Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

81. TẬP TRUNG DÂN CHỦ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA ĐẢNG QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.08 KB, 19 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

TẬP
TẬP TRUNG
TRUNG DÂN
DÂN CHỦ
CHỦ NGUYÊN
NGUYÊN TẮC
TẮC CƠ
CƠ BẢN
BẢN CỦA
CỦA ĐẢNG
ĐẢNG
QUÁN
TRIỆT
THỰC
HIỆN
NGUYÊN
TẮC
TẬP
TRUNG
DÂN
QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
CHỦ
TRONG
ĐẢNG
BỘ
QUÂN


ĐỘI
HIỆN
NAY
TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

Mở đầu
Tập trung dân chủ (TTDC) là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng
tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng kiểu mới của GCCN. Là
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, bảo đảm sự nhất trí về tư tưởng và
tổ chức, tăng cường đoàn kết nội bộ Đảng, làm cho Đảng trở thành một
đội ngũ có tổ chức chặt chẽ và sức chiến đấu cao. Nhằm phát huy tính
tích cực chủ động, sáng tạo của các tổ chức đảng và từng đảng viên, tạo
BẮC
NINH,
55 NĂM
2013
BẮC
NINH,
THÁNG
NĂM
2013 để phân biệt chính
nên sức mạnh vơ địch

của
Đảng.THÁNG
TTDC là
tiêu chuẩn

Đảng cách mạng của GCCN, phân biệt Đảng Cộng sản chân chính với
các Đảng phái khác. Vì vậy, từ khi ra đời cho đến nay nguyên tắc TTDC
luôn luôn là mục tiêu mà các thế lực thù địch thường cơng kích nhằm
phủ nhận vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, một trong những
vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm là nghiên cứu lý luận, quán triệt
và tổ chức thực hiện nguyên tắc TTDC, là vấn đề mà Đảng ta đã khẳng
định nếu coi nhẹ hay từ bỏ nó sẽ dẫn đến nguy cơ tan rã Đảng về mặt tổ
chức. Với ý nghĩa đó, vấn đề nhận thức và thực hiện đúng đắn nguyên tắc
TTDC trong công tác xây dựng Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng.
Để có cơ sở quán triệt, thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng bộ quân
đội hiện nay, trước hết cần phải hiểu rõ nguồn gốc hình thành và phát triển
của nguyên tắc TTDC của Đảng, với bản chất, nội dung của nó, theo quan
điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Xung quanh vấn đề này có nhiều cách trình bày khác
nhau. Trong phạm vi bài luận này, xin đề cập 2 nội dung:
I. Tập trung dân chủ nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản


3

II. Quán triệt, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng bộ
quân đội hiện nay.
I. TẬP TRUNG DÂN CHỦ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CƠ BẢN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN


Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
(GCCN) Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng lấy
nguyên tắc TTDC làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển;
Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của GCCN. Những nguyên lý
cơ bản đó, đã được Đảng ta vận dụng, thực hiện sáng tạo trong tồn bộ q
trình xây dựng và hoạt động lãnh đạo của Đảng.
1. Thực hiện nguyên tắc TTDC là tất yếu khách quan trong xây
dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản.
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ
phải thực hiện chế độ TTDC là địi hỏi khách quan của phong trào vơ
sản. Xuất phát từ địa vị của GCCN trong nền sản xuất xã hội, gắn liền
với nền đại công nghiệp cho nên GCCN hướng tới sự tổ chức và tập
trung thành hàng ngũ của mình. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng,
GCCN phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, có bộ máy nhà nước
đồ sộ, đó là giai cấp tư sản. Địi hỏi GCCN phải có sự đồn kết thống
nhất. Ngồi ra, trong cuộc đấu tranh đó GCCN tin tưởng rằng, lực lượng
của mình sẽ lớn mạnh cùng với việc nâng cao trình độ tổ chức và hướng


