Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

95. TƯ TƯỞNG C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN VỀ NGUYÊN TẮC ĐẢNG TỔ CHỨC ĐẢNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN, VẬN DỤNG TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ CHÍNH TRI TƯ TƯỞNG, TỔ CHỨC VÀ ĐẠO ĐỨC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.63 KB, 31 trang )

Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

TƯ TƯỞNG
TƯỞNG C.MÁC
C.MÁC VÀ
VÀ PH.ĂNGGHEN
PH.ĂNGGHEN VỀ
VỀ NGUYÊN
NGUYÊN TẮC
TẮC ĐẢNG
ĐẢNG TỔ
TỔ CHỨC
CHỨC
ĐẢNG
ĐẢNG CỦA
CỦA GIAI
GIAI CẤP
CẤP CÔNG
CÔNG NHÂN,
NHÂN, VẬN
VẬN DỤNG
DỤNG TRONG
TRONG XÂY
XÂY DỰNG
DỰNG ĐẢNG
ĐẢNG
VỀ
VỀ CHÍNH
CHÍNH TRI


TRI TƯ
TƯ TƯỞNG,
TƯỞNG, TỔ
TỔ CHỨC
CHỨC VÀ
VÀ ĐẠO
ĐẠO ĐỨC
ĐỨC HIỆN
HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU

Đảng cộng sản Việt Nam là một tổ chức độc lập về chính trị tư
tưởng và tổ chức, nắm quyền lãnh đạo cách mạng, gánh vác sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân (GCCN) trung thành và vận dụng sáng
tạo lí luận chủ nghĩa xã hội Khoa học (CNXH KH) của C.Mác và
ăngghen vào thực tiễn đất nước đề ra đường lối cách mạng sát đúng,
đáp ứng yêu cầu lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân và của
dân tộc, nên đã quy
tụ được sức
mạnh đoàn 2013

kết toàn dân tộc với sức
BẮC
BẮC NINH,
NINH, THÁNG
THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013
mạnh thời đại đấu tranh dưới ngọn cờ chủ nghĩa Mác - lênin, liên tiếp
dành được những thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, cũng như trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Một trong những nguyên nhân để Đảng thực hiện đúng sứ mệnh
lịch sử của mình là trung thành tư tưởng C.Mác và ăngghen về các
nguyên tắc xây dựng Đảng, trong đó có nguyên tắc về Đảng độc lập
của GCCN, đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, trong quá
trình xây dựng và trưởng thành, công tác xây dựng Đảng luôn được
chú trọng bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức.
75 năm qua, mỗi bước đi của cách mạng đều gắn liền với xây
dựng, trưởng thành của Đảng. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, trước
tình hình phức tạp nhanh tróng khó lường của tình hình thế giới, trước
đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới vì CNXH hiện nay thì vai


3

trò lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam hết sức
quan trọng, là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt nam. Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi lớn, có khơng ít
khó khăn và thách thức địi hỏi Đảng ta phải: Ln vững vàng về bản
lĩnh chính trị, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Nắm bắt và tổng kết

thực tiễn sáng tạo của nhân dân, kịp thời đề ra chủ trương đúng đắn,
khơi dậy và phát huy được tiềm năng to lớn của nhân. Phải xứng đáng
vai trò chiến sĩ tiên phong cách mạng.
Việc tiếp tục nguyên cứu làm rõ tư tưởng C.Mác và Ph.Ăngghen
về những nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, để nhận thức sâu sắc,
kiên định trung thành và tìm kiếm những giải pháp phù hợp cho quá
trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng ta hiện nay là một việc làm cần thiết
góp phần thiết thực nâng cao hiệu quả cơng tác xây dựng Đảng hiện
nay, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ các mạng trong thời kỳ đẩy mạnh CNH
- HĐH Đất nước. Với lí do đó tơi chọn nội dung tiểu luận là: “Tư
tưởng C.Mác và Ph.ăngghen về nguyên tắc Đảng độc lập của GCCN,
nhận thức và vận dụng sáng tạo vào công tác xây dựng chỉnh đốn
Đảng hiện nay”.
I. Tư tưởng C.Mác và Ph.ăngghen về nguyên tắc Đảng độc lập của
GCCN.
1. Tính tất yếu Đảng là tổ chức độc lập của GCCN


