quan tư pháp nước ta hoạt động chưa đảm bảo tính độc lập trong hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử. Nhiều vụ việc phải xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên,
trao đổi liên ngành, đặc biệt là tình trạng xét xử “trên nhẹ, dưới nặng” cịn
phổ biến, ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của pháp luật.
Cơng tác thi hành án cịn thể hiện nhiều hạn chế, hệ thống cơ quan tư
pháp còn thiếu và yếu về chun mơn, thẩm quyền xét xử của tịa án cấp tỉnh
và Trung ương còn bị trùng lặp. Các tòa án chun mơn chưa thích nghi với
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, do đó chưa giải quyết được .


3.3 Một số kiến nghị về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời
gian tới.
3.3.1 Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước.
Để không ngừng nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần
quán triệt tốt một số nhiệm vụ và giải pháp của chiến lược cán bộ, công chức
từ nay đến năm 2020: Tiếp tục nâng cao nhận thức cán bộ, công chức Nhà
nước. Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận biết rõ ý nghĩa, tầm quan
trọng của việc thực hiện chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới; quán triệt sâu
sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn của Đảng nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng những yêu cầu mới
đang đặt ra.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán

bộ công chức.
Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm
của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về
cơng tác cán bộ. Bổ sung, hoàn thiện các quy định, quy chế về sự lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức thành viên khác
trong hệ thống chính trị; tiếp tục nghiên cứu cải tiến quy trình cơng tác
nhânsự của Đảng, Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội.
Đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục có hiệu quả những yếu kém trong
từng khâu của cơng tác cán bộ, công chức. Cải thiện môi trường làm việc để
tạo động lực cống hiến, phấn đấu vươn lên của cán bộ. Nâng cao chất lượng
công tác đánh giá, quản lý cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát;
hồn thiện cơ chế, chính sách cán bộ.
Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa vai trị, quyền hạn và trách nhiệm của
người đứng đầu trong công tác cán bộ; hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế
tuyển chọn cán bộ, công chức; cơ chế bổ nhiệm, miễn nhiệm và từ chức của
cán bộ; cơ chế sàng lọc, thay thế những người kém phẩm chất và năng lực,
khơng hồn thành nhiệm vụ; cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám
sát cán bộ và công tác cán bộ. Mở rộng quyền đề cử, tự ứng cử và giới thiệu
nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Cải cách chế độ tiền lương, tiền tệ hóa tiền lương và các chế độ theo
lương bảo đảm sự hợp lý, công bằng; phấn đấu để tiền lương là nguồn thu
nhập cơ bản, bảo đảm cho cán bộ có đời sống ổn định, chun tâm vào cơng
việc, góp phần hạn chế tệ tham ô, nhận hối lộ, tham nhũng; tạo động lực,


kích thích sự phấn đấu vươn lên và góp phần thu hút người có đức, có tài
vào bộ máy lãnh đạo, quản lý các cấp.
Tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và cơ
cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng nâng cao chất lượng, bảo đảm

sự đồng bộ, kế thừa và phát triển.
Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ
theo quy hoạch, theo chức danh, coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu
trong thực hiện chiến lược cán bộ giai đoạn mới. Củng cố, nâng cao chất
lượng các học viện, trường, trung tâm chính trị - hành chính. Nâng cao chất
lượng đội ngũ giảng viên các trường đại học trong cả nước và các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị. Huy động mọi nguồn lực và
tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho việc đào tạo và đào tạo lại cán
bộ. Mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Nghiên cứu xây dựng chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, cơng nghệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế.
Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ, công chức. Công tác
giáo dục, quản lý cán bộ công chức phải gắn liền với công tác kiểm tra, giám
sát cán bộ về chất lượng, hiệu quả công việc, về tư tưởng, lập trường, mối
quan hệ xã hội của bản thân và gia đình cán bộ.
Hồn thiện các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức
đảng và người đứng đầu các cấp trong giáo dục, quản lý cán bộ công chức;
gắn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, đổi mới công tác cán bộ công chức
với thực hiện tốt việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, với cơng tác phịng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu
cực.
Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới
trong việc giáo dục, quản lý đảng viên và thực hiện công tác cán bộ; kịp thời
kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến cán bộ có vấn đề lịch sử
chính trị hoặc chính trị hiện nay.
3.3.2. Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước là một nội dung quan trọng nhằm
nhằm đảm bảo nguyên tắc thống nhất, phân công và phối hợp giữa các cơ
quan quyền lực Nhà nước, đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước cần được tiến hành một cách đồng bộ, bao gồm đổi mới, hoàn thiện sự
thống nhất của quyền lực nhà nước, sự phân công cũng như sự phối hợp giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước
Đổi mới, hoàn thiện sự thống nhất của quyền lực nhà nước


×