4

toàn thể nhân dân lao động vào mục tiêu đấu tranh để xóa bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa. Từ những điều kiện đó, tất yếu dẫn đến việc thành lập
một chính Đảng cách mạng của GCCN.
Xét về bản chất, GCCN có tính dân chủ sâu sắc, quan hệ giai cấp của

họ là quan hệ bình đẳng. Sau khi chiến thắng tư bản, GCCN tạo điều kiện
cho toàn thể nhân dân lao động tham gia rộng rãi vào hoạt động xã hội.
GCCN thành lập chính Đảng cách mạng trong đội ngũ của mình để lãnh
đạo cuộc đấu tranh đó, Đảng có những đặc điểm và phẩm chất cơ bản hồn
tồn phù hợp với GCCN, Đảng là lãnh tụ của giai cấp và là bộ phận tiên
phong của GCCN, đại biểu trung thành lợi ích của GCCN, nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Chính bản chất và những nhiệm vụ lịch sử của
Đảng đòi hỏi phải xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động trên cơ sở
nguyên tắc TTDC.
Tư tưởng về TTDC đã được C.Mác và Ph.Ăngghen, những người
sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, đưa vào "Điều lệ của Liên
đoàn những người cộng sản" và nhiều văn kiện khác. Trong Điều lệ Liên
đoàn những người cộng sản C.Mác và Ph.Ph.Ăngghen viết: "Mỗi hội
viên và Liên đồn phải liên lạc ít nhất ba tháng một lần, còn mỗi chi bộ
phải liên lạc mỗi tháng một lần với Ban Chấp hành khu bộ của mình. ít
nhất cứ hai tháng một lần, mỗi khu bộ phải báo cáo tình hình cơng tác
của địa phương mình với Ban Chấp hành Trung ương" (1). Điều lệ cũng
xác định cả cơ cấu tổ chức của Liên đoàn, nhiều chi bộ cơ sở hợp thành
một công xã gồm từ 3 đến 20 thành viên. Đó là cơ sở của Đảng, là trung
tâm và hạt nhân của cơng tác chính trị của Đảng trong quần chúng lao
động. Nhiều công xã hợp thành một quận, đứng đầu là quận ủy của
Đảng. Cơ quan cao nhất của Liên đoàn là Đại hội hàng năm và giữa hai


5

kỳ Đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Cơ cấu đó thấm nhuần tinh
thần TTDC.
Liên đồn được xây dựng trên trên cơ sở dân chủ triệt để, mọi đảng
viên đều bình đẳng, các cơ quan lãnh đạo của Đảng được bầu ra, có thể

bị thay thế hoặc bãi miễn; đảng viên được tự do thảo luận những vấn đề
về sinh hoạt đảng; tranh luận trong khn khổ tính đảng.v.v. Cơ cấu của
Liên đoàn là thật sự dân chủ, các Ban Chấp hành được bầu ra và có thể
bị thay thế bất cứ lúc nào. Do đó ngăn chặn được âm mưu và thủ đoạn
chiếm độc quyền trong Liên đoàn. C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh
dân chủ phải thống nhất với tập trung, với kỷ luật chặt chẽ, bộ phận phải
phục tùng toàn thể, thiểu số phải phục tùng đa số.
Trong điều kiện lịch sử mới, khi cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực
tiếp. V.I.Lênin kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã phát triển và
làm sâu sắc thêm tư tưởng TTDC của hai ông và xây dựng nguyên tắc TTDC
làm nguyên tắc tất yếu trong xây dựng Đảng kiểu mới về mặt tổ chức. Theo
V.I.Lênin Đảng là đội tiên phong và là tổ chức cao nhất của GCCN,
Đảng vô sản kiểu mới phải được tổ chức theo chế độ TTDC. Thực hiện
chế độ TTDC trong Đảng sẽ làm cho Đảng thống nhất về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Nhằm củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng, làm
cho đường lối của Đảng được thực hiện một cách có hiệu lực. Mặt khác,
thực hiện tốt chế độ TTDC sẽ góp phần ngăn ngừa các phần tử khơng
kiên định, vơ chính phủ, cơ hội chủ nghĩa trong Đảng. Trong tác phẩm
"Một bước tiến hai bước lùi" V.I.Lênin viết: "Trước kia Đảng ta chưa
phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng số những
nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy khơng thể có những quan hệ
nào khác ngồi sự tác động về mặt tư tưởng hiện nay, chúng ta đã trở