4

Lần đầu tiên trong lịch sử, bằng cách phân tích biện chứng khoa
học C.Mác và Ph.ăngghen đã tiếp thu có phê phán những nhà lí luận
trước đó để nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội TBCN và khẳng định
rằng: Đây là hình thái kinh tế xã hội đã lỗi thời, do đó nó tất yếu diệt
vong và được thay thế bởi hình thái kinh tế xã hội tiến bộ hơn đó là
hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sự chuyển
biến này phải được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội thơng
qua hoạt động tự giác của con người.
Lực lượng có sứ mệnh thực hiện bước chuyển đó, chỉ có thể là
giai cấp vơ sản, bởi vì: Giai cấp vơ sản là sản phẩm trực tiếp của nền

đại công nghiệp, đại biểu cho một phương thức sản xuất đang lên, một
lực lượng có tính xã hội hóa ngày càng cao, là giai cấp có tiền đồ rộng
lớn nhất, khơng ngừng phát triển lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng theo đà phát triển của đại công nghiệp, đại biểu cho tương lai,
khuynh hướng tiến bộ của xã hội loài người, còn các giai tầng khác
dần suy tàn và tiêu vong; Do gắn liền và được rèn luyện trong nền đại
công nghiệp, GCCN có những phẩm chất tốt đẹp mà các giai cấp khác
khơng có, đó là: Đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ, triệt để cách
mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, có tinh thần đồn kết giai cấp và đoàn
kết dân tộc. Nhưng họ lại phải đi làm thuê cho giai cấp tư sản, và bị
bóc lột nặng nề. Do vậy, họ là giai cấp duy nhất có lợi ích cơ bản đối
lập trực tiếp với giai cấp tư sản, họ kiên quyết đấu tranh đến cùng để
thủ tiêu hồn tồn chế độ TBCN giải phóng giai cấp, giai phóng con


5

người khỏi bị áp bức bóc lột và xây dựng CNXH và CNCS. Khảng
định điều này Ph.ăngghen chỉ rõ: “Thực hiện sự nghiệp giai phóng ấy đó là sứ mệnh của giai cấp công nhân hiện đại” [1, 393]
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử đó, nhất thiết giai cấp công nhân
phải ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, kẻ thù của mình, phải thấy
đây là cuộc đấu tranh khó khăn quyết liệt phức tạp, nếu chỉ dừng ở đấu
tranh kinh tế thì khơng thể đạt được mục đích cuối cùng, nhất thiết
GCCN: Phải tiến lên đấu tranh chính trị nhằm đập tan bộ máy nhà
nước, cơng cụ bạo lực của giai cấp tư sản, xóa bỏ tồn bộ chế độ chính
trị xã hội hiện có, thay thế chun chính tư sản bằng chun chính vơ
sản. Muốn vậy, phải sử dụng lực lượng của toàn bộ của những người
lao động bị áp bức dưới sự lãnh đạo của đội tiên phong của giai cấp vơ
sản; Phải có một đường lối chiến lược, sánh lược và phương pháp đấu
tranh đúng đắn; Phải có một đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có

đủ năng lực đồn kết lãnh đạo. Nghĩa là GCCN phải tổ chức ra chính
Đảng độc lập của mình, đây là điều kiện kiên quyết trực tiếp nhất để
giai cấp công nhân giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh và hồn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Bởi vì, chỉ có tổ chức ra chính Đảng độc
lập, giai cấp công nhân mới được tổ chức chặt chẽ thống nhất, mới có
phương hướng và biện pháp vận động, tổ chức, lãnh đạo các lực lượng
cách mạng trong cuộc đấu tranh chống CNTB thiết lập CCVS, có tổ
chức chính Đảng độc lập của mình mới có thể đưa cuộc đấu tranh của
GCCN từ “tự phát” lên “tự giác”. Khảng định sự cần thiết này, C.Mác


