Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

NHUNG BAI VAN CHON LOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (481.87 KB, 115 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Lưu Đức Hạnh (Chủ biên) Lưu Tuyết Hiên - Nguyễn Mai Hương - Lê Văn Khải Trịnh Trọng Nam - Trịnh Duy Tuân - Nguyễn Anh Thơ. NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH PHÂN BAN. Nhà xuất bản.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> LỜI NÓI ĐẦU Từ năm học 2006 - 2007, tất cả các trường Trung học phổ thông bắt đầu thực hiện đại trà Chương trình phân ban. Việc dạy và học môn Ngữ Văn có những điểm thay đổi cơ bản sau đây : Thứ nhất, các loại văn bản được học theo cách "đọc hiểu". Ngoài việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn tập trung rèn luyện hai năng lực phân tích và cảm thụ. Nhất là cảm thụ văn bản văn học. Thứ hai, phần viết bài văn (xây dựng văn bản), chương trình lớp 10 học sinh phải tạo được các kiểu : + Cảm nghĩ về đời sống, về văn học + Kể chuyện có yếu tố miêu tả và biểu cảm + Tóm tắt văn bản tự sự + Kể chuyện có yếu tố hư cấu + Thuyết minh (giới thiệu) về đời sống và văn học từ chính xác đến hấp dẫn. Cuốn sách này được biên soạn bám sát chương trình Ngữ Văn 10 nhằm giúp học sinh nâng cao năng lực phân tích , cảm thụ văn học và tạo lập các văn bản theo kiểu loại mà chương trình yêu cầu. Rất mong các em sử dụng sách có hiệu quả. CÁC TÁC GIẢ. Đề số 1 Đức tính trung thực.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Bài làm Không trung thực là một hiện tượng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống, nó đã và đang diễn ra quanh ta, nhất là trong lớp trẻ. Nó trở thành một cách sống phổ biến. Vậy trung thực là gì ? Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải, sống ngay thẳng, thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mắc khuyết điểm. Người trung thực là người thật thà, ngay thẳng chân thành trong cách đối xử với mọi người, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống, luôn tôn trọng và bảo vệ chân lí, bảo vệ lẽ phải. Do vậy, ngay từ tuổi ấu thơ, tuổi học trò, chúng ta cần được và tự bản thân xây dắp, rèn luyện tính trung thực. Nhưng đây đó vẫn còn nhiều hiện tượng học sinh thiếu trung thực. Cứ nhìn vào các giờ kiểm tra, các kì thi cử, hay tự hỏi, mình đã một lần nói dối bố mẹ, thầy cô giáo chưa là rõ. Ấy thế mà nhiều bạn còn rủ rê nhau, bao che cho nhau. Ngoài xã hội cũng vậy. Trong kinh doanh, trong công việc, trong chính trị họ vẫn thường lợi dụng lòng tin của mọi người để trục lợi cá nhân, lừa đảo kiếm tiền hay tham nhũng, che giấu tội ác trước pháp luật. Một dẫn chứng điểm hình dễ thấy nhất là trong khi nhà nước đang phải bồi thường cho người dân mang gà đi tiêu huỷ thì tại Đông Anh - Hà Nội các cán bộ đã khai khống lên đến hàng nghìn con gà, vịt các loại. Họ là những cán bộ đại diện cho dân, cho nước mà lại thiếu trung thực. Rồi gian lận thuế, ăn cắp bản quyền, khai tăng thiệt hại hay thành tích, xử án gian lận, dối trên lừa dưới... Không trung thực chính là nguyên nhân, mầm mống của các tiêu cực xã hội, gây băng hoại đạo đức, làm mất lòng tin, xói mòn đời sống tốt đẹp mọi người đang chung tay xây đắp. Bởi vậy cần phải trung thực, không vì cái lợi trước mắt mà bán rẻ lương tâm. Nhất là những người cầm quyền phải là người chí công vô tư, cương trực, thẳng thăn thì mới đưa đất nước vững mạnh đi lên, tiến tới công bằng, dân chủ, văn minh. Rồi trong các mối quan hệ hợp tác sản xuất kinh doanh, tính trung thực sẽ giúp có được lòng tin ở mọi người, từ đó có uy tín trong sản phẩm. Thiếu trung thực sẽ gây ra hậu quả không thể lường trước được. Những tai biến xã hội từ nạn làm hàng giả hay ngộ độc thực phẩm, bằng cấp giả...hẳn ai cũng thấy. Tính trung thực cần được chú trọng giáo dục, rèn luyện ngay từ những ngày còn cắp sách tới trường mà điểm đầu rèn luyện là thành thực với chính bản thân mình. Bởi vì, “Phải thành thật với mình, có thể mới không dối trá với người khác” (Uy-li-am Sếch-xpia). Trung thực là cốt lõi, xoay quanh nó còn nhiều đức tính khác mà quan trọng nhất là thái độ thẳng thắn, tinh thần, hành động dũng cảm. Không có đức tính này, trung thực chỉ như của quý bị dấu kín. Thảng thắn, dũng cảm lại phải chân thành, khéo léo. Nêu không trung thực - thẳng thắn - dũng cảm sẽ không có tác dụng hoặc bị hạn chế tác dụng. Ta nên rút ra một điều : rèn luyện tu dưỡng các tính tốt là rất cần nhưng thể hiện nó trong xử thế còn quan trọng hơn. Chẳng hạn, không nhất thiết ta phải thể hiện rõ, đôi lúc ta cũng phải có ứng xử khéo léo để tránh cho người khác nỗi đau đớn về một sự thật phũ phàng nào đó. Nói.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> như vậy có nghĩa là ta không cần phải cứng nhắc, rập khuôn mà phải biết cư xử sao cho hợp lí, hợp tình. Đức tính trung thực là điều mà con người, nhất là con người trong xã hội hiện đại cần phải có, cần phải được rèn luyện. Vậy sao ta không rèn luyện nó ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để khi ra đời ta sẽ xem nó là một trong những điều cần thiết nhất để bước vào cuộc sống hiện đại ngày nay. Đề số 2 Lòng biết ơn thầy cô giáo Bài làm “Không thầy đố mày làm nên”, một triết lí dân gian đã được lưu truyền từ bao đời nay. Điều này cho chúng ta thấy người thầy có vai trò to lớn đối với con đường học vấn của mỗi học trò. Dẫu là học trò bán tự, nhất tự (có câu "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" - một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy), huống hồ chi, chúng ta, trong đời ai chẳng là học trò hơn một lần "nhất tự" hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm này. Nhưng điều tôi muốn nói đến ở đây là một mặt khác nữa của câu tục ngữ - Đó cũng là lời nhắn nhủ, khuyên răn chúng ta phải nhớ ơn thầy cô. Mỗi người có được công danh, sự nghiệp thành đạt đều nhờ công ơn dạy dỗ của thầy cô. Những người chiến sĩ trong cuộc chiến sinh tử với giặc ngoại xâm, trong hành trang tinh thần mang ra mặt trận cũng có lời thầy cô. Chúng ta, hẳn đã nhiều người đọc nhật kí của anh Nguyễn Văn Thạc (Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản dưới nhan đề Mãi mãi tuổi hai mươi) học sinh trường cấp 3 (THPT) Yên Hòa B - Từ Liêm, Hà Nội. Trang nhật kí ngày 24/5/1972, ghi trước khi anh hi sinh tại chiến trường Quảng Trị hai tháng, bảy ngày sau đó, người học trò này đã nhớ lời dạy thầy giáo cũ - thầy Lưu, và nói rằng, cho đến lúc này, anh mới hiểu hết lời dạy của thầy. Xin được trích đoạn nguyên văn "Lòng tin tưởng ở con người cũng chính là một nét riêng rất độc đáo của lòng nhân đạo - Điều này thầy Lưu đã nói rất nhiều lần với mình từ 3 năm trước, từ hơn 2 năm trước - Nhưng đến giờ mình mới hiểu một cách sâu xa và đầy đủ nhất". Người học trò Nguyễn Văn Thạc hiểu và xác định đúng đắn lẽ sống của đời mình. "Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc dời một tâm hồn chính trực và cao cả - Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế - Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm". Chính vì thế ta không thể quên được công ơn của thầy cô. Thầy cô giáo là người hướng dẫn, bồi dưỡng, truyền đạt cho ta những kinh nghiệm mà nhân loại đã tích luỹ trong suốt quá trình lịch sử lâu dài về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và kinh nghiệm sống để mở rộng trí óc cho chúng ta. Thầy cô không chỉ cho chúng ta tri thức mà còn rèn luyện cho chúng ta bài học làm người. Lúc còn bé thơ thầy cô dạy ta từng chữ cái, từng con số, rồi theo năm tháng chúng ta dần.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> lớn lên thầy cô dạy ta những điều hiểu biết cao hơn, rộng hơn để giáo dục ta thành người có tri thức, có đạo đức. Các thầy cô đã “Vì lợi ích trăm năm trồng người”, đào tạo chúng ta thành những người hữu ích. Tại sao danh họa Ý Lê-ô-na đơ Vanh xi (1452 - 1519) có thể trở thành đỉnh cao của thời Phục hưng và thế giới. Vì ông có người thầy là họa sĩ Vê-rô-ki-ô. Thoạt đầu thầy bắt cậu bé học trò vẽ quả trứng gà mấy chục ngày liền. Bởi ông muốn cho nhà họa sĩ thiên tài tương lai biết "trong một nghìn cái trứng, không bao giờ có hai cái hoàn toàn giống nhau...Do vậy nếu không cố công luyện tập thì không vẽ đúng được đâu...Đó còn là cách luyện mắt cho tinh, luyện tay cho dẻo". Các thầy cô giáo là người "mài sắt nên kim", công lao biết bao ! Thật đúng như nhà thơ Bùi Đăng Sinh, hiện nay đã là nhà giáo kì cựu, lúc còn ngồi trên ghế nhà trường đã viết : “Đồi cao thắm sắc ti gôn Trồng hoa thầy đã trồng luôn cả người” Các thầy, các cô đang làm một nghề cao quý nhất, nghề dạy học, nghề mà dân tộc ta vốn rất coi trọng, quan tâm và biết ơn. Ông cha ta thường nói : “Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy” Vì học sinh thân yêu, các thầy giáo, cô giáo đã luôn luôn quan tâm đến sự tiến bộ, vui sướng trước sự trưởng thành của chúng ta, trăn trở trước thiếu sót mà chúng ta mắc phải. Từ cái nôi là nhà trường, tình cảm gắn bó giữa chúng ta và các thầy cô là một tình cảm đặc biệt, sâu sắc. Tình cảm đó sẽ cùng đi suốt cuộc đời, động viên, nâng đỡ chúng ta trưởng thành. Mọi người chúng ta phải khắc ghi và biết ơn. Phải ghi nhớ trong lòng, đạo thầy trò là một trong những đạo lớn, giữ cho xã hội lành mạnh, vững chắc. Lại xin kể với các bạn một câu chuyện mà nhân vật học trò hiện vẫn đang sống và là một nhà thơ nổi tiếng của chúng ta. Chuyện của nhà thơ Hoàng Cầm, thi sĩ yêu thương của miền Kinh Bắc, cái nôi của văn hóa Việt Nam. Nhà thơ đã làm cho con sông Đuống thành dòng sông trữ tình, dòng sông thi ca. Năm học 1935 - 1936, Hoàng Cầm học với thầy Hoàng Ngọc Phách, cũng là một nhà văn (tác giả Tố Tâm, thiên tiểu thuyết lãng mạn vào loại mở đầu văn chương lãng mạn). Ai ngờ sau đó ít lâu, lại lấy chị gái họ thầy giáo mình. Một ngày tết ở thị xã Bắc Ninh, khi hai vợ chồng thi sĩ đi chúc tết họ hàng, vào nhà thầy, theo tôn ti trật tự, thầy cứ một điều "thưa bác", hai điều "thưa bác". Vợ nhà thơ cũng thản nhiên "cậu câu, tôi tôi" mặc dù kém đến trên 20 tuổi. Song Hoàng Cầm thì không dám. Ông lễ phép xưng "con", gọi "thầy". Về nhà, bà vợ phàn nàn : - Sao mình lại xưng "con" với cậu ấy ? Cậu ấy là em mình chứ ! Hoàng Cầm đã quả quyết trả lời : - Anh phải tôn trọng cái điều có trước. Trước khi anh là chồng em, anh đã là học trò của ông Phách từ lâu rồi. Người thầy giáo ấy đã có công lớn đào tạo được ra anh hôm nay đấy em ạ ! Lòng biết ơn thầy cô là phải biết giữ đúng "Đạo". Nhưng cao hơn, phải được thể hiện bằng hành động cụ thể. Muốn vậy chúng ta phải học tập tốt, đạt nhiều thành tích cao. Đây cũng chính là đạo lí làm người, là cách ứng xử của người có nhân cách. Đất nước ta có rất nhiều tấm gương đáng để noi theo như người học trò con vua Thủy Tề.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> của thầy Chu Văn An. Biết là trái mệnh Ngọc Hoàng, tất bị chết chém, nhưng vẫn tuân theo lời dạy bảo nhân nghĩa của thầy. Bác Hồ từng dạy : “Kẻ có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nền tảng của con người vẫn là đạo đức, đạo đức kết hợp với tài năng thì làm chuyện gì cũng thành công. Xã hội hiện đại ngày nay, vấn đề đạo đức đang còn nhiều cái để quan tâm, đó là tình trạng học sinh vô lễ, vô ơn bạc nghĩa với thầy cô. Thậm chí có hành vi lăng mạ, côn đồ. Tất cả đều bị chê trách, lên án gay gắt. Trong bối cảnh như thế, thiết nghĩ, lòng biết ơn là món quà giá trị nhất, là bông hoa tươi thắm nhất để các thế hệ học sinh dâng tặng thầy cô kính yêu. Đây không phải chỉ là bổn phận và nghĩa vụ mà còn là thứ tình cảm cao quí, thiêng liêng, ở đâu, lúc nào cũng cần gìn giữ, nêu cao. Đề số 3 Xin mẹ hãy yên tâm Bài làm Con đã mười lăm tuổi rồi mẹ ơi, đã lớn khôn, con biết rằng mẹ rất lo lắng cho con khi con đi đâu, nhưng mẹ ơi, con biết mình phải làm gì khi không có bố mẹ ở bên và “xin mẹ hãy yên tâm về con”. Tôi có một người mẹ tuyệt vời, mẹ rất khéo tay, mẹ nấu ăn cũng khá ngon. Nhưng tôi không được lấy một phần của mẹ. Con gái lớn rồi mà tôi rất vụng về, trước khi làm việc gì mẹ cũng dặn tôi cặn kẽ. Lúc nào mẹ cũng lo lắng vì ở cái tuổi đang phát triển, cái tuổi dậy thì, mẹ sợ sức khoẻ bị giảm sút, tình cảm chông chênh, suy nghĩ chưa chín chắn ảnh hưởng tới học tập. Rồi mẹ sợ, đời sống phát triển, càng ngày phương tiện giao thông càng tấp nập, đẽ bị tai nạn. Mẹ không yên tâm, dạo đầu, mỗi khi phải đi học xa, tôi đạp xe đi trước, mẹ xe máy theo sau. Lâu dần, tôi thạo đường mẹ không kèm tôi nữa, nhưng tranh thủ, mẹ vẫn thường ghé vào chỗ tôi học. Có những hôm tôi học về khuya, mẹ lo không ngủ được, ngồi ở ghế chờ tới khi tôi về nhà mới im lặng ngả lưng. Nhưng con người tôi quá vô tâm, về nhà một cái, chào mẹ là chạy tót lên tầng, tôi cũng chẳng để ý tâm trạng mẹ như thế nào. Cứ thế ! Lại có lần mẹ nói gì đó, khi tôi đang làm bài tập khó quá, hình như mẹ hỏi chìa khoá để ở đâu. Tôi gắt lên với mẹ "mẹ tìm đi sao cứ hỏi con nhiều thế !". Mẹ không nói gì, thui thủi một mình đi xuống nhà. Thực ra tôi cũng biết làm mọi việc, chỉ không cẩn thận được như mẹ thôi. Cái chính là có mẹ làm hết nên tôi ỷ lại, đâm ra lười. Còn nhớ, tháng trước, hôm sinh nhật cái Hảo, bạn thân của tôi, Tôi xin đi, mẹ đồng ý, trước khi đi mẹ dặn tôi nào là về sớm, nào là đi đường cẩn thận, không được la cà. Tiệc sinh nhật thật vui, nhưng nhớ lời mẹ dặn, tôi đã xin phép ra về . Ai ngờ, giữa đường xe bị thủng xăm, dắt bộ một quãng mới có hiệu sửa xe. Về đến nhà đã khoảng 10h15’, mồ hôi nhễ nhại, tôi vào nhà, không thấy mẹ chờ tôi như mọi khi. Chắc mẹ giận, tôi mở cửa rồi lẳng lặng lên phòng như mọi khi, cũng sợ mẹ mắng. Nhưng rồi mẹ gọi xuống, dặn ngày mai giúp mẹ làm bữa sáng cho cả nhà vì mẹ cảm thấy khó chịu trong người. Mặt tôi xị ngay ra. Mẹ liền bảo "nếu con cảm thấy không.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> làm được thì thôi”. Tôi không nói một lời nào. Đêm ấy tôi chẳng ngủ được, sao mẹ không trách, chắc mẹ không thương mình nữa vì mình không về đúng giờ, không chăm sóc mẹ lúc ốm đau. Tôi nhớ có hôm bác Hiền gần nhà sang chơi kể chuyện bác ốm chị An chăm sóc rất chu đáo mẹ nghe, nét mặt buồn buồn. Nhưng mẹ không nói ra chắc mẹ giữ thể diện cho tôi. Nghĩ thế, tôi thấy hối hận. Tôi quyết định dậy sớm làm bữa sáng để chuộc lỗi với mẹ. Đêm nay đối với tôi dài dằng dặc như một năm đã trôi qua. Sáng tôi cố dậy thật sớm để giúp mẹ, tôi sững sờ cả người thấy mẹ đã làm xong, tôi trách mẹ sao mẹ không để cho con làm. Mẹ lại bảo, vẫn như những lần trước : Con thì biết làm gì. Nhưng tôi muốn chứng minh cho mẹ thấy tôi có thể làm được. Ngay buổi sáng hôm đó, đi học về sớm, tôi đã nấu bữa trưa với một sự cố gắng cật lực. Khi mẹ về cơm nước nấu xong, có điều cái bếp thành một bãi chiến trường. Không ngờ, mẹ ôm tôi và khóc : con gái mẹ đã lớn thật rồi. Thế rồi, hai mẹ con tôi vừa dọn dẹp vừa nói chuyện. Tôi hỏi mẹ có giận tôi không, mẹ chỉ cười, bảo : sao mẹ lại giận con được chứ. Tôi hỏi, con làm gì cũng sai mà mẹ chẳng trách móc. Mẹ nói : mẹ biết con sẽ biết lỗi và sửa chữa, vì mẹ sinh ra con mà. Rơm rớm nước mắt, tôi cố hỏi thêm. Tại sao khi con gắt mẹ, mẹ không nói gì. Mẹ giải thích vì ở tuổi tôi tính khí thất thường, ở tuổi này con người hay phạm phải những sai lầm không trách được. Tôi oà lên khóc, mẹ ôi sao mẹ tốt với con vậy, mẹ bảo vì mẹ là mẹ của con. Tôi ôm chầm lấy mẹ, mẹ lau nước mắt cho tôi, tôi nói lí nhí : Mẹ ơi ! Xin mẹ hãy yên tâm, con sẽ làm tất cả để bù đắp lại những gì mẹ đã lo lắng cho con. Mẹ là tất cả của con, là cuộc sống của con, con sẽ cố gắng học tập tốt để xứng đáng là đứa con ngoan của mẹ. Mẹ đã giúp con tỉnh giấc, cảm nhận được giá trị của gia đình và tình mẹ, cảm ơn mẹ nhé. Dù ở đâu hay ở nơi nào con vẫn là con mẹ, nếu ai còn diễm phúc có mẹ ở bên chăm sóc, hãy dành một chút thời gian quý báu của mình cho mẹ, để sau này không phải hối hận. Mẹ ơi mẹ hãy yên tâm, mẹ hãy giữ gìn sức khoẻ, mẹ không phải lo lắng cho con nữa vì con đã lớn rồi. Đề số 4 Cảm nghĩ khi đọc Phò giá về kinh của Trần Quang Khải Bài làm Hào khí Đông A (chiết tự chữ Trần viết theo Hán tự) khởi phát bởi chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông lần thứ nhất - 1258 đã được khẳng định rực rỡ, hùng hồn bằng các chiến công vang dội trong hai lần đại thắng 1285, 1287 sau đó. Con cháu của những “Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong” đã làm cho kẻ xâm lược hãi hùng ngay cả khi chúng yên ổn về nước - “Nghe tiếng trống đồng mà tóc trên.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> đầu bạc trắng” (Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh). Đó là sức mạnh toàn diện của dân tộc dưới thời nhà Trần trên cơ sở ý thức tự cường, tự chủ. Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu nước được biểu hiện một cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trước khi lâm trận, bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau đến những tứ tuyệt, những ngũ ngôn 4 câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến. Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một trong những bài như thế. Cuối năm 1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nước ta lần thứ hai. Tình thế đất nước hiểm nghèo, các vua Trần phải dời kinh đô tìm phương kế chống đỡ. Nhưng chỉ qua mùa xuân năm 1285, quân ta đã chuyển thế tấn công. Tháng tư, trong trận đánh tại Hàm Tử, một địa điểm trên sông Hồng tại huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên ngày nay) tướng Trần Nhật Duật đã phá tan đạo quân Thát Đát, bắt sống giặc Ô Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngô sau này Nguyễn Trãi nhầm sự việc nên viết “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”). Tháng 6, Trần Quang Khải thắng tiếp trận Chương Dương, đuổi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan chạy dài lên phía bắc, giải phóng Thăng Long, rước vua Trần trở lại kinh thành. Trong không khí ấy, ông ngẫu hứng cao độ làm nên Tụng giá hoàn kinh sư (Phò xa giá nhà vua về lại kinh đô) danh bất hư truyền. Cùng khoảng thời gian này, vua Trần khi đến tế ở nhà Thái miếu cũng ứng khẩu hai câu : "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Nghĩa là "Đất nước hai phen bon ngựa đá /Non sông nghìn thủa vững âu vàng", cùng một mạch cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc. Bài thơ chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại hai chiến công hiển hách vừa mới đó, đang còn tươi nguyên không khí chiến thắng. Có nét đặc biệt là trình tự các chiến công không được nêu theo diễn biến thời gian trước sau. Chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Cách trình bày như thế là theo cái lô-gíc của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính nhờ chiến thắng Chương Dương mà Thoát Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long được giải phóng. Chính nhờ chiến tháng Chương Dương mà có cái không khí rạo rực phấn chấn trong ngày “về lại thủ đô” này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mười chữ, nêu hai sự việc là “cướp giáo giặc” và “bắt quân thù”. Song qua hai hình ảnh này người đọc cảm nhận được niềm phấn chấn, hân hoan. Đúng là câu thơ đăng đối bên ngoài đanh chắc, bên.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> trong chứa chan xúc cảm. Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự cô đúc này tạo ra một thế năng, khả năng khơi gợi người đọc suy ngẫm. Một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thi pháp cổ là gợi, ít chú trọng kể, tả. Hai câu thơ sau là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của giang sơn, đất nước. Nguyên văn : Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san Vẫn trình bày theo lối ngũ ngôn như trước nhưng lại đặt ra một nhiệm vụ, một yêu cầu hoàn toàn mới. Thông thường, sau chiến thắng người ta dễ thoả mãn, dễ say sưa với vinh quang, bỏ lỡ một khoảng thời gian cần thiết chuẩn bị cho tương lai. Trần Quang Khải đã có nhận thức hoàn toàn đúng và đặt vấn đề một cách kịp thời về những công việc thời hậu chiến. Ông hiểu rằng những công việc của một đất nước sau chiến tranh là hết sức bộn bề. Thái độ và hành động ở thời kì thái bình rất cần phải tập trung là “tu trí lực”. “Tu” là học tập, bồiđắp, “trí lực” là trí tuệ, khả năng. Ý thơ vẫn tiếp tục gợi cho người đọc hiểu thêm rằng, đất nước vẫn đang đòi hỏi, còn yêu cầu những con người chiến thắng này nhiều cống hiến hơn nữa. Có như vậy mới có sự yên bình, vững chãi muôn năm. Một ý thơ đầy tinh thần trách nhiệm. Bài thơ có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trước những chiến thắng, những chiến công. Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào khí Đông A thủa ấy. Nhưng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng suốt của con người ý thức được giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác phù hợp với phong cách ngôn ngữ, uy thế của vị tướng quốc đầu triều. Kết cấu chặt chẽ, có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi mở ý tưởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngôn riêng biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh. Cho đến hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên giá trị thời sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về ý thức, trách nhiệm xây dựng đất nước vững mạnh sau chiển tranh. Đề số 5 Cảm nghĩ về vẻ đẹp con người.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> qua truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Bài làm Mỗi một nhà văn đều có cảm hứng sáng tác riêng của mình. Nam Cao cũng vậy, ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn lấy cảm hứng sáng tác từ những người nông dân trong xã hội cũ, ca ngợi vẻ đẹp nội tâm tiềm tàng của họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tiêu biểu trong số đó. Vẻ đẹp của những người nông dân nghèo khổ được nhà văn thể hiện một cách khách qua, sâu sắc và truyền cảm qua bức chân dung của Lão Hạc. Trước hết vẻ đẹp ấy bộc lộ ở lối sống tình nghĩa. Lão rất thương “cậu vàng” - tên thân mật lão đặt cho con chó vàng. Đó là kỉ niệm về đứa con trai. Một trận ốm đã khiến cho cuộc sống của lão càng túng bấn, cơm lão ăn mỗi bữa cũng chẳng đủ no nói gì tới việc nuôi thêm con vàng. Cuối cùng lão phải quyết định bán, mặc dù con vàng đã gắn bó với lão trong những ngày lão cô đơn nhất. Có điều lão đã băn khoăn day dứt nhiều lần. Khi sang nhà ông giáo kể về việc bán chó, lão cố tỏ rõ sự vui vẻ, nhưng lão "cười mà như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc". Lão tự trách mình bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cách một con người, nhất là người nghèo khổ đối xử với một con vật là sự thể hiện nhân cách rõ ràng nhất, bản chất nhất. Chỉ ai sống bằng tình nghĩa, mới biết gắn bó, tri ân dẫu là với một con vật. Chỉ ai cao thượng mới biết xấu hổ, ân hận trước hành vi mà mình coi là phản trắc trước một con vật. Vẻ đẹp có sức mạnh nhất trong con người là tình thương yêu, đức hi sinh cao cả. Bao trùm tính cách lão Hạc chính là tấm lòng, đứ tính này. Thương con, lão cố gắng dành dụm tiền cho con cưới vợ, cố giữ lấy mảnh vườn cho con, dù cuộc sống có khó khăn, khổ sở thế nào. Lão cố gắng thu vén sao cho không phiền đến người khác. Lão gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phòng khi lão chết có tiền làm ma. Lòng tự trọng đã không cho phép lão nhận sự giúp đỡ giấu giếm của ông giáo. Đó là phẩm chất kiên cường của người nông dân nghèo khổ. Nhưng đau đớn thay, chính những phẩm chất lớn lao này đã dẫn lão đến với cái chết. Lão Hạc chủ động chọn cái chết, nghĩa là lão đã hành động quyết liệt nhất, xả thân để bảo vệ vẻ đẹp con người, vẻ đẹp làm người. Trong truyện ngắn Lão Hạc, hình ảnh ông giáo cũng ngời sáng. Ông giáo đại diện tiêu biểu cho tình yêu thương, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con người và cũng chính là một vẻ đẹp. Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá người ta nghi ngờ nhau, không thể đến được với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau. Vẻ đẹp con người trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao được xây dựng trên cảnh nghèo khó của người nông dân trong xã hội cũ. Nhưng đó là vẻ đẹp của con người Việt Nam, nên dẫu thời đ" ói nghèo trong rơm rạ, văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi" (Chế Lan Viên) này đã qua đi lâu rồi, vẻ đẹp ấy vẫn lung linh ánh sáng và đầy sức lay động..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Đề số 6 Quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm Quê hương trong xa cách là nguồn đề tài vô tận, là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng như : “Nhớ con sông quê hương”, “Quê hương”, “Trở lại con sông quê hương”. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung - Quãng Ngãi, một vùng đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc, ông rời xa quê hương từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác phẩm, chủ yếu là về quê hương, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có nói con sông quê mà ông gắn bó : Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Xa quê, xa cả con sông. Có thể nói đó là nỗi đau của ông. Qua những kỉ niệm, hồi tưởng về con sông trong “nỗi nhớ con sông quê hương”, Tế Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hương thân thiết, ruột rà. - Làng tôi ở vốn nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông - Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Còn người dân quê thì mạnh mẽ, tinh tế, sống động : Dân chài lưới làn da ngăm dám nắng Có thân hình nồng thở vị xa xăm Chỉ có ai là con người của sông nước, vạn chài mới có thể tạo được hình ảnh người dân chài giữa đất trời lồng lộng gió với đủ hình khối, màu sắc và hương vị. Chất muối mặn nồng ngấm vào thân hình người dân quê hương cũng như ngấm sâu vào làn da, thớ thịt vào tận tâm hồn thơ Tế Hanh. Bằng giọng thơ giãi bày, phơi trải, ông đã kể về kỉ niệm tuổi thơ tươi đẹp : Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bẩy... Tôi đưa tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ Cao hơn, trong xa cách, nhưng với sức mạnh của tình quê, không chỉ có hình ảnh đặc trưng của quê hương "Màu nước xanh, cá bạc cánh buồm vôi / Thoảng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi"hiện ra mà nhà thơ còn cảm nhận được cả mùi vị quê : Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Quê hương Tế Hanh là một làng chài nghèo, người dân sống cần cù, khó nhọc, thế nhưng khi nhớ về quê, ông lại chỉ thấy vẻ đẹp tươi sáng. Phải chăng đó là nhờ làng quê ấy có con sông êm đềm, tuơi tắn, lại gần biển tự do, phóng khoáng và nhất là nhờ trái tim tuổi trẻ khoẻ khoắn ? Mặt khác, cùng tình cảm đằm thắm, kỉ niệm sâu lắng, đẹp đẽ, lời kể theo lối giãi bày, thủ thỉ chân thật và khả năng miêu tả những cảm giác bên trong chân thành, mộc mạc, nên ở thơ Tế Hanh, con sông trở thành một hình tượng thẩm mĩ, gợi cảm, đầy chất trữ tình. Đối với Tế Hanh, quê hương luôn là bông hoa đẹp nhất trong vườn hoa. Ca dao, dân ca dường như cũng đã ngấm sâu vào hồn thơ Tế Hanh. Dù ở phương trời nào lòng ông vẫn nhớ quê hương, nó luôn dạt dào, cháy bỏng trong ông khiến nhà thơ thấy được hình ảnh quê hương liên tục hiện ra. Quê hương chính là sức sống của ông, ở một khía cạnh nào đó, ta lại thấy tình yêu quê hương của Tế Hanh rất đa chiều và phức tạp. Lúc da diết, ngập tràn với “Nhớ con sông quê hương”, nhưng lúc khác lại cho người đọc thấy một hồn thơ trẻ trung phơi phới của “Quê hương”. Nhưng dù ở góc độ, khía cạnh nào thì nó đều ẩn chứa một tình yêu, nỗi khát khao đoàn tụ, bày tỏ khát vọng gặp gỡ cụ thể. Không như thơ Huy Cận, Lưu Trọng Lư đầy chất mộng ảo, không như thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên hun hút sầu thương, thơ Tế Hanh trong sáng, khoẻ mạnh, đắm đuối rất thực. Bởi ông có một vùng quê bằng xương, bằng thịt, mà ông luôn dõi theo bằng đôi mắt rất thực, bằng trái tim có địa chỉ rõ ràng. Suốt nửa đời người, do thời thế, Tế Hanh phải xa quê, khi trở lại sau mùa hè đại thắng, thống nhất đất nước - 1975, con sông và làng quê đã đổi thay nhiều : Tôi nhìn sông bên lở bên bồi Tre thưa thớt ngập tràn lau cỏ Trong ánh sáng ngả nghiêng theo chiều gió Thuyền máy dọc ngang tỏ trắng lòng sông Nhà dân chài giăng những lưới ni lông Màu xanh đỏ ngời ngời ánh nước Kìa bãi sú nơi sáu năm về trước Giặc Mĩ bao vây sát hai mốt trung đội dàn quân Cây mù u không còn ngả bóng bên cồn Cây xanh trước đình thân chỉ còn một nửa Tác giả thật sự ngỡ ngàng : Tôi đi học bờ sông bỡ ngỡ Quên cả khúc quanh rẽ lối vào nhà Quê hương đẹp đẽ thơ mộng trong tâm trí tác giả nay trần trụi những vết thương chiến tranh, vết thương do chia cắt đất nước. Tác giả vừa vui vừa đau buồn một nỗi "hồi hương". Trở về, gặp lại, tuổi cũng đã cao, quê hương thì đổi thay như thế, nên sau này, dẫu quê nhà vẫn mến yêu, thổn thức trong trái tim nhà thơ, nhưng thơ về quê hương của Tế Hanh thì đã khác. Không còn cái sức hấp dẫn của vẻ đẹp trai tráng. Cho nên, có thể nói, người ta chỉ còn nhớ đến những bài thơ về quê hương, con sông quê của ông mấy mươi năm về trước. Dù sao thế cũng là quá đủ với một đời thơ..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Có thể nói những bài thơ về quê hương trước và hai mươi năm sau Cách mạng Tháng Tám của Tế Hanh đã cất lên một tiếng ca trong trẻo, nồng nàn, thơ mộng về con sông hiền hòa đã “tắm cả đời tôi”, về cái làng vạn chài từng ôm ấp, ru vỗ tuổi thơ ông. Mỗi chúng ta một lần nữa vui mừng khi được giao tiếp với một hồn thơ khoẻ mạnh, trong sáng song lại rất đỗi bình dị mà sâu sắc. Nó không hề làm nặng đầu ta với những bóng dáng siêu hình hay những vô thức u minh, nó chấp cánh mộng mơ, bồi đắp cho mỗi chúng ta tình yêu quê hương thắm thiết, là điểm trở về bình yên của ta trong cuộc đời nhiều bươn trải, cũng là sự thôi thúc ta vươn lên. Đề số 7 Hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây”. Bài làm Đoạn trích "Chiến thắng Mtao-Mxây" không khép lại bằng cái chết mà là sự tưng bừng của chiến thắng, sự lớn mạnh của một cộng đồng và uy danh vang dội của người anh hùng Đăm Săn. Người anh hùng sử thi là trọng tâm miêu tả của bức tranh hoành tráng. Tầm vóc lẫn chiến công của chàng trùm lên toàn bộ chiến công, toàn bộ thiên nhiên và xã hội Ê- đê. Trong quan niệm của người dân tộc Ê-đê, cuộc chiến từng đóng vai trò là “bà đỡ lịch sử” khiến cho cộng đồng ngày càng phát triển, ngày càng có cuộc sống ấm no, thịnh vượng. Trong sự phát triển ấy, người anh hùng có vị trí hết sức lớn lao tầm cỡ. Sau mỗi chiến công của người anh hùng là một lễ ăn mừng hoành tráng của cộng đồng để suy tôn, ca ngợi cũng như thể hiện niềm vui về sự no đủ, đông đúc mỗi ngày. Sau chiến thắng oanh liệt trước tù trưởng Mtao-Mxây, Đăm Săn đã trở thành người anh hùng giàu có, hùng mạnh nhất. Tôi tớ theo về “đặc như bầy cà tong”, của cải đưa về “nhiều như ong đi chuyển nước”. Tràn ngập trong niềm vui, Đăm Săn đã cho toàn bộ tộc ăn mừng chiến thắng. Tiếng tuyên bố mở hội dõng dạc vang vọng của chàng khiến cho khắp rừng núi âm vang trong không khí háo hức. Cả cộng đồng người Ê-đê và ngừơi Ê-ga được tái hiện sinh động đầy sức sống. Và sừng sững trong xã hội ấy, là nét đẹp vừa hoành tráng, vừa lãng mạn của người anh hùng Đăm Săn. Nét đẹp được ghi nhận trước tiệc của Đăm Săn trong lễ ăn mừng chính kà nét đẹp về ngoại hình và sức mạnh..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chàng được miêu tả với vẻ đẹp và sức mạnh của một vị thần. Người Ê-đê, Êga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước. "Mình quấn chéo một tấm mền chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghêng ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như chim, bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc". Bằng nghệ thuật miêu tả, so sánh gần gũi, cụ thể với nhiều chi tiết hết sức sinh động, kết hợp với nghệ thuật ttì hoãn sử thi và cách nói phóng đại sử thi, người dân Tây Nguyên đã biến người anh hùng của họ thành một vị thần với tất cả sức mạnh hội tụ từ núi rừng, vũ trụ. Sức mạnh của chàng được so sánh với những gì mạnh nhất, đẹp nhất của thiên nhiên. Vốn ngang tàng từ trong bụng mẹ, trải qua bao cuộc chiến, Đăm Săn đã lớn lên và trở thành chiến thần. Chàng có tất cả vẻ đẹp cũng như sức mạnh của thần linh qua trí tưởng tượng bay bổng kì diệu và lòng mến yêu vô hạn của người Tây Nguyên. Không chỉ có sức mạnh dũng mãnh chàng còn có vẻ đẹp lãng mạn : “chàng nằm trên võng, tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa, đầu đội khăn nhiễu, vai mang mũ hoa, chàng ăn không biết no, uống không biết say, trò chuyện không biết chán”. Toát lên từ câu chữ một chàng Đăm Săn hoà đồng vui vẻ. Không hề phân biệt địa vị cao thấp giàu hèn. Đăm Săn là biểu tượng cho hài hoà giữa cái đẹp dữ dội của núi rừng, vũ trụ với cái đẹp êm ả lãng mạn của tâm hồn người Tây Nguyên. Cái đẹp ấy vừa có sự cao cả, kì vĩ của người anh hùng lại vừa có nét kì diệu, đậm đà bản sắc Tây Nguyên. Không chỉ hiện lên với vẻ đẹp của sức mạnh và hình thể, Đăm Săn còn hiện lên trong lễ ăn mừng, ở vẻ đẹp của lòng tôn kính tổ tiên, thần linh, lòng hiếu khách, một tâm hồn thuỷ chung, phóng khoáng rộng rãi. Sau chiến thắng, Đăm Săn không quên sai tôi tớ làm lễ cảm tạ tổ tiên và thần linh đã giúp cho chàng chiến thắng, đã giúp bộ tộc của chàng ngày một vững mạnh giàu có. "Ơ các con, ơ các con, hãy đi lấy rượu bắt trâu, rượu năm ché, trâu bảy con để dâng thần, rượu bảy ché, lợn thiến bảy con cầu cho ta được bình yên vô sự, nạn khỏi tai qua, lớn lên như sông nước, cao lên như cây rừng, không còn ai bì kịp”. Cách.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Đăm Săn sai tôi tớ sắm đồ lễ cúng tế chứng tỏ lòng thành kính sâu sắc với thần linh, tổ tiên của chàng. Nó cũng chính là tiếng nói tín ngưỡng của cả cộng đồng dân tộc Ê đê. Sau khi làm lễ tạ khấn thần linh, tổ tiên Đăm Săn đã mời tất cả anh em, bạn bè, tôi tớ ăn uống : “hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng, xin mời tất cả đến với ta, chúng ta sẽ mở tiệc ăn mừng năm mới…”. Tiếng mời chào sang sảng như chính tấm lòng hào hiệp của chàng Đăm Săn. Chàng đã thiết đãi bạn bè, dân làng bằng những vật chất đầy đủ sang trọng, bằng niềm vui thân ái, khiến cho “cả một vùng nhão ra như nước” vui tới mức “lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mai đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng, ếch nhái dưới gầm nhà, kì nhông ngoài bãi thì kêu inh ỏi suốt ngày đêm”. Bạn bè của chàng đông đúc : “Các cô gái đi lại vú đụng vú, các chàng trai đi lại ngực đụng ngực”. Không khí ăn mừng như thế này bây giờ mới có. Bởi bây giờ người Ê đê mới có người thủ lĩnh anh hùng dũng cảm, hào hiệp đến thế. Đó chính là niềm tự hào sâu sắc của người dân Ê đê về vị tù trưởng Đăm Săn. Cách xây dựng hình tượng đẹp đẽ lớn lao của người anh hùng trong không khí đông vui nhộn nhịp, lớn mạnh của cộng đồng là một đặc điểm nổi bật của sử thi Tây Nguyên. Người anh hùng sử thi được toàn thể cộng đồng suy tôn tuyệt đối. Qua người anh hùng ta thấy được sự phát triển, ý chí thống nhất của toàn thể cộng đồng Ê đê một biểu hiện quan trọng của ý thức dân tộc. Đề số 8 Từ bi kịch mất nước đến bi kịch tình yêu qua truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ Bài làm Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu Trái tim lầm chỗ để trên đầu Nỏ thần vô ý trao tay giặc Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu. (Tố Hữu).

