Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

88. CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI Ở ĐỊA BÀN MIỀN NÚI TRONG THỜI KỲ MỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.28 KB, 28 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

CÔNG
CÔNG TÁC
TÁC DÂN
DÂN VẬN
VẬN CỦA
CỦA QUÂN
QUÂN ĐỘI
ĐỘI

Ở ĐỊA
ĐỊA BÀN
BÀN MIỀN
MIỀN NÚI
NÚI TRONG
TRONG THỜI
THỜI KỲ
KỲ MỚI
MỚI


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2



Mở đầu
Địa bàn miền núi có chiến lược cả về chính trị, kinh tế, quốc phịng và an
ninh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước và các địa
phương trên địa bàn miền núi đã có nhiều chủ trương, biện pháp đầu tư xây
dựng, phát triển và sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, các địa phương trong cả
nước. Nhưng trước hết là phát huy nội lực, thế mạnh về tài nguyên, truyền
NINH,
2013
BẮC
NINH,
THÁNG
5 NĂM
NĂM
2013dân các dân tộc trên địa
thống cách mạng và BẮC
tinh thần
đoànTHÁNG
kết gắn 5bó
của nhân

bàn miền núi. Trong đó, cơng tác dân vận (CTDV) của Đảng là một nhân tố giữ
vai trò quyết định trực tiếp lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi mọi
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh
tế, văn hố, xã hội, quốc phịng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Trong giai
đoạn hiện nay cần phải tăng cường CTDV trên địa bàn miền núi.
Quân đội nhân dân Việt nam vừa là đội quân chiến đấu, lao động sản xuất
và là đội qn cơng tác. Trong đó, CTDV đã trở thành truyền thống, là chức
năng, nhiệm vụ của quân đội. Tiến hành CTDV trong thời kỳ mới, giúp đỡ đồng

bào miền núi phát triển là trách nhiệm của quân đội, thể hiện sự đền ơn, đáp
nghĩa đối với đồng bào miền núi đã hết lòng ủng hộ bộ đội chiến đấu trong các
cuộc kháng chiến trước đây. Đồng thời là một nhiệm vụ rất quan trọng góp phần
giữ vững ổn định chính trị, chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch
đối với địa bàn miền núi chiến lược quan trọng hiện nay. Những năm qua các
đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn miền núi đã tích cực tiến hành CTDV,
nhất là ở các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa và đạt được những thành tích
đáng kích lệ. Song cũng cịn nhiều hạn chế về nhận thức cũng như tổ chức hoạt
động thực tiễn, đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm để
thống nhất hành động. Trong khuôn khổ bài luận này, xin đề cập “đặc điểm,


3

điều kiện, khả năng và một số nội dung, biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả
công tác dân vận của quân đội ở địa bàn miền núi trong thời kỳ mới”.
Phần thứ nhất
ĐẶC ĐIỂM, ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG TIẾN HÀNH
CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI Ở ĐỊA BÀN MIỀN NÚI
Quân đội đóng quân trên địa bàn miền núi có nhiều lực lượng: quân chủ
lực của Bộ, của quân khu, Bộ đội biên phòng, Bộ đội địa phương, lực lượng
của các học viện, nhà trường, các đơn vị kinh tế, quốc phòng và các quân binh
chủng. Bên cạnh việc thực hiện những chức năng chung của quân đội, mỗi đơn
vị đều có chức năng nhiệm vụ riêng. Vì vậy, CTDV của quân đội vừa có
những đặc điểm, điều kiện và khả năng chung vừa có những đặc điểm, điều
kiện và khả năng riêng chi phối.
1. Đặc điểm, điều kiện và khả năng chung:
Một là, quân đội đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của
Đảng Cộng sản Việt nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sự lãnh
đạo của Đảng quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự

trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Nhờ vậy, quân đội đã xây đắp nên
bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” là biểu
hiện cao nhất bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của quân đội ta, nó đã
khắc sâu vào trái tim, khối óc của nhân dân ta từ miền xuôi đến miền ngược.
Khi nhắc đến “Bộ đội Cụ Hồ” ở đâu cũng được nhân dân tin yêu, mến phục.
Đây là đặc điểm, điều kiện thuận lợi để quân đội tiến hành CTDV.
Hai là, quân đội có hệ thống tổ chức tập trung, thống nhất, có kỷ luật chặt
chẽ. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội được tuyển chọn từ những người ưu tú
trong con em của nhân dân các dân tộc Việt Nam, là lực lượng tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đây là một ưu thế lớn của quân đội, không
những bảo đảm cho quân đội có điều kiện, khả năng mà trên thực tế tiến hành
CTDV.một cách có hiệu quả.


4

Ba là, quân đội tiến hành CTDV ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa
trong điều kiện các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở quan tâm chăm lo,
đổi mới phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn miền núi. Riêng quân đội, bên cạnh
những chủ trương tiếp tục đẩy mạnh CTDV, Bộ Quốc phòng đã có chỉ thị số
123/ CT ngày 16 - 2- 2002 về việc củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của
các tổ, đội công tác tăng cường cho các cơ sở trên địa bàn Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam bộ.
Bốn là, tiến hành CTDV đã trở thành truyền thống, chức năng nhiệm vụ
thường xuyên của quân đội. Nhân dân cả nước nói chung và đồng bào các dân
tộc miền núi nói riêng rất tin yêu bộ đội.
Năm là, quân đội thực hiện nhiệm vụ CTDV ở địa bàn miền núi trong điều
kiện Chính phủ và Bộ Quốc phịng đã thực hiện điều chỉnh lực lượng trên địa
bàn cả nước nói chung và ở các vùng miền núi nói riêng. (Tây Bắc, Tây
Nguyên, và Tây Nam Bộ).