6

thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa là chúng ta đã tạo ra một
quyền lực, kiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng" (1). V.I.Lênin
cho rằng, Đảng muốn lãnh đạo GCCN và quần chúng lao động trong cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, muốn có sức mạnh Đảng phải có sự thống

nhất về ý chí và hành động. Đảng phải có sự thống nhất về ý chí và hành
động. Điều kiện cho sự thống nhất của Đảng trước hết, phải có cương lĩnh
chính trị và phải có tổ chức chặt chẽ, làm được điều đó tức là tránh được tình
trạng chia rẽ, phân tán trong Đảng. Tổ chức là cái bảo đảm cho sự thống nhất
về chính trị, tư tưởng và hành động. Ngồi Cương lĩnh chính trị và hệ thống
tổ chức chặt chẽ. Để thực hiện nguyên tắc TTDC một cách đúng đắn, Đảng
phải có một điều lệ thống nhất, một cơ quan lãnh đạo thống nhất do Đại hội
Đảng bầu ra, Đảng phải có kỷ luật tự giác nhưng nghiêm minh.
TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong công tác xây dựng đảng,
nếu chủ thể nhận thức khơng có bản lĩnh chính trị và động cơ khơng trong
sáng thì ngun tắc TTDC sẽ phản tác dụng. Theo V.I.Lênin, tập trung đi
liền với dân chủ, tập trung càng cao thì dân chủ càng được mở rộng,
khơng thể có dân chủ mà thiếu tập trung và ngược lại. "Không được quên
rằng khi bênh vực chế độ tập trung, chúng ta chỉ bênh vực chế độ TTDC
thơi" (1). Điều đó có nghĩa là tập trung quan liêu, độc đoán hoặc dân chủ tự
do vô tổ chức đều xa lạ với tư tưởng của Người và Lênin đã từng phê
phán: " Ở ta, người ta luôn luôn lẫn lộn chế độ tập trung với chế độ độc
đoán và chế độ quan liêu, lẽ tự nhiên là lịch sử nước Nga phải đẻ ra một
sự lẫn lộn như thế, nhưng dù sao đối với người mác xít, điều đó vẫn là
một điều dứt khốt khơng thể dung thứ được" (2).
Tư tưởng trên đây của V.I.Lênin đặt nền móng cho việc xây dựng
chính Đảng cách mạng của GCCN ở nước Nga, sau đó đã được các


7

Đảng trong Quốc tế cộng sản thừa nhận. Điều kiện gia nhập Quốc tế
cộng sản là các Đảng phải được xây dựng theo nguyên tắc TTDC.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập,
giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác Lênin về Đảng kiểu mới của GCCN vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, để

giải quyết đúng đắn những vấn đề trong công tác xây dựng đảng. Hồ Chí
Minh cho rằng TTDC là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Người đã
chỉ ra thế nào là tập trung, thế nào là dân chủ và mối quan hệ giữa tập trung
và dân chủ. Hồ Chí Minh viết: "để làm cho Đảng mạnh thì phải mở rộng
dân chủ, thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật
" (1).
Thực tiễn hơn 75 năm xây dựng và hoạt động của Đảng Cộng sản
Việt Nam, và từ những kinh nghiệm trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Đảng ta luôn luôn khẳng định tầm quan trọng của nguyên
tắc TTDC, và đã kiên trì vận dụng nguyên tắc này cả trong điều kiện khi
chưa có chính quyền, cũng như khi có chính quyền; cả trong điều kiện
lãnh đạo chiến tranh, cũng như trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, trong bất kỳ hồn cảnh nào Đảng cũng ln ln là một khối
thống nhất về ý chí và hành động. Đảng thực sự là một khối thống nhất,
đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Điều này, khẳng định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng
ta là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân quan trọng là do Đảng Cộng sản Việt Nam kiên trì vận
dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên tắc TTDC.
Trong khi chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ln ln tìm mọi
cách xun tạc ngun tắc TTDC của Đảng, làm cho các Đảng Cộng sản từ bỏ


8

nguyên tắc TTDC, nhằm mục đích làm cho Đảng suy yếu không đủ sức lãnh
đạo và dẫn đến sự tan rã, như một số Đảng Cộng sản ở Đông Âu và Liên Xơ.
_____________
(1). Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tập 7, tr. 241.