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bốn câu thơ lại gợi nhắc ta xót xa nhớ về câu chuyện dân gian “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” với hình ảnh một vị vua tài giỏi trong buổi đầu dựng nước đã đánh tan các cuộc xâm lăng hung bạo của kẻ thù nhưng cuối cùng lại thất bại mội cách đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho giang sơn xã tắc tuột khỏi tầm tay, làm nên một bài học kinh nghiệm xương máu khó có thể nào quên. Đọc "An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu. Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Qui, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần – một vũ khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc. Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua lớn, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con trai mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu - một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lí do “tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ” và nói dối Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triều Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao ? ”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy lẫy thần đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao ước, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng "Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> nước, thét lớn "kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển. Vì sao một con người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong phút chốc ? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần ? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dương Vương đã đánh thắng quân giặc nhưng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà. Nước mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tưởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia. Nỗi đau mất nước ấy quả thật là quá lớn. Nhưng ta lại càng đau xót trước tình yêu chân thành của nàng công chúa phương Nam. Mị Châu có tất cả phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ truyền thống, nhưng cũng từ những phẩm chất ấy, do mù quáng, nàng đã hại cha, hại dân, hại nước. Trước sau nàng chỉ nghĩ đến Trọng Thuỷ và hạnh phúc của nàng. Nàng một lòng tin tưởng và yêu thương chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu vô cùng chân thành và tha thiết. Ấy thế mà Trọng Thuỷ - con người bội bạc kia đã nỡ tâm chà đạp lên tình yêu đó. Hắn cưới nàng làm vợ chỉ vì mục đích lợi dụng để xâm lược Âu Lạc. Nhưng vì sao Mị Châu quá mê muội ? Sao nàng lại có thể bỏ qua những câu nói lạ lùng, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc hai người chia tay : "Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hoà, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu ?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ đến với đất nước nàng, Nhưng nàng lại thật thà đáp lại : “Thiếp thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đớn đau khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Và chính cái dấu lông ngỗng của nàng đã đẩy hai cha con vào bước đường cùng. Tại sao trong cái giây phút nguy hiểm ấy, quân Đà đang tiến đánh cha mình mà nàng vẫn còn cả tin đến mê muội, đem rắc lông ngỗng trên đường đi làm dấu hiệu báo cho giặc để rồi cuối cùng nàng nhận được từ cha một cái chết đau đớn tột cùng, một cái chết chất chứa bao niềm căm hận, tủi cực, một cái chết cùng bao điều thức tỉnh muộn màng từ cả cha nàng và nàng. Liệu Mị Châu có đáng phải chịu hình phạt ấy không ? Thật khó khăn và đau xót cho vua An Dương Vương vì nhát kiếm chém con ấy là ranh giới giữa tình yêu nước mãnh liệt và tình yêu con tha thiết. Nhưng tất cả đều đã muộn. Cảnh “quốc phá gia vong”, cơ nghiệp lớn lao phút chốc chỉ còn mây khói đâu chỉ do mình sự mê muội của Mị Châu mà còn do sự chủ quan khinh địch, mất cảnh giác của chính nhà vua nữa. Vậy người xưa muốn nói gì cho thế hệ đời sau qua truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” ? Phải chăng chỉ là lời kể suông về câu chuyện mất nước của vua An Dương Vương ? Không, truyền thuyết ấy chính là một bài học kinh nghiệm lớn lao trong việc bảo vệ quyền độc lập tự chủ của dân tộc. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác cao trước mọi thế lực thù địch để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chuyện cũng là bài học sâu sắc cho những người đang yêu và sẽ yêu. Hãy đừng vì quá yêu mà trở nên mê muội, mù quáng để rồi dẫn đến sự lợi dụng, dối trá trong tình yêu. Hãy luôn sống chân thành với trái tim mình, dành cho nhau tình cảm xuất phát từ đáy lòng. Đừng bao giờ chà đạp lên tình yêu của người khác như Trọng Thuỷ – một con người mưu mô, tham vọng không biết tôn trọng giá trị đích thực và vĩnh hằng trong cuộc sống. Người xưa đã sáng tạo nên truyền thuyết lịch sử đầy cảm động, xót xa. Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ vẫn mãi là một câu chuyện, một bài học lớn lao về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyền thuyết ấy sẽ còn tiếp tục được kể cho muôn thế hệ con cháu đời sau để cùng nhau khắc cốt, ghi tâm, lời căn dặn cảnh giác trước kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước, bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng và hạnh phúc của mỗi gia đình Đề số 9.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Phân tích ý nghĩa hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ Bài làm Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ kết thúc với sự thất bại của Âu Lạc, An Dương Vương đi vào lòng biển, Mị Châu, Trọng Thuỷ phải chết. Tuy kết thúc có phần đau đớn song câu chuyện không vì thế mà quá bi thương bởi trong sâu thẳm vẫn sáng lên niềm tin, chất nhân văn sâu sắc qua hình ảnh “ngọc trai - giếng nước”. Chúng ta có thể thấy rằng “ngọc trai - giếng nước” vừa là hình ảnh có giá trị thẩm mĩ cao, vừa là một tình tiết đắt xét về phương diện tổ chức cốt truyện. Nó là sự kết thúc duy nhất hợp lí cho số phận của đôi trai gái Mị Châu, Trọng Thủy, cùng với sự thể hiện tư tưởng, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với bi kịch tình yêu này nói chung, nhân vật Mị Châu nói riêng. Nàng Mị Châu bởi nhẹ dạ, cả tin làm nên nổi “cơ đồ đắm biển sâu”. Nàng đã phải nhận lấy cái chết cho danh nghĩa một kẻ bất hiếu, phản nghịch.. Nhưng sâu xa, tác giả dân gian đã thấu hiểu nỗi lòng một người con gái ngây thơ, trong trắng vì tình yêu đã vô tình gây nên tội mà đã cho nàng được hoá thành những viên ngọc trai. Những viên ngọc trai lấp lánh như đáp lại lời cầu nguyện của nàng trước khi vua cha chém đầu. Nàng không phải là người có lòng phản nghịch muốn hại cha, nàng là người có lòng trung hiếu nhưng vô tình bị người ta lừa dối. Những viên ngọc ấy ẩn sâu trong lớp vỏ trai dưới làn nước đầy bụi bẩn vẫn thanh lọc để sáng lên như chính tâm hồn ngây thơ trong trắng của Mị Châu. Ánh sáng ngọc trai ám ảnh tâm trí người đọc, tìm sự chia xẻ, đồng cảm. Tác giả dân gian đã có tấm lòng vô cùng độ lượng khi thấu hiểu và cảm thông với nàng Mị Châu. Để nàng được toại nguyện biến thành ngọc trai. Sự hoá thân ấy mang theo một ước mơ của nhân dân về những Mị Châu sáng suốt sau này, “vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác”..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Nói về Trọng Thuỷ. Hắn là một kẻ chiến thắng trên phương diện chính trị nhưng lại là kẻ thất bại thảm hại về phương diện tình cảm. Hắn đã mất đi người vợ yêu quí, mất đi sự thanh thản trong tâm hồn và càng ám ảnh hơn chính hắn gây nên cái chết Mị Châu trong trắng, ngây thơ hết lòng yêu thương hắn. Giếng nước ở Loa thành là tấm gương hội tụ và phản chiếu tất cả tội ác mà Trọng Thuỷ gây nên. Chính ở nơi này hắn nhìn thấy bản chất xấu xa của mình và thực lòng hối cải. Trọng Thuỷ nhảy xuống giếng tự vẫn, dòng máu hoà dòng nước nơi giếng ngọc là sự chứng nhận cho sự hối cải tội lỗi của hắn. Từ tương truyền, nếu dùng nước giếng ở Cổ Loa mà rửa ngọc thì ngọc thêm sáng hơn, có người cho rằng, hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” là hình ảnh ngợi ca mối tình thuỷ chung của Mị Châu - Trọng Thuỷ. Nhưng thiết nghĩ, với tinh thần yêu nước, cha ông ta sẽ không bao giờ sáng tạo nghệ thuật để ngợi ca những ai đưa họ đến bi kịch mất nước. Chỉ có thể lí giải rằng, hình ảnh ngọc sáng hơn bởi ở thế giới bên kia Mị Châu đã tha thứ, hoá giải tội lỗi cho Trọng Thuỷ. Màu ngọc ấy cũng sáng như tấm lòng yêu thương, vị tha của công chúa Mị Châu. Hư cấu chi tiết này, người xưa còn muốn giảm nhẹ bớt tội lỗi của nàng trong việc mất cảnh giác làm nước mất, nhà tan. Để Mị Châu biến thành ngọc trai, Trọng Thuỷ tự vẫn nơi giếng nước và để hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” sáng là tạo nghệ thuật đẹp tới mức hoàn mĩ. Đó chính là tấm lòng nhân đạo bao dung, nhân hậu của nhân dân. Nó thể hiện truyền thống nhân văn sâu sắc. Chúng ta không thể không nhắc tới Trọng Thuỷ. Một nhân vật với vị trí và bản chất khá phức tạp trong cốt truyện. Trọng Thuỷ là con Nam Việt vương Triệu Đà - luôn có âm mưu thôn tính Âu Lạc. Trọng Thuỷ sang Âu Lạc với mục đích giảng hoà để đánh cắp nỏ thần. Trước lúc cầu hôn Mị Châu, Trọng Thuỷ chưa hề có cảm tình mà chỉ là toan tính. Đến khi trở thành vợ chồng với Mị Châu, tình yêu của Trọng Thuỷ mới nảy nở. Nhưng ý thức làm con, làm tôi trung thành trong hắn vẫn lớn hơn. Hắn dối lừa người vợ cả tin, ngây thơ của mình để đánh cắp nỏ thần, thôn tính nước Âu Lạc, dồn An Dương Vương và Mị Châu đến bước đường cùng. Hắn đúng là tên gián điệp nguy hiểm trong cái nhìn của cha ông chúng ta. Hắn xứng đáng phải chịu nỗi ân hận vò xé tâm can khi dẫn đến cái.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> chết của người vợ yêu quí. Không có nổi khổ nào bằng sự day dứt lương tâm. Bản án đích đáng của Trọng Thuỷ là cái chết trong nổi ám ảnh. Nhân dân đã bày tỏ thái độ căm phẫn không tha thứ và không đội trời chung với kẻ cướp nước. Kẻ cướp nước sẽ bị toà án lương tâm và lịch sử phán xét, sớm muộn chúng sẽ thất bại thảm hại trong cuộc chién tranh chính nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Đấy là niềm tin mạnh mẽ của nhân dân trước những thử thách của lịch sử. Song không vì lòng căm phẫn mà khiến dân gian đánh mất đi truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc. Hình ảnh “ngọc trai - giếng nước” chính là sự khoan hồng, ân xá cho kẻ đã biết ân hận, khát khao được hoá giải tội lỗi như Trọng Thuỷ. Mỗi nhân vậtutrong truyền thuyết này được nhìn nhận, đánh giá, định đoạt số phận một cách khác nhau. Ở đối tượng này có hơi dễ dãi, (như đối với An Dương Vương) ở đối tượng kia có phần hơi nghiêm khắc (như đối với Mị Châu). Song nhìn chung những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử ấy đã được cảm nhận ghi lại bằng tất cả lòng nhiệt thành, tự tôn dân tộc. Và nhất là, cái sâu sắc nhất đọng lại sau mỗi số phận nhân vật là tình người, chất nhân văn truyền thống. Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ là một truyền thuyết đẹp, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Câu chuyện là một cách giải thích nguyên nhân việc mất nước Âu Lạc. Qua đó nêu lên bài học lịch sử về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách xử lí đúng đắn mỗi quan hệ giữa riêng với chung, giữa nhà với nước, giữa cá nhân với cộng đồng. Thể hiện chất trí tuệ sắc sảo, bản chất nhân đạo sâu sắc của dân tộc Việt Nam ta. Đề số 10 Suy nghĩ của anh (chị) về hai cuộc gặp mặt trong Uy-lít-xơ trở về và Ra-ma buộc tội Bài làm Hai đoạn trích đều miêu tả cảnh tái hợp của hai cặp vợ chồng. Trong trích đoạn Uy-lít-xơ trở về (trích khúc ca XXIII, sử thi Ô-đi-xê - Hi Lạp), sau hai mươi năm trời chinh chiến trải qua rất nhiều thử thách, khó khăn Uy-lít-xơ mới trở về quê hương. Hai cha con Uy-lít-xơ lập mưu giết chết 108 vị cầu hôn nhưng vợ chàng, Pê-nê-lốp vẫn.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> không tin là chồng mình đã trở về. Nàng nghi ngờ là một sự lừa lọc chi đây. Cảnh gặp gỡ trong Ra-ma buộc tội (trích khúc ca VI, sử thi Ấn Độ Ra-ma-ya-na lại theo một diễn biến khác hẳn, gần như trái ngược. Sau khi tấn công đảo Lan-ka, đánh thắng quỷ vương Ra-va-na cứu được nàng Xi-ta xinh đẹp, Ra-ma liền nổi cơn ghen dữ dội vì nghi ngờ sự thủy chung của vợ. Cuộc gặp gỡ của họ như một phiên toà. Cảnh gặp gỡ thứ nhất, Pê-nê-lốp thử chồng. Còn cảnh thứ hai, Ra-ma buộc tội vợ. Cảnh thứ nhất, vợ chồng sung sướng tột cùng trong niềm vui đoàn tụ. Cảnh thứ hai, người vợ xinh đẹp tự nguyện bước lên giàn hỏa thiêu để chứng tỏ phẩm hạnh của mình trong tiếng kêu khóc thương cảm vang trời. Cuộc gặp gỡ của hai cặp vợ chồng trong hai đoạn trích diễn ra khác nhau nhưng trong đó các nhân vật đều được đặt vào những thử thách đòi hỏi chính họ phải vượt qua, tự mình tháo gỡ. Ở Uy-lít-xơ trở về, Uy-lít-xơ một con người dũng cảm, mưu trí “có thể sánh ngang với thần linh”, nghị lực phi thường đã vượt qua mọi gian truân mới về lại quê hương phải giải được câu đố về chiếc giường cười của vợ - nàng Pênê-lốp. Ở trích đoạn Ra-ma buộc tội, nàng Xi-ta xinh đẹp phải nhảy vào giàn lửa nhờ thần lửa A - nhi chứng minh cho sự thuỷ chung trước Ra-ma và cả cộng đồng. Cả hai tình huống gặp gỡ của các nhân vật đều được đặt trong những hoàn cảnh éo le đầy kịch tính, những mâu thuẫn giằng co tới đỉnh điểm mới được từ từ tháo gỡ trong phạm vi thời gian và không gian nhất định. Nhưng tất cả những thử thách và tình huống ấy đầu mang đạm tính sử thi. Các nhân vật đều vượt qua thử thách dưới sự quan sát và theo dõi của những nhân vật khác và của cộng đồng. Mọi hành động lời nói của các nhân vật đều là những lời nói, hành động công khai minh bạch đại diện cho cả cộng đồng. Chàng Uy-lít-xơ vượt qua thử thách trước sự chứng kiến của mọi người và đặc biệt trong thử thách cuối cùng dưới sự chứng kiến của nhũ mấu Ơ-ríc-lê và con trai Tê-lê-mác. Cuộc hội ngộ của Ra-ma và Xi-ta được cả cộng đồng chứng kiến. Tác giả sử thi không miêu tả hành động nào của cộng đồng tham gia vào giữa họ nhưng qua ánh mắt của đám đông, tiếng khóc của phụ nữ và của loài khỉ Ra-sa-xa, loài khỉ Va-na-ra... cũng chính là thái độ của cộng đồng. Điều đó cho thấy những hành động, trách nhiệm và số phận của những người anh hùng gắn rất chặt với cộng đồng và được cộng đồng phán xét..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Bên cạnh đó các nhân vật sử thi cũng gắn liền với thời kì hình thành và củng cố quan hệ gia đình. Các gia đình ở đây phần lớn là đều là các gia đình dòng dõi và danh tiếng, điều đó càng chi phối hành động của nhân vật. Đặc biệt là trong trích đoạn Rama buộc tội, Ra-ma đã khẳng định rõ ràng : “Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thể nào lại lấy về một người vợ đã từng sống trong nhà kẻ khác... Vậy làm sao ta có thể nhận nàng về nhà ta khi ta nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta”. Các nhân vật sử thi đặc biệt coi trọng danh dự và quy ước của cộng đồng. Đạo đức của họ cũng chính là khuôn vàng thước ngọc là chuẩn mực của cả cộng đồng. Nhưng hơn hết các nhân vật sử thi chính là khát vọng về hạnh phúc và hướng tới cái đẹp toàn bích, bảo vệ sự toàn bích của cái đẹp. Chính điều đó đã giúp họ vượt qua tất cả mọi gian khó và thử thách để đến được với bến bờ hạnh phúc. Trong việc diễn tả cảnh gặp gỡ, tác giả đã kể lại một cách rất trang trọng và chậm rãi. Những chi tiết, lời thoại, hành vi, lối lập luận khôn khéo và kiên quyết cùng tình huống mang đậm kịch tính đều vang động âm hưởng và phong cách sử thi. Đặc biệt là những hình thức so sánh liên tưởng mang sức hấp dẫn đặc biệt kì lạ. Qua cuộc gặp gỡ, các nhân vật toát lên vẻ đẹp tình đời, tình người, khát vọng hạnh phúc vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao đẹp nhất của con người. Nhưng không chỉ những nét chung, tính cách hai cặp nhân vật sử thi của hai nền văn hóa khác nhau này có rất nhiều nét riêng biệt. Pê-nê-lốp một người phụ nữ thuỷ chung, thận trọng đến sắt đá. Uy-lít-xơ mưu trí bình tĩnh và nhẫn nại. Đó là bức tượng đài về tình yêu và niềm tin vào hạnh phúc bất di bất dịch. Nàng Xi-ta nhảy vào giàn hoả thiêu bộc lộ tính cách kiên trinh. Ra - ma cũng cứng rắn không kém để bảo vệ truyền thống anh hùng cao cả. Quả thật, qua hai cảnh gặp gỡ vợ chồng ở hai bộ sử thi vĩ đại Ô-đi-xê của Hi Lạp và Ra-ma-ya-na của Ấn Độ, ta càng thấy rõ hình mẫu lí tưởng của con người cổ đại với khát vọng tình yêu và chuẩn mực chung thuỷ. Khuôn thước ấy đã hằn in sâu đậm trong trái tim nhân loại hàng ngàn năn nay. Đề số 11 Đọc Uy-lít-xơ trở về (trích sử thi Ô-đi-xê) và cho biết : a) Hô-me-rơ kể chuyện gì ?.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> b) Ở phần cuối đoạn trích, tác giả đã chọn một sự việc quan trọng đó là sự việc gì, được kể bằng những chi tiết tiêu biểu nào ? Có thể coi đây là thành công của Hô-me-rơ trong nghệ thuật kể chuyện không ? Vì sao ? Bài làm a) Từ "Đứa con của sông Mê-lét" đến nhà thơ mù thông thái lang thang khắp các thành bang, Hô-me-rơ đã sáng tác sử thi nổi tiếng I-li-at và Ô-đi-xê. Hai tác phẩm đầu tiên của nền văn hóa Hi Lạp cổ đại cũng là bút tích xưa nhất của nền văn minh Châu Âu. Tuy cả hai đều khai thác những những truyền thuyết về cuộc chiến tranh thành Tơ-roa nhưng nếu I-li-at là bản anh hùng ca chiến trận thì Ô-đi-xê là bản anh hùng ca cuộc sống hoà bình. Đặc biệt trong trích đoạn “Uy-lit-xơ trở về”, một phần khúc ca XXIII của Ô-đi-Xê, Hô-me-rơ kể về câu chuyện đôi vợ chồng Uy-it-xơ và Pê-nê-lốp hai mươi năm xa cách. Ta gặp hình tượng Pê-nê-lốp, người phụ nữ thuỷ chung có trái tim sắt đá, thận trọng và chàng Uy-lit-xơ mưu trí, bình tĩnh và kiên nhẫn. Họ là biểu tượng mẫu mực về mối quan hệ vợ chồng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Hoàng Tuyên đánh giá “ở đây hình thái gia đình đã xuất hiện. Tình yêu quê hương xứ sở, gia đình, tình vợ chồng... không phải sản sinh từ những gì mơ hồ, trừu tượng mà là từ ý thức gắn bó với tổ ấm gia đình mà họ mới xây dựng nên, ý thức đó là lòng khát khao một cuộc sống thanh bình văn minh và hạnh phúc của con người trong buổi giao thời lịch sử thời: đại Hô-me-rơ ”. b) Phần cuối đoạn trích Uy-lit-xơ trở về, tác giả đã chọn một sự việc quan trọng đó là dùng chiếc giường đặc biệt mà chỉ hai người biết để thử thách trí tuệ và tình cảm của nhau. Đây là sự việc tiêu biểu được kể bằng một số chi tiết đặc sắc như chính lời Uy-lit-xơ : “Đây là một chiếc giường kì lạ, kiến trúc có điểm rất đặc biệt do chính tay tôi làm chứ chả phải ai. nguyên trong sân nhà có một chồi cây cảm lãm lá dài mọc lên, khoẻ, xanh tốt và to như cái cột và chính chàng đã chặt hết cành lá của cây cảm lãm lá dài, cố đẽo thân cây từ gốc cho thật vuông rồi nảy đường mực làm thành một cái chân giường và lấy khoan khoan lỗ khắp rung quanh... bào tất cả các bộ phận đặt trên chân giường đó, lấy vàng bạc và ngà nạm trang trí ” “căng lên mặt giường một tấm da màu đỏ rất đẹp”. Mọi chi tiết đều được Uy-lít-xơ miêu tả tỉ mỉ, chiếc giường.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Uy-lít-xơ nhắc lại chính là tình yêu thắm thiết của hai vợ chồng. Có thể nói chiếc giường không thể xê dịch như tình yêu chung thuỷ của hai người. Có thể coi đây là thành công của Hô-me-rơ trong nghệ thuật kể chuyện vì qua việc lựa chọn và kể lại sự việc tiêu biểu với những chi tiết đặc sắc như thế đã làm câu chuyện thêm hấp dẫn. Từ đó những tính cách và phẩm chất của hai người đều được bộc lộ rõ nét và tô đậm bởi phong cách sử thi trang trọng và chậm rãi, ý nghĩa nhân bản càng sâu sắc. Đề số 12 Vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp trong Uy-lít-xơ trở về Bài làm Hạnh phúc chỉ thực sự bền vững khi trải qua thử thách. Nàng Pê-nê-lốp trong sử thi Ô-đi-xê nổi tiếng của Hi Lạp cũng vậy. Sau hai mươi năm đằng đẵng chờ chồng, chịu sự nhòm ngó, ép buộc thường trực của 108 kẻ quyền quý cầu hôn, nàng đã tìm thấy hạnh phúc của ngay xum họp. Hình ảnh Pê-nê-lốp chính là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ Hi Lạp - kiên trinh, thánh thiện, trí tuệ. Hai mươi năm không gặp, hai mươi năm xa cách chờ chồng. Thời gian là liều thuốc nhiệm màu thử thách lòng chung thuỷ của đàn bà ; v thời gian cũng là nền tảng cho cái đẹp hiện hình. Người phụ nữ Pê-nê-lốp qua thời gian đã làm cho hàng triệu trái tim người đọc mến phục và trân trọng. Trước hết, vẻ đẹp của Pê-nê-lốp hiện lên qua thái độ trân trọng trong cách ứng xử khi trước mặt là người tự nhận là người chồng yêu dấu trong bộ dạng một kẻ hành khất. Ngưòi hằng được nàng cho phép ở lại lâu đài để kể cho nàng nghe về hai mươi năm chinh chiến và trôi dạt lênh đênh của chồng. Nàng phải kìm nén tình cảm riêng tư cho lí trí vạch đường chỉ lối. Có những lúc tâm trạng nàng nhiều sự phân vân chọn lựa đầy mâu thuẫn. Khi nghe nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác báo tin chồng đã trở về nàng “mừng rỡ cuống cuồng nhảy ra khỏi giường ôm chầm lấy bà lão nước mắt chan hoà”. Đấy là biểu thị của lòng chung thuỷ, niềm hạnh phúc tột độ được đền bù xứng đáng. Biết bao ngày nàng ngồi dệt tấm thảm để đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự thúc bách của bọn cầu hôn ? Biết bao nhớ mong và yêu thương dành hết cho chồng ? Giờ.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> đây nghe nhũ mẫu báo tin Uy-lit-xơ đã trở về nàng không mừng sao được ? Nhưng rồi Pê-nê-lốp có một thái độ hoàn toàn khác - thận trọng. Tại sao lại có sự thay đổi đột ngột như vậy ? Chúng ta không nên trách cứ nàng đa nghi vì nàng đã hứng chịu biết bao cay đắng khi xa chồng, trong lúc 108 kẻ quấy nhiễu cầu hôn bắt nàng phải tái giá. Nàng đã cương quyết bác bỏ tin của nhũ mẫu và cho rằng người giết chết 108 kẻ cầu hôn giải cứu cho nàng không phải là Uy-lít-xơ mà là một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhơ nhuốc của bọn kia. Bởi nàng vẫn đau khổ cho rằng “chàng đã hết hy vọng trở lại đất A-Cai, chính chàng cũng đã chết rồi”. Tâm trạng Pê-nê-lốp phân vân nhưng rất quả quyết. Nàng đã trấn an nhũ mẫu cũng là để trấn an mình. Tâm trạng nàng trước lúc gặp Uy-lít-xơ “rất đổi phân vân”, điều đó được thể hiện trong dáng điệu, cử chỉ, trong sự lúng túng tìm cách ứng xử. Nàng không biết “nên đứng xa nên chạy gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn”. Pê-nê-lốp ngồi đối diện với chồng chưa kịp nói điều gì thì Tê-lê-mác con trai nàng đã lên tiếng trách mẹ gay gắt : “Mẹ ơi! Mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ độc ác quá chừng... không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt suốt hai mươi năm... bây giờ mới về xứ sở mà lại ngồi cách xa chồng đến vậy ?”. Tê-lê-mác trách vì chỉ nhìn vào biểu hiện bên ngoài, vì sự nông nổi, chưa từng trải của con trẻ. Trong tình huống này, lời trách giận dữ, phũ phàng của đứa con rất dễ làm Pê-nê-lốp rối trí. Nhưng nàng vẫn rất tỉnh táo, thận trọng không muốn có một sai sót gì. Hai mươi năm xa cách nhớ mong ai chẳng cuồng vui ngày gặp lại, nhưng đứng trước Uy-lít-xơ, Pênê-lốp đã kìm nén cảm xúc riêng tư, thông minh nghĩ ra cách xác minh sự thật. Sự thận trọng của nàng không thừa, nó rất phù hợp với hoàn cảnh. Càng chứng tỏ lòng chung thuỷ cao độ của nàng. Bởi lòng chung thuỷ ấy mang phẩm chất kiên trinh đầy trí tuệ. Vẻ đẹp người phụ nữ Pê-nê-lốp còn hiện lên qua tư thế ung dung của một chủ nhà tiếp một vị khách lạ một vị khách đặc biệt vì ông ta đã đánh đuổi được 108 kẻ cầu hôn. Sự ung dung ấy cho thấy nàng là con người bản lĩnh, có học vấn, cao sang, quyền quý. Nàng làm chủ được tình thế, làm chủ bản thân, không thất lễ với khách, cũng không làm mất lòng kẻ ở người ăn. Nhưng nếu chỉ dừng lại trong thái độ cư xử, trong tư thế ung dung bình tĩnh thì chưa thấy được sự thông minh sắc xảo của người phụ nữ này. Qua lời đối thoại trực.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> tiếp với con trai nàng đã kín đáo đem ra phép thử “bí mật của chiếc giường”. Chỉ nàng và chồng biết. Pê-nê-lốp sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường kiên cố ra khỏi phòng. Đây không phải là mục đích cần đến của nàng mà là sự thử thách. Người tự nhận là chồng nàng, chắc chắn sẽ lộ diện. Uy-lít-xơ giật mình chột dạ, vì chiếc giường không thể xê dịch được. Chàng liền cất tiếng và miêu tả chi tiết, tỉ mỉ chiếc giường. Đó là chiếc giường làm ra từ một gốc cây ô liu. Qua cách miêu tả tỉ mỉ, Uy-lit-xơ cũng muốn nhắc lại tình yêu, tình vợ chồng son sắc cách đây hai mươi năm. Miêu tả cái giường bí mật ấy, chàng đã giải mã giấu hiệu riêng do Pê-nê-lốp cài đặt. Khi đã gạt bỏ được mọi nghi ngờ, nhận ra chồng, Pê-nê-lốp mới thể hiện tình cảm bằng những hành động yêu thương, thể hiện nỗi khát vọng mong chờ. Nàng “bủn rủn cả chân tay...bên chạy lại nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng”. Pê-nê-lốp dùng sự khôn khéo để xác minh sự thật, Uy-lit-xơ bằng trí tuệ nhạy bén đáp ứng được điều thử thách. Đây là sự gặp gỡ của hai tâm hồn, hai trí tuệ. Đoạn trích Uy-lit-xơ trở về không cốt miêu tả khung cảnh xum họp, đoàn tụ thông thường. Cơ bản, nó muốn tạc hình ảnh người phụ nữ Hi Lạp cổ đại chung thuỷ kiên trinh, yêu đương nồng cháy nhưng thông minh trí tuệ, tinh tế, đầy bản lĩnh. Mặt khác cũng thể hiện khát vọng bình yên trong một gia đình hạnh phúc. Ở đó, mặc cho thời gian đằng dặc cách chia vẫn có đợi chờ, hiểu biết lẫn nhau. Đề số13 Diễn biến tâm trạng của Uy-lit-xơ trong buổi đoàn viên sau 20 năm xa cách Bài làm Sartre đã từng nói: “Mỗi con người chúng ta vào đời để rồi tô vẽ nên bộ mặt của mình và ngoài bộ mặt ấy ra không còn cái gi khác nữa”. Cũng như một tác phẩm để sống mãi với thời gian phải xây dựng một nhân vật sống động mang đầy đủ tính chất Người; để rồi khi “bước vào đời” họ làm nên những giá trị mĩ học cao cả. Chính nhân vật Uy-lit-xơ trong sử thi Ô-đi-xê đã làm nên “bộ mặt” đẹp nhất đại diện cho con người Hi Lạp như một nhà văn nhận định : “Hô-me-rơ đã xây dựng Uy-lít-xơ thành.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> nhân vật đã kết tinh được phẩm chất cao đẹp nhất mà người Hi Lạp đang khao khát vươn tới”. Tại sao chúng ta lại khẳng định chàng Uy-lít-xơ là một hình tượng đẹp nhất ? Để hiểu rõ xin lấy đoạn trích Uy-lit-xơ trở về để minh chứng . Qua đoạn trích, ta sẽ thấy chân dung một người anh hùng, một con người thông minh tài giỏi, cương nghị. Trong buổi đoàn viên sau hai mươi năm, tâm trạng Uy-lit-xơ vừa hồi hộp vui sướng nhưng lại vừa lo âu khi ngồi đối diện với vợ - Pê-nê-lốp , người phụ nữ thông minh thuỷ chung chờ chồng. Trước đó, Uy-lit-xơ giả vờ làm người hành khất vào được ngôi nhà của mình và kể cho Pê-nê-lốp những câu chuyện về chồng nàng mà anh ta biết. Pê-nê-lốp đã tổ chức thi bắn. Dựa vào đó mà hai cha con Uy-lít-xơ tiêu diệt 108 vương tôn công tử láo xược và những gia nhân không trung thành. Hai mươi năm xa cách, giờ đây được đoàn tụ thật hạnh phúc biết bao, chàng mong chờ vòng tay âu yếm của vợ, mong chờ những nụ hôn nồng cháy, những lời hỏi thăm, những giọt nước mắt... Chao ôi ! Cái cảm giác lênh đênh xứ người xa lạ, biết bao gian khổ cay đắng, nhìn cảnh nhìn người đều khắc lên một nỗi nhớ- nhớ quê hương, nhớ người thân, mỗi lúc cứ trào lên trong lòng chàng. Nhưng rồi khi đứng trước vợ, chàng phải đối diện với sự lạnh nhạt hững hờ. Uy-lit-xơ không hề nóng vội, không hề hấp tấp, với cái đầu “lạnh”, chàng nén cái cháy bỏng sục sôi trong lòng để có thái độ bình tĩnh tự tin. Chàng giữ thái độ đó chính là niềm tin của chàng vào vợ mình, Uy-lit-xơ tin rằng sẽ có lúc Pê-nê-lốp sẽ nhận ra chàng, nhận ra người chồng đã 20 năm chia xa. Chính niềm tin đã giúp chàng kiên nhẫn chờ đợi sự thay đổi tình cảm của Pê-nê-lốp. Đã có những lúc ngồi dưới ánh lửa hồng, dựa vào bức tường chàng phân vân tự hỏi : “người vợ cao quý của mình sẽ nói gì với mình ?”. Nàng sẽ hành động ra sao ? “Chờ đợi là một điều khủng khiếp nhưng không có gì chờ đợi còn khủng khiếp hơn”. Chính khoảng thời gian chờ đợi ấy đã tiếp thêm sức lực và hi vọng trong chàng. Sự kiên nhẫn chờ đợi và sự giục giã của những người thân cận bên chàng. Nhũ mẫu Ơ-ric-lê hết lời khuyên nhủ, khẳng định với Pê-nê-lốp rằng “Chồng con đang ở đây, ngay tại nhà này”. Con trai chàng, Tê-lê-mác thấy thái độ lạnh nhạt của mẹ liền buông lời trách móc gay gắt : “Me ơi! Mẹ thật tàn nhẫn...". Họ càng giục Pê-nê-lốp bao nhiêu thì Uy-.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> lít-xơ càng kiên nhẫn chờ đợi không nản lòng. Vì chàng biết phải có hồi kết thúc và sự thật thì không có gì phải nôn nóng, thế nào cũng sẽ được nhận ra Kiên nhẫn và chờ đợi là những gì Uy-lít-xơ đã làm, chàng tin tưởng và hy vọng hạnh phúc trọn vẹn sẽ đến với gia đình chàng. Uy-lít-xơ “mỉm cười”. Nụ cười đồng tình, chấp nhận, tin tưởng. Chàng nhẫn nại nghe mọi người đối thoại, thể hiện một phong thái cao quí, rộng lượng. Vậy mà trái tim băng giá kia vẫn lặng thinh. Chàng liền giải thích cho con trai hiểu rõ thái độ đó của mẹ, đồng thời cũng mở ra một cánh cửa mới cho ngôi nhà hạnh phúc. Đó là lời giải thích khôn ngoan : “Mẹ con muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng nhận ra cha, chắc chắn như vậy”. Cũng có lúc chàng giận dỗi, lo âu. Uy-lít-xơ giận sự giá băng, không nhận ra chồng của Pê-nê-lốp là do vẻ ngoài rách mướp bẩn thỉu. Sau khi tắm rửa xong, thay bộ quần áo mới trông Uy-lit-xơ “đẹp như một vị thần”. Khi nghe vợ sai nhũ mẫu mang chiếc giường kiên cố lại, chàng đã giật mình “chột dạ”. Chàng đã giải thích tường tận cho vợ về chiếc giường bí mật ấy, đó là một chiếc giường đặc biệt làm ra từ một gốc cây ô liu, không ai có thể nhấc ra, ngoài những vị thần. Phép thử về chiếc giường bí mật mà Pê-nê-lốp đưa ra Uy-lit-xơ đã giải đáp ngờ vực. Đoạn trích miêu tả cách ứng xử với tình yêu, tình vợ chồng, hạnh phúc gia đình bền vững cần một sự thông minh, tỉnh táo, kiên nhẫn, rộng lượng, hiểu biết, đồng cảm lẫn nhau. Uy-lit-xơ không chỉ là một anh hùng chiến trận, chàng còn là người anh hùng của trí tuệ trong hành trình tìm lại hạnh phúc riêng tư. Chính câu trả lời của chàng là chìa khoá vàng mở cánh cửa trái tim nàng Pê-nê-lốp xinh đẹp, nàng “bủn rủn cả chân tay”, nàng bèn chạy lại nước mắt chan hoà ôm lấy cổ chồng. Đây chính là những giọt nước mắt hạnh phúc của hai trái tim yêu đương. Uy-lit-xơ cảm thông và trân trọng người vợ đáng thương của mình : “Uy-lit-xơ càng thêm muốn khóc. Chàng ôm lấy người vợ xiết bao yêu thương, người bạn đời chung thuỷ của mình ”. Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về sau hai mươi năm xa cách bởi chiến tranh và lưu lạc khiến cả gia đình chàng vừa mừng vừa tủi. Đây là màn kịch có ý nghĩa tố cáo chiến tranh sâu sắc, nguyên nhân của những cuộc chia li tan nát. Việc Pê-nê-lốp không nhận ra chồng mình là một bản cáo trạng nghiêm khắc đối với cuộc chiến tranh như cuộc chiến thành Tơ-roa..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Chỉ qua một đoạn trích ngắn tâm trạng Uy-lit-xơ bộc lộ trên nhiều bình diện khác nhau tạo thành những cung bậc khác nhau cho ta hiểu rõ hơn về một vị anh hùng tài trí, dũng mãnh. Nhưng cái mà chàn cần là quê hương với một người vợ chung thuỷ, biết bảo vệ hạnh phúc và một gia đình hiểu biết lẫn nhau.. Đề số 14 Vẻ đẹp hình tượng Xi - ta trong đoạn trích Ra- ma buộc tội Bài làm Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, từ thời mông muội xa xưa cho tới nay, văn học đã xuất hiện và gắn bó với con người như một sự trợ giúp linh hồn, gửi gắm những ước mơ khát vọng. Sử thi, loại hình văn học hình thành ngay trong buổi đầu của đời sống cộng đồng cũng không nằm ngoài vai trò này. Nhân vật trung tâm là những con người mang tầm vóc lớn lao, phi thương mà cũng rất gần gũi, thân quen. Khi đối mặt với kẻ thù, họ anh dũng vô song nhưng khi đối mặt với người yêu dấu cũng lại có những say mê, giận hờn, nghi hoặc... Đoạn trích Ra-ma buộc tội trong sử thi Ra-ma-ya-na là một minh chứng. Nội dung đoạn trích tập trung vào sự ghen tuông và ngờ vực của Ra-ma song thành công hơn cả là khắc hoạ được những đợt sóng lòng, tâm trạng nàng Xi-ta trước cơn bão tố của người chồng. Như bao người phụ nữ cao quí trên đời, Xi-ta yêu chồng và hết mực thuỷ chung. Tài sắc tuyệt thế giai nhân, lớn lên trong vương giả. Song vì chồng mà không ngại gian nan, mười bốn năm lưu đày vẫn được xem là hạnh phúc bên người chồng dấu yêu. Khó khăn sắp qua đi thì sóng gió lại ập đến. Dường như thần linh còn muốn thử thách người con gái của mình. Bị quỷ vương Ra-va-na bắt đi, nàng vẫn một lòng son sắt, không để linh hồn và thân xác mình bị vấy bẩn bởi kẻ thù. Ngày ngày kiên tâm chờ đợi. Thế nhưng chính giờ phút mà nàng mong mỏi nhất được cứu thoát bởi người chồng thì lại phải dầm dề nước mắt. Ra-ma tiêu diệt Ra-va-na và coi đó là một chiến công hiển hách là một điều mà bất kì người nào “bị sỉ nhục” đều phải hành động như thế, cũng là lúc con rắn của lòng ghen tuông ngờ vực trỗi dậy, bùng lên trong lòng.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> chàng, bởi Xi-ta quá ư là xinh đẹp và yêu kiều. Tình yêu khi đã thành ghen tuông mù quáng đồng nghĩa với sự làm tổn thương tới người mà mình yêu thương. Ra-ma đã buông ra những lời thật lạnh lùng và tàn nhẫn làm sao: “Hỡi phu nhân cao quý” hay “ta đã làm tròn lời hứa”... Thật xa cách, đâu có chút gì gợi lên tình cảm vợ chồng... Quá bất ngờ Xi-ta chỉ còn cách mở to tròn đôi mắt dẫm lệ. Vì thất vọng, vì ngạc nhiên, vì đau đớn khôn cùng bởi những gì đang diễn ra trước mắt vốn không phải là những gì nàng mong đợi. Được tin chồng đã chiến thắng, giải thoát cho mình khỏi kẻ thù, nàng hạnh phúc vô ngần, chỉ muốn mong chóng gặp lại chàng. Sự háo hức vội vã đến nỗi bỏ quên cả những lễ nghi, phép tắc mà bất kì người phụ nữ cao quý nào cũng thường trực. Trong đầu nàng chỉ còn biết có Ra-ma với tình yêu, lòng biết ơn vô hạn. Ấy vậy mà tất cả dường như đang sụp đổ dưới chân. Đau đớn, bàng hoàng và thất vọng. Nhưng tất cả không dừng lại ở đó. Người anh hùng khi bị ngọn lửa độc của con rắn ghen tuông che mờ mắt thì cũng tàn nhẫn đâu kém nhưng kẻ tầm thường. Ra-ma nghi ngờ vợ mình vì “thấy nàng yêu kiều xinh đẹp,... Ra-va-na đâu có chịu đựng được lâu...khi ở trong vạt áo Ra-va-na đôi mắt tội lỗi của hắn hau háu nhìn khắp người nàng...”. Tàn nhẫn hơn cả là sự ruồng rẫy ập đến : “ta không cần đến nàng nữa”. Người chồng mà nàng rất mực thương yêu lại có thể gợi ý, cất tiếng mỉa mai, khuyên nàng có thể để ý tới những người khác. Nàng thấy đau đớn cho số phận. Một người phụ nữ cao quý, hết mực thủy chung giờ đây lại bị đem ra bêu riếu “trước đông đảo mọi người” với những lời lẽ thô bạo nhất. Từ chỗ ngạc nhiên “mở to đôi mắt tròn đẫm lệ”, dần tỉnh táo hiểu ra thái độ của người chồng, nàng “đau đớn đến nghẹt thờ. Như một cây dây leo bị vòi voi quật nát”. Tâm hồn nàng trong trắng và mong manh đang tan ra, vỡ nát bởi những lời lẽ thô bạo và tàn nhẫn. Nàng “xấu hổ cho số kiếp” . Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài và tinh thần. Những lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ ra như suối. Nỗi đau cứ tăng dần, tăng dần tới cực điểm. Choáng váng, nàng chỉ còn biết than cho sự bất hạnh của mình. Dường như tất cả đang sụp đổ nàng không còn đủ sức lực để chống đỡ trước những lời lẽ sắc độc và cay nghiệt đó. Bị dồn vào thế cùng, bị lăng mạ, sỉ nhục, bị vu khống danh dự và tiết hạnh, muốn chết muốn vùi dập bản thân cũng là điều dễ hiểu. Nhưng Xi-ta người con gái của nữ thần đất mẹ Pri-thi-vi sinh trưởng trong hoàng tộc Gia-naki, mang trong mình dòng máu cao quí, đâu thể nào kết thúc cuộc đời như vậy. Yêu và.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> hết lòng tôn thờ người mình yêu song không thể cho phép bị sỉ nhục, bị bôi nhọ. Sau những phút choáng váng ban đầu, Xi-ta dần lấy lại bình tĩnh để tự bào chữa, đòi lại danh dự với một trí tuệ tuyệt vời mà cũng rất dịu dàng. Nghẹn ngào, nức nở, nàng lên án cách xử sự của Ra-ma “như một kẻ thấp hèn chửi mắng con mụ thấp hèn”. Nàng khẳng định việc bị bắt đi là do số phận còn bản thân nàng trước sau như một. “Những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp đây, tức trái tim thiếp đâu là thuộc về chàng”, “sẵn sàng chết khi bị bắt đi nếu Ha-nu-man được chàng phái đến truyền lại lời “chàng không cần thiếp nữa”. Đối với Xi-ta, Ra-ma còn hơn mạng sống của mình, nhưng nàng càng không thể sống trong sự ngờ vực, sỉ nhục. Nếu như Ra-ma khẳng định dòng dõi tôn quý của chàng thì nằng cũng nhắc lại nàng đâu kém gì, con của thần linh, đâu thể nào xếp ngang hàng với những người phụ nữ tầm thường khác. Ở đây ta còn phát hiện ra ở người con gái này một sự kiên cường, biết tôn quí bản thân. Sau những lời lẽ đó, nàng thất vọng “tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp xem ra hoàn toàn vô ích” và đi đến quyết định nhảy vào dàn lửa thiêu. Đây là hành động đầy lí trí, tự chủ. Nàng muốn khẳng định lời nói và tấm lòng trinh trắng của mình. Chỉ có thần linh với sức mạnh của lửa mới rửa sạch được vết nhơ mà người ta đang gán cho nàng, mới giải toả được sự nghi ngờ của người chồng. Hành động của nàng là hành động của một nữ thần cao quý. Tóm lại, trong đoạn trích Ra-ma buộc tội, tâm trạng nàng Xi-ta được bộc lộ khá rõ nét với những đợt sóng lòng mỗi lúc một dâng cao để rồi khép lại thật bất ngờ. Nó góp phần khẳng định bức chân dung cao quí của nàng Xi-ta một cách đầy đủ và đẹp đẽ. Đề số 15 Xung đột nội tâm của nhân vật Ra-ma khi gặp lại vợ Bài làm Có lẽ tạo hoá biết mình đã lỡ tay ban phát cho con người một trái tim - một trái tim biết yêu thương và giận dỗi cho nên lại trao tặng cho con người danh dự và lòng vị tha. Chính tình yêu và danh dự có lúc đã đẩy con người đến với tội lỗi, nhưng cũng đem lại hạnh phúc cho mỗi con người. Chàng Ra-ma, người anh hùng trong sử thi Ấn Độ Ra-ma-ya-na cũng không ngoại lệ. Chàng đau đớn giằng xé giữa tình yêu và danh.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> dự ngay trong ngày chiến thắng, cứu được người vợ yêu quý, tình yêu của chàng khỏi bàn tay quỷ dữ. Vì trong chàng tồn tại hai tính cách mâu thuẫn nhau xuất phát từ hai tư cách khác nhau. Tư cách của một đức vua đòi hỏi phải tuân thủ mọi qui ước của cộng đồng, đặc biệt là qui ước về danh dự cá nhân cũng là danh dự cộng đồng và tư cách người chồng, nghi ngờ vợ trong vòng tay kẻ khác nên ghen tuông dữ dội. Trước tiên, ta hãy xét đến thái độ của Ra-ma đối với vợ, nàng Xi-ta. Như ta đã biết đời sống cổ đại mang tính cộng đồng rất cao, cho nên vua phải tuân thủ đạo đức cộng đồng, đặc biệt quan niệm về danh dự. Danh dự đó là mạng sống, mất danh dự nghĩa là mất tất cả và không gì có thể lấy lại được. Muốn sống, mỗi người phải giữ lấy cho mình danh dự cá nhân, danh dự của một con người chân chính - một người anh hùng. Ra-ma không phải là người bình thường như bao người khác. Chàng là một vị vua - thủ lĩnh bộ tộc, đại diện cho cộng đồng. Danh dự của chàng gắn liền với cộng đồng, gắn liền với sự sống và chàng phải có trách nhiệm với nó. Sau khi chiến thắng quỷ vương Ra-va-na, cứu được Xi-ta chàng đã khẳng định chiến thắng và tài nghệ của mình, đồng thời nhấn mạnh sự giúp đỡ của những người bạn hảo hán như tướng khỉ Ha-nu-man, Vi-phi-a-na... Ra-ma đã bộc lộ rõ lí tưởng chiến đấu và sức mạnh cộng đồng. Việc cứa Xi-ta khỏi bàn tay Ra-va-na không những xuất phát từ tình yêu mà còn là danh dự, gắn chặt với trách nhiệm. Chính thế, với chàng “kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù đó là kẻ tầm thường”. Trách nhiệm bảo vệ danh dự của Ra-ma không chỉ với cá nhân, còn là trách nhiệm của một vị vua đại diện cho cả cộng đồng. Việc Ra-ma tiêu diệt Ra-va-na không mang tính chất trả thù riêng tư mà vì muốn thể hiện sức mạnh, vì quyền lợi cả cộng đồng. “Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta... để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của ta”. Chàng đã so sánh hành động của mình với đại đạo sĩ A-gax-ti-a đó là một người đã nhờ công sám hối khổ hạnh giải thoát cho các xứ phương Nam khỏi nỗi kinh khiếp đối với In-van và Va-ta-pi. Nghĩa là hành động của chàng là hành động đại nghĩa, hành động sáng suốt của một đức vua. Với thái độ của người anh hùng chàng đã khẳng định rằng việc chàng cứu Xi-ta không phải là vì nàng, vì chàng. Chàng làm điều đó là để bảo vệ danh dự của dòng họ “điều đó để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường”. Chàng đã khẳng định danh dự của dòng họ quý tộc, dòng họ một vị vua đại diện cho cả cộng đồng..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Tuy nhiên, Ra-ma còn là một người chồng, một người chồng có vợ bị kẻ thù cướp đi. Với tư cách là người chồng, Ra-ma nghĩ rằng cần phải cứu Xi-ta, cần phải cứu lấy người vợ xinh đẹp và đáng yêu của mình, cứu nàng còn là cứu lấy danh dự người đàn ông. Nhưng rồi chính chàng cũng ghen tuông, nghi ngờ phẩm hạnh của Xita. Con tim cá nhân trỗi dậy, tính ích kỷ bộc lộ dần, cơn ghen tuông ngờ vực trong lòng Ra-ma bùng nổ : “Thấy người đẹp với gương mặt bông sen với những cuộn tóc lượn sóng đứng trước mặt mình, lòng Ra-ma đau như cắt”. Để bảo vệ danh dự và cũng là khẳng định tình yêu gắn với không chia xẻ cho kẻ khác, một khi Xi -ta đã có thời gian trong tay quỷ vương, chàng không thể có một người vợ như vậy, Ra-ma đã buông ra những lời lẽ, khách sáo, lạnh nhạt đối với Xi-ta do lòng ngờ vực “Hỡi phu nhân cao quí”. Lời lẽ ấy thiếu sự âu yếm chân thành mà lạnh lùng xa lạ. Tâm trạng của chàng được miêu tả theo diễn biến mâu thuẫn giữa danh dự dòng họ và tình yêu, nhưng về sau lại là những cơn ghen tuông của một người chồng, một con người bình thường biết yêu và biết nổi giận như bao người khác. Sau cùng chàng nghi ngờ đức hạnh của Xi-ta, ruồng rẫy nàng : “Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thể nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà một kẻ khác. Đơn giản vì mụ ta là vật để yêu đương”. Lời lẽ đã chuyển thành hành động. Ra-ma không nhận người vợ thân yêu nữa. Lên đến tột đỉnh, Ra-ma xỉ nhục Xita bằng cách gợi ý nàng đến với bất kỳ một người nào khác có thể là Lắc-ma-na, Bhara-ta hay Xa-tru-na... Việc chối bỏ người vợ thảo hiền của Ra-ma mang tính công khai, minh bạch. Chàng đau đớn caogiọng trước toàn dân chúng, trong không gian cộng đồng đậm chất sử thi. Ra-ma sinh trưởng trong một gia đình đại quí tộc đã dám hi sinh tình yêu vì bổn phận người anh hùng, đạo đức của một vị vua mẫu mực. Ra-ma ruồng rẫy Xi-ta trước hết vì danh dự dòng họ sau cũng vì ghen tuông. Chàng yêu hết mình nhưng cũng ích kỉ, ghen tuông cực độ, có lúc cương quyết cứng rắn nhưng cũng có lúc mềm yếu. Bản chất cái tôi có lúc sáng - tối, tốt - xấu, thiện - ác luôn luôn tương phản trong Rama. Ra-ma buộc tội là chương đặc sắc trong sử thi Ra-ma-ya-na, nếu chỉ dừng lại ở việc cứu Xi-ta thì sử thi chỉ là bản anh hùng ca bình thường. Cái hay chính ở chỗ tác giả đã tạo ra bước ngoặt lớn trong quá trình diễn biến cốt truyện ở sự kiện này. Tác giả.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> đã miêu tả xung đột tâm lý của Ra-ma và Xi-ta trong cuộc gặp lại đầy thử thách và éo le. Tâm trạng hai người cứ biến đổi theo nhịp điệu đối thoại. Điều đó khẳng định nghệ thuật thể hiện tâm lý nhân vật bậc thầy của tác giả mà “Ngay cả đến Sếch-xpia cũng không thể diễn tả được sự thôi thức của những tâm tình cuồng nhiệt trong lòng người một cách sống động, chân thực và mạnh mẽ ghê ghớm như đã thấy trong Ramayana” (Lưu Đức Trung). Đề số 16 Có một kết thúc truyện Tấm Cám khác : Tấm lấy nước sôi dội cho Cám chết rồi muối mắm gửi về cho mẹ Cám. Ý kiến của em về kết thúc này Bài làm Có một dị bản Tấm Cám đã kể khác phần kết thúc. Theo bản này, Cám bị Tấm dội nước sôi cho chết rồi muối mắm gửi biếu dì ghẻ. Mụ dì ghẻ ăn đến tận đáy vại, phát hiện ra đầu lâu con mới biết sự tình, sợ quá lăn đùng ra chết. Đây là kết thúc nguyên bản. Người đời sau (chắc là cùng thời hiện đại với chúng ta) cho rằng kết thúc như vậy ghê rợn quá, làm tổn hại đến hình ảnh đẹp đẽ của cô Tấm nên kể theo những kết thúc khác mà một trong số đó được sách giáo khoa Ngữ văn 10 sử dụng. Vậy thực sự, kết thúc "muối mắm" có đáng loại bỏ không ? Chúng ta nhớ lại quãng đời đầy đau khổ của Tấm khi phải sống trong sự cay độc, nghiệt ngã của mẹ con mụ dì ghẻ độc ác. Mẹ Tấm mất sớm, Tấm cần sự ân cần chăm sóc, xoa dịu nỗi đau bao nhiêu. Nhưng mẹ con Cám đã chà đạp, hành hạ Tấm chẳng khác gì một kẻ nô lệ trong chính tổ ấm của mình.. Rồi khi Tấm được làm. hoàng hậu, mẹ con Cám đem lòng ghen ghét, bày mưu giết hại, đưa Cám vào cung thay chị làm hoàng hậu. Chúng ta thử nghĩ xem còn sự độc ác nào, sự tàn nhẫn nào hơn thế nữa ? Có người mẹ nào nỡ giết chết con chồng nhất là trong ngày giỗ bố. Có người em nào lại đang tâm tìm mọi cách để cướp giật hạnh phúc của chị mình ? Sự thực Tấm đã chết, nhưng theo mơ ước của nhân dân ta cái thiện không bao giờ bị tiêu diệt, ở hiền sẽ gặp lành nên cô Tấm đã làm những cuộc hóa thân nhờ phép nhiệm mầu. Tấm lần lượt biến thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, thành khung cửi, thành cây thị. Cái thiện, nhười lành phải hó thân nhiều lần vì cái ác luôn rình rập.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> gieo tai họa. Mẹ con Cám giết Tấm về thể xác lần thứ nhất, bây giờ còn độc ác hơn nữa, tàn bạo hơn nữa. Tìm mọi cách để giết linh hồn Tấm. Chúng đã làm thịt chim, đẵn cây xoan đào, đốt khung cửi... Chúng không muốn nhìn thấy sự có mặt Tấm trên đời dù là trong “oan hồn”. Rõ ràng chúng không chỉ giết Tấm một lần mà giết Tấm nhiều lần. Chắc chắn nếu Tấm còn sống thì chúng lại tiếp tục hành hạ Tấm, tiêu diệt sự sống của nàng. Bởi vậy trong đấu tranh giành quyền sống cho mình, Tấm không còn con đườc nào khác là giết chúng. Trong hành động trả thù này, ta vẫn thấy một cô Tấm rất đẹp, cô không còn khóc lóc, yếu đuối như trước. Cô trở nên kiên quyết và gan dạ lạ thường. Cô nhận ra rằng : mẹ con nhà Cám vẫn vậy vẫn ganh ghét, đố kị với cô. Cám muốn đẹp và lòng tham ngông cuồng, đen tối đã giết nó. Còn Tấm, cô xử sự rất thông minh, rất tỉnh táo. Cô giết Cám nhưng không thể gọi cách giết ấy là dã man bởi “ở ác gặp ác”, kẻ “gieo gió” ắt sẽ phải "gặt bão”. Tấm phải tự tay trả thù, như vậy mới đáng với những gì mẹ con Cám đã gây ra cho cô. Cũng cần phải trừng trị rất mạnh bạo, chỉ một lần thôi “triệt hẳn”. Cám và mụ dì ghẻ là những kẻ vô nhân tính, mất hết tình đồng loại. Có giết theo cách của Tấm, “cái ác” của chúng mới không thể sống lại để tác yêu tác quái trên cuộc đời này. Thử hỏi chỉ bị “trời” phạt, sai thiên lôi đánh chết như với Lí Thông, trong trường hợp này có nhẹ quá không ? Đã đảm bảo cái vạn ác loại này chết vĩnh viễn chưa ? Tại sao lại cứ mượn trời, mượn tay người trả mối hận thù của mình như trong những truyện dân gian cùng loại trước đó hay như các bản kể khác của truyện Tấm Cám ? Một khi qua cái kết thúc "muối mắm" này, nhân dân muốn trực tiếp trừng phạt bằng hình phạt tương xứng với tội ác, tương xứng với kẻ ác, trừng phạt cho cái ác phải “táng đởm kinh hồn”. Băm vằm thành trăm mảnh "muối mắm" để cái ác không còn con đường quay trở lại chả lẽ lại bị chê trách sao ? Như vậy kết thúc "muối mắm" của nguyên bản Tấm Cám, không chỉ thể hiện sự thật "lòng căm thù của dân gian" đã lên đến tột đỉnh, ý nguyện tiêu diệt cái ác đã vượt qua chữ nhân bình thường để thẳng tay trừng phạt mà còn mang tính biểu tượng "răn đe kẻ ác", "không cho cái ác trở lại". Kết thúc như thế là quyết liệt chiến đấu tính về nội dung ; là nghệ thuật hóa cao cường. Kết thúc ấy đẩy ý nghĩa của thiên cổ tích quen thuộc này lên một tầm cao mới..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> Mặt khác, thực tế lịch sử cho thấy trên thế giới không phải chỉ có một cách xử tội chết. Ngày xưa có cách “tùng xẻo” hay “tứ mã phân thây” thật ghê gớm. Cách xử tội chết của Tấm cũng chỉ là “hình bóng” của lịch sử mà thôi. Đem quan niệm hiện đại để phê phán, rồi thay bằng một kết thúc theo ý mình há chẳng không nên sao ? Bởi thế "Con mắt tinh tường nhân dân" chỉ thấy hình ảnh một cô Tấm hiền lành, cao đẹp. "Tấm lòng cương trực nhân dân" hả hê với cách trả thù của Tấm. Cho nên nhiều nơi trên miền Bắc nước ta, cô Tấm hoá thành Phật, là Phật, là hoá thân của Nguyên phi Ỷ Lan đức độ, tài năng, công minh, chính trực, dịu hiền được nhân dân thờ cúng. Em hoàn toàn đồng ý với cách trừng trị thẳng tay của Tấm mặc dù ai đó cho là “tàn bạo” và bỏ phiếu cho kết thúc "muối mắm" của truyện. Hình ảnh cô Tấm mãi mãi là hình ảnh đẹp trong em. Đề số 17 Cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong Tấm Cám. Thế giới nhân vật cổ tích thật phong phú, đa dạng. Ngay từ thủa bé thơ, trong tâm trí hồn nhiên của tôi đã đầy những hình ảnh của chàng Sọ Dừa thông minh mà phải đội lốt xấu xí, chàng Thạch Sanh tài ba mà nhân hậu thật thà. Còn có cả hình ảnh của mụ gì ghẻ, của mẹ con nhà Lý Thông gian hiểm, độc ác bên cạnh đó lại có những ông Bụt ông Tiên hiền từ, nhân hậu với phép thuật nhiệm màu và luôn giúp đỡ mọi người. Trong cái thế giới bao la với những con người xấu có, đẹp có, thiện có, ác có ấy hình ảnh của cô Tấm vẫn luôn để lại trong tôi nhiều tình cảm, nhiều suy nghĩ hơn cả: Vừa xót thương, lại vừa yêu mến, cảm phục. Hình ảnh cô Tấm lưu giữ trong tâm trí tôi lúc nào cũng đẹp. Cô Tấm gắn liền với những đồ vật nhỏ bé, giản dị mà vô cùng đáng yêu. Đó là con cá Bống ngoan ngoãn mỗi lần nghe gọi "Bống Bống bang bang" lại quẫy đuôi ngoi lên trong lòng giếng. Là chiếc hài nhỏ xinh đã làm thất vọng bao nhiêu cô gái xem hội nhưng lại giúp nhà vua tìm thấy vợ hiền. Đó còn là quả thị thơm bé nhỏ mà mỗi ngày Tấm chui ra giúp bà lão hàng nước việc nhà và têm những miếng trầu cánh phượng. Miếng trầu ấy là dấu hiệu.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> để nhà vua nhận ra Tấm và đưa Tấm về với hạnh phúc mà Tấm xứng đáng được hưởng. Cô Tấm gắn với những vật nhỏ xinh ấy, hiện lên trong tôi thật đáng yêu. Tấm đáng yêu, đáng phục, đáng quí trọng không chỉ bởi cái đẹp, cái nết na, chăm chỉ. Mà còn bởi tình cảm của Tấm với cá Bống, bởi lòng hiếu thảo của Tấm với cha mẹ. Với Bống, Tấm sẵn sàng nhường phần cơm của mình. Còn khi đã thành Hoàng hậu giàu sang Tấm vẫn không quên ngày giỗ Bố, sẵn sàng trèo cau lấy quả cúng để rồi tạo cơ hội cho mụ gì ghẻ hãm hại. Nhưng càng yêu quý những phẩm chất cao đẹp của Tấm bao nhiêu tôi lại càng xót xa, thương cảm cho cuộc đời cho số phận Tấm bấy nhiêu. Số phận bất công đã để cho cô Tấm nết na hiếu thảo sớm phải sống cảnh mồ côi, sớm phải chịu đựng những đày đoạ hành hạ của cuộc sống "Mẹ ghẻ con chồng". Tấm phải lam lũ vất vả làm mọi công việc nặng nhẹ trong nhà. Ngay cả khi vui chơi hội hè, Tấm cũng phải chịu thua thiệt. Có mỗi duy nhất chú cá Bống nhỏ làm bạn cũng bị cướp mất. Ngay địa vị hoàng hậu và cuộc sống giàu sang cũng chưa đủ để cứu Tấm khỏi âm mưu hãm hại của gì ghẻ. Tấm lại phải trải qua bao nhiêu kiếp nạn khổ đau rồi mới đươc hạnh phúc. Từng ấy đau khổ, bất hạnh, đày đoạ khiến người ta không thể không xót xa, thương cảm. Nhưng không phải không có những lúc mà cảm giác của tôi là bực dọc, tức tối. Đó là những khi Tấm khóc hu hu mỗi lần gặp nạn. Hình ảnh cô Tấm quá yếu ớt, thụ động ấy đã nhiều lần biến lòng thương cảm xót xa trong tôi thành sự thương hại. May sao cảm giác ấy nhanh chóng qua đi, nhường chỗ cho lòng khâm phục và yêu mến lớn hơn gấp bội. Ấy là khi chứng kiến Tấm sau những đọa đầy đau khổ vươn mình lớn dậy, tự mình đấu tranh, kiên quyết chống lại sự hãm hại của mẹ con Cám. Với sức sống mãnh liệt Tấm đã chiến thắng, đã giành lại hạnh phúc cho mình. Không còn cần Bụt, Tiên nữa. Sự thần kì giờ đây đến từ sức mạnh nội tại, chiến đấu giữ vững hạnh phúc, thực thi công lý báo thù. Tấm trở nên mạnh mẽ, quyết liệt bên cạnh bản tính hiền lành, nhân hậu vốn có của mình. Hình ảnh cô Tấm giúp tôi phần nào thấu hiểu được cuộc trường chinh mà nhân dân lao động đã đi qua trong một phần quá khứ xa xưa của dân tộc. Những kiếp người nhọc nhằn, cơ cực nhưng bao giờ cũng khoẻ khoắn, lành mạnh, cao quí và dồi dào sức.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> sống. Chính họ, trong những năm tháng nghèo nàn nhất của lịch sử đã cho chúng ta thấy được sự giàu có đến vô cùng trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Cô Tấm đối với tôi không chỉ là sự hiện diện của một cuộc đời, một tâm hồn cụ thể. Cuộc đời nhiều bất hạnh, khổ đau nhưng cuối cùng đạt đến hạnh phúc của Tấm để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Khiến tôi không khỏi nhiều lần có cái mơ ước được gặp mặt con người xinh đẹp, nết na và nhân hậu của cái thế giới cổ tích diệu kì ấy. Đề số 18 Ý kiến của em về các cách kết thúc truyện cổ tích Tấm Cám Bài làm Truyện cổ tích là một loại truyện dân gian chủ yếu ra đời trong hoàn cảnh xã hôị có áp bức, bóc lột. Đó là những câu chuyện tưởng tượng xoay quanh cuộc đời của một số kiểu nhân vật như nhân vật bất hạnh, nhân vật dũng sĩ, nhân vật thông minh, ngốc nghếch vv... Nhắc đến truyện cổ tích có lẽ trong chúng ta ai cũng từng được nghe câu chuyện Tấm Cám. Câu chuyện này trong dân gian lưu truyền rất nhiều dị bản. Chủ yếu ở phần kết truyện. Mỗi dị bản một cách kết thúc khác nhau, đều có cái hay, cái riêng của nó. Truyện cổ tích Tấm Cám kể về cuộc đời của cô Tấm - một cô gái hiền hậu, xinh đẹp nết na. Ta tưởng tượng như Tấm sẽ được hưởng một cuộc sống tươi đẹp bình lặng. Nhưng không, nàng luôn bị Cám - đứa con gái của mụ gì ghẻ vốn tính độc ác, tham lam nghĩ ra nhiều mưu kế để hãm hại Tấm. Vì lòng đố kị ganh ghét với sự may mắn trong hôn nhân của chị, mà Cám đã khiến cuộc đời Tấm phải trải qua bao lần chết đi sống lại : Lần thì hoá thành chim vàng anh, lúc lại biến thành cây xoan đào, sau lại hoá ra chiếc khung cửi, và rồi lại là quả thị thơm. Nàng đã phải chịu đựng sự hành hạ nhẫn tâm của hai mẹ con nhà Cám. Nhưng rồi cuối cùng, cái thiện vẫn luôn chiến thắng cái ác. Tấm trở thành hoàng hậu sống hạnh phúc với nhà vua, còn mẹ con Cám phải đón nhận cái chết..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Đó là một kết cục công bằng, hợp với khát vọng ở hiền gặp lành của cha ông chúng ta. Tuy nhiên, trong dân gian, kết thúc truyện Tấm Cám không đơn giản như thế. Cái chết của mẹ con Cám được kể lại bằng nhiều cách khác nhau. Bản thứ nhất : Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa thì không khỏi sợ hãi. Một hôm Cám hỏi chị : - Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế ? Tấm không đáp, chỉ hỏi lại : - Có muốn đẹp không để chị giúp ? Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo cám nhảy xuống hố và sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết mụ dì ghẻ cũng lăn đùng ra chết... Ở cách kết thúc này, tác giả dân gian đã cho ta chứng kiến kết cục cuối cùng của cuộc đời Cám và mụ gì ghẻ. Người ra tay trừng phạt hai mẹ con Cám không ai khác chính là Tấm. Đành rằng trong truyện cổ tích, kẻ ác lúc nào cũng bị trừng phạt đích đáng, kết thúc trên rõ ràng là đã thể hiện đúng ước mơ của người dân lao động (thiện thắng ác) nhưng liệu như vậy, cô Tấm có phải là một con người “hơi” dã man khi ở phần trên câu chuyện ta luôn biết Tấm là một người con gái hiền lành, tốt bụng ? Bản thứ hai : Cám thấy Tấm trở về và được vua yêu thương như xưa nó không khỏi sợ hãi. Nhưng Cám cũng thắc mắc là vì sao chị mình sau bao thử thách nghiệt ngã như thế lại trở nên đẹp đẽ bội phần. Cám hỏi Tấm : - Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế ? Tấm trả lời : - Chị đẹp thế này là nhờ mỗi ngày đều tắm rửa bằng nước sôi đấy. Thế em có muốn đẹp không, để chị giúp cho. Cám hí hửng đồng ý. Thế là Tấm chuẩn bị cả một nồi nước sôi và dội luôn lên người Cám. Cám chết còng keo trong nước nóng. Nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đây. Sau khi Cám chết, mụ dì ghẻ vẫn không hề hay biết chuyện. Tấm vội sai quân hầu đem làm thịt Cám và muối thành.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> mắm, đem biếu mụ dì ghẻ và nói dối là mắm do Cám từ hoàng cung gửi về biếu mẹ. Mụ dì ghẻ tưởng thật, đem mắm ra ăn và tấm tắc khen ngon. Có con quạ đậu trên cành cây bên cửa sổ líu lo. Ngon gì mà ngon Mẹ ăn thịt con Có còn xin miếng Mụ dì ghẻ nghe vậy liền chửi mắng : - Chém tổ cha tổ mẹ mày. Mắm này do con gái ta từ hoàng cung gửi về. Ta ăn ngon thì khen chứ sao. Thế là mụ tiếp tục ăn. Ăn cho đến tận đáy hũ. Mụ chợt nhìn thấy một cái đầu lâu, lúc này mới biết lời con chim nói là thật quá, sợ quá mụ lăn đùng ra chết. Đây là một cách kết thúc thật đáng đời cho mẹ con Cám. Cám vì sống độc ác nên đến lúc chết cũng không được thanh thản, đã bị dội nước sôi rồi lại còn bị làm thịt muối thành mắm. Còn mụ dì ghẻ lại là người ăn thịt con gái của mình. Cách kết thúc này là một sự trả giá quá đắt cho những mưu kế độc ác và lòng tham lam của mẹ con Cám. Tuy nhiên, ta vẫn phải đặt ra câu hỏi : Liệu như thế này, Tấm có phải thay đổi thành một con người độc ác và mưu mẹo ? Vì chỉ những người mưu mẹo, nham hiểm mới có thể nghĩ ra cách muối mắm rồi đem biếu gì ghẻ như vậy ? Đối chiếu với những lời kể về phẩm chất của Tấm ở phần trên câu chuyện với phần kết thúc, dường như ta thấy có sự đối lập... Bất cứ ai khi nghe kết thúc kiểu này, chắc hẳn đều không tránh khỏi cảm giác ghê sợ, dã man quá mức. Hình ảnh một nàng Tấm hiền lành lương thiện cũng dần nhạt nhoà một phần nào đó. Nhưng vì truyện cổ tích ra đời trong xã hội phong kiến nên cách trả thù kiểu trung cổ như trên cũng không có gì xa lạ. Hơn nữa mẹ con nhà Cám làm Tấm chết đi sống lại bốn lần cho nên cách kết thúc trên mới là kiểu trừng phạt triệt để của ngừơi lao động. Đó là hậu quả của những kẻ gieo gió sẽ gặt bão như mẹ con nhà Cám. Bản thứ ba : Cám thấy Tấm trở về sống hạnh phúc với vua cha thì trong lòng không khỏi ghen tị khi thấy chị mình càng đẹp lộng lẫy hơn bao giờ hết. Cám về quê.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> sống với mẹ và được nghe một người nào đó bảo rằng : Muốn đẹp như Tấm thì phải tắm nước sôi. Cám tin lời người ấy một cách ngu ngốc, mê muội. Cám đã làm theo. Nó chuẩn bị cho mình một nồi nước sôi thật to và dội lên người. Kết quả là Cám chết cong keo trong nước nóng. Mụ dì ghẻ đi làm về thấy thế cũng lăn đùng ra chết theo con. Cách kết thúc này có vẻ "nhân đạo" hơn cả. Bởi vì cuối cùng Cám và mụ dì ghẻ cũng đã phải trả giá cho những hành động của mình. Kết thúc này hay ở chỗ : Cám nghe lời mách bảo của một người nào đó không rõ tên tuổi. Người nào đó ở đây chính là người đại diện cho nhân dân lao động, hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện và có cách nhìn, cách đánh giá khách quan về mẹ con Cám. Điều này chứng tỏ, tất cả mọi người đều đồng cảm với Tấm, đều căm ghét mẹ con nhà Cám độc ác, nham hiểm, tham lam. Thay thế cho Tấm, người ấy đã trả thù mẹ con Cám giúp Tấm. Cách kết thúc này rất hay, vẫn đảm bảo nguyên vẹn phẩm chất hiền lành, giàu lòng lòng vị tha của cô Tấm, vẫn thể hiện rõ nét ước mơ của nhân dân lao động về chân lí của cuộc sống, về quy luật của tự nhiên ; cái thiện vẫn luôn chiến thắng cái ác, hạnh phúc sẽ mỉm cười với những người lương thiện và sự trừng phạt đích đáng sẽ đến với những kẻ độc ác, nham hiểm. Chính vì tính truyền miệng của văn học dân gian nên mỗi tác phẩm dân gian đều có nhiều dị bản khác nhau. Truyện cổ tích Tấm Cám là một minh chứng chân thực nhất cho điều đó. Cùng là một câu chuyện song lại có nhiều cách kết thúc khác nhau, mỗi cách kết thúc đều có cái hay, cái đặc biệt riêng của nó. Song xét về thế giới tâm lí của con người, ta đều có thể cảm nhận được cách kết thúc nào là hợp lí nhất. Tuy nhiên điều cảm nhận ấy vẫn là đánh giá chủ quan của từng ngừơi đọc. Ba cách kết thúc khác nhau của truyện Tấm Cám chắc chắn ra đời ở ba thời kì khác nhau. Cách thứ hai, ra đời trước tiên. Tiếp đến là cách thứ nhất. Người sau chỉnh lại kết thúc của cách hai, vì thấy Tấm trong câu chuyện trả thù tàn ác quá, nhưng đồng quan điểm "Tấm phải trực tiếp trả thù". Nhưng vấn đề đặt ra là, có nên theo "tấm lòng nhân ái" khi nghe chuyện mà bỏ qua biểu tượng răn đe hết sức quyết liệt của cách kết thúc "muối mắm" hay không. Đó là trước cái ác tột cùng, một cái ác không điểm.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> dừng, quyết truy đuổi, tiêu diệt đến cùng cái thiện, thì cái ác ấy cũng cần bị cái thiện đáp trả xứng đáng. Tiêu diệt cả gốc lẫn rễ, làm cho cái ác phải ghê rợn, băm vằm ra để chúng không thể hồi sinh. Cách thứ ba, khác hẳn hai cách trên, có lẽ do có khoảng lùi lớn về thời gian, thay đổi về thời đại nên quan niệm trả thù đã được "nhân đạo hoá". Mặt khác, người kể lại muốn giữ trọn hình ảnh đẹp của người con gái Việt Nam truyền thống nên điểu chỉnh lại. Có điều nó cũng đã "lập trường hóa", "tiến bộ hóa", "hiện đại hóa" câu chuyện. Truyện cổ tích Tấm Cám tuy có nhiều cách kết thúc khác nhau song mỗi cách kết thúc đều có cái hay và ý nghĩa riêng của nó. Chính cách kết thúc khác nhau đã làm phong phú thêm truyện cổ dân gian. Hiểu và đồng cảm với người xưa thì chọn cách hai. Cùng quan điểm như vậy, nhưng "mềm mỏng" hơn thì chọn cách một, Theo thời bây giờ sẽ chọn cách ba. Cho nên, bạn chọn cách kết thúc nào cũng đều được. Tôi thì tôi chọn cách kết thúc thứ hai. Bởi lẽ, các kiểu kết thúc tuy có những chỗ khác nhau nhưng đều góp phần thể hiện ước mơ và công lí nhân dân “Ở hiền gặp lành”, “Ác giả ác báo. Đề số 19 Đọc Nhưng nó phải bằng hai mày và phân tích nghệ thuật gây cười qua lời nói của thầy lí ở cuối truyện. Bài làm Thầy lí cũng xoè năm ngón tay trái úp lên trên năm ngón tay mặt, nói : - Tao biết mày phải...nhưng nó lại phải... bằng hai mày Trong câu nói của lí trưởng có sử dụng hình thức chơi chữ, từ đó mà tạo nên tiếng cười. Từ "phải" ở đây là một từ đa nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chỉ lẽ phải, chỉ cái đúng, tức là từ chỉ tính chất. Nhưng khi từ này kết hợp với từ chỉ số lượng ("bằng 2") thành cụm: "phải bằng 2", thì nghĩa của nó lại là định lượng cho mức tiền lo lót của Cải và Ngô với lí trưởng. Bằng nghệ thuật chơi chữ như vậy, chỉ trong một lời thoại ngắn, tác giả đã đưa người đọc đi từ trạng thái "tưởng là thế này" (tưởng "phải" là lẽ phải) đến.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> "hoá ra thế kia" (hoá ra "phải" ở đây lại là mức tiền) trong tích tắc. Lời nói của lí trưởng vừa có cái vô lí, vừa có hợp lí. Vô lí khi đặt nó trong một phiên toà bình thường, hợp lí khi ta đặt nó vào mối quan hệ thực tế giữa các nhân vật. Ở đây lí trưởng nói bằng mối quan hệ thực tế đó, tức là cái "lí thực" bên trong đã thay thế cho nhau và thay cho pháp lí - lẽ công bằng. Từ đó người đọc mới bất ngờ vỡ lẽ về bản chất : tư lợi từ việc công một cách hồn nhiên và trắng trợn của lí trưởng. Một nền công lí được thực thi như thế, do những con người như thế nắm giữ. Thật là nực cười. Tiếng cười được bật ra khi quá trình nhận thức kết thúc. Đề số 20 Đọc Nhưng nó phải bằng hai mày, đánh giá nhân vật Ngô và Cải. Bài làm Truyện cười Nhưng nó phải bằng hai mày là một truyện hết sức thú vị, có ý nghĩa phê phán nạn tham nhũng của tầng lớp hào lí nông thôn dí dỏm mà sâu sắc. Trong truyện có hai nhân vật Ngô và Cải. Hai người đánh nhau, mang nhau đi kiện. Ai cũng lo lót trước cho thầy lí để được xử thắng. Ngô đút lót gấp đôi Cải. Hai nhân vật này là hình ảnh đại diện cho những người nông dân ghê gớm, ma lanh nội bộ nhưng lại khờ khạo, bị bóp nặn bởi bọn cai trị. Họ vừa là đồng phạm, vừa là nạn nhân của tình trạng tham nhũng của đám hào lí nông thôn, họ vừa đáng thương, lại vừa đáng trách. Chính họ đã góp phần tạo nên và thúc đẩy thói nhũng nhiễu kia, rồi lại tự đẩy mình vào tình cảnh thạm hại, bi hài..