Sự điều chỉnh tăng cường lực lượng thường trực của Bộ, cùng với lực
lượng vũ trang tại chỗ đã tạo ra một lực lượng đông đảo, rộng khắp và khả
năng to lớn tạo thành sức mạnh tổng hợp trong CTDV ở địa bàn miền núi
trong điều kiện mới song quân đội tiến hành CTDV ở địa bàn miền núi cịn
gặp khơng ít khó khăn. Trước hết, nhiệm vụ chính trị trung tâm của quân đội là
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong tình hình mới đặt ra yêu cầu rất cao. Mặt
khác, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ là người dân tộc miền núi tại chỗ trong các đơn
vị quân đội rất ít, trong khi cơ chế quản lý, lãnh đạo, chế độ chính sách có một
số nội dung cịn bất cập với tình hình thực tiễn... Đó là những vấn đề có ảnh
hưởng lớn đến quá trình hoạt động CTDV của các đơn vị quân đội ở địa bàn
miền núi.
2. Đặc điểm, điều kiện và khả năng của từng lực lượng:


5

- Bộ đội chủ lực của Bộ và các quân khu: Là những đơn vị cơ động của
Bộ và của Quân khu, có chức năng, nhiệm vụ hàng đầu là sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi, được tổ chức biên chế, trang bị đầy đủ, có hệ thống
lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ, thống nhất; có truyền thống và bề dày kinh nghiệm
làm CTDV và thường xuyên tiến hành ngay trên địa bàn đóng quân. Qua đó
giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức và bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” cho cán
bộ, chiến sĩ và tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Tuy nhiên, với bộ đội chủ lực, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu. Thời gian huấn luyện hàng năm là 11 tháng, do vậy
thời gian thực hiện nhiệm vụ CTDV không nhiều; địa bàn công tác ở vùng sâu,
vùng xa mùa mưa đi lại rất khó khăn, phương tiện thông tin liên lạc hạn chế,
kinh nghiệm thực tiễn CTDV của cán bộ, chiến sĩ cịn ít. Các tổ, đội cơng tác
chun trách cịn có những khó khăn và hạn chế về nhiều mặt.
- Các đơn vị làm kinh tế - quốc phòng:

Các đơn vị đơn vị làm kinh tế - quốc phịng ở địa bàn miền núi có nhiệm
vụ cơ bản lâu dài là: phát triển kinh tế gắn với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh,
xây dựng dân cư - xã hội trên địa bàn miền núi chiến lược quan trọng... góp
phần từng bước tạo cho miền núi phát triển mạnh cả về kinh tế xã hội và quốc
phòng - an ninh.
Các đơn vị đơn vị làm kinh tế - quốc phịng đóng qn trên địa bàn miền
núi, chủ yếu dọc biên giới, vùng sâu, vùng xa, cư dân phần lớn là dân tộc thiểu
số, nhiều dân tộc, mật độ dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, kinh tế chủ
yếu tự túc, tự cấp, trình độ canh tác lạc hậu, sống du canh, du cư, cơ sở hạ tầng
yếu kém, văn hoá, giáo dục, y tế còn thiếu thốn. Các đơn vị đơn vị làm kinh tế
- quốc phòng ở địa bàn miền núi đã nhận thức sâu sắc và đáp ứng, yêu cầu kết
hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế. Trong đó củng cố quốc
phịng là cơ bản, phát triển kinh tế vừa là mục tiêu vừa là điều kiện đảm bảo


6

quan trọng để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; đồng thời giải quyết tốt mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế với hoạt động CTDV trên địa bàn đóng quân,
tạo ra sự nhất trí cao giữa đơn vị với địa phương.
Thế mạnh của các đơn vị đơn vị làm kinh tế - quốc phịng ở địa bàn miền
núi là có vốn, có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật; có phương
tiện, có lực lượng tại chỗ. Mục đích nhiệm vụ và lợi ích của đơn vị thống nhất
trực tiếp với mục đích nhiệm vụ và lợi ích của nhân dân địa phương. Đây là
điều kiện thuận lợi để các đơn vị đơn vị làm kinh tế - quốc phịng tiến hành
CTDV một cách có hiệu quả, (như Binh đồn 15 đóng qn ở Gia Lai). Do
thường xuyên bám bản (thôn), bám dân, nên đã nắm chắc tình hình mọi mặt
kinh tế - xã hội ở địa bàn, tăng cường tuyên truyền giáo dục đồng bào nâng
cao cảnh giác cách mạng trước những luận điệu của bọn phản động để khơng
bị lừa bịp, dụ dỗ, kích động, xuyên tạc đường lối chủ trương của Đảng và Nhà

nước ta, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân dân. Đồng bào
dân tộc thiểu số đã thực hiện tốt cam kết “không bỏ sản xuất, khơng nghe theo
lời bọn xấu”; an ninh chính trị được giữ vững, kinh tế phát triển, đời sống của
đồng bào từng bước được cải thiện, dân trí được nâng cao, lịng tin của đồng
bào đối với chính quyền, với tổ chức đảng và đơn vị ngày càng vững chắc. Đó
là mục đích hoạt động CTDV của các đơn vị đơn vị làm kinh tế - quốc phòng
ở địa bàn miền núi.
- Bộ đội địa phương:
Bộ đội địa phương đóng quân trên địa bàn miền núi, là con em của nhân
dân các dân tộc, trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã kế
thừa, giữ vững và phát huy truyền thống đấu tranh bất khuất của quê hương,
bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ đội địa phương có
nhiệm vụ chính trị trọng tâm là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo
vệ địa phương, giữ vững ổn định chính trị, đồng thời thực hiện tốt chức năng


7

công tác và lao động sản xuất tham gia phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn;
cùng với cấp uỷ, chính quyền và nhân dân các dân tộc xây dựng nền quốc
phịng tồn dân, thế trận quốc phịng gắn với thế trận an ninh nhân dân và khu
vực phịng thủ vững chắc.
Bộ đội địa phương có thế mạnh trong CTDV là từng đơn vị, từng con
người cụ thể gắn chặt với địa bàn cơng tác, nắm chắc tình hình mọi mặt của địa
phương, có lực lượng đơng đảo. Bộ đội địa phương các tỉnh có nhiều kinh
nghiệm trong công tác vận động quần chúng đấu tranh chống lại bọn phản
động, có truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân, giàu ý chí tự lực, tự
cường, có nhiều thành tích và kinh nghiệm trong cơng tác vận động quần
chúng, giúp dân xố đói, giảm nghèo, định canh, định cư. Sau sự kiện xảy ra ở
Tây Nguyên (tháng 2-2001 và tháng 4-2004) các đơn vị đã rút ra nhiều bài học

kinh nghiệm bổ ích, nhất là cơng tác bám, nắm địa bàn cơ sở.
Tuy vây, trong CTDV của các đơn vị bộ đội địa phương ở các tỉnh miền
núi có những khó khăn nhất định đó là: Nhiệm vụ của bộ đội địa phương rất
nặng nề, trong khi tổ chức biên chế, trang bị chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng
tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của bộ đội địa phương chưa cao; khả năng và
điều kiện bảo đảm cơ động, cũng như các phương tiện thông tin liên lạc còn hạn
chế. Nhận thức, hiểu biết của của một số cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị bộ đội
địa phương về chức năng, nhiệm vụ của từng thành viên trong hệ thống chính trị
ở cơ sở chưa rõ ràng, tỷ lệ cán bộ, chiến sĩ là người dân tộc trong đơn vị còn
thấp. Phần lớn số cán bộ làm CTDV lại không biết tiếng dân tộc, chưa hiểu biết
nhiều về phong tục tập quán của đồng bào. Đội ngũ cán bộ quân sự xã, phường,
thị trấn chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, trình độ năng lực còn hạn chế...
- Bộ đội Biên phòng: Bộ đội biên phòng làm nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền an ninh biên giới trên địa bàn miền núi. Để thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ vững chắc chủ quyền an ninh biên giới, Bộ đội Biên phòng đã xây dựng