2. Bản chất, nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc TTDC là thuộc tính bản chất tổ chức của GCCN. Đó là sự
thống nhất tác động biện chứng giữa hai thành tố tập trung và dân chủ, hai
thành tố này là thuộc tính bản chất của GCCN trong sản xuất cơng nghiệp và
đấu tranh cách mạng. Thuộc tính tập trung và dân chủ được hình thành cùng
với sự ra đời và hoạt động của GCCN; từ yêu cầu của nền sản xuất cơng
nghiệp. Qua đó đã từng bước tơi luyện cho GCCN có những thuộc tính cơ
bản như: tính tập trung hóa cao độ, ý thức và trình độ tổ chức chặt chẽ, tính
kỷ luật nghiêm minh, có tinh thần đồn kết, tính dân chủ tập thể cao.
Hai thành tố tập trung và dân chủ hồn tồn khơng mâu thuẩn với
nhau, mà nó ln thống nhất tác động bổ sung cho nhau. Trong đó tập
trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ có sự bảo đảm của tập trung, tập
trung là điều kiện, tiền đề cho sự vận động phát triển của dân chủ và
ngược lại. Như vậy, thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng thực chất là
giải quyết mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ, yêu cầu tối cao của
nguyên tắc TTDC là tăng cường tập trung phải trên cơ sở dân chủ mở
rộng và thực hiện dân chủ phải có sự bảo đảm của tập trung, hướng tới
tăng cường tập trung làm cho tập trung trong Đảng càng vững chắc. Tập
trung càng vững chắc thì dân chủ càng phát triển rộng rãi.
Mối quan hệ thống nhất giữa tập trung và dân chủ không phải là ngẫu
nhiên hay gán ghép tùy tiện, mà nó được quy định bởi những nhân tố khách


9

quan của quá trình sản xuất và đấu tranh cách mạng của GCCN và bởi Đảng
Cộng sản phải lãnh đạo đến mục tiêu giành thắng lợi cuối cùng.
Tập trung có nghĩa là tồn Đảng có một cương lĩnh, trong đó nêu lên
mục tiêu chung của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán triệt thực
hiện. Đảng phải có một Điều lệ thống nhất, quy định tiêu chuẩn sinh hoạt

mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên phải chấp hành. Tập trung
còn thể hiện sự lãnh đạo các tổ chức đảng, các công tác của Đảng do Đại
hội đại biểu toàn quốc thực hiện, giữa hai kỳ Đại hội là Ban Chấp hành
trung ương Đảng. Các nghị quyết của Đảng, và cơ quan lãnh đạo các cấp
của Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của Đảng, bắt buộc tất cả các tổ
chức đảng và tồn thể đảng viên phải chấp hành. Tập trung địi hỏi phải có
kỷ luật thống nhất, tinh thần tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng, ý
thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó việc phục tùng nghị quyết của
Đảng chính là phục tùng ý chí nguyện vọng của đảng viên. Trong Đảng
thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức nhưng nó được thực
hiện trên cơ sở nghiêm ngặt thống nhất về mục tiêu, lợi ích.
Bản chất của tập trung trên cơ sở dân chủ là sự tập trung trí tuệ của
đa số mà thiểu số phải phục tùng. Đó là tập trung có mục đích hướng tới
bảo vệ lợi ích của Đảng của GCCN và quần chúng lao động, có nguồn
gốc từ chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Sự tập trung đó gắn liền với
cơ sở và chịu sự kiểm tra và quyết định của cơ sở. Đối lập với sự tập
trung quyền lực của thiểu số thuộc giai cấp bóc lột buộc đa số quần chúng
nhân dân phải phục tùng, đó là sự tập trung để duy trì chế độ bóc lột, bảo
vệ lợi ích của giai cấp bóc lột, là sự tập trung dựa trên chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất. Sự tập trung ấy nhằm trấn áp quyền làm chủ của nhân dân
lao động, là sự tập trung thốt ly dân chủ, bóp nghẹt dân chủ.


10

Thực tiễn xây dựng và hoạt động của Đảng ta và kinh nghiệm của các
Đảng cộng sản trên thế giới đã khẳng định thực hiện tốt nguyên tắc TTDC là
vấn đề sống còn của Đảng.
Dân chủ trong Đảng, thực chất là quyền làm chủ của đảng viên, toàn
thể đảng viên tích cực tham gia xây dựng đường lối chủ trương, chính sách