6

và Ph.ăngghen chỉ rõ: “Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền
lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, GCCN chỉ khi được tổ chức thành
một chính Đảng độc lập với các chính Đảng cũ do giai cấp hữu sản lập
nên thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp, việc tổ chức
như vậy GCCN thành một chính Đảng là cần thiết để bảo đảm thắng
lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là
thủ tiêu giai cấp”[49, 203]. Ngay trong hệ tư tưởng Đức (1845-1846),
Mác và ăngghen đã nhấn mạnh rằng: khái niệm “người cộng sản” có
nghĩa là “người gắn bó với một Đảng nhất định”. ăngghen cịn nhấn
mạnh thêm: “khơng có một chính Đảng nào có thể tồn tại khơng có tổ
chức”
Từ chính thực tiễn đấu tranh cách mạng và hoạt động lý luận của
C.Mác và Ph. ăngghen, thực tiễn PTĐT của giai cấp công nhân cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XX đã cho thấy phong trào diễn ra sôi nổi
quyết liệt ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa như khởi nghĩa lyông ở Pháp
(11/1831) , phong trào hiến chương Anh (1835), khởi nghĩa công nhân
dệt Xi Lê Di ở Đức (6/1844)... Song kết cục vẫn không giành thắng

lợi. Mục đích các cuộc đấu tranh chỉ xoay quanh đòi quyền lợi về kinh
tế như đòi: Tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt... hình thức cao
nhất cũng chỉ là các cơng đồn. Các cuộc đấu tranh của GCCN thất bại
vì nhiều nguyên nhân, song trước hết và quan trọng hơn hết là thiếu
một Đảng độc triệt để của giai cấp, thiếu một lí luận cách mạng soi
đường, thiếu một đội tiên phong lãnh đạo. Vì thế, các cuộc đấu tranh


7

thiếu tổ chức lãnh đạo chặt chẽ, thiếu sự phối hợp thống nhất giữa các
ngành các vùng và không phối hợp liên kết thống nhất với các giai cấp
khác, GCCN đã trở nên đơn độc và dễ dàng bị giai cấp tư sản dùng
bạo lực đàn áp. Thực tiễn đó khiến cho các nhà hoạt động cách mạng
trong PTCN có cái nhìn sâu sắc hơn về các cuộc đấu tranh của cơng
nhân. Đồng thời, cũng từ thực tế đó, u cầu tổ chức ra chính Đảng
độc lập của GCCN trở nên bức thiết. Ph.Ăng ghen chỉ rõ: “Để cho giai
cấp vô sản đủ sức mạnh để chiến thắng trong giờ phút quyết định. Cần
phải - và điều này Mác và Tôi đã chủ trương từ năm 1847- Thành lập
một Đảng riêng biệt khác hẳn với các Đảng khác và đối lập với các
Đảng này, một Đảng giai cấp tự giác”1. Sở dĩ cần phải tổ chức ra chính
Đảng độc lập, phải có sự lãnh đạo của chính Đảng độc lập đó là vì: Dù
đó là giai cấp triệt để cách mạng, một lực lượng rễ tiếp thu CNXH
khoa học nhất, lực lượng tiên phong của những người bị áp bức bóc
lột, nhưng chỉ riêng với lực lượng của bản thân mình, GCCN cũng chỉ
dừng lại ở chủ nghĩa cơng liên chứ khơng thể đi lên CNXH được. Điều
đó khảng định rằng để cho GCCN thốt khỏi cái vịng luẩn quẩn đấu
tranh kinh tế và đòi các quyền lợi hàng ngày, để cho PTCN phát triển,
nhất thiết phải có một Đảng độc lập, được vũ trang bằng lí luận cách
mạng khoa học, đây là yếu tố kiên quyết cho mọi phong trào cách

mạng. Đặc biệt đối với Đảng cộng sản - đội tiên phong của GCCN, thì

1

C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Tồn tập, tập 6. Nxb.CTQG. Hà Nội 1995, tr 704