8

được thế trận tồn dân, có truyền thống gắn bó máu thịt với nhân dân, bám
đất, bám dân, làm tốt CTDV ở những nơi xa xôi, hẻo lánh, vùng biên giới
một cách có hiệu quả. Hình ảnh anh bộ đội mang quan hàm xanh đem lại
“cái chữ” đến cho đồng bào, giúp bà con dân bản xố đói, giảm nghèo,
khám chữa bệnh miễn phí, xây dựng nếp sống mới... đã làm cho đồng bào
tin tưởng và làm theo Bộ đội biên phịng. CTDV của Bộ đội biên phịng có
thuận lợi cơ bản là lực lượng nằm ngay trên địa bàn, thường xuyên bám đất,
bám dân có điều điều kiện thực hiện tốt 4 cùng: “cùng ăn, cùng ở, cùng làm,
cùng nói tiếng dân tộc”. Do vậy đã nắm chắc tình hình địa bàn, nhất là có
nghiệp vụ để nắm tình hình an ninh chính trị, diễn biến tư tưởng và hành động
của từng người dân địa phương để chủ động có kế hoạch đối phó kịp thời khi

có tình huống phức tạp xảy ra.
Tuy vậy, trong CTDV của Bộ đội Biên phịng gặp rất nhiều khó khăn,
mang tính đặc thù như: địa bàn miền núi, khu vực biên giới khá phức tạp, rừng
rậm rạp, núi cao, vách đứng, sông suối nhiều, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, hệ
thống đường giao thơng phát triển kém, đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa,
các dịch bệnh thường xảy ra. Dân cư phân bố khơng đều, nhiều vùng rộng lớn
khơng có dân ở. Đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào cịn nhiều khó
khăn, trình độ dân trí thấp, tập tục lạc hậu... Trong khi đó, kinh nghiệm hoạt
động CTDV của cán bộ, chiến sĩ trẻ của đơn vị chưa nhiều; nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền an ninh biên giới trong tình hình mới hết sức nặng nề. Những vấn
đề đó làm cho CTDV của Bộ đội Biên phịng càng thêm khó khăn, địi hỏi
trách nhiệm của Bộ đội Biên phòng rất cao.
Từ đặc điểm, điều kiện và khả năng của từng lực lượng, từng đơn vị quân
đội, khi tiến hành CTDV ở địa bàn miền núi phải hướng vào những yêu cầu:
- CTDV phải đáp ứng vị trí chiến lược của địa bàn miền núi (địa hình, dân
cư...), có hình thức tổ chức, phương pháp hoạt động phù hợp.


9

- Phải quan tâm đúng mức và giải quyết những nét đặc thù về ván đề dân
tộc và tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán... là những vấn đề rất nhạy
cảm và phức tạp trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Đây là
những nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị ở địa bàn miền núi.
- Khi tiến hành CTDV ở miền núi, vùng dân tộc, tôn giáo phải nghiên cứu
kỹ và tính đến sự tác động của hệ thống thiết chế xã hội cổ truyền; kế thừa và
phát triển những yếu tố tiến bộ trong “Luật tục” của từng dân tộc thiểu số đang
còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
- Khi tiến hành CTDV ở vùng dân tộc, tôn giáo trên địa bàn miền núi phải
đặt trọng tâm vào cơng tác tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương

phát triển đội ngũ cán bộ người dân tộc tại chỗ. Quan tâm đến việc giáo dục, bồi
dưỡng tầng lớp thanh, thiếu niên trong đồng bào dân tộc thiểu số (bộ phận có
nét đặc thù riêng về tâm lý, văn hoá các dân tộc... so với thanh, thiếu niên vùng
khác) hiện nay đang chịu sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường.
- Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng quân đội; căn cứ vào đặc
điểm của từng lực lượng để xác định yêu cầu, nội dung, hình thức và phương
pháp tiến hành cho phù hợp, cần có sự đầu tư thoả đảng cho lực lượng tại chỗ
để có đủ sức xử lý những tình huống xảy ra ngay trên địa bàn.
Phần thứ hai
NỘI DUNG, BIỆN PHÁP CƠ BẢN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA CÁC
ĐƠN VỊ QUÂN ĐỘI Ở ĐỊA BÀN MIỀN NÚI TRONG THỜI KỲ MỚI

1. Tăng cường công tác giáo dục nâng cao hơn nữa nhận thức, trách
nhiệm cán bộ, chiến sĩ về vai trị của cơng tác dân vận của quân đội trong
tình hình mới.
Nhận thức đúng là cơ sở để hình thành động cơ thái độ đúng đắn, phát
huy trách nhiệm, xây dựng ý chí quyết tâm cao, có biện pháp cụ thể và tự giác
hồn thành các nhiệm vụ được giao. Do đó, tăng cường công tác giáo dục nâng


10

cao nhận thức cho bộ đội về vai trò tầm quan trọng của CTDV là giải pháp cơ
bản, bảo đảm cho CTDV của quân đội đạt hiệu quả cao.
Thực tiễn hiện nay, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ trong quân đội có nhận
thức đúng, trách nhiệm cao đối với CTDV là vấn đề không đơn giản. Do vậy,
phải chủ động, tích cực, kiên trì, tiến hành với những nội dung sâu sắc, biện
pháp phong phú làm cho bộ đội nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần
thiết của CTDV, làm cơ sở nâng cao ý thức, trách nhiệm tự giác tham gia