của Đảng, kể cả tham gia vào việc thành lập cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng. Với điều kiện phải có tính tổ chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận
sự lãnh đạo thống nhất. (Tức là dân chủ có sự bảo đảm của tập trung, dân chủ
có lãnh đạo) thì đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn
của mình. Đảng là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập, sức mạnh của
Đảng là do tính tích cực tự giác của toàn thể đảng viên. Mọi sinh hoạt của
Đảng đều phải được tiến hành trên cơ sở thật sự dân chủ, mọi đảng viên đều
có quyền trình bày hết ý kiến của mình tham gia vào giải quyết tất cả mọi
vấn đề trong công tác xây dựng Đảng, những ý kiến thuộc về thiểu số được
quyền bảo lưu. Mọi hoạt động Đảng đều phải được tiến hành một cách có tổ
chức và có sự chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy đảng. Thực hiện dân chủ
trong Đảng thì phát huy được tính tích cực của đảng viên và mới có điều
kiện rèn luyện, giáo dục đảng viên, nâng cao năng lực của họ trong việc
tham gia xây dựng và thực hiện đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng.
Mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng phải tuân theo nguyên tắc tập thể
lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách. Đó là biểu hiện của dân chủ có sự bảo
đảm của tập trung hoàn toàn đối lập với hiện tượng dân chủ hình thức, dân
chủ tự do vơ kỷ luật, dân chủ tràn lan khơng giới hạn. Dân chủ có bảo đảm
của tập trung là dân chủ có mục đích, có định hướng, đó là dân chủ trên cơ
sở bình đẳng thống nhất về mục tiêu lợi ích, nó hồn toàn khác với dân chủ
dựa trên dựa trên sự bất bình đẳng mang bản chất của giai cấp bóc lột, một


11

thứ dân chủ chỉ thực sự đối với bộ phận thiểu số trong xã hội và hồn tồn
là hình thức đối với quần chúng lao động chiếm đa số trong xã hội.
Dân chủ trong Đảng là dân chủ mang bản chất GCCN, là dân chủ
của GCCN và quần chúng nhân dân lao động đó là dân chủ được xây
dựng trên trên cơ sở chế độ xã hội cơng bằng, bình đẳng bác ái khơng có

bóc lột, dân chủ có mục đích nhằm tạo ra sức mạnh đồn kết tập trung
thống nhất. Đó khơng phải là thứ dân chủ tràn lan vơ chính phủ, tạo ra
hiện tượng chia rẽ , bè phái phá vỡ sự tập trung thống nhất.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc TTDC, được ghi trong điều 9 chương
II, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, do Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
IX của Đảng thơng qua xác định cụ thể: "Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức
theo nguyên tắc TTDC. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai
kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi
cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo hoạt
động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê
bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu
số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên các tổ chức đảng trong toàn
Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.


12

5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành
khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu
quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến
Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết,
không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm

quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của
mình, song khơng được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên".
Nội dung nguyên tắc TTDC của Đảng thể hiện sự giải quyết đúng đắn
mối quan hệ hòa quện giữa hai thành tố tập trung và dân chủ. Đó là sự
vận dụng đúng đắn, sáng tạo tổng hợp các nguyên lý xây dựng dựng
đảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng tác
xây dựng đảng của Đảng ta. Đặc biệt là sự vận dụng nguyên tắc TTDC
đã tạo nên sức mạnh lãnh đạo cách mạng nước ta giành thắng lợi.
Nhận thức đúng đắn bản chất, nội dung nguyên tắc TTDC là cơ sở để
quán triệt, thực hiện nguyên tắc TTDC một cách có hiệu quả trong sinh
hoạt và hoạt động lãnh đạo của Đảng.
II. QUÁN TRIỆT, THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

1. Thực trạng việc chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng trong
Đảng bộ quân đội:


13

"Tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam ... hoạt động theo
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp
luật của Nhà nước" (1). Đảng bộ Quân đội là một bộ phận của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Vì vậy, thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng bộ Quân
đội phải tuân thủ quy định của Điều lệ Đảng.
Hiện nay, quân đội ta đang duy trì, thực hiện chế độ một người chỉ
huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Đây là biểu hiện sự vận dụng, cụ thể

hóa nguyên tắc TTDC trong quân đội là tập thể cấp ủy lãnh đạo, người
chỉ huy tổ chức quản lý, điều hành đơn vị thực hiện nhiệm vụ theo chức
trách. Đó là sự cụ thể hóa ngun tắc TTDC, tập thể lãnh đạo đi đơi với
phân công cá nhân phụ trách vào lĩnh vực quân sự - một tổ chức mà sự
_____________
(1). Điều lệ Đảng Cộng sản Việt nam, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001, tr. 38.