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Đề số 21 Bài ca dao “Thân em như tấm lụa đào...” trong hệ thống các bài ca dao được mở đầu bằng từ “Thân em...” Bài làm Ca dao diễn tả đời sống tư tưởng, tình cảm muôn màu muôn vẻ của người lao động. Sống dưới xã hội cũ, người lao động Việt Nam chịu nhiều nỗi đắng cay, tủi cực. Vì vậy xuất hiện không ít những bài ca dao than thân. Trong những bài thuộc loại này, có một số bài được mở đầu bằng từ Thân em, một lối diễn đạt công thức mang đậm sắc thái dân gian. Những bài ca dao mở đầu bằng từ Thân em, trước hết, đều là lời than thân của người phụ nữ. Than vì sự cực khổ trong lao động : Thân em tội nghiệp vì đâu, Ngày ngày em chổng phao câu lên trời. Than cho số kiếp của một kẻ lẽ mọn : Thân em làm lẽ chẳng hề, Có như chính thất mà lê giữa giường. Hay vì một nỗi oan uổng : Thân em như giấy lụa tờ Chớ nghi mà tội, chớ ngờ mà oan. Nhưng phổ biến nhất trong những lời than thân đó là lời than vì duyên phận bị phụ thuộc, không được chủ động trong tình yêu : Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? Xin được dẫn ra đây 5 bài ca dao khác thuộc loại này để thấy được những nét chung và riêng so với bài ca dao vừa nêu ở trên : - Thân em như hạt mưa rào Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. - Thân em như miếng cau khô Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày. - Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. - Thân em như trái bần trôi Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? - Thân em như quả xoài trên cây Gió đông gió tây, gió nam gió bắc Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành Một mai rụng xuống biết vào tay ai ? Tất cả các bài ca dao đều bắt đầu bằng từ Thân em diễn tả thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu. Từ đó, gợi cho người nghe sự chia sẻ và đồng cảm sâu sắc. Đó là lời chung của người phụ nữ về thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội nghiệp của họ dưới chế độ xưa. Sau từ thân em là từ như dùng để so sánh và đối tượng đem ra so sánh : tấm lụa đào, hạt mưa, miếng cau khô, giếng giữa đàng, quả bần trôi trên sông, quả xoài trên cây..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Các vật đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người con gái trong xã hội cũ. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách rõ ràng, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận không ra gì của họ. Miếng cau khô, hạt mưa rơi, quả xoài... vốn có giá trị gì nhiều lắm đâu, thậm chí nó chỉ là đồ bỏ đi : quả bần trôi trên sông. Trong các vật nêu trên, nếu quả bần trôi trên sông kém giá trị hơn cả, tội nghiệp hơn cả thì tấm lụa đào không chỉ có giá trị hơn mà còn gợi được vẻ đẹp duyên dáng, tươi mát. Như vậy, ở bài ca dao Thân em như tấm lụa đào... người con gái không chỉ than thân mà còn ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Chính vì vậy, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã được nhân lên. Đã đau lại càng đau hơn ! Trong các vật được đem ra so sánh, các vật giếng, trái bần, quả xoài đều có thêm các định ngữ lâm thời (tức là những định ngữ không chỉ bản chất của sự vật) giếng - giữa đàng, trái bần - trôi, quả xoài - trên cây. Việc dùng thêm các định ngữ này phần nào đã làm nổi bật được thân phận không ra gì của người phụ nữ dưới chế độ cũ. Ở các câu thơ đầu tiên, tác giả dân gian chủ yếu đưa ra các sự vật để so sánh, còn câu tiếp theo là những câu miêu tả bổ sung, khắc hoạ rõ nét thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, phải chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu, may nhờ rủi chịu. Tuy nhiên, những bài ca dao kết thức bằng các câu hỏi : - Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ? - Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ? - Một mai rụng xuống biết vào tay ai ? Làm cho lời than thêm não nuột. Đó là tiếng kêu đầy ai oán, khắc sâu vào lòng người nghe một nỗi đau thân phận. Đề số 22 Cảm nghĩ về hình tượng trong bài ca dao " Khăn thương nhớ ai" Bài làm.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> Tình yêu nam nữ với những cung bậc, sắc thái hết sức đa dạng, phức tạp là một trong những nội dung cơ bản của ca dao người Việt. Đi vào thế giới ca dao, những cung bậc, sắc thái tình cảm vốn vô hình, vô sắc ấy bỗng trở nên hết sức cụ thể sinh động. Tất cả là nhờ cái tình chân thành, chân chất, đằm thắm với lối diễn đạt độc đáo của tác giả dân gian. Ví như bài ca dao "Khăn thương nhớ ai"– thi phẩm được xếp vào hàng “bậc nhất chi nhường cho ai”. Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao này thường được người ta nhớ đến với cái tên "Khăn thương nhớ ai". Hình ảnh chiếc khăn không chỉ là biểu tượng khởi đầu cho nỗi thương nhớ của cô gái mà nó còn là hình ảnh được lặp lại nhiều nhất với nhiều tình huống khác nhau. Khăn thương nhớ ai? Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai? Khăn chùi nước mắt Dễ hiểu vì sao hình ảnh chiếc khăn lại trở đi trở lại nhiều lần như một điệp khúc nhớ thương triền miên, da diết như thế. Trong tình yêu trai gái, chiếc khăn thường là vật trao duyên để người ta "gửi khăn, gửi áo, gửi lời". Khăn cũng là một vật luôn gần gũi, quấn quýt với người con gái. Ở đây chiếc khăn được nhân hoá, trở nên có tâm trạng và là đối tượng để cô gái bộc lộ nỗi niềm thương nhớ người yêu. Ba lần hỏi, mỗi lần nỗi nhớ lại càng trào dâng, ngổn ngang trăm mối, trăm chiều, bao trùm khắp cả không gian : rơi xuống đất, vắt lên vai và cao độ là khi chiếc khăn giúp cô gái dấu đi những giọt nước mắt khóc thầm. Sáu dòng thơ với đa số thanh bằng gợi nỗi bâng khuâng da diết đậm màu sắc nữ tính, đầy kín đáo của nỗi nhớ thương. Hình ảnh tiếp theo trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ là ngọn đèn: Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt Cũng vẫn dùng thủ pháp nhân hoá nhưng nếu như ở hình ảnh chiếc khăn, nỗi nhớ được trải ra theo không gian thì đến đây nó được đo theo thời gian. Hình ảnh ngọn đèn không tắt chính là ngọn lửa thương nhớ đang cháy trong trái tim người con gái. Chính là người con gái đang trằn trọc đêm thâu trong nhớ thương đằng đẳng. Sau này nhà thơ Chính Hữu cũng đã học tập nghệ thuật này của ca dao để làm nên trong thơ mình một "Ngọn đèn đứng gác" đáng nhớ. Hình ảnh cuối cùng trở thành biểu tượng cho tâm trạng cô gái là đôi mắt - cửa sổ của tâm hồn. Dù rằng những câu hỏi với chiếc khăn, ngọn đèn chính là sự phân thân.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> trong tâm trạng cô gái nhưng đó vẫn chỉ là cách nói gián tiếp. Mà nỗi nhớ thì cứ da diết, bồn chồn và đến lúc không thể kìm nén, che giấu. Cô gái đã hỏi mình, trực tiếp bộc lộ nỗi lòng: Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên Hình ảnh đôi mắt không ngủ ấy là sự phát triển tất yếu từ chiếc khăn không ở yên, từ ngọn đèn chong chong đêm dài. Đó là một hình tượng hợp lí, nhất quán và tự nhiên như chính nỗi nhớ niềm thương đang dâng trào trong cô gái. Chỉ trong 10 câu thơ 4 chữ, nỗi nhớ thương của cô gái được bộc lộ thật độc đáo. Có đến năm lần cái điệp khúc “thương nhớ ai” được lặp đi lặp lại và gắn với những hình ảnh khác nhau. Nhưng tựu trung lại tất cả đều là sự tự hỏi lòng mình và hơn thế nữa là sự tự khẳng định tình cảm của cô gái một cách mạnh mẽ. Tâm trạng đầy yêu thương của cô gái không chỉ được cụ thể hoá, hình tượng hoá một cách thật rõ nét mà cách bộc lộ cũng đầy tế nhị, kín đáo rất phù hợp với người Việt Nam. Nét độc đáo trong nghệ thuật của bài ca dao còn biểu hiện ở kết cấu hai phần : 10 câu đầu theo thể vãn bốn và một câu lục - bát kết lại cả bài. Nếu như ở phần đầu là sự dồn nén của tình cảm thì đến hai câu kết tâm trạng lo âu tràn ra ngổn ngang : Đêm qua em những lo phiền Lo vì một nỗi không yên một bề … Người con gái đang yêu nào lại không mang trong lòng bên cạnh nỗi niềm thương nhớ là nỗi bồn chồn, lo lắng cho tương lai, hạnh phúc lứa đôi. Đặc biệt trong hoàn cảnh xã hội cũ thì điều lo âu đó hoàn toàn có lý do. Mối tình tha thiết, mãnh liệt ấy đâu đã là sự đảm bảo cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc lâu bền. Bất trắc luôn luôn rình rập những tình cảm tốt đẹp của những con người bình dân, bình thường. Thân phận nhỏ bé, tình yêu nhỏ nhoi giữa bao nhiêu là giăng mắc bất tường. Dấu ba chấm kết lại bài thơ đầy sức gợi mở và càng cho thấy nỗi lo nhiều bề trong tâm trạng cô gái. Quả là ngổn ngang trăm mối tơ vò. Đây có thể nói là một trong những bài đặc sắc nhất của ca dao Việt Nam. Bằng nghệ thuật nhân hoá, hoán dụ với những biểu tượng độc đáo, bài ca dao đã thể hiện được những sắc thái vô cùng tinh tế trong nỗi lòng người con gái đang yêu. Chính điều đó đã tạo nên sức hấp dẫn mạnh mẽ cũng như sức sống trường tồn cho tác phẩm. Đề số 23 Cảm nghĩ khi đọc bài ca dao "Cưới nàng..." (Ngữ văn 10 - tập 1).