CTDV có chất lượng và hiệu quả. trước những tác động của sự biến đổi kinh tế
- xã hội đến đời sống của quân đội và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch đối với cách mạng nước ta. Cần phải, “Tăng cường lãnh đạo và
giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan
trọng cả về nội dung, hình thức, phương pháp CTDV của quân đội hiện nay.
Quán triệt sâu sắc những quan điểm chỉ đạo công tác quần chúng của Đảng,
vận dụng vào thực tiễn, xác định rõ trách nhiệm của từng cấp, từng ngành,
từng đơn vị, từng người trong tổ chức thực hiện” 1. Quán triệt những quan
điểm trên vào giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ chiến sĩ
trong quá trình tiến hành CTDV, cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau:
Về nội dung giáo dục: phải trang bị cho cán bộ chiến sĩ nắm vững đường
lối quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về CTDV của
quân đội trong tình hình mới.
Những quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng về CTDV là sự cụ thể
hóa lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác vận động
cách mạng vào điều kiện thực tiễn hiện nay. Các quan điểm, chủ trương, giải
pháp ấy được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, chính sách pháp luật của Nhà nước và các
chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, chính quyền địa phương. Trong tình hình hiện
Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị số 137 về việc tăng cường cơng tác dân vận trong tình
hình mới.
1


11

nay, phải tập trung mọi nỗ lực giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới phương thức hoạt động
CTDV của các đơn vị trong toàn quân; về xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTDV
ở các đơn vị cơ sở; về đoàn kết toàn dân tộc; về công tác dân tộc, tôn giáo của

Đảng; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn; về cơng tác
qn sự, quốc phịng, an ninh. v.v. Đó là những vấn đề trực tiếp tác động đến ý
thức, trách nhiệm, tình cảm và niềm tin của cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV.
Vì vậy phải giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ hiểu rõ, nắm vững, tuân theo và
sát cánh cùng nhân dân thực hiện. Thực tiễn cho thấy, đơn vị nào chưa làm cho
bộ đội nhận thức về sự phát triển mới của nhiệm vụ CTDV, thì nơi đó dễ dẫn
đến những vi phạm kỷ luật quan hệ quân dân, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ
giữa các đơn vị qn đội với chính quyền, đồn thể chính trị - xã hội ở địa
phương.
Cùng với việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối quan điểm của Đảng, phải tăng cường giáo dục bản chất, truyền thống
tốt đẹp của quân đội làm cho bộ đội nhận rõ thực hiện nhiệm vụ CTDV là sự thể
hiện bản chất tốt đẹp của quân đội cách mạng, là thiết thực góp phần xây dựng
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, mối quan hệ gắn bó
máu thịt qn dân. Đó chính là động lực chính trị - tinh thần nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ trong quá trình thực hiện CTDV.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV,
còn phải làm cho bộ đội hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù. Sự
kiện xảy ra ở địa bàn Tây nguyên (2 - 2001 và 4 - 2004) đã tác động phức tạp
về an ninh chính trị, hiện nay kẻ thù vẫn dùng những thủ đoạn kích động, gây
chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, gây mâu thuẫn, mất
đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Từ đó phải làm cho nhân dân các dân tộc và
các đơn vị quân đội đề cao cảnh giác cách mạng, kịp thời phát hiện, nhận rõ và


12

vạch trần các âm mưu thủ đoạn của kẻ địch, chủ động phòng ngừa, khắc phục
triệt để những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác. Giữ vững sự đoàn kết, thống
nhất giữa quân đội với nhân dân, giữa Đảng, chính quyền với đồng bào các

dân tộc, không để địch lợi dụng phá hoại; nhạy bén phân biệt bạn thù, luôn
luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, tích cực chủ động, cùng với cấp ủy, chính
quyền địa phương và nhân dân đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn
hoạt động của địch ngay ở từng địa bàn đóng quân và trên mọi lĩnh vực hoạt
động. Đồng thời cần đề phịng tư tưởng chủ quan, mất cảnh giác trước “thiện
chí hịa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, dẫn đến bị động
trước các tình huống bạo loạn lật đổ chính quyền có thể xảy ra, nhất là ở các
địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Về biện pháp, hình thức giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của
cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV. Để thực hiện những nội dung giáo dục nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV phải kết hợp
chặt chẽ với chương trình giáo dục chính trị hàng năm, các đợt sinh hoạt chính
trị và thơng qua các hình thức thơng báo chính trị, tun truyền thời sự và các
hoạt động văn hóa, văn nghệ. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện thơng tin
đại chúng, phát thanh truyền hình, báo chí của đơn vị và địa phương.
Kết hợp nội dung giáo dục trong các hoạt động huấn luyện, sẵn sàng
chiến đấu, các nhiệm vụ xây dựng đơn vị, lao động sản xuất, trong công tác
giáo dục đào tạo của học viện, nhà trường trong quân đội, trong các hoạt động
tuyển quân, xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng lực lượng dự bị động viên,
dân quân tự vệ... phải được thể hiện trong kế hoạch thực hiện của đơn vị và kế
hoạch công tác đảng, công tác chính trị, cần đề ra yêu cầu, nội dung giáo dục
nâng cao nhận thức, trách nhiệm và động viên cán bộ, chiến sĩ nỗ lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ CTDV.
Đối tượng giáo dục cần quan tâm trước hết là đội ngũ cán bộ chủ trì, cán


13

bộ tổ đội công tác trực tiếp làm CTDV. Cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính
trị và cán bộ chính trị các đơn vị cơ sở trong tồn qn phải tăng cường lãnh

đạo, chỉ đạo, quán triệt thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết và hướng dẫn của
cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan chính trị cấp trên về CTDV. Phát huy
trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong giáo dục nâng cao nhận thức trách
nhiệm của bộ đội đối với CTDV. Phát huy vai trò của các tổ chức Đoàn thanh
niên, Hội đồng quân nhân trong công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của cán bộ, chiến sĩ đối với CTDV. đồng thời chủ động quan hệ và phối
hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và đồn thể địa phương tham gia động
viên, giáo dục bộ đội, như mời cán bộ địa phương nói chuyện về truyền thống
đấu tranh, về phong tục tập quán của nhân dân địa phương, các chủ trương,
chính sách của cấp ủy, chính quyền địa phương trong xây dựng kinh tế, văn
hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, quốc phịng, an ninh... Để cùng với cấp
ủy, chính quyền địa phương phối hợp thống nhất nội dung, kế hoạch giáo dục,
động viên bộ đội chấp hành kỷ luật quan hệ quân dân, làm trong sạch địa bàn
đóng quân. Đó là một trong những biện pháp có hiệu quả nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của bộ đội đối với CTDV hiện nay, cần tiếp tục được phát huy.
2. Thường xuyên bồi dưỡng phẩm chất, năng lực hoạt động CTDV
cho cán bộ, chiến sĩ và tổ, đội công tác trực tiếp làm CTDV.
Tổ, đội công tác đi cơ sở là một hình thức mang lại hiệu quả cao trong cơng
tác vận động quần chúng nhân dân nói chung và CTDV nói riêng. Vì vậy, lựa
chọn, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực, tác phong làm việc của tổ, đội
công tác là một giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng CTDV của quân đội.
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực tiến hành của cán bộ,
chiến sĩ, tổ, đội cơng tác có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động CTDV. Nếu
người tham gia CTDV có phẩm chất, năng lực tốt, đạo đức lối sống trong sáng,
lành mạnh sẽ là tấm gương cho cán bộ, nhân dân địa phương học tập và noi


14

theo. Có khả năng giúp đỡ các tổ chức khắc phục những hạn chế, yếu kém.