lãnh đạo của tập thể cấp ủy không thể tách rời với người chỉ huy và
người chỉ huy không thể tách khỏi sự lãnh đạo của tập thể cấp ủy. Hay
nói cách khác là người chỉ huy khơng thể đứng ngồi sự lãnh đạo đó,
hay đứng trên tập thể cấp ủy cùng cấp để quyết định các vấn đề thực
hiện nhiệm vụ. Như vậy vai trò lãnh đạo thuộc về cấp ủy, còn tổ chức
quản lý, chỉ huy điều hành đơn vị là thuộc về người chỉ huy. Đây là sự
thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa sự lãnh đạo của tập thể cấp ủy với
chỉ huy quản lý, điều hành đơn vị. Trên cơ sở cấp ủy lãnh đạo về mọi
mặt, người chỉ huy phải cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương lãnh đạo
của cấp ủy thành kế hoạch, chỉ thị, mệnh lệnh để tổ chức chỉ huy điều
hành đơn vị thực hiện nhiệm vụ. Mọi hoạt động của người chỉ huy trong
đơn vị phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, tuân theo nghị quyết của tập
thể lãnh đạo. Đòi hỏi người chỉ huy nêu cao tinh thần trách nhiệm, phát


14

huy tính chủ động sáng tạo, quyết đốn, giám chịu trách nhiệm cá nhân
trước tổ chức đảng, trước đơn vị về kết quả tổ chức thực hiện nghị quyết
của Đảng; góp phần tăng cường sự lãnh đạo của đảng. Đối với tổ chức
đảng phải thường xuyên nâng cao năng lực và sức chiến đấu , bảo đảm
có nghị quyết đúng đắn, kịp thời tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết
lãnh đạo và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện của người chỉ

huy, tạo điều kiện thuận lợi, để người chỉ huy hồn thành tốt nhiệm vụ.
Thơng qua các tổ chức trong đơn vị (tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy,
Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, hội đồng quân nhân) để quán
triệt giáo dục cho mọi quân nhân trong đơn vị tự giác chấp hành triệt để
mệnh lệnh của người chỉ huy.
Quá trình tổ chức thực hiện cần khắc phục các biểu hiện tổ chức
đảng, cấp ủy buông lỏng sự lãnh đạo, bao biện làm thay công việc của
người chỉ huy, cũng như phải kiên quyết đấu tranh loại bỏ các hiện
tượng độc đoán, chuyên quyền của người chỉ huy hoặc biểu hiện dựa
dẩm ỷ lại vào tập thể, thiếu quyết đốn trong q trình tổ chức chỉ huy
đơn vị, nhất là khi thực hiện nhiệm vụ trong những điều kiện gặp nhiều
khó khăn, phức tạp.
Hiện nay,việc thực hiện nguyên tắc TTDC trong Đảng bộ quân đội
với khơng khí thảo luận cởi mở, thẳng thắn, khai thác và tập hợp được trí
tuệ của đơng đảo cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị nghị quyết, cũng
như trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Các cấp ủy duy
trì thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đã tạo nên sự
lãnh đạo của các tổ chức đảng có chuyển biến rõ rệt, từng bước có sự đổi
mới phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ phát triển kinh tế, đẩy mạnh sự nghiệp công


15

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bước đầu hình thành những quan
điểm mới về mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc với nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ mới. Đây là vấn đề có ý
nghĩa hết sức quan trọng khơng những góp phần giữ vững ngun tắc
TTDC trong Đảng mà cịn và mở rộng trong tồn xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện nguyên tắc TTDC của Đảng