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Bài làm Bài ca dao "Cưới nàng, anh toan dẫn voi" cuối cùng "Dẫn con chuột béo mời dân mời nàng". Còn người con gái chỉ thách cưới "một nhà khoai lang" là bài ca dao thuộc nhóm hài hước. Chuyện dẫn cưới và thách cưới ở đây không có trong đời thực. Chàng trai (nhà trai) đem đến “một con chuột béo”, “miễn là có thú bốn chân”; còn cô gái (nhà gái) lại thách cưới bằng “một nhà khoai lang”. Cả chàng trai và cô gái đều đùa vui hồn nhiên. Nói chuyện cưới xin, chuyện trăm năm là một chuyện hết sức nghiêm túc nhưng vang lên tiếng cười vui vẻ, hài hước, hóm hỉnh, chứng tỏ họ đã rất hiểu hoàn cảnh của nhau và rất yêu nhau. Chỉ những người yêu nhau, không ngần ngại nghèo khó, cũng không sợ hai bên gia đình lo nghèo mới có thể đùa với nhau như thế. Một tinh thần lạc quan, trẻ trung trong cuộc sống của người lao động toát lên qua bài ca dao và để lại dư vị cho bao nhiêu người cùng cảnh ngộ. Nhất là những đôi trẻ yêu nhau, những bậc cha mẹ hai bên lo hạnh phúc cho con cái chỉ thấy cái nghèo. Cho nên đây còn là một sự cảm thông cuộc sống nghèo khó, một ngụ ý phê phán tục thách cưới nặng nề. Bên cạnh đó, điểm thú vị của bài ca dao còn ở chỗ, bộc lộ rất rõ tính cách của hai người trẻ tuổi này. Chàng trai dí dỏm, thông minh, phóng khoáng. Cô gái chân chất, tần tảo, căn cơ. Chắc chắn nếu thành đôi trong đời thật, họ sẽ sống với nhau hạnh phúc và sẽ thoát nghèo. Bài ca sử dụng các biện pháp nói quá. Trong thực tế không ai dẫn cưới bằng "một con chuột béo". Nhất là phép lập luận loại trừ, thu hẹp dần đến kết luận bất ngờ (lời chàng trai) ; phép liệt kê (lời cô gái) và lối "nói sang" phóng đại, áp dụng cái lí "cù nhầy" đáng yêu, khó cãi. Tất cả được đặt trong đối thoại giao duyên đã tạo ra tiếng cười giàu ý nghĩa. Đề số 24 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu - TRọng Thuỷ theo nhân vật chính An Dương Vương Bài làm.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> An Dương Vương nước Âu Lạc xây thành Cổ Loa bảo vệ đất nước. Nhà vua xây nhiều lần nhưng cứ xây xong là thành lại đổ. Nhờ có “Sứ Thanh Giang” là Rùa Vàng giúp đỡ, nhà vua đã xây thành vững chắc. Rùa Vàng cho nhà vua lẫy nỏ để bảo vệ thành, khiến Triệu Đà nhiều lần xâm lược Âu Lạc nhưng đều thất bại. Triệu Đà đã tìm cách cầu hôn công chúa Mị Châu của Âu Lạc cho con trai là Trọng Thuỷ. Mị Châu tiết lộ lẫy nỏ cho chồng biết. Trọng Thuỷ đã đánh tráo lẫy nỏ mang về cho Triệu Đà. Trước khi về Trọng Thuỷ hỏi Mị Châu nếu có chiến tranh xảy ra thì tìm nàng bằng cách nào, Mị Châu nói với chồng tìm theo dấu vết lông ngỗng. Triệu Đà có lẫy nỏ đã sang đánh chiếm Âu Lạc. An Dương Vương vì nỏ thần không còn hiệu nghiệm đã mất nước. Nhà vua đem Mị Châu chạy về phương nam. Rùa Vàng hiện lên nói “Giặc đang ngồi đường sau mà nhà ngươi không biết”. An Dương Vương giết Mị Châu. Trước khi chết, nàng cầu xin nếu bị lừa dối thì chết sẽ biến thành châu ngọc để tỏ rõ lòng trong sạch. Còn An Dương Vương được Rùa Vàng đưa xuống biển. Trọng Thuỷ theo vết lông ngỗng tìm thấy xác Mị Châu mang về táng ở thành Cổ Loa và lao xuống giếng mà chết. Đề số 25 Về thăm trường cũ Bài làm Bất cứ ai đã khôn lớn trưởng thành trên con đường học tập, đều luôn tưởng nhớ về mái trường thân yêu. Nơi đã đưa mình đến với tri thức, hòa nhập với bạn bè, được gặp nhiều thầy cô giáo mới ngay từ buổi đầu cắp sách đến trường “THCS Đông Cương”. Hôm nay tôi mới có dịp về thăm trường cũ. Thật khó tả cảm giác của tôi khi ngồi trên xe. Mong ngóng, hồi hộp, không biết mái trường xưa giờ đây đã đổi thay ra sao ? Lòng náo nức muốn ngay lập tức được nhìn thấy ngôi trường xưa. Ngôi trường cũ đã có rất nhiều đổi thay. Nhớ ngày nào mẹ dắt tôi đến trường trên con đường đất nhỏ và hẹp giờ đây đã là con đường dải nhựa.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> bằng phẳng và rộng rãi, hai bên trồng hai hàng cây xanh toả rợp bóng mát, nhà tầng san sát mọc lên. May mắn lần về của tôi lại đúng vào dịp nghỉ hè, mùa hoa gạo nở rộ. Cây hoa gạo sừng sững trước cổng trường cho những bông hoa gạo như mọt ngọn nến lung linh chiếu sáng. Tôi đưa mắt nhìn về phía cổng trường, thấy khác lạ rất nhiều. Biển cổng được trang trí mở rộng. Hai bên con đường dẫn vào văn phòng là hai dãy ghế đá và chậu cảnh của các lớp kỉ niệm nhà trường nhân dịp năm học cuối cấp của mình. Trong số đó có cả lớp 6A của chúng tôi. Đôi chân tôi cứ ríu lại, như có ai đó đứng sau đẩy tôi đi vậy. Ngôi trường rất khang trang, đẹp đẽ khiến tôi ngạc nhiên vô cùng, nghĩ về tháng năm học trò của mình thiếu thốn rất nhiều tôi lại ước mong sao được quay lại tuổi học ngày xưa để được học tập trong ngôi trường với những thiết bị hiện đại như bây giờ : Học đàn, học vi tính... với những đồ dùng thiết bị đầy đủ. Kỉ niệm ngày xưa hiện về, đan xen vào thực tại : Ve sầu kêu trên tán lá, hoa phượng, hoa gạo nở đỏ trên cây, cả lớp tôi kéo nhau đi lấy hoa đem về ép vào trang vở thành những cánh bướm xinh xinh. Buổi liên hoan cuối cùng cả lớp cùng nhau trang trí rrộn ràng và vui mắt, nguyên liệu chủ yếu là những cành phượng, bông hoa gạo. Đó là loài hoa gắn bó với tuổi học trò hồn nhiên và thơ mộng. Bước vào trong lớp học, hình ảnh người thầy thân thương, trìu mến đang đứng tren bục giảng hiện ra trong mắt tôi. Dáng thầy cao cao, khuôn mặt chữ điền, giọng nói khàn khàn, tuổi thầy chừng năm mươi, thầy làm chủ nhiệm lớp tôi suốt năm năm trời. Tính thầy khảng khái, dứt khoát và nghiêm nghị. Thầy là thầy giáo dạy giỏi của trường, giọng giảng bài truyền cảm của thầy tạo thêm sự hứng thú của giờ học. Hơn thế nữa thày còn là cây văn nghệ của trường, thầy đàn và hát rất hay. Chúng tôi tin tưởng ở thầy, có khó khăn thắc mắc gì đều tâm sự cùng thầy và nhận được ở thầy những lời khuyên bổ ích. Do lòng hăng say nghề nghiệp nên thầy giảng bài rất tận tình, lớp tôi luôn là lớp về muộn nhất trường. Hiểu được tấm lòng tận tuỵ của thầy, cả lớp tôi đều cố gắng học hành chăm chỉ, mọi thành viên đều cố gắng học tập để không phụ công ơn thầy cô, cha mẹ. Đi tiếp ra vườn sau, tôi tình cờ gặp bác bảo vệ đang bắt sâu, nhổ cỏ cho vườn rau. Mới đầu bác không nhận ra tôi, nhưng khi nghe tôi nhắc đến biệt danh “Cô bé mắt.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> kính” mà bác đã đặt cho tôi thì bác à lên một tiếng. Hai bác cháu cùng nhau trò chuyện vui vẻ. Tôi kể lại lần ăn trộm ổi đào nhà bác, bác nói : - Ôi chao ! cô bé mắt kính đang còn nhớ kia đấy, bác chịu thua thôi. Tôi nhanh nhảu nói tiếp: - Cháu quên thế nào được ạ ! Chính bác đã cho chúng cháu một bài học bổ ích còn gì. Bác quay sang hỏi tôi: Cháu ra trường chưa vậy ? Lần này cháu về làm gì vậy cô bé ? Tôi vội trả lời: - Thưa bác, giờ cháu đã ra trường rồi. Nhân dịp về thăm quê, cháu ghé vào thăm trừơng cũ một chút ấy mà. Nhưng lần này về thăm trường cháu thấy đổi thay nhiều, kể cả bác, giờ bác có nhiều tóc bạc, và gầy hơn trước. Từ khi vợ mất, bác ở một mình, nên việc ăn uống không đều đặn. Khi còn là học sinh, thương bác, tôi thường ở lại sau giúp bác giặt giũ, cơm nước... Bởi vậy bác rất quí tôi, có chút quà gì bác cũng phần cho tôi. Mải nói chuyện với bác, trời tối sập lúc nào không hay. Tôi chào bác ra về. Trước khi đi bác còn nói : - Bác chúc cô bé mắt kính về quê chơi vui vẻ, tìm thấy nhiều niềm vui mới cho mình, nhớ viết thư cho bác nhé. Tôi rơm rớm nước mắt và nói : - Bác nhớ giữ gìn sức khoẻ, chú ý ăn uống đều đặn, đừng ăn mì tôm trừ bữa bác nhé. Cháu sẽ còn về thăm trường và thăm bác nhiều đấy. Tôi còn muốn nói rất nhiều, ở lại thêm với ngôi trừng thân yêu nhưng thời gian không cho phép, đành phải nói lời tạm biệt. Dù đi bất cứ nơi đâu tôi cũng sẽ không quên được ngôi trường một thời với bao kỉ niệm vui buồn cuả chúng tôi. Đề số 26 Bà Thu kể chuyện chiếc lược ngà (Kể lại chuyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng) Bài làm.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> - Bà ơi, đây là... ? Đứa cháu nhỏ nhắn của tôi trong một lần về thăm quê với bố mẹ nó đã hỏi tôi như vậy. - Đó là cái lược, cháu ạ, một cái lược ngà. Tôi âu yếm trả lời. Nó ngước mắt nhìn tôi : - Sao nó cũ vậy bà ? - Trông nó cũ nhưng nó là một kỉ vật vô giá, bởi nó là do cụ nội của cháu, là bố của bà, tặng cho bà đấy. Con bé nhìn tôi với vẻ tò mò như đang chờ đón một câu chuyện cổ tích vậy. ...Cũng đã mấy chục năm trôi qua rồi nhưng quá khứ vẫn in đậm trong lòng tôi như mới chỉ hôm qua mà thôi. Hồi tôi chưa đầy một tuổi, ba tôi phải thoát li đi kháng chiến. Má tôi cũng đã mấy lần đi thăm ba nhưng không mang tôi theo được. Vậy là ba chỉ thấy tôi qua tấm ảnh nhỏ và tôi cũng chỉ thấy ba qua một tấm ảnh ba chụp với má. Ba trông thật đẹp và hiền. Năm tám tuổi, một hôm tôi đang chơi ở chòi dưới bóng cây xoài trước nhà thì bỗng nghe có tiếng gọi. Tôi quay lại. Đó là một người đàn ông với một vết thẹo dài trên má. Đã thế, vết thẹo lại còn đỏ ửng lên, dần giật, trông thật đáng sợ. Người đàn ông cứ đưa tay ra, chầm chậm bước về phía tôi, giọng lặp bặp run run : - Ba đây con ! - Ba đây con ! Tôi ngỡ ngàng, tôi chẳng hiểu gì cả, tôi nhìn người đi cạnh người đàn ông ấy dò hỏi ? ... Đây là ba tôi sao. Không, không phải ! Ba tôi là người trong tấm ảnh kia cơ, ba tôi đẹp và hiền chứ không như người đàn ông đáng sợ này. Ba tôi không có vết thẹo dài như vậy. Bỗng chốc người đàn ông lạ mặt đó làm tôi liên tưởng đến những con ma, con quỷ ... tới tất cả những gì đáng sợ nhất. Tôi phải tìm má, má sẽ cứu tôi và đuổi ông ta đi. Vậy là tôi chạy vụt vào nhà, la to : “ Má ! Má !”. Còn ông ta đứng sững lại, mằt tối sầm, ông ta không còn dám đưa tay về phía tôi nữa. Má ra, tôi tưởng má sẽ đuổi ông ta đi, thế mà má còn chạy lại ôm chầm người đàn ông đó, lại còn khóc, lại còn bảo tôi “gọi ba đi con”. Không, đó không phải là ba tôi, ba tôi không hề như thế. Ông ta dám mạo nhận là ba tôi, tôi ghét ông ta. Tôi nhất quyết không và sẽ không bao giờ gọi ông ta là ba. Tôi tự hứa với lòng mình như thế..