8

lí luận cách mạng trở thành một nhu cầu, một điều kiện không thể
thiếu trong sự trưởng thành chiến thắng của mình.
Đảng độc lập của GCCN cịn là một địi hỏi khách, từ quy luật ra
đời của các Đảng cộng sản là CNXHKH kết hợp với phong trào đấu
tranh của GCCN. CNXHKH do C.Mác và Ph.ăngghen sáng tạo, là vũ
khí lí luận cách mạng được xây dựng trên cơ sở hiểu biết khoa học, từ
tổng kết tri thức nhân loại, và thực tiễn kinh nghiệm trong phong trào
đấu tranh của cơng nhân. Nó giúp GCCN nhận rõ vai trị sứ mệnh lịch
sử của mình, nhân rõ mục tiêu phương hướng đấu tranh và con đường
giành thắng lợi. PTCN mà nguồn gốc sâu xa của nó là những quan hệ
kinh tế TBCN làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa GCCN với cấp GCTS, dẫn
đến cuộc đấu tranh của hai giai cấp này, mâu thuẫn càng cao đấu tranh
cành gay gắt. Đó chính là sự ra đời và phát triển phong trào tự phát của
công nhân cùng với sự phát triển tự phát, yếu tố tự giác của phong trào
cũng ngày một phát triển, phát triển tự phát đến một lúc nào đó sẽ tự
phát địi hỏi phải có sự lãnh đạo của một tổ chức cách mạng có khả
năng tập hợp lực lượng toàn bộ giai cấp, vạch ra đường lối chiến lược,
sách lược đúng đắn để dẫn dắt giai cấp giành thắng lợi trong cuộc đấu
tranh chống kẻ thù của mình. Nói một cách khác, tự phát địi hỏi phải
“tổ chức...những người vơ sản thành giai cấp và do đó thành chính
Đảng” trước sự địi hỏi bức thiết của phong trào tất yếu sẽ xuất hiện

một số người cách mạng được vũ trang bằng lí luận cách mạng, lúc


9

này cũng đang mong muốn sự hiểu biết của mình vào phong trào để
đáp ứng nhu cầu của phong trào.
Vậy phong trào tự phát của GCCN địi hỏi phải có một lý luận
tiên tiến hướng dẫn để phát triển lên tự giác, mặt khác lí luận
CNXHKH đang cần có một PTĐT của quần chúng để biến lí luận
thành hiện. Hai chiều địi hỏi đó chứng tỏ đủ những điều kiện chín
muồi để có thể kếp hợp CNXHKH với PTCN tự phát của cơng
nhân.Như thế CNXHKH và PTCN có quan hệ biện chứng, tác động
qua lại, thúc đẩy nhau cùng phát triển, mối quan hệ ấy thể hiện ở chỗ
PTCN tìm thấy ở CNXHKH vũ khí lí luận của mình và ngược lại
CNXHKH thấy ở PTCN vũ khí vật chất của mình, dẫn đến sự kết hợp
tự nhiên, làm nên sự phát triển bền vững của hai yếu tố đó và tạo ra sự
biến đổi về chất: Một Đảng độc lập của giai cấp vô sản ra đời, nhân tố
quyết định sự phát triển và thắng lợi của PTCN, của CMVS, là điều
kiện kiên quyết để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử thế giới của
mình. Chính Đảng của GCCN ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan
của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo GCCN thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Như vậy, Đảng là
một tổ chức chính trị độc lập, sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu tranh
giai cấp, và là đại diện cho quyền lợi của GCCN và nhân dân lao động.
Thực tiễn khi chủ nghĩa Mác ra đời, đặc biệt sau thất bại công xã
pari 1871 GCCN đã có sự chuyển biến nhất định trong nhận thức
chính trị tư tưởng, bằng chứng là ở hầu hết các PTCN đều có Đảng