trong Đảng bộ quân đội vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải tiếp tục
chấn chỉnh, khắc phục:
Trước hết, trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc TTDC còn
nhiều thiếu sót, khuyết điểm, nhận thức của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ về vị trí, bản chất nội dung nguyên tắc
TTDC. Thậm chí có biểu hiện thiếu tơn trọng ngun tắc. Trong sinh
hoạt đảng cịn thiếu những quy định cụ thể có hiệu lực để bảo đảm phát
huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc TTDC, quy chế làm việc của
các cấp ủy không được chấp hành nghiêm túc.vừa thiếu những quy định
cụ thể hóa để thực hiện nguyên tắc lại vừa chấp hành ngun tắc khơng
nghiêm túc. Trong khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức
cịn nặng, những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng
khơng ít. Tệ bè cánh, mất đồn kết ở một số cấp ủy và tổ chức đảng rất
nghiêm trọng, đã dẫn đến tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, dân chủ hình
thức, dân chủ cực đoan, tình trạng chấp hành kỷ luật lỏng lẻo, cục bộ
gây chia rẽ mất đoàn kết trong nội bộ. Trong đội ngũ đảng viên vẫn còn
nhiều biểu hiện coi thường kỷ luật của Đảng, của quân đội, tự do tùy tiện
không chấp hành nghị quyết của Đảng làm suy giảm tính đồn kết thống
nhất về tư tưởng và tổ chức trong Đảng, chất lượng sinh hoạt đảng giảm
sút nhất là tổ chức đảng ở cơ sở. Vấn đề nghiên cứu, tổng kết, công tác


16

hướng dẫn, kiểm tra và chỉ đạo thực hiện nguyên tắc TTDC cho phù hợp
với đặc điểm nhiệm vụ của từng cấp ủy, từng tổ chức đảng cịn nhiều
yếu kém.
Ngồi ngun nhân về nhận thức cũng như quy mơ, trình độ tổ chức
và kinh nghiệm thực tiễn. Cịn có một nguyên nhân trực tiếp gây cản trở việc
thực hiện nguyên tắc TTDC đó là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên có khơng

ít người mang nặng tư tưởng cá nhân . Khơng ít cấp ủy và tổ chức đảng
thiếu tơn trọng và phát huy quyền hạn của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp
dưới. Khơng ít cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa quen với những thông tin
ngược chiều. Khơng thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình; chưa
gương mẫu tu dưỡng rèn luyện bản thân để chấp hành tốt nghị quyết của
Đảng, vẫn còn tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập cấp dưới.
Không những vậy, mà công tác kiểm tra chưa thường xuyên chặt chẽ,
nhiều lúc thiếu sắc bén, chưa kịp thời, còn hữu khuynh trong đấu tranh
chống tiêu cực và các quan điểm sai lệch. Vẫn cịn tình trạng, bao che
khuyết điểm làm cho việc xử lý kỷ luật không nghiêm đối với cán bộ, đảng
viên vi phạm kỷ luật đảng, kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà nước. Đó là
những sơ hở cho các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất bình
trong nội bộ tổ chức đảng và trong đơn vị.
Trong khi đó các thế lực thù địch ln ln tìm mọi cách để chống phá
Đảng, chống phá quân đội, trong đó có nguyên tắc TTDC chúng đưa ra
những luận điệu nhằm xuyên tạc, chúng cho rằng việc thực hiện nguyên tắc
TTDC của Đảng ta là cực quyền, là chế độ đảng trị ... sẽ dẫn đến mất dân
chủ đó là chế độ độc tài, quân phiệt, nó ra sức ca ngợi và khuyến khích thực
hiện dân chủ tự do, dân chủ cực đoan... trong Đảng nên có nhiều phe nhóm
đối lập để đấu tranh và sử dụng triệt để những chiêu bài "dân chủ", "đa


17

nguyên". Cổ vũ sự bất đồng ý kiến về quan điểm trong nội bộ Đảng, rồi lợi
dụng sự bất đồng đó để chia rẽ sự đồn kết thống nhất của Đảng. Với những
phần tử cơ hội, hữu khuynh có những quan điểm và hành động trái ngược
chống đối lại quan điểm đường lối của Đảng, thì chúng tâng bốc lơi kéo,
mời chào, tặng cho đủ thứ gọi là "danh hiệu"... Cịn những đảng viên chân
chính, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Đảng thì bị chúng nhạo báng,

chế giễu là bảo thủ trì trệ. Nó đối lập những người lãnh đạo với đông đảo
đảng viên, chúng mưu toan gây sự chia rẽ trong nội bộ của tổ chức đảng,
chia rẽ đội ngũ cán bộ đảng viên nhằm mục đích phủ nhận nguyên tắc
TTDC - nguyên tắc tổ chức của Đảng. Với mục đích cuối cùng của chúng là
vơ hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.