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Người đàn ông ấy ở nhà tôi những ba ngày. Tôi càng tìm cách lẩn tránh thì ông ta lại càng vỗ về tôi. Tôi ghét những hành động đó từ ông ta. Hẳn ông ta đang mong đợi tôi gọi ông ta là “ba” đây mà. Không bao giờ, tôi chỉ gọi “ba” với ba của tôi thôi. Tới giờ, má bảo tôi gọi “ba” vào ăn cơm, tôi không chịu. - Thì má cứ kêu đi. Má tôi nổi giận quơ đũa bếp định đánh, tôi phải gọi nhưng chỉ nói trổng : - Vô ăn cơm ! Ông ta vẫn ngồi im, tôi lại nói vọng ra : - Cơm chín rồi ! Thế mà ông ta cũng không quay lại. Đã thế thì thôi. Tôi bực bội. - Con kêu rồi mà người ta không nghe. Lúc ấy, ông ta quay lại nhìn tôi vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Ông ta cười thật hiền. Mặc kệ ông ta, tôi vẫn thực hiện lời hứa của lòng mình. Hôm sau, đang nấu cơm thì má tôi chạy đi mua thức ăn. Má dặn có gì cần thì gọi “ba” giúp cho. Không, không bao giờ. Có chết tôi cũng không thèm nhờ ông ta. Thế mà lại có chuyện. Nồi cơm to quá, tôi không thể bắc xuống chắt nước được. Làm sao bây giờ. Tôi chợt nghĩ tới người đàn ông đó. Nghĩ rằng ông ta thật ra thì cũng tốt đấy chứ, nhiều lúc ông ta thật hiền. Tôi nhìn ông ta, tôi cũng muốn nhờ ông ta. Nhưng tôi không thể gọi ông ta là ba được. Ông ta là người tốt nhưng vẫn không phải là ba tôi. Tôi lại nói trổng : - Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái ! Bác Ba - người ta gọi người đi cùng ông ta như vậy - bảo tôi : - Cháu phải gọi “Ba chắt nước giùm con”, phải nói như vậy. Nhưng tôi không quan tâm, lại kêu lên : - Cơm sôi rồi, nhão bây giờ Ông ta cứ ngồi im. Bác Ba doạ tôi : - Cơm mà nhão, má cháu về thế nào cũng bị đòn, sao cháu không gọi ba cháu. Cháu nói một tiếng “ba” không được sao ? Đúng vậy, tôi không thể gọi người đàn ông ấy là “ba” được, bởi ông ấy không phải là ba tôi. Tiếng “ba” ấy tôi chỉ giành cho ba tôi mà thôi. Cơm trong nồi cứ sôi lục bục..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> Làm thế nào bây giờ ? Cả ông ta và bác Ba đều không muốn giúp tôi. Ánh mắt tôi bắt gặp chiếc vá. Đúng rồi. Tôi nhón gót lấy cái vá múc ra từng vá nước. Thật may quá. Ông ta tưởng tôi phải chịu thua, tưởng tôi phải gọi ông ta là “ba” rồi sao, không bao giờ đâu nhé. Bữa cơm, ông ta gắp cái trứng cá to vàng để vào chén tôi. Bình thường tôi rất thích ăn trứng cá. Tôi soi vào chén. Giá như đây là của ba gắp cho mình thì hay quá. Tôi thầm nghĩ vậy, nhưng tôi kịp nhận ra ông ta không phải là ba tôi. Tôi hất vội cái trứng ra, cơm văng tung toé khắp mâm. Ông ta vung tay đánh tôi và hét lên : - Sao mày cứng đầu vậy hả ? Tôi chợt nhận ra hành động vừa rồi của mình thật vô lễ, tôi thật là hư đốn. Nhưng cũng vì tôi không muốn nhận ông ta là ba. Nếu tôi nhận cái trứng đó có khác gì tôi nhận ông ta là ba. Tôi không thể ngồi với ông ta nữa. Nếu còn ngồi có khi tôi còn có những hành động vô lễ hơn cũng nên. Vả lại tôi không muốn ngồi cạnh ông ta. Tôi gắp lại cái trứng cá vào chén, lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm. Xuống bến, tôi nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông. Tôi sang nhà ngoại. Tôi sẽ kể cho ngoại nghe về người đàn ông đáng sợ ấy đáng ghét như thế nào. Tôi cảm thấy ức. Ông ta có quyền gì mà đánh tôi cơ chứ. Nhưng tôi cố kìm nén để sang ngoại mới khóc. Tôi không muốn khóc trước mặt ông ta, như vậy là tôi trở nên yếu đuối trước ông ta, tôi không muốn điều đó. Má tôi có sang dỗ tôi về, nhưng tôi không về. Tôi không thích ở bên cạnh ông ta thêm một chút nào nữa, tôi ghét ông ta. Có lẽ thấy tôi về cũng sẽ làm cả nhà không vui nên má tôi cũng chẳng bắt. Đêm đó, ngoại hỏi tôi : - Ba con, sao con không nhận. Tôi giẫy lên : - Không phải - Sao con biết là không phải ? Ba con đi lâu, con quên rồi chứ gì ! Không, tôi chẳng bao giờ quên ba cả, tôi luôn luôn nhớ đến ba. Những ngày ba đi, lúc nào tôi cũng lôi ảnh ba ra xem. Làm sao tôi quên cơ chứ. - Ba không giống cái hình chụp với má. Tôi bào chữa..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> - Sao không giống, đi lâu, ba con già hơn trước thôi. Không, không phải vì ba già mà tôi không nhận ra ba... - Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo như vậy. Tôi đành thú thật. Ngoại cười lớn. Cái cười làm tôi ngơ ngác và tò mò. Ngoại kể lại tội ác của mấy thằng Tây ở đồn. Hoá ra vết thẹo ấy là ba tôi đi đánh Tây, Tây bắn bị thương. Bọn Tây độc ác. Tôi chợt thấy thương ba. Sáng hôm sau tôi bảo ngoại đưa tôi về. Mọi người đến đông quá. Ba cũng đang phải tiếp khách. Má thì lo sửa soạn hành lí cho ba. Mọi người ai cũng có việc của mình. Còn tôi, tôi cứ đứng lặng ở một góc. Tôi nhìn kĩ người đàn ông tôi đã từng lạnh lùng, trốn tránh. Ngoài vết thẹo dài ra, tất thảy những điểm trên gương mặt ông đều giống hình ba trong ảnh. Đó đúng là ba rồi. Vậy mà mình lại làm ba buồn. Suốt bao nhiêu năm tôi chờ đợi ba, thế mà đến lúc ba đi tôi mới nhận ra ba ... Ba ơi ... Trời, ba vác ba lô lên vai rồi ... Ba đã bắt tay mọi người rồi ... Ba nhìn tôi ... Ba ơi ... Từ trong sâu thẳm, tiếng ba cứ thúc dục tôi nhưng cứ đến miệng là nghẹn đắng. Ba sắp đi rồi. Không biết ba có về không. Không, tôi phải giữ ba lại. Ba nhìn tôi bằng đôi mắt buồn rầu, khe khẽ nói : - Thôi ! Ba đi nghe con ! Vậy là ba tha thứ cho tôi. Ba vẫn nhận tôi là con. Ba thật hiền, tôi không thể mất ba thêm lần nữa : - Ba ... a ... a ... ba ! Tôi đã kêu thét lên sau bao nhiêu sự đè nén. Tôi lao đến ôm chặt lấy ba. Tôi khóc : - Ba ! Không cho ba đi nữa ! Ba ở nhà với con ! Ba bế tôi lên. Vòng tay ba thật ấm. Tôi hôn khắp mặt ba, hôn cả vết thẹo nữa. Cái gì của ba tôi cũng quí. Tôi hôn tất cả như muốn xin lỗi tất cả, nhất là vết thẹo. - Ba đi rồi ba về với con. - Không. Tôi hét lên. Tôi sợ ba khó giữ được lời hứa của mình. Tôi quắp chặt lấy người ba. Má tôi bảo : - Thu ! Để ba con đi. Thống nhất rồi ba con về. Bà ngoại dỗ tôi :.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> - Cháu ngoại giỏi lắm mà ! Cháu để ba cháu đi rồi ba sẽ mua về cho cháu một cây lược. Tôi biết là tôi không thể giữ ba lại được nữa, liền mếu máo : - Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba. Nói vậy chứ tôi chẳng cần một cây lược làm gì. Tôi chỉ cần ba mà thôi. Thế rồi ba đi. Bao nhiêu năm qua đi, một hôm, lúc ấy tôi khoảng mười tám, tôi nghe tin ba tôi tử trận. Tôi suy sụp, tôi đã khóc rất nhiều. Nhưng tôi biết đó là điều khó có thể tránh khỏi. Tất cả là vì chiến tranh, vì bọn giặc tàn bạo kia. Tôi nuôi chí căm thù và sau đó tôi đi làm giao liên. Một lần chặn địch tôi đã gặp được bác Ba. Sau một vài lời làm quen, bác đã nhận ra tôi. Bác run run đưa cho tôi cây lược ngà, bác đã thực hiện lời hứa với ba tôi. Lúc ấy tôi ngạc nhiên và xúc động lắm. Tôi biết ba đã mất nhưng tôi không ngờ ba vẫn giữ lời hứa với tôi - một cây lược. Tôi đón nhận cây lược ngà như đón nhận một kỉ vật. Đó là tấm lòng của ba tôi, là tình phụ tử thiêng liêng. Bác Ba nói dối tôi rằng ba tôi còn sống. Tôi biết bác sợ tôi buồn nên nói vậy. Lòng tôi đau thắt khi nhớ tới ba. Nhưng cuộc gặp gỡ chỉ trong phút chốc rồi mỗi người lại đi mỗi ngả. Trước khi đi bác Ba chợt chào. - Thôi, ba đi nghe con. Tôi giật mình, câu ấy hơn mười năm về trước tôi đã được nghe. Giờ nó sống lại trong tôi. Một cảm giác ấm áp lạ thường. Sau ngày đất nước thống nhất, tôi gặp lại bác Ba. Bác kể cho tôi về ba. Bác bảo ba từ khi làm được cây lược cho tôi, lúc nào cũng lấy ra chải cho cây lược thêm bóng, và cho đỡ nhớ tôi. Trước khi ra đi, ba không nói được gì. Nhưng ánh mắt của ba làm bác Ba hiểu rằng cần phải mang cây lược cho tôi. Trước khi mất, ba vẫn nghĩ đến tôi. Mãi mãi, tôi không bao giờ quên được ba. ... Bây giờ thì cháu đã hiểu vì sao đó là một kỉ vật vô giá chưa. Tôi cười, cúi xuống hỏi đứa cháu nhỏ. - Dạ, cháu hiểu rồi ạ. - Giờ các cháu được sống trong hoà bình, phải biết chăm lo học hành để làm cho ba mẹ vui lòng, nghe chưa. - Dạ !.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> Tôi nhìn xa xăm lên bàn thờ, hình như ba đang nhìn tôi, cười mãn nguyện. Đề số 27 Em gặp chị Tấm Bài làm Ánh sáng ban mai rọi vào mắt làm tôi choàng dậy ngỡ ngàng. Tôi đang nằm ở đâu thế này ? Nhìn xung quanh tôi mới nhận ra mình đang nằm trên một thảm cỏ xanh mướt, dưới một gốc cây bưởi già. Xung quanh tôi mùi hoa thơm ngan ngát. Líu lo bên cạnh là tiếng chim, rập rờn cánh bướm. Cạnh đấy là một cái giếng xây bằng đá xanh. Tôi cảm thấy khát nước vô kể, liền tiến lại phía giếng. Nhìn xuống, nước trong veo. Vớ lấy chiếc gàu để bên thành, tôi thả xuống giếng. Quái lạ, thả mãi, thả mãi mà chẳng đến nước. Chợt tôi thấy chim đã ngừng hót, bướm cũng ngừng bay, rồi chúng dồn về một phía, ríu rít vui mừng. Tôi quay lại phía đó thì thấy một chị áo tứ thân lộng lẫy, vừa đi vừa hát. Trông thấy tôi, chị lướt nhẹ đến bên, mỉm cười : - Em là ai mà lại lên được đây ? Tôi lo lắng : - Dạ... em... em. - Em đừng sợ, chị tên là Tấm, còn em ? Tôi reo lên : A ! Chị có phải là chị Tấm trong truyện Tấm Cám không ? Chị khẽ gật đầu, vén áo ngồi xuống gốc bưởi, kéo tôi ngồi theo. Trông chị xinh hệt như tôi vẫn thường tưởng tượng mọi ngày. Chim chóc bay quanh chúng tôi hót những lời ca đẹp nhất từ xưa đến nay tôi chưa từng được nghe. Lời ca như hòa cùng niềm vui lâng lâng của tôi. Tôi hỏi : - Chị Tấm ơi ! Hôm trước bọn em vừa học bài về chị đấy ! Chị có biết không ? Chị mỉm cười : Chị biết chứ ! Ngày nào chị chả rẽ mây nhìn xuống đất nước thân yêu của chúng mình. Chị nhìn những cánh đồng bát ngát, những lũy tre xanh rì rào, những ngôi nhà mái ngói đỏ như son, những dòng sông êm đềm uốn khúc, những bờ biển dạt dào sóng vỗ và nhất là những ngôi trường với những lớp học, những bé em đang mê.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> mải học bài ! Đất nước mình bây giờ to lớn, hùng mạnh thật đấy ! Không còn phải sợ giặc ngoại xâm, sợ những tên quan lại độc ác, những trọc phú tham lam nữa. ... - Vâng ạ ! Bọn em bây giờ sung sướng hơn nhiều - Tôi tỏ ra muốn chia sẻ xúc động của chị. Nhưng điều thắc mắc của tôi còn mạnh hơn, tôi hỏi : - Ngày nào chị cũng nhìn xuống hạ giới, sao ngày nào bọn em cũng nhìn trời mà lại không thấy chị đâu ? - Em không nhìn thấy chị vì dưới con mắt của con người, chị là một đám mây ngũ sắc vờn quanh mặt trời lúc bình minh và hoàng hôn. Còn khi được xuống thăm quê hương đất nước chị là một làn gió thơm lặng lẽ trong đêm. Những lúc ấy chị đã đi qua mọi nhà, ngắm nhìn những em nhỏ, những bà mẹ ngồi khâu áo cho con. Chị lướt đến bên những gầm cầu, nhà ga, đến với những chú bé lang thang, ru cho chúng những giấc ngủ êm đềm. Nói đến đây, chị Tấm ngậm ngùi : - Sống trên tiên lòng chị vẫn ngổn ngang một mối. Chị đã có cuộc sống hạnh phúc nhưng vẫn còn bao người đau khổ. Vừa khi ấy mặt trời dịu hẳn lại. Thì ra đã về chiều. Tôi ngạc nhiên quá, sao một ngày lại ngắn quá như vậy ! Tôi vội hỏi một câu mà tôi vẫn ấp ủ từ lúc gặp chị, bởi tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc phải chia tay: - Chị Tấm ơi ! Tại sao chim chóc lại quấn quýt chị thế ? Ở trần gian, chim chóc thấy người là bay đi liền ! Chị Tấm vừa vuốt ve một chú chim xanh biếc vừa trả lời : - Nếu ta thương yêu chúng với một tấm lòng nhân hậu thì chúng cũng thương yêu ta thôi em ạ ! Nói xong, chị đứng dậy, như báo hiệu giờ chia tay đã đến. Nhìn tôi, chị nói : - Trước khi chia tay, chị muốn khuyên em rằng : “Sống ở đời phải tốt bụng, hiền lành thì mới có hạnh phúc vững bền”. Rồi chị vẫy tay một cái. Một đám mây bay đến. Chị bảo tôi ngồi lên. Đám mây đưa tôi bồng bềnh trôi, chợt hạ thật nhanh. Tôi như người mất trọng lượng..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> Tôi bừng tỉnh, lúc đó mới biết rằng mình đã nằm mơ. Nhưng có lẽ giấc mơ này không phải vô tình. Trong giấc mơ chị Tấm đã cho tôi một bài học. Chị Tấm ơi ! Em sẽ làm theo lời chị dặn : “Sống ở đời phải tốt bụng, hiền lành thì mới có hạnh phúc vững bền”. Đó chính là một triết lí sống chín chắn ở đời. Đề số 28 Cảm nghĩ trước Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi Bài làm Rồi hóng mát thuở ngày trường Hoè lục đùn đùn tán rợp gương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương. Bài thơ 8 câu 57 chữ gồm một bức tranh cảnh ngày hè - 6 câu đầu và một lời bình, suy ngẫm từ bức tranh ấy - 2 câu cuối. Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngôi lầu vắng lặng, cây hoè cổ thụ ngoài sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài ba chú ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một người ngồi trên lầu trâm ngâm. Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lòng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn cờ phấp phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lòng vì dân nước không lúc nào yên “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quí cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái không khí yên bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa..