10

độc lập - Đảng XHCN, hay Đảng xã hội dân chủ ra đời: Đảng xã hội
dân chủ Đức(1875), Đảng công nhân Pháp(1879), nhóm giải phóng lao
động lao động Nga(1883), Đảng cơng nhân độc lập Anh(1893), Điều
đó nói lên là những Đảng này đều thừa nhận những nguyên lí quan
trọng nhất của CNXHKH do C.Mác sáng lập: Như GCCN là lực lượng
quyết định trong nhiệm vụ lật đổ GCTS, coi việc giành chính quyền là
mục tiêu trước mắt và lấy việc thủ tiêu chế độ tư hữu, thiết lập chế độ
sở hữu tập thể là điều kiện căn bản giải phong người lao động, thể hiện
rõ Đảng là tổ chức chính trị độc lập của GCCN. Song do chính sự hạn
chế của lịch sử, bị chủ nghĩa cải lương chi phối và bị phân liệt, điều đó
cũng chứng minh để GCCN hoàn thành sứ mệnh lịch sử phải kết hợp
chặt chẽ giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân, với một Đảng
độc lập triệt để cách mạng. Sau này nhận thức được điều đó Lê-nin đã
khơng ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác vào PTCM và PTCN và khảng
định Đảng cộng sản ra đời, GCCN có một Đảng Mác xít lãnh đạo,
PTCN càng phát triển mạnh mẽ hơn, GCCN ngày càng giác ngộ về
giai cấp đầy đủ hơn, mạnh mẽ hơn, từ giai cấp “tự nó” vươn lên thành
giai cấp “vì nó” trở thành một lực lượng độc lập trên vũ đài chính trị.
Là những người trực tiếp sáng lập và hoạt động trong tổ chức
cộng sản đầu tiên của PTCS và CNQT. C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt
quan tâm đến việc xây dựng, củng cố sự vững mạnh của tổ chức đó.
Hai ơng đã khơng ngừng bổ xung, hồn chỉnh cương lĩnh, điều lệ,
đường lối chiến lược sách lược của Đảng, đồng thời yêu cầu các tổ


11

chức Đảng và đội ngũ Đảng viên phải chăm lo giáo dục nâng cao trình

độ giác ngộ chính trị cho GCCN, trong GCCN và quần chúng NDLĐ,
nhằm thống nhất tư tưởng hành động trong Đảng, trong GCCN và
quần chúng, trong công tác xây dựng củng cố Đảng, Hai ông đấu tranh
không khoan nhượng và nhắc nhở những người công nhân phải tỉnh
táo đề phòng và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cải
lương, xét lại, hữu khuynh hay tả khuynh.
Như vậy, từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên là cơ sở để
nhận thức một cách đầy đủ tính tất yếu khách quan tư tưởng của
C.Mác và ăngghen về nguyên tắc xây dựng Đảng độc lập của giai cấp
công nhân.
2. Nội dung tư tưởng của C. Mác và Ph.ăngghen
Quan điểm của C.Mác và ăngghen về Đảng độc lập nghĩa là
Đảng phải độc lập về chính trị, tư tưởng và tổ chức, không bị lệ thuộc
vào giai cấp tư sản. Độc lập khơng có nghĩa là đơn độc, cơ độc, khơng
phải là hội kín mà ln liên hệ chặt chẽ với nhân dân lao động, không
đối lập với các Đảng và các tổ chức khác của giai cấp vơ sản. Ngược
lại phải tích cực hoạt động trong một tổ chức đó, phải đưa các tư tưởng
của CNXHKH vào trong các tổ chức đó, hướng dẫn các hoạt động của
các tổ chức đó vào quỹ đạo của CMVS. Thúc đẩy sự nghiệp cách
mạng của GCCN phát triển
Hai ông cho rằng Đảng cộng sản phải thể hiện tính vơ sản triệt
để, nghĩa là khơng chấp nhận đa ngun chính trị trong Đảng, mà là


12

Đảng của GCCN, mang bản chất GCCN. Đảng phải luôn đứng vững
trên lập của GCCN để giải quyết mọi vấn đề trong xây dựng và hoạt
động của Đảng. Cương lĩnh, chiến lược, sách lược của Đảng là sự kết
hợp nhuần nhuyễn cả lí luận và thực tiễn, phải ln xuất phát từ lợi ích