Nhất là đối với đồng bào các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa thì phẩm
chất, năng lực của cán bộ, chiến sĩ cịn là biểu tượng tốt đẹp, có sức thuyết
phục, lơi cuốn nhân dân tin tưởng vào đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, khơng tin lời kẻ xấu, tích cực tham gia vào các hoạt động
trong các phong trào cách mạng ở địa phương.
Thực tiễn cho thấy, nếu cán bộ, chiến sĩ có năng lực cơng tác tốt và phẩm
chất đạo đức trong sáng, phong cách gần gũi, tận tình giúp đỡ nhân dân, thì
được nhân dân địa phương tin và làm theo, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
để bộ đội thực hiện tốt nhiệm vụ CTDV. Ngược lại, cán bộ, chiến sĩ tham gia
CTDV mà không gương mẫu về đạo đức, lối sống, bản lĩnh chính trị khơng
vững vàng, vi phạm kỷ luật, năng lực vận động kém, không bám sát địa bàn,
bám dân thì lịng tin của cấp ủy, chính quyền và nhân dân đối với đơn vị quân
đội bị giảm sút, hiệu quả CTDV không cao, tạo sơ hở để kẻ địch lợi dụng chia
rẽ, phá hoại mối đoàn kết quân dân.
Trong việc lựa chọn cán bộ tăng cường cho cơ sở và các tổ, đội công tác
phải đặc biệt coi trọng tiêu chuẩn chất lượng. Những cán bộ tăng cường cho cơ
sở và các tổ, đội cơng tác phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng mơ hồ,
dao động trước khó khăn, có quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ, dũng
cảm đấu tranh với các thế lực thù địch, với các hiện tượng quan liêu tham
nhũng, những biểu hiện tư tưởng và hành động sai lệch với quan điểm của
Đảng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh;
có kiến thức, kinh nghiệm và năng lực thực tiễn về xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền, tổ chức và vận động nhân dân ở cơ sở; có ý thức tổ chức kỷ luật,
giữ vững nguyên tắc của Đảng, pháp luật Nhà nước; có quan điểm đúng đắn vì
lợi ích của nhân dân, Tổ quốc, dân tộc, nêu gương tốt về cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng, vơ tư, nói đi đơi với làm, sâu sát thực tế, gắn bó với dân.


15


Vì vậy, cấp ủy, chỉ huy các đơn vị cơ sở cần chú trọng bồi dưỡng nâng
cao phẩm chất, năng lực cho cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm CTDV đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ được giao. Trong đó, tập trung bồi dưỡng phẩm chất quân nhân
cách mạng, nhất là xây dựng bản chất đạo đức “Bộ đội Cụ Hồ” cho cán bộ,
chiến sĩ trực tiếp làm CTDV (các thành viên trong tổ, đội công tác), làm cho
mọi người nhận thức đúng danh hiệu “Bộ đội Cụ Hồ” luôn là niềm tự hào của
cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội
Cụ Hồ” tiêu biểu ở phẩm chất chính trị, tư tưởng “Trung với nước, trung với
Đảng, hiếu với dân” của quân đội và nêu cao hình ảnh cao đẹp của “bộ đội Cụ
Hồ” trong lịng nhân dân. Đó là điểm tựa vững chắc cho CTDV đạt hiệu quả
cao. Đặc biệt, quan tâm giáo dục tinh thần phục vụ nhân dân. Không vi phạm
chính sách, chế độ đã quy định, có tinh thần đấu tranh chống tiêu cực và gương
mẫu chấp hành đúng pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước, trung
thực, lành mạnh, nhân ái.
Bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững các quan điểm, nguyên tắc
trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với các vấn
đề dân tộc, tôn giáo, vấn đề xây dựng hệ thống chính trị… Bồi dưỡng các kiến
thức cơ bản về lý luận chính trị, kiến thức về công tác quản lý nhà nước, quản
lý kinh tế, pháp luật; những vấn đề liên quan trực tiếp đến dời sống của nhân
dân; ngôn ngữ, phong tục tập quán, tâm lý, thói quen tín ngưỡng của đồng bào
các dân tộc thiểu số trên địa bàn.
Bồi dưỡng kỹ năng tuyên truyền, vận động đối với đồng bào dân tộc thiểu
số ở vùng sâu, vùng xa; khả năng tham mưu, tư vấn, phối, kết hợp với các tổ
chức trong hệ thống chính trị , giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội bức xúc
trong đời sống; tham gia xây dựng các dự án kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phịng, an ninh tại địa phương nơi đóng qn; năng lực nghiên cứu, quán triệt
và vận dụng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghị


16


quyết, chương trình, dự án của Nhà nước ở các địa bàn trọng điểm, vùng sâu,
vùng xa.
Để thực hiện có hiệu quả những nội dung trên cấp ủy, người chỉ huy, cơ
quan chức năng ở các cấp, (nhất là cấp ủy Đảng, người chỉ huy, quản lý trực
tiếp tổ, đội công tác 123) phải thường xuyên theo dõi, chỉ đạo thực hiện
nghiêm túc chế độ giao ban, nắm tình hình chế độ tập huấn, bồi dưỡng kiến
thức, phổ biến quán triệt nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, kịp thời phát huy ưu
điểm, khắc phục hạn chế thiếu sót. Sau từng đợt sinh hoạt, tập huấn cần tổ
chức kiểm tra, đánh giá chất lượng nhận thức tư tưởng, thái độ trách nhiệm của
cán bộ, chiến sĩ, tìm ra nguyên nhân và rút kinh nghiệm kịp thời bổ sung, hoàn
chỉnh nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng lực
tiến hành CTDV cho bộ đội góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả. Thực tiễn
cho thấy khi tổ, đội công tác, cán bộ tăng cường cho cơ sở khơng phát huy tác
dụng, thì phải kịp thời củng cố, kiện tồn bổ sung những người có đủ tiêu
chuẩn về phẩm chất, năng lực và uy tín để tăng cường cho các tổ, đội công tác.
Lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường xuyên bồi dưỡng cho các tổ, đội cơng
tác nắm vững chắc năng, nhiệm vụ, có năng lực và phong cách, tác phong
công tác tốt. Tổ, đội công tác là lực lượng thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với
các cơ quan, đoàn thể và nhân dân các địa phương. Do đó, lực lượng này phải
thường xuyên bám sát địa bàn, nhất là các điểm nóng, để tiến hành cơng tác
tun truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ công dân;
giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, làm cho nhân dân nhận rõ âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù.
Các tổ, đội công tác phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân để nắm tâm
tư, tình cảm, nguyện vọng, giúp đỡ đồng bào khắc phục khó khăn. Đối với
những nơi vùng sâu, vùng xa ở những nơi hẻo lánh, trình độ dân trí thấp, cịn
thiếu phương tiện thơng tin đại chúng thì phải gặp và phát huy vai trò của