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đôi mắt rất sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hoè : tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nữa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngôn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” còn lạ hơn. Không tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao... Chỉ là Bức tranh phong cảnh ư ? Không phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong trường tranh đấu sống. Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Vangốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi"là lửa sống rừng rực trong lòng Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường". Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao sao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc hoà tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và quí tộc hoà hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi thở sống. Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống. Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập. Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> Dân giàu đủ khắp đòi phương Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời. Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu "Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vô vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh". Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị vua hiền minh Lê Thánh Tông cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn : Nhà nam nhà bắc đều có mặt Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình. Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân. Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngô Đại Cáo - "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại. Cảnh ngày hè (Gương báu răn mình số 43) không định giáo huấn chung. Trước đời sống đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho cuộc sống này trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi "tiên ưu" ấy mà thôi. Đề số 29 Cảm nghĩ về Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du Bài làm Bài thơ mở ra với cảnh hoang phế :.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang Cảm xúc trước những đổi thay xã hội, cuộc đời như chớp mắt thường trở đi trở lại trong thơ văn hậu kì phong kiến. Những “bãi bể nương dâu, bức tranh vân cầu” (Cung oán ngâm khúc), những “cuộc hí trường”, “vũng tang thương”, “lớp sóng phế hưng” (Thăng Long thành hoài cổ, Chơi đài khán xuân Trấn Võ, Chùa Trấn Bắc), rồi “một phen thay đổi sơn hà” (Văn chiêu hồn)... đều là dấu tích của những biến động xã hội. Câu thơ là lời Nguyễn Du than thở cho sự tàn lụi của cái đẹp trong tâm thế chung của thời đại bấy giờ. Hình ảnh “Vườn hoa bên Tây Hồ biến thành bãi hoang hết” (Tây Hồ hoa uyển tận thành khư) cố nhiên chỉ có ý nghĩa tượng trưng, nhưng sao nhức nhối, xót xa... Đó là duyên cớ để sang câu sau bật lên tiếng thổn thức của trái tim nhân hậu Nguyễn Du. Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. Đây là dịch thoát nghĩa, nguyên tắc “Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”. Câu thơ nguyên tắc nổi lên một Nguyễn Du với tấm lòng đau xót, một mình trước song cửa, viếng hồn nàng Tiểu Thanh qua một tập sách nhỏ. Hai câu sau là hình ảnh nàng Tiểu Thanh. Nhắc đến một tài nữ có số phận oan nghiệt, sống trước đó ba thế kỉ, Nguyễn Du chỉ gợi những nết tiêu biểu nhất : Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương Nàng Tiểu Thanh tiêu biểu cho những người con gái “hồng nhan bạc mệnh”. Cái chết oan khiên của nàng để thương để tiếc cho bao người. Hơn thế nữa, ở nàng có sự thống nhất giữa vẻ đẹp hình thể và vẻ đẹp tâm hồn. Nàng có nhan sắc, có tài văn chương. Những vần thơ còn sót lại làm rung động trái tim người đọc các thế hệ sau. Tiểu Thanh là hình ảnh lí tưởng của cái đẹp, là biểu hiện cái nhìn tiến bộ của Nguyễn Du về người phụ nữ (hiện thân của cái đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ) vốn đã được biểu hiện thành hệ thống trong thơ ông. Từ người ca nữ đất La Thành, người gảy đàn Long Thành rồi Đạm Tiên và cao độ là nàng Kiều. Có cái gì day dứt tmãi trong hai cụm từ đối nhau theo lối lưu thuỷ “liên tử hậu, luỵ phần dư” ? Số phận bi thảm của Tiểu Thanh cùng tập thơ của nàng khiến cho người ta xót thương, nuối tiếc. Câu thơ không chỉ là lòng tiếc thương mà còn hàm ý tố cáo thói tục phong kiến độc ác đã chà đạp lên.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> con người. Hơn thế nữa, hai câu thơ còn là sự khái quát số phận bi thảm của những trang tài tử, những bậc nữ lưu trong xã hội xưa. Phần sau bài thơ, cùng với sự khái quát được đẩy cao là liên tưởng của Nguyễn Du. Ông khái quát mối uất hận của Tiểu Thanh không chỉ là của riêng nàng chưa tìm ra lời giải đáp (thiên nan vấn). Nỗi oan kì lạ của những con người phong vận như nàng cũng là nỗi oan của bao người, mà Nguyễn Du vừa quan sát, vừa thể nghiệm : Cái án phong lưu khách tự mang “Phong vận kì oan ngã tự cư”, câu thơ nguyên tác dồi dào ý nghĩa. Nguyễn Du khẳng định mình đứng trong số những người tài hoa, phong nhã, mà mệnh bạc. Đọc thơ chữ Hán của ông nhiều lần ta thấy sự khẳng định ấy, nỗi đau ấy : Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên Hùng tâm, sinh kế lưỡng mang nhiên. (Tạp thi I) (Bạc đầu tráng sĩ ngẩng kêu trời Dũng khí, sinh nhai lỗ cả đôi) Hay : Tráng niên ngã diệc vi tài giả Bạch phát thu phong không tự ta (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch) (Ta cũng tài hao khi tuổi trẻ Gió thu đầu bạc luống buồn thay) Chính vì thế hai câu kết bài thơ là một bầu tâm sự, một cái nhìn đau đáu, một câu hỏi cháy lòng : Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa Người đời ai khóc Tố Như chăng ? Nguyễn Du đau đớn khi nghĩ tới mối hận văn chương, nỗi oan phong vận của mình sẽ bị chôn vùi trong lớp bụi của thời gian. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình xem như người “cùng hội cùng thuyền”. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nỗi đồng cảm của các thời đại với nhau. Bài thơ với phương thức trữ tình, giọng thơ chân thành, thông cảm, xót xa có thể xem như một biểu dương, tranh đấu cho một giá trị, một quan niệm nhân văn về người phụ nữ nói riêng và những người tài hoa trong xã hội nói chung. Bài thơ là lời kí thác tâm sự của Nguyễn Du, con người đầy tài năng, hoài bão lớn mà luôn gặp hoạn nạn, trắc trở trên con đường đời gập ghềnh giữa đêm đen xã hội phong kiến. Con người ấy giàu lòng yêu thương nhân hậu, luôn khao khát sự cảm thông của người đời.. Đề số 30 Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí để thấy được tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh cũng là những tâm sự, suy ngẫm về chính cuộc đời nhà thơ. Bài làm Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ "Độc Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh. Bởi vậy bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ "tài hoa bạc mệnh", là nạn nhân của cái quy luật "hồng nhan đa truân". Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế: Câu cẩm tú đàn anh họ Lý Nét đan thanh bậc chị chàng Vương" và: "Cờ tiên, rượu thánh ai đang Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long Thành.... Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la ở ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh - một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật : Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang Thổn thức bên song mảnh giấy tàn Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ "tận" như muốn xoá sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ còn gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu: Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu (Truyện Kiều) Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là "thập loại chúng sinh" đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa. Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du nhắc đến trong hai câu luận: Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi Cái án phong lưu khách tự mang Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay, chỉ có những kẻ cùng hội cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: "Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là cái mối thông luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy". Quả thực cái sự vô tình, trớ trêu của tạo hoá với những kẻ tài năng đã trở thành mối hận của muôn đời và khắp chốn. Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiêủ Thanh là tình cảm của những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc còn có được một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc, tài hoa "hữu thần" ấy còn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ "tài tử đa cùng" lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết còn ai trong thiên hạ tưởng nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn không thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm. Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la. Đề số 31 Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : "Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”. Bài làm Khát vọng yêu nước không chỉ khẳng định trước những biến cố, những sự kiện lịch sử cùng với sự ra đời của tuyên ngôn độc lập trong “Nam quốc sơn hà"của Lý Thường Kiệt mà còn được thể hiện trong những bản tuyên ngôn hoà bình ngắn gọn. Bài thơ “Vận nước” (Quốc tộ) của Đỗ Thuận mang ý nghĩa thời đại như thế. “Vận nước” (Quốc tộ) được viết khi Đỗ Pháp Thuận trả lời kế sách “bình thiên hạ” với Lê Đại Hành sau năm 981. Bài thơ chỉ có 4 câu hàm súc, cô đọng nói được những khát vọng của một thời : khát vọng hoà bình - hạnh phúc trong đó có việc ứng xử của nhà vua với muôn dân..

<span class='text_page_counter'>(69)</span> Hai câu thơ mở đầu nhà thơ viết : Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lí thái bình (Vận nước như mây quấn Trời Nam mở thái bình) Dùng nghệ thuật so sánh : "Quốc tộ như đằng lạc". “Quốc tộ” là việc nước. Nói đến nước là nói đến “việc nước” ta thường nghĩ đến chất trí tuệ, sự lựa chọn. Nghệ thuật so sánh làm cho câu thơ đanh thép, rắn rỏi. Việc nước có ý nghĩa khái quát như đối nhân xử thế, đối nội, đối ngoại với các nước láng giềng, chăm sóc muôn dân cho “sâu rễ bền gốc”, củng cố quốc phòng vv... thế mà được so sánh với hình ảnh thật cụ thể “như mây quấn”. Ý nghĩa của nó chẳng phải chỉ sự vững bền, sự dài lâu, phát triển thịnh vượng. Nhưng cũng hàm ý còn nhiều điều cần phải tháo gỡ ? Tâm trạng của tác giả là tiếng nói của mọi người mọi thời. Yêu nước, mong muốn đất nước luôn sống trong cảnh thái bình. Câu thơ “Nam thiên lí thái bình” thật trang trọng. “Nam thiên lí” là “ở góc trời Nam” khát vọng của Pháp Thuận nói đến chữ “Thái Bình”. Lúc bấy giờ thái bình có nghĩa là hoà bình. Nhà thơ trả lời với Lê Đại Hành như vậy chính là tuyên ngôn ngắn gọn về hoà bình, về mục đích của muôn dân ; cách nói qua nghệ thuật so sánh thật cụ thể và dễ hiểu và cũng thật sâu sắc. Đất nước muốn bền vững, phát triển thịnh vượng, dài lâu, muốn tháo gỡ rối ren, loạn lạc, ngăn kẻ thù bên ngoài, dẹp yên bọn quấy rối bên trong...chỉ cần hai chữ Thái bình. Đó chính là khát vọng được khẳng định từ đây, từ buổi đầu mở nền độc lập dân tộc, tiếp theo được minh chứng bằng lịch sử dân tộc một ngàn năm. Ví như Trần Quang Khải, sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, phò vua Trần về lại kinh đô Thăng Long cũng nêu phương châm "Thái bình nên gắng sức / Non nước ấy ngàn thu". Trương Hán Siêu sau chiến tranh trở lại Bạch Đằng Giang, chiến trường xưa, trong cảnh "Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô", "buồn vì cảnh thảm", bài ca cất lên cuối cùng là bài ca hoà bình : Giặc tan muôn thuở thăng bình Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo cũng đã tuyên bố về chủ trương này khi chấp nhận sự đầu hành của quân xâm lược Minh, cấp ngựa, thuyền cho chúng rút quân về nước : "Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thật lòng / Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức". Đến thời hiện đại, Tuyên ngôn độc lập hay Lời kêu gọi kháng chiến của nước Việt Nam mới đều xuất phát từ nguyện vọng "Chúng ta muốn hòa bình", "Trời Nam mở cõi thái bình". Vẫn mang tính chất của cảm hứng yêu nước nhưng không phải trong những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc mà “Vận nước” được đặt trong hoàn cảnh cụ thể khi đất nước bình yên, câu thơ không nặng giáo huấn đạo đức của “Văn dĩ tải đạo” (Văn chương là con thuyền chở đạo đức) mà ngắn gọn như một chân lí. Xuất phát này chẳng phải là tình yêu đất nước sâu sắc đó sao ? Nếu hai câu thơ đầu là tuyên ngôn là mục đích, là khát vọng hoà bình thì hai câu thơ sau là giải pháp, là hành động thể hiện trách nhiệm của nhà vua với muôn dân. “Vô vi cư điên cai Xứ xứ tức đao binh”. (Vô vi trên điện các Chốn chốn tắt đao binh ) Hai chữ “vô vi” mang rõ bản chất tư tưởng Lão Tử. Đó chính là chỉ thái độ sống phù hợp với tự nhiên, không trái với qui luật tự nhiên. Trong bài thơ này “vô vi” còn mang ý nghĩa khuyên con người hành động hợp với lẽ tự nhiên. Không nên hiểu “vô vi” là không làm gì. Tại sao nhà vua lại “Vô vi” ? Hành động của nhà vua là phải tu nhân tích đức, phải có sức cảm hoá dân mới được nhân dân khâm phục, noi gương làm theo. Câu thơ chỉ rõ vai trò của người lãnh đạo phải lấy nhân cách phẩm chất của mình để làm “Gương báu răn mình”. Đức sáng, tâm trong mới qui tụ được sức dân. Vô vi do vậy là không nhũng nhiễu đời sống nhân dân, tự mình gây hấn...để cho nhân dân yên hưởng thái bình. Cụm từ “cư điện các” hiểu đa nghĩa : “cư” là “ở” nhưng có thể hiểu là cư xử. Nơi điện các, triều đình, cung điện nhà vua phải giữ mình nhưng như vậy không phải là quan liêu, mệnh lệnh với dân. Nhà vua phải hiểu được dân, ứng xử với dân hợp lí.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> với qui luật tự nhiên ấy chẳng phải là kế sách trị nước lâu dài trong quan hệ nhân quả đó sao. Tóm lại, muốn cho đất nước thái bình, nhà vua phải trở thành gương sáng. Đất nước hoà bình thì dân ấm no, hạnh phúc, chiến tranh không xảy ra. Bài thơ chỉ có 4 câu 20 tiếng nhưng đã thể hiện được bản thông điệp về khát vọng hoà bình hạnh phúc của Pháp Thuận một ngàn năm trước, khát vọng của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử. Tất cả cũng là để thoả niềm mong mỏi có một tiếng đàn Thạch Sanh, bằng tiếng nói hoà bình dẹp yên quân mười tám nước, mong mỏi có tiếng đàn Vua Thuấn gảy khúc Nam phong thanh bình "Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng / Dân giàu đủ khắp đòi phương". Cho đến tận hôm nay. Bài thơ thấm vào nhận thức, cho ta niềm tin vững chắc vào kế trị nước lấy hoà bình, yên dân làm trọng. Từ Quốc tộ cho đến tận hôm nay.. Đề số 32 Hãy làm sáng tỏ lý tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi lấy làm tiền đề lý luận và là nền tảng tư tưởng trong “Bình Ngô đại cáo” Bài làm Bình Ngô đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngô” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới. Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm : “Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”.

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ông không ít lần nhắc đến điều đó : “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng. Dân giàu đủ khắp đòi phương” Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân. Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “ cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức: Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm. Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống: Thần vũ chẳng giết hại, Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> Cấp cho phương tiện trở về: Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền... Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa... Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức". Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện, vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn : Đem đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể : Khi Linh Sơn lương het mấy tuần. Khi Khôi Huyện quân không một đội Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho : Xã tắc từ đây bền vững Giang sơn từ đây đổi mới ...Muôn thuở nền thái bình vững chắc Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.. Đề số 33 Kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong đoạn trích Trao duyên (Truyện Kiều - Nguyễn Du).

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Bài làm “Trao duyên”- một hành động “trả nghĩa chàng Kim” của Thuý Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa, “tình” thường gắn liền với “nghĩa”. Đó là một đặc điểm quan trọng trong quan niệm truyền thống về tình yêu. Đó là cái nhìn hiện thực của Nguyễn Du về con người. Nhưng bên cạnh đó, ta còn thấy một nàng Kiều thiết tha với tình yêu, thiết tha với cuộc sống riêng tư. Điều đó được thể hiện qua nỗi đau đớn của nàng vì tình yêu tan vỡ. Chiều sâu và sự chân thành trong tình cảm của nàng Kiều được bộc lộ sâu sắc khi nàng đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu. Mối tình Kim- Kiều là mối tình đẹp vượt lễ giáo phong kiến. Mối tình của đôi tài tử- giai nhân ấy đã có những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ, sâu nặng thiết tha. Kỉ niệm chính là hiện thân của tình yêu. Kỉ vật gắn với kỉ niệm, là một dạng vật chất hoá của kỉ niệm. Cho nên, rải rác suốt trong đoạn Trao duyên, Thuý Kiều đã nhắc tới, đã sống và đau đớn với những kỉ vật và kỉ niệm ấy. Trước hết, kỉ niệm được Kiều nhắc đến một cách tế nhị khi nói với Thuý vân về mối tình của mình : Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề Ngôn ngữ khách quan, chữ “khi” lặp lại như dư âm của cái đã qua, lời lẽ có vẻ thanh thản. Nhưng cái thiết tha, cái chiều sâu của tình cảm lại nằm ở kỉ niệm “gặp chàng Kim”. Đó là kỉ niệm của phút giây gặp gỡ ban đầu mà “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”. Cả một vùng trong sáng của kí ức hiện về. Nhưng lúc này Kiều còn đủ lí trí để kìm nén, để không bị kỉ niệm cuốn vào tâm tưởng. Nhưng đến câu: “Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề” thì kỉ niệm của ngày trao quạt cho nhau để hẹn ước, đêm dưới trăng uống rượu nguyện thề thuỷ chung tự nó nói lên sự sâu nặng của một mối tình: trong sáng mà mãnh liệt, thiết tha. Mối tình vàng đá ấy tưởng cầm nắm trong tay bỗng chốc bị xã hội dập vùi tan vỡ. Tình yêu vẫn tiếp tục hiện về với kỉ vật: Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung..

<span class='text_page_counter'>(75)</span> Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, nỗi mất mát hiện hữu quá rõ. cầm đến kỉ vật, kỉ niệm tình yêu sống dậy đối lập với hiện thực phũ phàng, Thuý Kiều không còn đủ lí trí để kìm nén được nữa, giọng nói của nàng run lên: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nghe như có tiếng nấc nghẹn ngào trong đó. Hoài Thanh đã cảm thông nỗi đau đớn của nàng Kiều ở hai từ “của chung” - “Bao nhiêu đau đớn dồn vào hai tiếng đơn sơ ấy”. đau đớn vì duyên thì trao cho em mà tình yêu thì không trao được. Kỉ vật với Thuý Vân chỉ đơn giản là vật làm tin nhưng với Thuý Kiều nó lại là tình yêu. Trao duyên cho em, con người đạo lí ở Thuý Kiều mách bảo cần phải trao kỉ vật. vả lại, khi tình yêu tan vỡ, giữ kỉ vật chỉ thêm đau. Nhưng Thuý Kiều không chỉ là con người của đạo lí mà còn là con người của tình riêng. Thuý Vân giữ kỉ vật trong khi chính Kiều mới là người giữ kỉ niệm của tình yêu. Cuộc chia lìa giữa kỉ niệm và kỉ vật là cuộc chia lìa giữa linh hồn và thể xác. Đau đớn dồn vào hai chữ “của chung” là vì như thế. Nguyễn Du như hoá thân để cảm thông, chia xẻ đến tận cùng nỗi đau với nhân vật của mình, từ đó cất lên tiếng nói nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Càng lúc, nỗi đau đớn càng lớn, kỉ vật, kỉ niệm tình yêu cứ chập chờn: Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa “Ngày xưa”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”,… có một đôi lứa thiếu niên bên nhau, nàng đánh đàn cho chàng nghe trong khói hương trầm thơm ngát. Bao nhiêu thi vị của mối tình đầu giờ chỉ còn là vô vọng. - Đốt lò hương ấy, so tơ phím này… - Hồn còn mang nặng lời thề … “Lò hương”, “phím đàn”, “lời thề” là những kỉ niệm sâu nặng, thiết tha đối lập với hiện thực phũ phàng, tương lai mù mịt khiến Thuý Kiều rơi vào trạng thái đau đớn tột độ. Nguyễn Du thật tinh tế, sâu sắc khi biểu đạt nội tâm con người đối diện với kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong hoàn cảnh trao duyên. Thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời. Nàng ứng xử theo văn hoá của thời trung đại nhưng không thôi nghĩ về thân phận và tình yêu riêng tư. điều đó khiến nàng Kiều “người” hơn, gần chúng ta hơn, sống động và chân thực hơn..

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Đề số 34 Cảm nhận về nỗi “thương mình” và ý thức về phẩm giá của nàng Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) qua đoạn thơ : Biết bao bướm lả ong lơi Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm. Dập dìu lá gió cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh. Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa. Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! Bài làm Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm. Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi Biết bao bướm lả ong lơi Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm Dập dìu lá gió cành chim Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường khanh.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái đọ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình. Thân phận nàng kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đoạ đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Giật mình mình lại thương mình xót xa. Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mìng xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa. Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”: Khi sao phong gấm rủ là, Giờ sao tan tác như hoa giữa đường. Mặt sao dày gió dạn sương, Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đoạ đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào. Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân. Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng. Đoạn thơ vừa thể hiện được giá trị hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian. Đề số 35 Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám Bài làm Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tấm Cám có thể xem là truyện cổ tích thần kì điển hình nhất với đầy đủ những đặc điểm thi pháp của thể loại cũng như ý nghĩa sâu sắc và sức sống lâu bền trong nhân dân. Truyện kể về cuộc đời và số phận của Tấm, một cô gái xinh đẹp, dịu hiền, nết na nhưng gặp nhiều bất hạnh. Tấm mồ côi mẹ và sau đó là cha ngay từ khi còn rất bé. Tấm phải sống với dì ghẻ hết sức cay nghiệt và Cám - đứa em cùng cha khác mẹ vốn rất xấu tính, xấu nết. Tấm không chỉ phải vất vả làm lụng mà còn bị mẹ con Cám hành.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> hạ, đoạ đầy. Mẹ con Cám từng lập mưu lấy đi phần thưởng là chiếc yếm đó của Tấm, ăn thịt cá Bống của Tấm. Mụ dì ghẻ còn ác độc bắt Tấm nhặt riêng thóc và gạo để không cho Tấm đi hội. Nhưng mỗi lần như vậy Tấm đều được Bụt hiện lên giúp đỡ và cuối cùng trở thành hoàng hậu. Nhưng sự hãm hại của hai mẹ con Cám chưa phải đến đó đã hết. Nhân lần Tấm về làm giỗ bố, mẹ con Cám lừa giết chết Tấm rồi đưa Cám vào cung. Tấm không chết hẳn mà biến hoá qua nhiều dạng: vàng anh -> xoan đào -> khung cửi -> quả thị, cuối cùng Tấm trở lại thành người, được vua nhận ra qua miếng trầu têm cánh phượng. Tấm trở về cung lừa dội nước sôi cho Cám chết. Ít lâu sau mụ dì ghẻ cũng chết theo. Truyện Tấm Cám trước hết phản ánh mâu thuẫn và xung đột trong gia đình phụ quyền thời cổ. Đó là mâu thuẫn mẹ ghẻ - con chồng. Nhưng bao quát hơn là xung đột giữa cái Thiện và cái ác mà kết cục bao giờ cái Thiện thắng cái ác dù phải trải qua nhiều gian khổ, khó khăn, nhiều thử thách bằng cái chết. Điều đó phản ánh ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về một tương lai tươi đẹp cho những con người nghèo khổ bất hạnh. Nói cách khác, đó chính là triết lí dân gian: "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo", "thiện giả thiện báo", là ước mơ công lý nhân dân. Trong truyện Tấm Cám, vai trò của các yếu tố thần kỳ (Bụt, con gà, đàn sẻ, sự biến hoá của Tấm...) là rất quan trọng. Nó chính là phương tiện để thực hiện ước mơ đổi đời mà nhân dân gửi gắm trong đó. Tuy nhiên, ở mỗi chặng đời, yếu tố thần kì có những vai trò khác nhau. Nếu ở phần đầu, khi Tấm còn thiếu nữ, Bụt trực tiếp giúp đỡ mỗi khi khó khăn thì đến phần sau, tấm đã trưởng thành (làm hoàng hậu) ta không còn thấy Bụt xuất hiện. Sự biến hoá của Tấm như là minh chứng cho sự chủ động, sự lớn lên, cho sức mạnh của khát vọng sống trong Tấm, trong nhân dân. Đó cũng chính là cái nhìn hết sức lạc quan của nhân dân lao động trước thực tại đầy đau khổ bất công. Tấm Cám là truyện cổ tích thần kì tiêu biểu, mang ý nghĩa xã hội sâu sắc thể hiện bằng những biện pháp nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy, nó có một sức hấp dẫn đặc biệt và trường tồn trong cuộc sống người Việt..

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Đề số 36 Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của nhân dân lao động. Bài làm Tôi không thể nào quên được những câu chuyện cổ tích đã đến với tôi từ thuở ấu thơ. Năm tháng qua đi, nhiều điều trong kí ức tuổi thơ cũng xa mờ dần, duy chỉ có những ấn tượng từ những câu chuyện cổ tích là vẫn không hề biến mất. Những giấc mơ kì diệu trong mỗi câu chuyện xa xưa đó luôn sống dậy trong tôi với sức hấp dẫn lạ kì. Nghĩ về những truyện cổ tích, trước hết là nghĩ về những giấc mơ đẹp ở đó. Giấc mơ là những tưởng tượng về những điều chưa và không có thực. Giấc mơ đẹp là tưởng tượng về những điều mà con người khao khát có được trong thực tế. Mỗi câu chuyện cổ tích đều xây dựng được một hiện thực hết sức đẹp đẽ, nhưng là một hiện thực không có thật, là hiện thực trong mơ ước. Tất cả những gì không thể có, không thể thực hiện trong thực tế đều đã được thực hiện trọn vẹn và triệt để trong mỗi câu chuyện. Nói cách khác, truyện cổ tích là thế giới của những giấc mơ, trong những giấc mơ ấy nhân dân lao động thực thi lý tưởng, mong ước của mình. Đó là lí tưởng về sự công bằng trong cuộc đời. Người hiền lành, lương thiện được hưởng hạnh phúc sung sướng, kẻ xấu xa ác độc bị trừng trị, xã hội được sắp xếp lại theo trật tự hợp lí.Người lao động làm chủ, kẻ bóc lột bị tước bỏ mọi quyền vị. Một cuộc sống tốt đẹp cho những cuộc đời cùng khổ, đó không còn là viễn cảnh trong tương lai mà đã trở thành một sự thực trong hiện tại ở mỗi câu chuyện cổ tích. Cô Tấm mồ côi trở thành hoàng hậu, anh Khoai nghèo khổ trở thành con rể phú ông, Thạch Sanh côi cút được làm phò mã, Sọ Dừa xấu xí có được vợ xinh đẹp, nết na và lột xác thành chàng trai tuấn tú, thi đỗ trạng nguyên... Sự đổi thay số phận đó thật sự là những điều kì diệu. Thế nhưng quá trình thực hiện những đổi thay đó còn kỳ diệu hơn. Tiên, Bụt và những phép thần thông biến hoá xuất hiện khiến mỗi câu chuyện cổ tích càng mang sắc màu của những giấc mơ. Yếu tố thần kì trợ giúp nhân vật trong mỗi khó khăn thử.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> thách, khiến tất cả những điều không thể đều trở thành có thể, khiến những gì muốn thực hiện đều được thực hiện một cách nhanh chóng nhất, dễ dàng nhất. Anh Khoai tìm và đưa được cây tre trăm đốt về nhà, thực hiện một thử thách ngoài khả năng của mình, tiếp đó đọc thần chú trừng phạt tên phú ông lừa lọc, bắt phải thực hiện lời hứa. Cô Tấm được đi trẩy hội, có hài thêu, quần áo đẹp rồi trở thành hoàng hậu ; bị giết chết, hoá kiếp thành chim vàng anh, thành cây xoan đào, cây thị và cuối cùng bước ra từ quả thị, trở lại làm người sau bao hoạn nạn. Chàng Thạch Sanh có niêu cơm thần, cây đàn thần, có khả năng phi thường, cứu được công chúa, lên làm phò mã, đánh tan giặc xâm lấn bờ cõi, bạo vêh hạnh phúc... Sức mạnh của trí tưởng tượng của nhân dân lao động đã tạo dựng nên một thế giới cổ tích đầy mê hoặc, ở đó hoà trộn đan xen cả những điều có thực và không thực, ai đã một lần bước vào có lẽ đều không thể nào cưỡng nỗi sức hấp dẫn của nó. Nói truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của nhân dân lao động thực chất là sự khẳng định về những mơ ước, khát vọng cháy bỏng trong mỗi câu chuyện. Tác phẩm văn học nào cũng là sự thể hiện của những mơ ước, khát vọng. Chỉ có điều ở truyện cổ tích những mơ ước, khát vọng đã được thực thi một cách triệt để, đã biến thành hiện thực như một hiện thực cần có trong mong mỏi của nhân dân. Và để xây dựng một hiện thực như vậy, người lao động đã dùng trí tưởng tượng của mình mà tạo nên biết bao điều kỳ diệu. Trong thế giới của những mơ ước này, người ta có thể nhận thấy hai điều. Thứ nhất, được đổi thay cuộc đời, được giàu sang, sung sướng, hạnh phúc, được tự do, bình đẳng. Thứ hai, có được sức mạnh, có những điều kiện cần thiết hoặc có những may mắn kì diệu nào đó để thực hiện sự đổi thay số phận. Đó là những ước mơ đẹp và chính đáng. Trong những năm tháng xa xưa của lịch sử, nó luôn là những điều không tưởng trong thực tế nhưng lại rất thực trên mỗi trang cổ tích. Cho thấy khát vọng, mơ ước cuộc sống tốt đẹp của nhân dân cháy bỏng đến nhường nào. Dường như hiện thực khổ đau tăm tối lại chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm và nuôi lớn những giấc mơ của con người. Điều đó khiến chúng ta hôm nay mỗi lần nhìn lại là thêm một lần kinh ngạc trước niềm tin và sức sống bất diệt của tâm hồn nhân dân trong những năm tháng xa xưa của lịch sử..

<span class='text_page_counter'>(82)</span> Giấc mơ liệu có mãi là giấc mơ, qua bao nhiêu thế kỷ, đến hôm nay người lao động đã làm chủ cuộc đời và tự tìm được hạnh phúc bằng chính sức mạnh của bản thân. Những giấc mơ đã thành sự thật ngoài đời. Những khổ đau không phải là không còn, nhưng khả năng hoá giải chúng nằm trong tầm tay mỗi con người và xã hội. Và những giấc mơ cổ tích lại tiếp tục gieo mầm cho những giấc mơ mới của hôm nay. Con người cần mơ ước và khát vọng để nâng đỡ tâm hồn. Những câu chuyện cổ tích dạy tuổi thơ ta biết mơ ước, khát vọng. Biết tin vào những mơ ước, khát vọng chân chính để sống trong cuộc đời. Đó phải chăng là điều đã tạo nên giá trị trường tồn của truyện cổ tích. Đề số 37 Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh của quê hương Bài làm Khúc ruột miền Trung nối liền hai miền Nam Bắc, miền đất Xứ Thanh địa linh nhân kiệt, tình người đậm sâu, ai đi đâu về đâu có dịp ghé qua cũng bồi hồi để nhớ để thương, vương vấn mãi. Mảnh đất thanh bình, con người hiếu khách, cảnh trí lôi cuốn với những danh lam thắng cảnh nên thơ. Từ bao giờ đã trở thành điểm đến hấp dẫn với tao nhân mặc khách. Ai đã một lần tới xứ Thanh hẳn không thể nào không nhớ tới Hàm Rồng lịch sử, một Hàm Rồng anh hùng và một Hàm Rồng đã đi vào thơ văn nối bao đời thi sĩ. Nằm cách thành phố Thanh Hoá 5 km về hướng Bắc theo đường thuỷ cũ hay là 7 km theo đường quốc lộ 1A, Hàm Rồng hiện lên với sơn thuỷ hữu tình, trời mây thật là diễm lệ. Thiên nhiên dường như có sự ưu đãi đặc biệt với nơi này. Đã qua hàng trăm năm, bàn tay con người khai phá, xây dựng nhưng Hàm Rồng - Sông Mã vẫn giữ nguyên được cái vẻ ban đầu mà tạo hoá đã ban cho. Những gì con người dựng nên và những gì vốn có của đất trời có sự hoà hợp với nhau tạo nên nét riêng. Vừa hùng lại nên thơ, mượt mà đằm thắm mà vẫn giữ được chút gì hoang sơ. Cầu Hàm Rồng bắc ngang đôi bờ sông Mã, hai bên là núi non. Truyền thuyết kể rằng, một con rồng xanh bị trúng tên độc vào mắt nằm phủ phục bên bờ sông. Từ đó tạo thành dãy núi Hàm Rồng ngày nay. Vì vậy, đây còn được xem là long mạch. Dãy núi bắt đầu từ làng.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> Dương(đất) Xá(làng) chạy dài theo bờ sông Mã, uốn lượn quanh co đủ 99 khúc. Đối diện, bờ bên kia là núi Hoả Châu, còn có tên gọi khác là núi Ngọc - tương truyền xưa là hạt minh châu mà rồng xanh nhả ra. Vì 99 ngọn đối diện với Hoả Châu thành chẵn trăm, nên dân gian mới có câu: Chín mươi chín ngọn bên Đông Còn một ngọn núi sang sông chưa về Trên núi Rồng có động đá Long Quang- tức ánh sáng. Nơi cặp mắt rồng, hiện vẫn còn đề tạc nhiều bài thơ chữ Hán của thi nhân trong ngàn năm phong kiến. Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Vương Duy Trinh, Nguyễn Thượng Hiền... một thời vãn cảnh làm thơ. Hàm Rồng thực có sức hút đối với thi nhân nói riêng và người ưa thưởng lãm nói chung. Đền chùa miếu mạo cũng được xây dựng rất nhiều xung quanh non nước Hàm Rồng như một sự cầu an của nhân dân với long thần, làm tăng thêm vẻ kì thú linh thiêng. Đến đầu thế kỉ XX thêm cây cầu "cong như chiếc lược ngà" - cầu Hàm Rồng do bàn tay con người tạo nên để gắn bó không thể tách rời, nối liền khoảng cách hạt ngọc và miệng thần long ấy cũng đã kịp in dấu ấn đậm trong lòng người. Ai xui ta nhớ Hàm Rồng Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây... Sơn cầu còn đỏ chưa phai ? Non xanh còn đối, sông dài còn sâu ? ... Ước sao sông cứ còn sâu Non cao còn cứ giữ màu xanh xanh Khung cầu còn cứ như tranh Hoả xa cứ chạy bộ hành cứ đi Xuân sang cỏ cứ xanh rì Thuyền ai chài lưới con chì cứ tung... (Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) Cầu bị đánh sập năm 1947. Đến năm 1964 được xây dựng lại. Bom đạn Mĩ đánh sập 1972. Năm 1974 xây dựng lại. Bây giờ thì trên không gian thi văn lịch sử này là một bức tranh tam cầu-nhị sơn-nhất giang vừa truyền thống vừa hiện đại..