2. Một số vấn đề giữ vững và tăng cường nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng trong Đảng bộ quân đội hiện nay.
Đứng trước thực trạng chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng trong
Đảng bộ quân đội và những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch cơng
kích phủ nhận ngun tắc TTDC. Hiện nay, để thực hiện và tăng cường
nguyên tắc TTDC của Đảng trong Đảng bộ quân đội hiện nay vấn đề đặt ra
là phải nghiên cứu nhận thức đúng đắn về bản chất nội dung nguyên tắc
TTDC của Đảng, đồng thời có những quy định cụ thể hóa để bảo đảm thực
hiện nghiêm ngặt nguyên tắc TTDC.
Ngoài vấn đề nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung
nguyên tắc TTDC, điều quyết định, cái bảo đảm trong thực tế là phải có cơ
chế đúng, và những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên
quyết để thực hiện các quy chế, quy định đó. Tức là nội dung nguyên tắc
TTDC phải được "thể chế hóa", Trước hết phải bảo đảm thực hiện quyền


18

của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề
về đường lối, chính sách của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong
phạm vi tổ chức, về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp.
Đảng viên có quyền được thơng tin, quyền được bảo lưu ý kiến của mình
như quy định của Điều lệ Đảng.
Những quy định đó sẽ tạo điều kiện để khắc phục tình trạng cấp ủy vi

phạm quyền của đảng viên, cịn đảng viên thì khắc phục tính thụ động, tiêu
cực. Mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ tự
phê bình và phê bình. Các cấp ủy phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và
đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước các tổ chức đảng thuộc quyền,
thường xuyên thơng báo tình hình và hoạt động của mình đến các tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên. quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê
bình, tổ chức để quần chúng trong đơn vị thuộc phạm vi quyền hạn lãnh đạo
tham gia phê bình. Xử lý nghiêm khắc những người có thái độ trấn áp, trù
dập người phê bình hoặc lợi dụng phê bình để đả kích, vu cáo người khác,
gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ.
Để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và đảng viên
đối với hoạt động của cấp ủy cần phải kịp thời bổ sung, điều chỉnh chủ
trương, chính sách, thay thế những cán bộ khơng đảm đương được nhiệm vụ
và thường xuyên kiện toàn cấp ủy. Nâng cao vai trò trách nhiệm, quyền hạn
của ủy ban kiểm tra các cấp. Ủy ban kiểm tra có chức năng kiểm tra việc
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra việc chấp hành
quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra việc giữ gìn phẩm
chất, đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ luật các tổ
chức đảng và đảng viên theo quy định của Điều lệ Đảng và kỷ luật của quân
đội.


19

Trong công tác cán bộ, cần quy định cụ thể tiêu chuẩn cho từng chức
danh cán bộ. Việc giới thiệu để bầu vào cấp ủy phải được tiến hành từ cơ sở.
Bổ nhiệm cán bộ phải hỏi ý kiến của cơ sở và lấy phiếu tín nhiệm từ cơ sở.
Khi đánh giá, nhận xét cán bộ phải hỏi ý kiến cấp quản lý cán bộ. Quy định
thành chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp xuống làm việc trực tiếp ở cơ sở, tiếp
xúc với cấp dưới, đối thoại với quần chúng ở đơn vị, kịp thời giải quyết có

hiệu quả những vấn đề cấp bách cơ sở đặt ra.
Đương nhiên, cũng khơng phải có cơ chế, quy định là mọi việc được
thực hiện. Muốn thực hiện được quy chế, trước hết cán bộ cấp trên, cán bộ
lãnh đạo phải gương mẫu, các cơ quan kiểm tra, giám sát phải tích cực hoạt
động. Bên cạnh đó, vấn đề cực kỳ quan trọng là phải có sự giám sát thường
xuyên của quần chúng, có sự đấu tranh của cơng luận, dư luận. Tùy từng
vấn đề và ở tính chất, mức độ, phạm vi thích hợp phải thực hiện cơng khai
các hoạt động của tổ chức đảng, của cấp ủy đảng, của người lãnh đạo, chỉ
huy các cấp.
Nhận thức và chấp hành nguyên tắc TTDC của Đảng trên thực tế,
không những là ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn là sự
biểu hiện nguyên tắc đạo đức lối sống của người cộng sản.



×