17

những người có uy tín lớn như già làng, trưởng bản, để cùng tham gia tuyên
truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Kết hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền
và các đồn thể động viên, giúp đỡ nhân dân khắc phục khó khăn trong đời
sống - kinh tế, văn hóa, xã hội... thực hiện phương châm “Nghe được dân nói,
nói cho dân hiểu, làm được cho dân tin, giành được thế trận lòng dân”.
Cấp ủy, chỉ huy đơn vị cần theo dõi, quản lý, chỉ đạo chặt chẽ các tổ, đội
công tác, kịp thời phát hiện biểu dương, khen thưởng những nhân tố tích cực;
nghiêm túc xử lý những tập thể, cá nhân vi phạm kỷ luật cơng tác, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả CTDV của đơn vị.
Trong tình hình hiện nay phải kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, động viên
với thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước đối với
CTDV của quân đội nói riêng. thực tế hiện nay một số chế độ, chính sách hiện
hành đối với CTDV của quân đội đã bị thực tiễn vượt qua. (Như chế độ bảo
đảm kinh phí, sự ưu tiên, đãi ngộ đối với các cán bộ được cử đi tăng cường cho
cơ sở…). Vì vậy, phải tiếp tục nghiên cứu đề xuất, kiến nghị với Đảng và Nhà
nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đối với quân đội trong
CTDV, bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ và sát với tình hình thực tiễn. Theo
hướng đó cần nghiên cứu đổi mới chính sách đãi ngộ về tiền ăn, phụ cấp trách
nhiệm, phụ cấp sinh hoạt, chế độ cơng tác phí, trần qn hàm, thời gian công
tác v.v… đối với cán bộ, đội viên các tổ, đội công tác. Trong điều kiện ngân
sách chi cho các hoạt động cơng tác dân vận cịn hạn chế, cần kết hợp, huy
động các nguồn lực của các cấp, các ngành để đủ ngân sách bảo đảm cho cơng
tác dân vận của qn đội. Ngồi chính sách chế độ do quân đội bảo đảm cho
các lực lượng làm công tác dân vận cần huy động nguồn lực của các đơn vị,
các huyện, thị xã chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các tổ, đội công tác
làm CTDV trên địa bàn địa phương.



18

3. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhân
dân trong công tác dân vận.
Đây là nội dung lớn, là biện pháp quan trọng trực tiếp góp phần nâng cao
hiệu quả CTDV của quân đội trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện nội dung,
biện pháp này, các đơn vị trong toàn quân cần phải:
Một là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục, tuyên truyền, động
viên chính trị của cán bộ, chiến sĩ đối với các tầng lớp nhân dân. Thực tiễn đã
khẳng định việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa, dân trí
của nhân dân là một nhân tố cơ bản trong CTDV. Vì vậy, tiến hành có hiệu quả
các hoạt động tuyên truyền giáo dục, động viên chính trị trong các tầng lớp
nhân dân cịn góp phần tăng cường sự gắn bó keo sơn máu thịt giữa quân đội
với nhân dân, làm cho quan hệ quân dân được củng cố và phát triển. Mặt khác
đây là điều kiện quan trọng để cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ CTDV.
Nội dung tuyên truyền, giáo dục, động viên chính trị đối với các tầng lớp
nhân dân rất phong phú, song cần tập trung vào giáo dục nâng cao giác ngộ
chính trị cho nhân dân , về tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhận
thức và trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết,
tuyên truyền, giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, quan điểm của Đảng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. để các
tầng lớp nhân dân nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương, đặc biệt chú ý đến vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và trong đồng bào tôn giáo.
Tăng cường giáo dục, động viên tinh thần yêu nước gắn với chủ nghĩa xã
hội, yêu quê hương, quý trọng truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc.
Củng cố lịng tin, tình cảm, trách nhiệm xây dựng và bảo vệ quê hương; xác
định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ, phát huy tính tích cực tự giác của mỗi cơng
dân trong giữ vững ổn định chính trị xã hội, thực hiện thắng lợi các mục tiêu



19

phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh ở từng địa phương.
Phải bằng nhiều biện pháp làm cho mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ
tình hình, âm mưu của địch, từ đó đề cao cảnh giác, xác định trách nhiệm đối
với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, Quân đội tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả tham gia xây dựng
hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh.
Tham gia xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh:
Hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức Đảng, chính quyền và các đồn
thể nhân dân, trong đó tổ chức đảng là hạt nhân lãnh đạo. Vì vậy, xây dựng
đảng ở địa phương trong sạch vững mạnh là nhân tố quyết định sự ổn định và
phát triển về mọi mặt. Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa
VIII và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, các đơn vị quân đội phải có kế hoạch
tiến hành cụ thể, xác định rõ yêu cầu, nội dung và bước đi thích hợp để giúp
cấp ủy địa phương xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Coi trọng nâng cao chất lượng lãnh đạo và hoạt động xây dựng
Đảng, để giúp đảng bộ, chi bộ địa phương nâng cao chất lượng lãnh đạo. Các
đơn vị quân đội phải quán triệt, làm thấu suốt nội dung cơ bản của các chủ
trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy địa phương đến cán bộ, chiến sĩ, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ, tổ, đội công tác trực tiếp tiến hành CTDV. Đồng thời,
thông qua các hình thức CTDV để đưa nghị quyết, chủ trương lãnh đạo của
Đảng bộ, chi bộ địa phương vào thực tiễn. Thông qua tiếp xúc với nhân dân để
nắm được tâm tư, nguyện vọng, thái độ của các tầng lớp nhân dân đối với chủ
trương, biện pháp lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ địa phương. Đồng thời phát
hiện những vấn đề chưa hoàn chỉnh của nghị quyết làm cơ sở kiến nghị cấp ủy
địa phương bổ sung hoàn thiện chủ trương, biện pháp lãnh đạo cho phù hợp.
Để giúp tổ chức ở địa phương nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng

Đảng, địi hỏi tổ chức đảng và cơ quan chính trị các đơn vị quân đội phải nắm


20

vững yêu cầu, tính chất nhiệm vụ lãnh đạo, thực trạng đội ngũ đảng viên ở địa
phương. Trên cơ sở đó đề xuất với cấp ủy địa phương chủ trương, chỉ đạo cụ
thể đối với từng đảng bộ, chi bộ. Về cơng tác phát triển đảng viên mới, q
trình bám địa bàn thực hiện CTDV phải quan tâm phát hiện và bồi dưỡng nhân
tố cốt cán cho địa phương, tạo điều kiện thu hút họ tham gia các phong trào
hành động cách mạng của quần chúng để bồi dưỡng nguồn phát triển Đảng.
Phối hợp với cấp ủy địa phương xác định kế hoạch phân công người giúp đỡ,
nhất là quan tâm đến lực lượng thanh niên là người dân tộc thiểu số ở địa
phương. Quá trình tạo nguồn phát triển Đảng phải chấp hành đúng Điều lệ
Đảng về điều kiện, tiêu chuẩn, nguyên tắc kết nạp đảng viên, đồng thời phải
tạo nguồn kế cận cán bộ chủ trì ở địa phương. Giúp đỡ cấp ủy địa phương về
công tác bồi dưỡng đội ngũ đảng viên, chăm lo đến lợi ích của đảng viên là
người dân tộc thiểu số để họ ổn định cuộc sống, có điều kiện chăm lo cơng
việc của địa phương; phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng và tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng với quần chúng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn
dân.
Tham gia xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh:
Để góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả, cần tập trung vào việc xây dựng, hồn thiện bộ máy chính quyền,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các cấp ủy và cơ quan chính trị các cấp
trong quân đội cần giúp đỡ chính quyền địa phương tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; giúp đỡ cấp ủy, chính
quyền địa phương giáo dục nâng cao phẩm chất, bồi dưỡng năng lực cho đội
ngũ cán bộ địa phương, phải coi trọng bồi dưỡng kiến thức, tác phong làm việc
của đội ngũ cán bộ công tác hành chính. Vì vậy, các đơn vị qn đội cần nắm

chắc tình hình mọi mặt trên địa bàn đóng qn. Trước hết, nắm vững các chủ
trương công tác của địa phương, giúp đỡ chính quyền thực hiện đúng pháp


21

luật; đơn vị quân đội tôn trọng và thực hiện đúng những quy định của địa
phương. Kịp thời phát hiện, phân tích đúng và giải quyết những mâu thuẫn
trong nhân dân; giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhân dân với chính quyền, thắt
chặt mối quan hệ giữa cấp ủy, chính quyền và các đơn vị qn đội đóng qn
trên địa bàn. Nghiên cứu nắm chắc tình hình địa phương, đề xuất kế hoạch
phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với điều kiện cụ thể, thiết thực phục vụ đời
sống nhân dân. Phối hợp cùng cấp ủy, chính quyền địa phương tham gia bồi
dưỡng nguồn cán bộ nòng cốt trong các tổ chức quần chúng, phát hiện, bồi
dưỡng nguồn cán bộ cho chính quyền, theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5
khóa IX. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, các đơn vị quân đội cần thực
hiện tốt nhiệm vụ bồi dưỡng những thanh niên con em các dân tộc thiểu số
trong thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự trở thành những đảng viên, đoàn
viên, để khi xuất ngũ họ là nòng cốt, là nguồn cán bộ chủ chốt của tổ chức
Đảng, chính quyền và tổ chức quần chúng ở địa phương.
Từng đơn vị phải bám sát và nắm chắc địa bàn được phân công, cùng với
địa phương phân loại đối tượng, nắm chắc các đối tượng nghi vấn để có biện
pháp quản lý giáo dục. Tổ chức huấn luyện dân quân tự vệ - lực lượng, công cụ
bạo lực của chính quyền cơ sở có đủ sức răn đe tại chỗ để bảo vệ địa phương.
Coi trọng giúp địa phương bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ chính quyền cơ sở
về cơng tác dân tộc, tơn giáo, để nâng cao khả năng phát hiện và xử lý đúng
những kẻ lợi dụng tôn giáo mê hoặc đồng bào. Phát huy vai trò của đội ngũ
cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ đã nghỉ hưu là người dân tộc thiểu số tại địa
phương. Tập trung giúp đỡ địa phương yếu kém, những nơi có thể nảy sinh
vấn đề phức tạp, các vùng trọng điểm, tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định

chính trị, có thể dẫn đến biến động phức tạp . Đặc biệt chú ý vùng sâu, vùng
xa, vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn giáo. Ngồi ra cần giúp cấp ủy, chính
quyền địa phương kiên quyết đấu tranh, khắc phục tệ tham nhũng, quan liêu.


22

Tích cực chủ động, hiệp đồng chặt chẽ với chính quyền và các lực lượng chức
năng của địa phương trong việc đấu tranh chống buôn lậu, xử lý các vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân...
Tham gia xây dựng các tổ chức quần chúng:
Các tổ chức quần chúng ở cơ sở gồm: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh… mỗi tổ chức có vị trí, chức
năng, nhiệm vụ khác nhau trong hệ thống chính trị ở địa phương. Do đó, q
trình giúp đỡ địa phương, phải căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng
tổ chức, với thái độ chân thành, hợp tác giúp đỡ nhau để nâng cao chất lượng
hoạt động của các tổ chức.
Đối với Mặt trận Tổ quốc ở địa phương, khi tham gia xây dựng các đơn vị
quân đội phải nhận thức đúng vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc để
giúp đỡ Mặt trận Tổ quốc thực hiện tốt nghị quyết, chương trình hành động.
Thơng qua cơng tác vận động quần chúng các đội công tác tập hợp ý kiến, kiến
nghị của nhân dân để phản ánh với Ban thường trực Mặt trận Tổ quốc để kiến
nghị với cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết kịp thời. Cùng với Mặt
trận Tổ quốc ở cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia xây dựng, củng cố chính
quyền, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, phát huy vai trị làm chủ
của nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Các lực lượng của đơn vị
quân đội tham gia CTDV, nhất là các tổ, đội công tác phải phối hợp với Ban
thường trực Mặt trận Tổ quốc ở địa phương để xây dựng ban công tác mặt trận
ở cơ sở, cùng với các tổ chức quần chúng khác vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các nghị

quyết, quyết định của của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp về
chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc thực hiện xây dựng cuộc sống
mới ở khu dân cư.
Đối với các tổ chức Đồn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nơng dân…