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Non nước trời mây, cũng như bao thắng địa trên đất nước ta đã từng là chiến địa, ghi dấu chiến công lẫy lừng trong công cuộc chống ngoại xâm. Với Hàm Rồng, đó là kháng chiến chống Mĩ làm nên kì tích anh hùng. Bắn rơi 90 máy bay Mĩ các loại. Hàm Rồng không chỉ là thắng cảnh còn là danh lam, là di tích lịch sử, là niềm tự hào của người dân Xứ Thanh. Dù xa, bóng hình Hàm Rồng - Sông Mã là quê hương thu nhỏ lại. Đề số 38 Thuyết minh ngắn gọn về Nguyễn Dữ và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Bài làm Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỷ XVI chưa rõ năm sinh và năm mất, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (nay là Thanh Miện - Hải Dương) ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng (cha là tiến sĩ đời Lê), từng đi thi và đã ra làm quan, nhưng chủ yếu là sống ẩn dật. Nguyễn Dữ để lại tác phẩm nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạ về những câu chuyện truyền kì) bằng chữ Hán gồm có 20 truyện. Mặc dù thể loại truyền kì có yếu tố kì ảo, hoang đường nhưng mỗi thiên truyện đều đậm chất hiện thực và nhân đạo. Ta có thể thấy được dấu ấn thời đại thế kỷ XVI với hiện thực chiến tranh phi nghĩa, sự tàn bạo bất công của xã hội và thân phận bi thảm của con người. Truyền kì mạn lục được mệnh danh là “Thiên cổ kì bút” (Bút lạ của muôn đời). Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên là một trong 20 truyện của tác phẩm này. Thuộc thể loại truyền kì, nên truyện có những yếu tố hoang đường. Những yếu tố này là phương tiện để ngụ ý phê phán và khuyên răn, giáo dục. Câu chuyện kể về nhân Ngô Tử Văn - một người cương trực, không sợ hung thần, gan dạ trước quỷ dạ xoa, bất khuất trước Diêm Vương. Dũng cảm, cương trực đấu tranh cho chính nghĩa, cuối cùng Ngô Tử Văn đã chiến thắng, giải trừ được tai hoạ, đem lại an lành cho dân, diệt trừ tận gốc sự tàn ác, được tiến cử vào chức phán sự đền Tản Viên, đảm đương nhiệm vụi giữ gìn công lí..

<span class='text_page_counter'>(85)</span> Nội dung đề cao chính nghĩa chống lại cái ác, đặt niềm tin vào công lí ; cách kể hấp dẫn, tình tiết li kì, diễn biến chuyện giàu kịch tính, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên thật sự lôi cuốn, để lại ấn tượng mạnh mẽ nơi người đọc. Đề số 39 Thuyết minh ngắn gọn Đại Việt Sử kí toàn thư Bài làm “Đại Việt sử kí toàn thư” là bộ chính sử lớn của Việt Nam do Ngô Sĩ Liên biên soạn. Ngô Sĩ Liên, chưa rõ năm sinh và mất, người tỉnh Hà Tây ngày nay, đỗ tiến sĩ năm 1442 dưới triều Lê Thái Tông. Ông vâng lệnh Lê Thánh Tông biên soạn bộ “Đại Việt sử kí toàn thư” đồ sộ này. Bộ Đại Việt sử kí toàn thư hoàn tất năm 1497, gồm 15 quyển, ghi chép lịch sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428). Theo lời tựa của tác giả ở đầu sách thì bộ sách này được biên soạn dựa trên cơ sở bộ “Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ở đời Trần và Sử kí tục biên của Phan Phu Tiên, thời đầu nhà Lê. Như vậy, có thể xem Ngô Sĩ Liên là người tham khảo, giữ chỗ được, bỏ chỗ hỏng, thêm chỗ cần của các thư tịch lịch sử trước đó để làm nên bộ sử quy mô lớn đầu tiên của nước ta Tác phẩm thể hiện tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá trị sử học vì những ghi chép kĩ lưỡng, chi tiết, vừa có giá trị văn học cao do cách kể chuyện sinh động, hấp dẫn. Không chỉ chú ý sự kiện mà còn chú ý tâm lí, thái độ, hành động, tính cách góp phần khắc họa sắc nét chân dung nhân vật lịch sử. Đề số 40 Mùa xuân trong thơ Việt (Giới thiệu qua một số bài thơ tự chọn) Bài làm Có một nhà thơ Hung-ga-ri đã từng nói, đại ý : “Năm tháng cứ trôi đi theo qui luật của muôn đời và cùng với nó tất cả sẽ đổi thay. Duy chỉ có cái đẹp là vĩnh cửu, là mãi mãi trường tồn, và nhà văn, nhà thơ là người dẫn đường vào xứ sở của cái đẹp”,.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> đưa tâm hồn ta vào thế giới tràn đầy tình yêu thiên nhiên và niềm tin vào cuộc đời. Từ bao giờ đến bây giờ, thơ văn vẫn là “cây đàn muôn điệu” của cuộc sống, nó di dưỡng tâm hồn ta, tắm mát tâm hồn ta bằng một nguồn nước trong mát vô tận của non nước, của tình yêu cuộc sống của con người “trang trải với muôn nơi”. Trong nguồn nước văn chương ấy, mùa xuân là dòng suối cảm xúc dồi dào “nâng hồn ta bằng muôn cánh sóng”, để lại sâu thẳm của lòng người những rung cảm đẹp đẽ khó quên. Việt Nam đất nước thân yêu của chúng ta đã trải hơn bốn ngàn năm lịch sử, núi sông này đã có biết bao phút thăng hoa ngời chói. Ấy là mùa xuân bất diệt, là cội nguồn của tình yêu quê hương, cỏ cây hoa lá. Là người Việt Nam ai mà chẳng rung động trước mùa xuân tươi đẹp bởi vì con người Việt Nam vô cùng nhạy cảm, yêu thiên nhiên và yêu đời mãnh liệt. Cho nên, các thi sĩ viết về mùa xuân bao giờ cũng bắt đầu bằng tình yêu quê hương đất nước nồng nàn, yêu cái đẹp của muôn đời, của trời đất, của tâm hồn. Phải vậy chăng nên đọc thơ xuân dù ở thời đại nào, hoàn cảnh nào, cảm nhận của chúng ta đầu tiên là tình yêu cuộc sống. Ta chợt nhận ra từ bao giờ nhỉ, tình yêu ấy đã tràn vào lòng ta, chạm vào “dây đàn tâm hồn”, vang lên âm điệu thiết tha, sâu lắng. Dù đã hơn năm thế kỉ trôi qua, dù thời gian đã phủ mờ lên tất cả, nhưng những vần thơ Nguyễn Trãi vẫn cho ta gặp mùa xuân thôn quê Việt Nam, vẫn giữ lại cho đời nét đẹp xuân vĩnh cửu. Trong thơ văn cổ, các thi sĩ thường “họa” mùa xuân bằng những nét chấm phá. Đến với thơ xuân Ức Trai do vậy ta đến với một “Bến đò xuân đầu trại”, một “Cuối xuân tức sự” tươi đẹp, pha chút buồn thời thế sâu lắng. Người đọc đời sau say đắm vẻ đẹp của một “bức tranh thuỷ mặc” : Cỏ xanh như khói bến xuân tươi Lại có mưa xuân nước vỗ trời Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách Con đò gối bãi suốt ngày ngơi (Bến đò xuân đầu trại) Hồn thơ Nguyễn Trãi vốn dạt dào tình yêu thiên nhiên, gần gũi với những miền thôn dã nên mùa xuân trong thơ ông bao giờ cũng đẹp, một vẻ đẹp chân chất mộc mạc trong sáng. Cảnh đồng quê với những thảm cỏ xanh tươi, những làn mưa bụi đan giăng khắp trời như tỏ như mờ, như thực như mơ, những đường đồng vắng lặng, bến.

<span class='text_page_counter'>(87)</span> sông êm đềm, con đò quê nhàn nhã. Cảnh vật tĩnh lặng đến vô cùng, tưởng như đất trời, cỏ cây núi sông đã và đang lắng sâu vào tâm cảm của thi nhân. Có chút động của “nước vỗ trời” nhưng cái động ấy lại là thể hiện cao độ cái tĩnh của tạo vật cũng giống như tiếng ngỗng của mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến sau này vậy. Có dấu vết của con người nơi đồng ruộng, bến sông có nghĩa là cuộc sống vẫn ẩn hiện đâu đó trong bức tranh cảnh vật, nhưng dẫu sao vẫn chỉ là dấu ấn, có khác gì “lác đác bên sông chợ mấy nhà” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan ba trăm năm nữa. Phải chăng người xưa muốn con người mờ đi, cảnh vật hiện ra rõ nét hơn vì “Thiên nhiên bao giờ cũng là chuẩn mực của cái đẹp”. Nói như vậy cũng có nghĩa là khẳng định thi nhân xưa “mở hồn đón lấy những rung động của cuộc đời” để lòng mình hoà vào thiên nhiên, giao hoà với mùa xuân bất diệt. Bức tranh thiên nhiên quê hương mộc mạc, đậm đà của Nguyễn Trãi đã giúp ta hiểu hơn tâm hồn của người xưa, về tình yêu quê hương, tạo vật thiết tha sâu sắc. Ta đón nhận những vần thơ ấy, trân trọng những bức tranh ấy và tâm hồn ta như lắng xuống, như đắm sâu hơn trong cái đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên. Thơ xuân của Nguyễn Trãi tĩnh tại nhưng tràn đầy sức sống, có pha chút buồn thế sự của người mà tâm hồn “cuồn cuộn nước triều đông”. Tuy nhiên, niềm tin, vui vào cuộc sống vẫn đượm trong thơ ông. Ông đắm mình với những phút giây tĩnh lặng ở quê hương để chiêm ngưỡng cảnh xuân. Đọc thơ xuân Nguyễn Trãi, tâm hồn ta, trái tim ta bất chợt rung lên mãnh liệt trước vẻ đẹp đến không ngờ của cảnh “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn, đầy xuân mưa bụi nở hoa xoan” (Cuối xuân tức sự). Phải có một tâm hồn giao hoà cùng thiên nhiên và phải có tình yêu cuộc sống như Ức Trai mới có thể nghe bước chuyển vô hình của thời gian, mới nắm bắt được phút chuyển đổi mong manh giữa hai mùa xuân - hạ qua một tiếng cuốc xa xăm vọng vào “phòng văn”, đọng lại hồn thi sĩ. Câu thơ có cái động ở bề nổi nhưng vẫn có cái tĩnh ở chiều sâu. Đó là cái lặng im của nhà thơ đón chờ tiếng vọng của cuộc đời và trong phút thăng hoa của cảm xúc, bằng tất cả sự rung động mãnh liệt trước mùa xuân, Nguyễn Trãi đã ghi lại hình ảnh tuyệt đẹp : “Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan”. Đọc câu thơ, tự nhiên ta thấy lòng mình xốn xang kì lạ ! Mùa xuân đẹp và đáng yêu, mùa xuân tươi xinh và gần gũi biết nhường nào. Nguyễn Trãi đã chọn hoa xoan để nói về mùa xuân giữa muôn ngàn hương hoa khác, đã chọn sắc tím để điểm vào bức tranh xuân.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> của mình một nét mong manh nhưng vĩnh hằng của cái đẹp. Cảm ơn thi sĩ đã cho ta thưởng thức những nét đẹp rất thôn quê mà cũng rất độc đáo, bồi dưỡng ta thêm tình yêu quê hương. Ta cũng như lây niềm xúc động của nhà thơ và trân trọng, nâng niu những vần thơ xuân đã trở thành “trầm tích” trong tâm hồn người dân đất Việt. Nếu như trong văn thơ cổ, mùa xuân được ghi nhận ở cái đẹp thiên nhiên thì đến với mùa xuân trong thơ ca lãng mạn (1930 - 1945) ta bắt gặp “mùa xuân con người”, ta đón nhận ở đó niềm rung cảm của các nhà thơ trong mùa xuân cuộc đời, mùa xuân của riêng họ. Cuộc sống và mùa xuân được cảm nhận, thể hiện ở những nét khác nhau. “Mùa xuân chín” của Hàn Mạc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, nét “Xuân hồng” của Xuân Diệu là những ấn tượng khó phai về một cái “Tôi” mở hồn đón nhận và ghi bắt những nét rất tinh vi, điển hình của mùa xuân xứ sở. Bên cạnh nỗi buồn của những nhà thơ này, mùa xuân là một cái gì đó lắng sâu nơi “đáy hồn nhân thế”, là một nỗi niềm tìm đến với thiên nhiên nhưng lại biến thiên nhiên thành hồn mình. Con người là chuẩn mực của cái đẹp. “Tháng riêng ngon như cặp môi gần”. Mùa xuân đến với mọi người và làm xao động tất cả. Các nhà thơ xưa thường gửi gắm tâm sự vào thiên nhiên, đến với mùa xuân để gặp gỡ bạn lòng, đến với người tri kỉ, còn thi nhân hiện đại đến với mùa xuân như bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cái đẹp, cái cao cả của cuộc đời đầy tục lụy, thăng trầm, đến với mùa xuân để hội ngộ với tâm hồn độc giả, để thể hiện mình. Mùa xuân ! Ta đến với “Mùa xuân chín”, ta hoà mình vào mùa xuân dâng hương cho đời. Mùa xuân chín ở cảnh vật, ở tâm hồn và có lẽ cả ở niềm trắc ẩn, ở tình yêu nồng thắm với con người của Hàn Mạc Tử : Trong làn khói ửng giấc mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang Những cảm xúc rất tinh vi, những nét xuân rất nhẹ, rất nhanh và cũng muôn phần say đắm. Làn nắng xuân hồng “ửng” lên hoà quyện vào làn “khói mơ” tạo nên sự tương phản nghệ thuật giữa mảng sáng và mảng tối, giữa đậm và nhạt, giữa thực và hư. Đọc.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> câu thơ ta bất giác liên tưởng đến cái “nắng hàng cau nắng mới lên” ở Đây thôn Vĩ Giạ. Hình như nắng mai ở “Mùa xuân chín” cũng là cái nắng mới ửng lên hồng tươi và phảng phất chất huyền thoại. Mùa xuân duyên dáng, mùa xuân đậm đà bản sắc dân tộc. “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”, chỉ “lấm tấm” thôi, như vết chân của “con nai vàng ngơ ngác” cùng đến với mùa xuân, cùng chín với cỏ cây, với nắng ửng, với khói mơ. Một từ “tan” như làm đoạn thơ có cái động rất khẽ khàng để rồi cùng tiếng động sột soạt của gió trêu tà áo biếc. Từ “biếc” ở cuối câu làm cho cảnh vật mướt hơn, đẹp hơn. Không phải màu xanh, cũng không phải màu tím mà chỉ có cái “biếc” tràn đầy sức sống. Và Hàn Mạc Tử bất chợt ghi lại được một hình ảnh độc đáo : “Bóng xuân sang” trên giàn hoa lí. Mới chỉ có cái bóng thôi mà tình xuân đã ngất ngây, ngập tràn muôn nẻo - ấy là nẻo đường tâm hồn của nhà thơ. Trong nhiều bài thơ xuân của thơ ca Việt Nam, “Mùa xuân chín” trong thơ Hàn Mạc Tử có những nét riêng, không bị lẫn vào bao nhiêu nét đẹp của mùa xuân khác. Đó là những chùm âm thanh mà nhà thơ đã nghe, đã cảm nó bằng tất cả sự rung động của tâm hồn và trái tim khối óc rất tài hoa nhân hậu của mình. Khổ thơ đầu là sự chiếm lĩnh hoàn toàn của mùa xuân. Ba khổ thơ sau, trong bức tranh xuân ấy, bầu trời xuân chín ấy, là cuộc sống con người. Tiếng ca của “bao cô thiếu nữ” mang khát vọng sống, khát vọng tình yêu và ở sâu thẳm của những lời ca ấy, Hàn Mạc Tử thấy cả tương lai của họ. Những vui, buồn mà họ sẽ trải trong đời. Mùa xuân chín của thiên nhiên sẽ tuần hoàn, còn mùa xuân của đời người ngắn ngủi trôi qua không trở lại, không đủ để những cô gái kia hướng trọn niềm vui thiếu nữ. Hàn Mạc Tử rối lòng khi nghĩ “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy - Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm trắc ẩn như lan sang cả người đọc, khiến cho ta sững sờ, nhận ra chân giá trị của cuộc sống thực này. Cái quí giá nhất của một đời người là phải sống sao để cho không ân hận vì đã để cho mùa xuân, tuổi trẻ qua đi vô ích, vô nghĩa. Trong nỗi niềm trào dâng, trước thực tại, khi nghe tiếng ca vắt vẻo ở lưng chừng núi kia, khát vọng cháy bỏng về tình yêu và hạnh phúc, nhà thơ chợt nhớ quá khứ, nhớ về một bờ sông cát trắng, nhớ cái nắng chang chang và nhớ một người con gái ngày xưa : Khách xa gặp lúc mùa xuân chín.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> Lòng trí bâng khuân chợt nhớ làng - Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Mùa xuân thiên nhiên chỉ là cái bóng, mùa xuân tâm hồn mới thực là xuân. Hàn Mạc Tử bỗng nhớ quê hương trên bước đường lữ thứ. Tâm hồn người Việt Nam bao giờ vẫn vậy, tình nghĩa và thuỷ chung vô cùng. Sẽ còn đọng mãi trong ta hình ảnh một bờ sông trắng với mùa xuân chín của đất trời, của tâm hồn người Việt Nam. Đó chính là cái đẹp của lòng người trong mùa xuân bao la của trời đất, nó nhắc nhở con người phải sống hết mình, hãy để tâm hồn mình chan hoà với tất cả. Mùa xuân trong thơ ca cách mạng cho ta gặp cái đẹp của đất nước, của Muà Xuân Cách Mạng trên bước đường xuân ngàn dặm. “Rằm tháng riêng” của Hồ Chí Minh, “Bài ca mùa xuân 61” của Tố Hữu đã góp tiếng nói riêng, sắc màu riêng cho nền thi ca dân tộc về mùa xuân. Một dòng sông xuân, một con thuyền trăng ngân, trời xuân, nước xuân, hoa lá xuân, đất nước bước vào xuân vĩnh cửu. Trên dòng sông mênh mang, giữa mùa xuân bát ngát và hứa hẹn nhiều chiến thắng cho ngày mai, Bác Hồ bàn luận việc quân để cho mai đây - một ngày không còn xa nữa “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Mùa xuân Cách Mạng, mang vẻ đẹp riêng, nơi đó con người và thiên nhiên gắn bó với nhau bởi một cái gạch nối hữu cơ là độc lập tự do cho một đất nước vừa thoát khỏi đêm trường nô lệ lại phải cầm ngay súng để bảo vệ nền hoà bình non trẻ. Dân tộc Việt Nam với những con người bao đời nay “Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa” đang cùng vươn tới vạn xuân - Mùa xuân sẽ ở lại vĩnh viễn trong cuộc đời này. Trong bản hợp xướng mùa xuân ấy, mỗi con người, mỗi tâm hồn đều ước ao mình làm được một “mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân lớn lao của tổ quốc thân yêu, cùng hát vang những bài ca của con người là chủ nhân của đất nước, của cuộc sống. Đến với thơ xuân từ nhiều nẻo đường, trên vô vàn cung bậc, có lẽ chúng ta cũng thấy ở đó, học được ở đó bao điều bổ ích cho cuộc đời mới hôm nay. Mùa xuân kia trong cuộc sống này giúp ta nhận ra phần sâu thẳm của lòng mình, cái đẹp của cuộc đời để vươn tới tầm cao của thời đại mà không quên những rung cảm, tình yêu tha thiết với con người. Đọc những vần thơ xuân, đồng điệu được với tâm hồn thi.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> nhân, ta mới hiểu thế nào là sống đẹp, mới hiểu hơn câu nói của nhà thơ Hung-ga-ri và hơn lúc nào hết, ta cảm thấy “cuộc đời xứng đáng để tin yêu”. Đề số 41 Giới thiệu thơ văn Nguyễn Trãi Bài làm Trong thời đại phong kiến ở nước ta không có vị anh hùng nào nhiều tài nhưng chịu nhiều oan khiên như Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi là một tài năng hiếm có. Tổng hợp nhiều con người trong một con người : nhà chính trị, quân sự, ngoại giao kiệt xuất, nhà tư tưởng, văn hoá lớn, nhà nghệ sĩ lỗi lạc. Nguyễn Trãi là một Oan khiên hiếm có. Hiếm có ai tài năng, công lao, đức độ như Nguyễn Trãi, vậy mà phải chịu vu oan với cái án thảm khốc “tru di tam tộc”. Tội của Nguyễn Trãi ư, thực ra ông chết vì trong sáng quá, thanh liêm quá. Tuy nhiên, tựu trung lại, đây là con người yêu nước thương dân, đau đáu tấm lòng vì dân giúp nước tiêu biểu nhất trong hơn một nghìn năm phong kiến độc lập tự chủ Việt Nam. Lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi có nguồn gốc từ lí tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, song được chọn lọc lấy những yếu tố tích cực, “Việt hoá” theo yêu cầu đạo đức và đặc biệt là theo thực tế cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, theo đòi hỏi của dân tình. Do đó, tư tưởng nhân nghĩa của ông vừa tiến bộ, vừa thiết thực. Cụ thể : nhân nghĩa = yêu nước + thương dân, trong đó, dân là gốc của nước. “Thân dân” cũng là cốt lõi trong tư tưởng yêu nước của ông. Lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi vừa nhất quán, vừa biến đổi phù hợp với vận động của cuộc sống. Trong kháng chiến, đó là lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến quyết thắng quân xâm lược. “Bình Ngô đại cáo” là một bản cáo trạng tội ác kẻ thù hùng hồn : Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ..

<span class='text_page_counter'>(92)</span> Hình ảnh thơ thật dữ dội, mang tầm khái quát lớn mà vẫn lay động tâm can người đọc. Đáng chú ý là tác giả tố cáo tội ác của kẻ thù đối với ai và vì ai mà tác giả tố cáo ? Chính nhân dân : “dân đen”, “con đỏ” - người lao động cùng khổ nhất, niềm yêu và nỗi đau khắc khoải suốt đờiòong. Câu thơ mãnh liệt về cảm xúc, lớn lao về tư tưởng. Nỗi đau lớn lao tạo nên hành động lớn. Ý chí và sức mạnh chiến đấu cho hạnh phúc nhân dân được miêu tả mang tầm vóc sử thi kì vĩ : ... Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn ... Cơn gió to trút sạch lá khô Tổ kiến hồng sụt toang đê vỡ. Không khí trận mạc ấy nhiều tác phẩm khác có thể có nhưng lí tưởng trận mạc thì không tác phẩm nào sánh kịp. Đất nước tan bóng giặc, lòng yêu nước của Nguyễn trãi là khát vọng sao cho nhân dân no ấm. Bài Bảo kính cảnh giới số 43 có 6 câu tả cảnh, nhưng hai câu kết vút lên tiếng nhạc lòng thẳm sâu của tác giả : Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương. Đây không chỉ là khát vọng cơm áo, mà còn là ước mơ một nền chính trị nhân ái. Nỗi đau trong thơ Nguyễn Trãi có nguồn gốc từ sự chứng kiến thói đời đen bạc và những thăng trầm cá nhân. Buồn trước nhân tình thế thái : Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết Bui một lòng người cực hiểm thay. Câu thơ nước mắt có dáng dấp tục ngữ. Lối viết này ta gặp rất nhiều : “Ở thế nhiều phen thấy khóc cười”, “Hoa thì hay héo cỏ thì tươi”. Âm điệu của nó trầm uất, nội dung là vạch ra cái trớ trêu, phi lí, đen bạc của cuộc đời. Buồn nhưng không bi quan tuyệt vọng, vẫn như tùng bách hiên ngang “Ung dung cứ nói điều ta thích - Uốn gối theo đời không thể vâng”. Bản lĩnh cứng cỏi, nhân cách trung thực, Nguyễn Trãi coi “Sự thế nhiều khi muốn khóc cười” là nơi thử thách,.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> rèn luyện mình. Và ông tự hào chính đáng : “Một tấm lòng son lò lửa luyện - Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”. Điều sâu xa nhất trong nhân cách Nguyễn Trãi là luôn canh cánh nỗi lo dân nước. Quy ẩn mà tấm lòng ông vẫn tha thiết với đời, trào dâng như biển cả trong những vần thơ thật cảm động : “Bui một tấc lòng ưu ái cũ / Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”. Chữ “bui” (từ cổ) nghĩa là riêng. Đi tận nỗi niềm riêng Nguyễn Trãi, lại hoá ra là “tấc lòng ưu ái” với dân - nước. Đó là tầm vóc lớn của tư tưởng và cường độ lớn của xúc cảm trong thơ, mà hạt nhân là tư tưởng thân dân. Nước với dân là một, nói đúng hơn, dân là nhân lõi của nước. Sáng suốt biết chừng nào ! Hồn thơ Nguyễn Trãi không chỉ có độ sâu mà còn rất phong phú . Đó là lòng yêu thiên nhiên đằm thắm thiết tha. Chốn ẩn dật u tịch không khép lại hồn ông mà mở ra bao âm vang thắm thiết của đời thường. Cò nằm hạc lẩn nên bầy bạn Ủ ấp cùng ta làm cái con. Biết bao ấm áp trong hai chữ “ủ ấp”. Nguyễn Trãi không chỉ đến, mà nhập vào thiên nhiên. Sự hoà hợp này phát lộ thành những câu thơ kì diệu. Nói chuyện uống rượu mà viết “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” thì thật bất ngờ, lí thú. Uống rượu thành uống trăng (hớp nguyệt), say trăng như say rượu (nghiêng chén) đúng là bậc đại giác mới sinh đại mộng. Hồn thơ như thế nên biến hoá cả cây chuối dân dã thành. “Tình như một bức phong còn kín / Gió nơi đâu gượng mở xem” cũng không có gì lạ. Mảng thơ này làm Nguyễn Trãi “người” hơn, gần chúng ta hơn, vì thế mà “vĩ nhân” hơn. Bởi Mác đã nói rất hay : “Những gì thuộc về con người dều không xa lạ với tôi”. Nguyễn Trãi còn là một nhà chính luận lỗi lạc. Quân chung từ mệnh tập là một biểu tượng mẫu mực. Sắc sảo chặt chẽ trong tập luận trên cơ sở một tư tưởng nhân nghĩa tiến bộ, cao đẹp, lay động cả tâm trí người đọc. Trước kẻ thù đang thất thế mà người nắm chắc phần thắng hạ bút “Nếu muốn rút quân về nước ta cho sửa sang cầu cống, mua sắm tầu thuyền, thuỷ bộ hai đường, tuỳ theo ý muốn ; quân ra khỏi cõi, yên ổn muôn phần, không còn lo ngại gì, rồi đây ta lại nộp cống xưng thần, theo như lệ trước" (Thư lại dụ Vương Thông) thì quả là tinh tế, sâu xa, khôn ngoan rất mực, đáng.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> để muôn đời suy ngẫm. Về Quân trung từ mệnh, Phan Huy Chú đã hạ một lời bình đích đáng - “Có sức mạnh như mười vạn quân”. Thơ Nôm và Hán của ông không chỉ lớn về tư tưởng, nhạy cảm về tâm hồn, mà đầy hấp dẫn bởi lối thể hiện : Hái cúc ương lan hương bén áo Tìm mai đạp nguyệt tuyết xâm khăn. “Hương bén áo”, "tuyết xâm khăn" khiến ẩn sĩ thành tiên ông. Song hay hơn cả là vẻ đẹp tổng hợp này : con người là trung tâm vũ trụ, là lực hút thiên nhiên. Thiên nhiên quần tụ quanh Nguyễn Trãi . Bài thơ Nôm Bảo kinh cảnh giới số 43 tả cảnh: Hoè lục đùn đùn tán rợp gương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ. Những từ “đùn đùn”, “phun”, khiến chúng ta sửng sốt về ngôn ngữ thơ. Tiếng Việt buổi đầu ở Nguyễn Trãi đã đạt một trình độ đáng khâm phục. Tóm lại, Nguyễn Trãi xứng đáng là bậc đại thi hào đầu tiên của lịch sử văn học dân tộc, vừa kết tinh và nâng cao những tinh hoa văn hoá của thời đại trước, vừa khai sáng cho thơ ca tiếng Việt. Để có một Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến sau này, chắc không thể thiếu được cái nền lớn : Nguyễn Trãi. Đề số 42 Phẩm bình Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch Bài làm Bài thơ, niềm xúc cảm trong một cuộc đưa tiễn một người bạn của Lí Bạch - Mạnh Hạc Nhiên, cũng là nhà thơ nổi tiếng đương thời. Tuy là bạn vong niên, nhưng hai người đồng cảnh, đồng điệu và cùng thích ngao du sơn thuỷ. Bạn từ lầu Hạc lên đường Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng..

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Hai câu thơ đầu, nghe chỉ đơn thuần như một lời tường thuật sự việc : về một buổi tiễn đưa bạn, có nơi đi, lầu Hoàng Hạc, có nơi đến, Dương Châu. Nhưng cũng ngay từ câu thơ này đã bao hàm những yếu tố trữ tình đầy xúc động. Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu (Giữa tháng ba, mùa hoa khói, xuôi về Dương Châu). Yên hoa theo nghĩa đen là phồn hoa, ở đây dùng theo nghĩa bóng chỉ cảnh vật diễm lệ của mùa xuân. Giữa mùa hoa khói, đó là lúc cuối xuân, cảnh đẹp rực rỡ, vừa thực vừa rộng. Xuôi dòng vào giữa mùa hoa khói. Cuộc đưa tiễn có sương khói mơ màng, lại có sóng nước, có thuyền có bến... làm tăng thêm sự lưu luyến, làm giàu cả tâm hồn, làm sâu nặng tình “cố nhân”. Hai câu thơ sau : Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Là những câu thơ dịch thật hay. Tuy vậy dịch giả đã để mất một “nhãn tự”. Cô phàm viễn cảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Không phải chỉ là bóng buồm, cánh buồm mà là cánh buồm cô đơn (cô phàm). Bạn đã xuôi dòng Dương Châu, người đưa tiễn không còn ai tri âm, tri kỉ, nên không chỉ thấy người cô đơn mà cánh buồm trên sông cũng cô đơn. Mặc dù, theo sử sách, trên sông Trường Giang thuyền bè đi lại tấp nập, buồm nhiều như bươm bướm. Vậy mà khi tâm hồn đã cô đơn thì cánh buồm cũng thấy cô đơn vậy. Trong thơ hiện đại, khi nói đến sự chia xa, người ta cũng hay dùng hình ảnh cánh buồm. Anh đi đó, anh về đâu Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm... (Nguyễn Bính) Hai câu thơ sau, đương nhiên là tả cảnh : có một người đứng nhìn mãi về phía xa, một cánh buồm cô đơn, rồi đến cánh buồm cũng không còn nữa, chỉ thấy sông Trường Giang chảy lưng trời. Nhưng lại là những câu tả cảnh ngụ tình. Đọc câu thơ có thể thấy trạng thái tình cảm của người đưa tiễn. Thời gian lưu lại để nhìn cũng dài.

<span class='text_page_counter'>(96)</span> lắm, tầm mắt dõi ra thật xa, có thể đứng ở vùng vị trí trên cao nên càng có thể nhìn ra xa để thu lại hình ảnh cuối cùng của người ra đi. Bài thơ nói về sự đưa tiễn mà không thấy bất kì một âm thanh nào, cả lời tiễn biệt lẫn tiếng sóng, tiếng gió. Chỉ thấy cảnh, thấy hình, thấy tình. Sự vô thanh khiến cho con người càng dồn về chiều sâu tâm tưởng, làm ra tăng sự trĩu nặng của tình người. Đề tài tình bạn là một đề tài khá phổ biến trong thơ Đường nói chung và trong thơ Lí Bạch nói riêng. Với bài thơ nói về tình bạn trong sáng và đằm thắm này, chúng ta càng thấy “Thơ Lí Bạch là thơ của một tâm hồn phóng khoáng, cớ có hùng tâm khí phách yêu đời, yêu tự do, yêu tổ quốc, yêu thiên nhiên, ghét cuộc đời tù túng, tầm thường, xấu xa”. Trong văn học Việt Nam, những bài thơ hóm mà thân thiết nói về tình bạn như Bạn đến chơi nhà : Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng chợ thời xa Ao sâu nước cả khôn chài cá Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà ... Hay những lời nức nở của Nguyễn Khuyến Khóc Dương Khuê Bác Dương thôi đã thôi rồi Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta... cũng đều là thơ hay ngợi ca một thứ tình cảm đẹp, cần thiết cho mọi lứa tuổi : Tình bạn. Đề số 43 Thuyết minh lý tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” Bài làm Bình Ngô đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi - nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến - bài cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> “Bình Ngô” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới. Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm : “Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân” Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ông không ít lần nhắc đến điều đó : “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng. Dân giàu đủ khắp đòi phương” Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân. Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất : quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “ cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức: Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội. Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng - Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm. Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống: Thần vũ chẳng giết hại, Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Cấp cho phương tiện trở về: Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền... Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa... Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức". Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện, vừa cụ thể ; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn : Đem đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể : Khi Linh Sơn lương het mấy tuần. Khi Khôi Huyện quân không một đội Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho : Xã tắc từ đây bền vững Giang sơn từ đây đổi mới ...Muôn thuở nền thái bình vững chắc Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước. Đề số 44 Nội dung dân chủ và nhân đạo của văn học dân gian Việt Nam qua một số truyện dân gian đã học Bài làm Dân chủ và nhân đạo là nội dung bao trùm, xuyên suốt văn học Việt Nam nói chung và văn học dân gian nói riêng. Qua một số tác phẩm văn học dân gian Việt nam như Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ ; truyện Tấm Cám ; truyện thơ Tiễn dặn người yêu,… chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Nhân đạo là những nguyên tắc đạo lí đối xử giữa con người với con người, là lòng nhân ái, là ngợi ca những vẻ đẹp của con người. Nhân đạo là cảm thông với những nỗi khổ đau, bất hạnh và lên tiếng bênh vực, đấu tranh đòi quyền sống, quyền hạnh phúc con người. Nhân đạo còn là tiếng nói trân trọng, đề cao những ước mơ, khát vọng của con người. Với tất cả những điều đó thì nội dung dân chủ cũng chính là một biểu hiện của nội dung nhân đạo. Văn học dân gian ra đời trong bối cảnh mà người dân chưa có được tự do, dân chủ. Cuộc sống bất công nghiệt ngã, cái đói, cái nghèo dai dẳng. Văn học dân gian vừa phản ánh hiện thực vừa biến những điều "không thể" thành "có thể" để nâng đỡ con người Bài học mất nước đầu tiên thật đau xót. An Dương Vương mơ hồ với bản chất thâm độc, dã tâm xâm lược của kẻ thù. Mị Châu nhẹ dạ cả tin dẫn đến cảnh "nước mất nhà tan". Rùa vàng kết tội Mị Châu là giặc, vua cha tuốt gươm chém nàng, tác giả dân gian đã tuyên đọc và thi hành bản án của lịch sử. Tượng nàng Mị Châu cụt đầu đặt ở khu di tích Cổ Loa có ý nhắc nhở hậu thế hãy ghi nhớ lấy bài học lịch sử đau lòng. Nhưng trong khi phê phán Mị Châu bằng "bản án tử hình" nghiêm khắc, nhân dân cũng thấu hiểu nàng mắc tội không do chủ ý mà chỉ do vô tình nhẹ dạ nên để ước nguyện của nàng được hoá thành ngọc trai, khi đem ngọc trai về rửa ở nước giếng Cổ.

<span class='text_page_counter'>(100)</span> Loa Thành, nơi Trọng Thuỷ tự vẫn, thì ngọc càng thêm sáng. điều này nói lên truyền thống cư xử "thấu lí đạt tình" của nhân dân ta. Giá trị nhân đạo của truyện dân gian đặc biệt được thể hiện ở những kết thúc có hậu của truyện cổ tích. Trương Chi chết vì tương tư nàng Mị Nương. Bằng nỗi cảm thông lạ lùng, tác giả dân gian đã sử dụng hình thức hoá thân kì diệu. Ba năm sau, hồn Trương Chi nhập trong chén ngọc để mỗi khi Mị Nương rót nước vào thì bóng dáng chàng Trương hiện lên, có bản còn kể Mị Nương nghe thấy cả tiếng sáo Trương Chi. Tình yêu không thành nhưng bằng cách đó, nhân dân ta đã bất tử hoá tình yêu. Cũng xuất phát từ lòng nhân đạo sâu sắc ấy mà nhân dân đã để cho cô Tấm thảo hiền, xinh đẹp qua nhiều biến hoá thăng trầm, cuối cùng trở về làm hoàng hậu, sống cuộc đời hạnh phúc bên nhà vua (truyện Tấm Cám) ; anh Khoai thật thà chăm chỉ cuối cùng đã trừng phạt được những kẻ tham lam và lấy được vợ (truyện Cây tre trăm đốt) ; Sọ Dừa lột xác, đi thi đỗ trạng nguyên, cứu được vợ, cảnh cáo hai cô chị ích kỉ, hẹp hòi (truyện Sọ Dừa) ;… Những kết thúc có hậu của truyện cổ tích thể hiện triết lí nhân dân : "Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo". Những giấc mơ đẹp trong các câu chuyện cổ sẽ không bao giờ được chắp cánh nếu không có những nhân vật thần kì, những chi tiết thần kì. Bước vào thế giới cổ tích là bước vào thế giới của những ông Bụt, bà Tiên, thần linh, hư ảo,… Thế giới thần kì ấy xuất hiện để nâng đỡ người hiền. Khi cô Tấm chưa đủ sức tự đấu tranh, ông Bụt luôn xuất hiện. Bụt cho Tấm niềm hi vọng khi nhìn vào đáy giỏ, cho Tấm niềm an ủi mỗi lúc cất tiếng gọi "bống… bống… bang… bang…". Bụt giúp Tấm có được cả niềm vui ngày hội và cả ngôi vị cao nhất là trở thành hoàng hậu (Tấm Cám). Con chim thần ăn khế trả vàng đâu phải là cuộc bán mua sòng phẳng. Chim thử lòng người để thưởng cho những con người nghèo khổ mà trung hậu thật thà. Những chi tiết thần kì đã khiến cho những câu chuyện cổ trở nên lung linh kì ảo và giúp cho khát vọng nhân đạo của nhân dân được thực hiện. Yếu tố kì ảo là những chi tiết nghệ thuật thấm đẫm tính nhân văn. Nhưng chuyện cổ còn hấp dẫn người đọc bởi tinh thần dân chủ đặc biệt là dân chủ trong hôn nhân. Nàng công chúa cao sang cành vàng lá ngọc dám lấy một chàng trai đánh cá nghèo đến không có một chiếc khố che thân (Chử Đồng Tử). Chuyện một ông vua ghé vào quán nghèo của bà lão bán nước ; chuyện một bà hoàng hậu chăn tằm dệt vải, giặt.

<span class='text_page_counter'>(101)</span> giũ, cơm nước (Tấm Cám),… Chuyện đời và những giấc mơ đã hoà quyện vào nhau tạo nên một thế giới mà ở đó tính dân chủ được đề cao. Người Việt Nam trọng tình, trọng nghĩa. Văn học dân gian là tiếng hát chan chứa nghĩa tình. Nhân dân muốn bằng tình, bằng nghĩa để xoá nhoà ranh giới giàunghèo, sang- hèn thực hiện công bằng dân chủ. Dân tộc ta tin tình nghĩa con người sẽ hoá giải được tất cả những nỗi đắng cay, cơ cực ở cuộc đời này. Những bài học đạo lí, nhân nghĩa, những ước mơ khát vọng,… của người xưa sẽ giúp ta trân trọng những gì ta đang có hôm nay để gìn giữ cho muôn đời sau. Đề số 45 Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Du Bài làm Nguyễn Du (1765 - 1820) là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt trông khắp sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân). Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê - Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài hát xướng. Nguyễn Du sinh ra và lớn lên ở đất Thăng Long. Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: Sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan võ tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc giạt lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống ở kinh thành Thăng Long. Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thía biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động,.

<span class='text_page_counter'>(102)</span> phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày ... những con người “dưới đáy”. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du- nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Nguyễn Ánh lên ngôi triệu Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sỹ điện Cần Chánh và cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18.9.1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai. Tư tưởng Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: Trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Là một người có có hoài bão nhưng cuộc đời hết gió bụi lại buồn chán, Nguyến Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn, hành lạc ....) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trường trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam. Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài. Thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lời trai phường nón. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự: Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Chính “Những điều trông thấy” khiến tác phẩm của Nguyến Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lớn lao. Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống những trang nhật ký đời sống, nhật ký tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lay lắt, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử,... đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu; Tình cờ làm thơ; Ngồi đêm,...). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu - nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca,... Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bọn “vuốt nanh”,.

<span class='text_page_counter'>(103)</span> “nọc độc” “xé thịt người nhai ngọt xớt” ... Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du. Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lý “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ. Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đền bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: Từ Đọc Tiểu Thanh Kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sở kiến hành đến Văn tế thập loại chúng sinh,... thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả không gian, thời gian, vượt cả gianh giới ta - địch để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi Quỷ Môn Quan. Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du lấy sự khẳng định cuộc sống hạnh phúc trần gian làm nền tảng. Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông. Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển..

<span class='text_page_counter'>(104)</span> Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán - Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hoá. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung đại. Đặc biệt Truyện Kiều của Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc. Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lêi kết: Tiếng thơ ai động đất trời Nghe như non nước vọng lời ngàn thu Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày. Đề số 46 Dựa vào đoạn trích Chí khí anh hùng và tham khảo một số đoạn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, anh (chị) hãy viết một bài giới thiệu về nhân vật Từ Hải Dàn bài A. Mở bài Giới thiệu khái quát: - Từ Hải là một anh hùng lí tưởng, một nhân vật thể hiện giấc mơ công lý của Nguyễn Du. - Từ ngoại hình, lời nói, đến hành động, tính cách và ngay cả cách tỏ tình của Từ Hải đều toát lên phẩm chất của người anh hùng. B. Thân bài I. Giới thiệu về lai lịch, ngoại hình, diện mạo, tài năng, tính cách,... của Từ Hải (dựa vào một số đoạn trong Truyện Kiều). 1. Lai lịch, lí tưởng, sự nghiệp: Họ Từ tên Hải vốn người Việt đông Giang hồ quen thói vẫy vùng Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo 2. Ngoại hình, diện mạo:.

<span class='text_page_counter'>(105)</span> Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thước cao 3. Phẩm chất, tài năng: - Đội trời đạp đất ở đời - Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. II. Giới thiệu tóm tắt toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp và kết cục số phận của Từ Hải (dựa vào toạn bộ Truyện Kiều - những chi tiết về Từ Hải). 1. Từ Hải chống lại triều đình vì không chịu được những cảnh bất công, ngang trái. Người anh hùng cái thế này sống cuộc đời giang hồ, diệt ác trừ gian, đòi lại công bằng. 2. Từ hải qua chơi lầu xanh của Bạc Bà, cảm tấm lòng “tri kỉ” của nàng Kiều, Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh và lấy nàng làm vợ, giúp nàng báo ân báo oán. 3. Nghe lời khuyên của Kiều, Từ hải ra hàng Hồ Tôn Hiến. Nhưng không ngờ Hồ Tôn Hiến tráo trở, Từ Hải bị đánh úp và chết đứng giữa trận tiền. III. Giới thiệu về chí khí anh hùng của Từ hải (dựa vào đoạn trích Chí khí anh hùng). 1. Tâm thế Từ Hải luôn thuộc về "bốn phương", chàng là người của "trời bể mênh mang"và sẵn sàng vào tư thế "thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong". 2. Cuộc chia tay của Từ Hải với Thuý Kiều khác hẳn với Kim Trọng, Thúc Sinh. Đó là cuộc chia tay của một bậc trượng phu chí lớn thể hiện chí khí, quyết tâm và sự tự tin. 3. Hình ảnh cánh chim bằng lướt gió tung mây là biểu tượng cho chí khí anh hùng của từ hải. C. Kết bài: Nhận xét, đánh giá tổng hợp về nhân vật Từ Hải: - Từ hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng. - Nguyễn Du đã dành cho Từ Hải những vần thơ ngợi ca đẹp nhất, hào sảng nhất. Đề số 47.

<span class='text_page_counter'>(106)</span> Vài nét về con người Việt Nam trong quan hệ với thế giới tự nhiên qua văn học Bài làm Buổi sơ khai văn học, bằng tư duy thần thoại, văn học nhìn tự nhiên như các vị thần linh, nhằm nhận thức, cải tạo, chinh phục cái tự nhiên này. Tiếp đến, tự nhiên chính là thiên nhiên quê hương, đất nước : núi sông, đồng ruộng, bến nước, dòng sông, con trâu, cánh cò tươi đẹp, thân thương. Thiên nhiên này chủ yếu được thể hiện trong các thể loại trữ tình dân gian. Văn học trung đại cũng có một thiên nhiên hiện thực : - Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết Cò trắng từng đôi, liệng xuống đồng (Trần Nhân Tông) - Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan (Nguyễn Trãi) - Dâu già lá rụng tằm vừa chín Lúa sớm bông thơm cua béo ghê (Nguyễn Trung Ngạn) Và một thiên nhiên tượng trưng cho lí tưởng đạo đức, thẩm mĩ của con người. Tùng, cúc, trúc mai là biểu thị hình ảnh con người thanh cao, cứng cỏi ; lâm tuyền (rừng, suối) là thú ẩn đật, tránh xa thế sự nhiều tục lụy, nhiễu nhương. Nhưng điểm chung lại là, dù thiên nhiên nào thì đó cũng là tình yêu đất nước hoặc thể hiện sự tương thông giữa người và cảnh - về với tự nhiên để giữ khí tiết phẩm giá con người. Cho nên Nguyễn Trãi mới ví mình như cây tùng, cây bách sương giá đã quen. Còn Nguyễn Trung Ngạn nơi đất khách, mường tượng cảnh dân dã quê nhà, đã khẳng định : “ Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt ; Dẫu vui đất khách chẳng bằng về”. Thiên nhiên trong văn học hiện đại tiếp tục là sự thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, quê hương. Biểu thị tình yêu cuộc sống, con người, đôi lứa. Giảm thiểu tính trực tả tách biệt, ước lệ thường thấy ở văn học dân gian, văn học trung đại để đóng vai như một nhân vật đời thường của văn học. Sự hoà điệu con người và thiên nhiên được tăng cường, chứ không chỉ là bối cảnh theo kiểu “người buồn, cảnh có vui đâu bao gìơ”. Ta có thể dẫn ra những hình ảnh thiên nhiên thực, rất người của văn học hiện đại. Thời trước, Nguyễn Du tả đôi mắt người con gái đẹp như nước mùa thu, núi mùa xuân.

<span class='text_page_counter'>(107)</span> (Làn thu thuỷ nét xuân sơn). Ông dùng thiên nhiên diễm lệ để so sánh, không cần biết đôi mắt ấy có thực hay không. Nhưng thơ hiện đại thì khác, cũng dùng hình ảnh thiên nhiên, nhưng phải rất thực và nhất là, rất nhiều rung động của thi nhân trong đó. Xuân Diệu viết : Lá liễu dài như một nét mi. Với Tế Hanh “ Ai bảo mắt em như lá liễu ; Đã cắt lòng anh một nét dao”. Ngay như tả riêng thiên nhiên, thiên nhiên ấy cũng không mang giọt máu của nó mà mang giọt máu người : - Một tối bầu trời đắm sắc mây, Cây tìm nghiêng xuống đoá hoa gầy, Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy (Xuân Diệu) Rồi như rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng”. Ngay cái tàu lá chuối của Nam Cao cũng dãy lên đành đạch như là hứng tình, cũng như trăng nằm sóng xoãi trên cành liễu ; Đợi gió đông về để lả lơi của Hàn Mặc Tử chứ không như cái tàu chuối “tình thư một bức phong còn kín” của Ngyễn Trãi hay “Vừng trăng vằng vặc giữa trời ; Đinh ninh hai miệng một lời song song” của Nguyễn Du. Và tình yêu đối với cái thiên nhiên này, cũng là những tình yêu rất cá tính. Nồng thắm nhưng chân chất như Đoàn Văn Cừ, tiểu thư một chút như Anh Thơ, vương vui, buồn thế sự, nhân sinh như Huy Cận, đắm say, mạnh mẽ, vồ vập trong lành như Xuân Diệu. Dẫu ông có nói “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đề số 48 Vài nét về con người Việt Nam trong quan hệ quốc gia dân tộc được thể hiện trong văn học Bài làm Yêu nước là tình cảm chủ đạo được thể hiện xuyên suốt. Yêu nước biểu hiện trong tình yêu quê hương mà trước hết là một vùng quê có sông núi, cánh đồng, nương rẫy, buôn, làng thật bình dị, gần gũi, thanh bình với những tình cảm, giá trị đạo lí đẹp đẽ, vững bền của con người với con người, trong gia đình, giữa trai gái hay tình làng.

<span class='text_page_counter'>(108)</span> nghĩa xóm. Dẫu là người dân quê bươn trải kiếm sống hay một vị quyền cao chức trọng cũng đều gặp nhau ở cảm xúc quê hương này. - Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống, nhớ cà đầm tương Nhớ ai giãi nắng, dầm sương Nhớ ai tát nước bên đàng hôm mai (ca dao) - Dâu già lá rụng tằm vừa chín Lúa sớm bông thơm cua béo ghê Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt Dẫu vui đất khách chẳng bằng về (Nguyễn Trung Ngạn) Tình yêu này trở thành lòng căm thù giặc, tinh thần tự cường, tự hào dân tộc, sự gắn bó với sự nghiệp chống ngoại xâm, sự nghiệp cách mạng mà văn học dân gian, văn học trung đại, hiện đại đã ánh chiếu trong suốt chiều dài lịch sử quốc gia - dân tộc. Trần Hưng Đạo, Đặng Dung, Nguyễn Trãi...gặp Hồ Chí Minh, Tố Hữu... đều ở cảm hứng này. Người anh hùng chiến thắng “Múa giáo non sông trải mấy thu ; Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” Phạm ngũ Lão ; người anh hùng chiến bại “Thù nước chưa xong đầu vội bạc ; Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng” Đặng Dung ; người nghĩa sĩ Cần Giuộc hay người chiến sĩ hôm nay “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới ; Đầu súng trăng treo” (Chính Hữu) và “Lớp cha trước, lớp con sau ; Đã thành đồng chí, chung câu quân hành” (Tố Hữu) đều được văn học xây nên những hình tượng để đời, làm thành những kiệt tác văn chương. Con người trong quan hệ quốc gia, dân tộc là một trong những trung tâm điểm, nội dung tiêu biểu của văn học, làm nên một trong hai giá trị lớn của văn học Việt Nam. Đề số 49 Con người Việt Nam trong quan hệ xã hội được thể hiện trong văn học như thế nào. Giới thiệu một số nét cơ bản Bài làm Một xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp là ước vọng muôn đời của con người Việt Nam mà văn học đã nhận trách nhiệm phát ngôn suốt ngàn năm nay..

<span class='text_page_counter'>(109)</span> Những ông Bụt, ông Tiên trong truyện cổ tích, lời thỉnh cầu “Chốn chốn dứt đao binh”, lòng mong mỏi một xã hội Nghiêu - Thuấn của văn học trung đại, cuộc tranh đấu để có một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà văn học hiện đại hướng tới đã nói lên mối quan hệ này. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng, cảm xúc như vậy, văn học đã phê phán các thế lực hắc ám ; đề cao những con người, phẩm chất tốt đẹp, xây dựng những nạn nhân - nhân chứng ; thể hiện khát vọng tự do, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái. Truyện Kiều của Nguyên Du là tập đại thành của tiếng nói này thời trung đại. Còn văn học hiện thực phê phán, văn học hiện thực cách mạng là sự tập trung nỗ lực của văn học hiện đại theo hướng “Khát vọng xã hội”. Một chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa nhân đạo, do vậy cũng là cốt lõi của văn học Việt Nam. Đề số 50 Văn học Việt Nam và sự thể hiện con người Bài làm Do đặc điểm lịch sử xã hội, ý thức cộng đồng, trách nhiệm chung luôn được con người Việt Nam đề lên hàng đầu. Nội dung và hình tượng văn học nổi bật về con người xã hội, con người không xuất hiện ở ngôi thứ nhất số ít đã thường xuyên có mặt trong đa phần thời gian phát triển của văn học. Một chủ nghĩa “diệt tôi”, diệt dục, xem nhẹ vật chất, tình cảm cá nhân, chỉ biết sống vì đạo nghĩa, lí tưởng đã xuyên suốt vài trăm năn như thế. Một sự thức tỉnh thực sự về cá nhân - “cái thuộc về cá nhân” được đề cao chỉ bắt đầu từ cuối XVIII, trong văn học. Tiếng than của người chinh phụ, người cung nữ, tiếng nói trực diện, mạnh mẽ của nàng xuân nữ, niềm đồng cảm, bản hiến chương đòi quyền sống, tình yêu, hạnh phúc đã cất lên trên cuộc đời, số phận buồn thương của những kiếp hồng nhan. Rồi cả những đòi hỏi, những hưởng thụ trần tục thật sự... Nhưng tất cả vẫn trong khuôn khổ giáo điều phong kiến, thi pháp văn chương trung đại. Bà Hồ Xuân Hương, đêm đêm ngậm ngùi cho cái “hồng nhan trơ với nước non” vẫn “giữ tấm lòng son”. Cô Kiều dám “băng lối vườn khuya một mình” đến với người.

<span class='text_page_counter'>(110)</span> yêu, nhưng “bên tình, bên hiếu” đã chọn chữ “hiếu”, quyết “lấy hiếu làm trinh”. Nguyễn Du sảng khoái khi viết những câu ca ngợi con người tự do Từ Hải, phải để người anh hùng ấy chết, dẫu là chết đứng. Đến như Nguyễn Công Trứ, vị tổng đốc, đi vãn cảnh chùa giám đem theo sau “đủng đỉnh một đôi dì” cũng có thái độ rất nghiêm khắc : Không quân thần, phụ tử đếch ra người. Cứ dùng dằng như thế mãi, cách nay khoảng 70 năm “Thời đại của chữ Tôi” mới bắt đầu với Tự lực văn đoàn, Thơ mới và văn học hiện thực phê phán. Những cung bậc tình cảm riêng tư, những khía cạnh của cuộc sống cá nhân, những tính cách của con người này ( không phải con người chung chung) mới được rung lên mạnh mẽ, khắc hoạ đậm nét. Trên con đường xã hội, bấy giờ ta mới thấy tác giả văn chương “Tôi trịnh trọng rước Tôi ra đường” (Nguyễn Tuân). Nhưng, lại 30 năm nữa, Cái Tôi trong văn học chấp nhận hi sinh vì cái tôi trong cuộc đời đang phải làm một viên gạch cùng bao viên gạch khác xây bức tường thành chống ngoại xâm. Vẻ đẹp của cái ta, cái tôi trong cái ta lại sáng lên rực rỡ bởi sự đòi hỏi của tổ quốc, dân tộc. Nó đã sống hết mình trong lời ru “Một ngôi sao chẳng sống đêm ; Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng ; Một người đâu phải nhân gian ; Sống chăng, chỉ đốm lửa tàn mà thôi!” ( Tố Hữu). Từ thời kì đổi mới đến nay, trong văn học, cái tôi mới bắt đầu trở lại và đang thể nghiệm. Tuy nhiên, tìm ra mình, thể nghiệm gì đi chăng nữa trong bối cảnh siêu hiện đại, cái tôi lần này vẫn phải đáp ứng được mĩ cảm từ ngàn năm nay - Một Cái Tôi Việt Nam. Như Hoàng Hưng, một trong những tên tuổi đổi mới, tuyển thơ Hành trình (19952005, NXB Hội Nhà văn-2005)) của ông vừa được Giải thưởng Hội nhà văn Hà Nội 2006 là một ví dụ. Ông sang Mĩ, gặp nhà thơ Việt nương thân xứ người, đã cảm thương thân phận, cảm khái nỗi niềm bạn mà viết : "Ta là ai trên xứ sở này ?/ Vì sao ta tới đây ? Ta tìm gì ?/ Ta muốn gì ? Hương nếp mới nghẹn ngào người xa xứ / Trưa Cali thơ Nguyễn Trãi lặng người / "Đất hứa"phục những đòn bẩm tím / Chết không xong thì phải sống thôi". Những vần thơ như thế, đổi mới nhưng không ra ngoài quỹ đạo dân tộc từ bao đời thì mới layđộng lòng người. MỤC LỤC Đề số 1.

<span class='text_page_counter'>(111)</span> Đức tính trung thực Đề số 2 Lòng biết ơn thầy cô giáo Đề số 3 Xin mẹ hãy yên tâm Đề số 4 Cảm nghĩ khi đọc Phò giá về kinh của Trần Quang Khải Đề số 5 Cảm nghĩ về vẻ đẹp con người qua truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Đề số 6 Quê hương trong thơ Tế Hanh Đề số 7 Hình ảnh Đăm Săn trong đoạn trích “Chiến thắng Mơ Tao, Mơ Xây” Đề số 8 Từ bi kịch mất nước đến bi kịch tình yêu qua truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ Đề số 9 Phân tích ý nghĩa hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ Đề số 10 Suy nghĩ của anh (chị) về hai cuộc gặp mặt trong Uy-lít-xơ trở về và Ra-ma buộc tội Đề số 11 Đọc Uy-lít-xơ trở về (trích sử thi Ô-đi-xê) và cho biết : a) Hô-me-rơ kể chuyện gì ? b) Ở phần cuối đoạn trích, tác giả đã chọn một sự việc quan trọng đó là sự việc gì, được kể bằng những chi tiết tiêu biểu nào ? Có thể coi đây là thành công của Hô-me-rơ trong nghệ thuật kể chuyện không ? Vì sao ? Đề số 12 Vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp trong Uy-lít-xơ trở về.

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Đề số13 Diễn biến tâm trạng của Uy-lit-xơ trong buổi đoàn viên sau 20 năm xa cách Đề số 14 Vẻ đẹp hình tượng Xi - ta trong đoạn trích Ra- ma buộc tội Đề số 15 Xung đột nội tâm của nhân vật Ra-ma khi gặp lại vợ Đề số 16 Có một kết thúc truyện Tấm Cám khác : Tấm lấy nước sôi dội cho Cám chết rồi muối mắm gửi về cho mẹ Cám. Ý kiến của em về kết thúc này Đề số 17 Cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong Tấm Cám Đề số 18 Ý kiến của em về các cách kết thúc truyện cổ tích Tấm Cám Đề số 19 Đọc Nhưng nó phải bằng hai mày và phân tích nghệ thuật gây cười qua lời nói của thầy lí ở cuối truyện Đề số 20 Đọc Nhưng nó phải bằng hai mày, đánh giá nhân vật Ngô và Cải Đề số 21 Bài ca dao “Thân em như tấm lụa đào...” trong hệ thống các bài ca dao được mở đầu bằng từ “Thân em...” Đề số 22 Cảm nghĩ về hình tượng trong bài ca dao " Khăn thương nhớ ai" Đề số 23 Cảm nghĩ khi đọc bài ca dao "Cưới nàng..." (Ngữ văn 10 - tập 1) Đề số 24 Tóm tắt Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ theo nhân vật chính An Dương Vương.

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Đề số 25 Về thăm trường cũ Bà Thu (bé Thu trong Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9 - tập 1) kể chuyện Đề số 26 Bà Thu kể chuyện Đề số 27 Em gặp chị Tấm Đề số 28 Cảm nghĩ trước Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi Đề số 29 Cảm nghĩ về Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du Đề số 30 Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí để thấy được tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với nàng Tiểu Thanh cũng là những tâm sự, suy ngẫm về chính cuộc đời nhà thơ. Đề số 31 Cảm nhận bài thơ Vận nước (Quốc tộ) của Đỗ Pháp Thuận để làm sáng tỏ ý kiến sau : "Bài thơ có ý nghĩa như một tuyên ngôn hoà bình, ngắn gọn”. Đề số 32 Hãy làm sáng tỏ lý tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi lấy làm tiền đề lý luận và là nền tảng tư tưởng trong “Bình Ngô đại cáo” Đề số 33 Kỉ vật, kỉ niệm tình yêu trong Trao duyên (Truyện Kiều - Nguyễn Du) Đề số 34 Cảm nhận về "nỗi thương mình” của nàng Kiều. Đề số 35 Giới thiệu truyện cổ tích Tấm Cám Đề số 36 Truyện cổ tích là những giấc mơ đẹp của nhân dân lao động Đề số 37 Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh của quê hương.

<span class='text_page_counter'>(114)</span> Đề số 38 Thuyết minh ngắn gọn về Nguyễn Dữ và Chuyện chức phán sự đền Tản Viên Đề số 39 Thuyết minh ngắn gọn Đại Việt Sử kí toàn thư Đề số 40 Mùa xuân trong thơ Việt Đề số 41 Giới thiệu thơ văn Nguyễn Trãi Đề số 42 Phẩm bình Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch Đề số 43 Thuyết minh lý tưởng nhân nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” ) Đề số 44 Nội dung dân chủ và nhân đạo của văn học dân gian Việt Nam qua một số truyện dân gian đã học Đề số 45 Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Du Đề số 46 Dựa vào đoạn trích Chí khí anh hùng và một số đoạn trong Truyện Kiều để giới thiệu nhân vật Từ Hải Đề số 47 Giới thiệu về quan hệ con người và thế giới tự nhiên trong văn học Đề số 48 Văn học về quan hệ con người và quốc gia dân tộc Đề số 49 Quan hệ xã hội của con người trong văn học Đề số 50.

<span class='text_page_counter'>(115)</span> Sự thể hiện con người trong văn học.

<span class='text_page_counter'>(116)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×