23

Quá trình tham gia xây dựng các tổ chức này phải đa dạng hố các hình
thức kết nghĩa, giao lưu, cử cán bộ trực tiếp tham gia sinh hoạt để xây dựng
các phong trào hoạt động chung… Thường xuyên bám sát các hoạt động để
phát hiện nhân tố tích cực trong các tổ chức, giúp đỡ địa phương tạo nguồn cho
tổ chức Đảng, chính quyền và các đồn thể.
Phối hợp chặt chẽ với tổ chức ở địa phương mở các lớp học xoá mù chữ
cho đồng bào dân tộc thiểu số, bồi dưỡng cán bộ, hỗ trợ kinh phí hoạt động;
giáo dục ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước cho các tầng lớp dân cư trên
địa bàn để tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi
người dân; vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng, tiến hành có hiệu quả các cuộc vận động tham gia các phong trào
cách mạng; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đấu tranh chống
tham nhũng và tệ nạn xã hội ở địa phương.
4. Chủ động tham gia giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố quốc phịng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thực hiện CTDV các đơn vị quân đội phải kết hợp chặt chẽ giữa việc
tuyên truyền vận động quần chúng tham gia xây dựng hệ thống chính trị với
giúp đỡ địa phương phát triển đời sống của nhân dân. Đây là vấn đề có ý
nghĩa bảo đảm cho sự phát triển lâu dài, bền vững về kinh tế - xã hội ở địa
phương. Nhất là đối với đồng bào các dân tộc ít người, nhân dân chỉ có niềm
tin đối với cấp ủy, chính quyền và đoàn thể khi “tai nghe, mắt thấy”, khi đời
sống vật chất, tinh thần của họ được cải thiện. Vì vậy, khi lựa chọn cán bộ tăng

cường cho cơ sở và thành viên các tổ, đội công tác cũng như tổ chức hành
quân dã ngoại làm CTDV… phải có kế hoạch tổ chức chặt chặt chẽ, mọi hoạt
động phải mang lại kết quả cụ thể, thiết thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
nhân dân địa phương, nhất là đối với đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn. Do vậy, các đơn vị quân đội khi tiến hành CTDV ở địa bàn


24

miền núi cần thực hiện một số nội dung, biện pháp sau:
“Tham gia giúp đỡ địa phương phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo… Nâng cao dân trí, nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa cho đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần giữ vững quốc
phịng, an ninh trên địa bàn”1 phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng vùng,
bảo đảm đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của từng địa
phương, làm giàu chính đáng, tích cực góp phần và sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp nơng thơn.
Phối hợp với các ngành, các cấp và các đoàn thể địa phương tuyên truyền,
giáo dục, vận động nhân dân định canh, định cư cho phù hợp với quy hoạch;
kết hợp giữa tạo điều kiện cho nhân dân yên tâm sản xuất, ổn định đời sống
với tổ chức quản lý chặt chẽ của chính quyền, ngăn ngừa tình trạng di dân tự
do. Hình thành các vùng sản xuất nơng nghiệp hàng hóa lớn, thâm canh với
các cây có thế mạnh. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những diện tích cho
năng xuất và giá trị thấp. Phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa có
chất lượng cao. Phát huy thế mạnh về rừng, có chính sách để đồng bào, nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ có thể sống tốt, ổn định và làm giàu bằng
nghề rừng. Khi giúp đồng bào định canh, định cư phải gắn chặt với chương
trình kinh tế - xã hội, các dự án giao đất, giao rừng, khắc phục tình trạng tranh
chấp đất đai, tự do phá rừng làm nương rẫy. Tạo điều kiện để đồng bào sống
bằng nghề rừng, tham gia bảo vệ rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây

lương thực, làm kinh tế vườn, đồi, chăn nuôi theo hướng nông lâm kết hợp gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới.
Phối hợp chặt chẽ với các ngành giáo dục đào tạo, các trường học ở địa
phương, các ngành thơng tin văn hóa để phát triển sự nghiệp giáo dục. Quá
1

Nghị quyết của Bộ Chính trị (Khoá IX) về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây

Nguyên thời kỳ 2001-2010. Hà Nội, 2002.


25

trình tham gia giúp đỡ nhân dân địa phương xố đói giảm nghèo, xây dựng nếp
sống văn hóa, văn minh cho nhân dân các dân tộc phải được tiến hành có kế
hoạch, chủ động và vận động nhân dân địa phương tích cực tham gia đồng thời
phải tiến hành bền bỉ, kiên trì, khơng chủ quan duy ý chí.
Phối hợp chặt chẽ với ngành y tế cơ sở và trực tiếp tham gia giúp phòng
chống dịch bệnh, khám chữa bệnh chăm sóc sức khỏe cho nhân dân địa
phương, đơn vị quân đội phải kết hợp với các lực lượng khác như thanh niên
tình nguyện, học sinh, sinh viên của các trường đại học, cao đẳng, giữ gìn mơi
trường, nâng cao trình độ văn hóa cho đồng bào, vận động đồng bào dùng
nước sạch, ăn ở hợp vệ sinh...
Nắm chắc tình hình, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể
và các lực lượng trên địa bàn tham gia phịng chống “diễn biến hịa bình”, bạo
loạn lật đổ, giải quyết những “điểm nóng”, củng cố quốc phịng, giữ vững an
ninh ở địa phương. Các đơn vị quân đội thực hiện tốt những vấn đề sau:
Chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương nắm chắc địa
bàn, thống nhất nhận định tình hình về mọi mặt, xây dựng phương hướng
phịng chống. Trong đó nắm những đối tượng đã bị địch móc nối và dự kiến

những hành động chống phá của chúng, từ đó có biện pháp khống chế, ngăn
chặn để không bị động, bất ngờ.
Tham gia xây dựng củng cố trận địa tư tưởng cho đội ngũ cán bộ địa
phương và nâng cao nhận thức cho nhân dân các dân tộc ở địa phương, nhất là
ở vùng sâu, vùng xa, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc. Làm cho nhân dân
các dân tộc có lịng tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định với
mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa. Nhận thức sâu sắc về kẻ thù giai cấp, kẻ
thù dân tộc, không mơ hồ, lẫn lộn địch ta, nêu cao cảnh giác, phối hợp chặt chẽ
với các đơn vị quân đội làm thất bại âm mưu thủ đoạn chống phá của địch.
Phát huy vai trị, khả năng và uy tín của già làng, trưởng bản; phối hợp và động


×