của GCCN và NDLĐ, phù hợp với thực tiễn của mỗi nước.
TrongTuyên ngôn của Đảng công sản là một kiểu mẫu quan trọng
trong việc xây dựng Đảng độc lập về chính trị, một văn kiện có tính
cương lĩnh đầu tiên của phong trào cộng sản quốc tế, Hai ơng đã
khơng chỉ trình bày những quan điểm chung mà cịn nêu rõ mục đích,
nhiệm vụ của Đảng, những cơ sở lí luận chung của chiến lược và sách
lược đấu tranh cách mạng. Ngay từ đầu tổ chức Liên đoàn những
người cộng sản đã thể hiện nguyên tắc này, điều lệ đồng minh đã ghi
rõ: “thừa nhận CNCS”; “Mục đích của liên đồn là: lật đổ giai cấp tư
sản, lập nền thống trị của giai cấp vô sản, tiêu diệt xã hội cũ, tư sản,
dựa trên sự đối kháng giai cấp, và xây dựng một xã hội mới không có
giai cấp và khơng có chế độ tư hữu”2
Độc lập về tư tưởng theo Hai ơng đó là phải xác định rõ lập
trường quan điểm của giai cấp công nhân, Đảng khơng phải là hội kín
và hổ thẹn nếu khơng nói rõ quan điểm của mình, thẳng thắn bác bỏ
mọi tư tưởng chống đối, bóc trần những quan điểm lí luận sai trái của
giai cấp tư sản (như Mác và ăngghen đã phân tích trong chương những
người vơ sản và những người tư sản), hai ông vạnh rõ những sai lầm
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, tập 4. Nxb CTQG. Hà Nội 1995, tr 732


13

và sự rối trá của những tư tưởng tư sản, phong kiến tiểu tư sản, tôn
giáo và những tư tưởng phản động khoác áo xã hội chủ nghĩa (như
Mác và ăngghen đã phân tích trong chương văn học xã hội chủ nghĩa).
Bản thân cuộc đời và sự nghiệp hoạt động lí luận sáng tạo ra chủ nghĩa
Mác và thực tiễn, cùng với những tác phẩm vĩ đại, những bài luận

chiến,và ngay chính việc thảo ra Tun ngơn của Đảng Cộng sản là sự
thể hiện về việc xây dựng Đảng độc lập về tư tưởng.
C.Mác và Ph.ăngghen khảng định Đảng là một tổ chức độc lập
của GCVS khơng chỉ về chính trị tư tưởng mà Đảng tổ chức của Đảng
phải chặt chẽ, thống nhất từ trung ương xuống dưới, từ toàn Đảng đến
các chi bộ Đảng, Đảng phải có điều lệ tập trung thống nhất, phải có kỷ
luật. Các văn kiện của liên đoàn những người cộng sản và của quốc tế
I, nói lên cơ sở xây dựng các tổ chức đó về mặt tổ chức. Trong đó cơ
sở để xây dựng các tổ chức đó độc lập về tổ chức là nguyên tắc tập
trung dân chủ, nêu rõ mọi thành viên của liên đoàn đều tham gia vào
việc bầu cử, vào việc dự thảo và thông qua cương lĩnh, điều lệ, các cơ
quan cấp dưới phục tùng cơ quan cấp trên, thiểu số phục tùng đa số,
tôn trọng kỷ luật Đảng một kỷ luật bắt buộc với tất cả Đảng viên. Mác
và Ăngghen đấu tranh để củng cố sự thống nhất của các tổ chức vô sản
về tổ chức, chống lại bọn cơ hội xét lại, bọn bacunin và những tên cơ
hội chui vào quốc tế I để phá hoại về tổ chức, chia rẽ về tổ chức chống
lại tất cả những người vi phạm kỷ luật của Đảng. Hai ông đưa ra
những nội dung thể hiện những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của


14

chính Đảng cách mạng của GCCN là: Đảng phải là một tổ chức độc
lập của GCCN cả về chính trị, tư tưởng, và tổ chức; Đảng cộng sản
phải thể hiện tính vơ sản rõ rệt; Phải được xây dựng trên nguyên tắc
dân chủ triệt để; Điều kiện tiêu chuẩn người vào Đảng là phải thừa
nhận thế giới quan cộng sản; Đảng phải thường xuyên được củng cố
vững chắc; phải cố cơ cấu tổ chức phù hợp với hoạt động của Đảng;
Chủ nghĩa quốc tế là những nguyên tắc về xây dựng Đảng. Hai ơng
cịn nêu cơ cấu tổ chức của Đảng là thành phần xã hội của Đảng, rằng

các đại biểu của các giai tầng khác tham gia thì phải vứt bỏ hết tàn tích
của GCTS và tiêu tư sản và những thành kiến tương tự và phải nắm
vững một cách không điều kiện thế giới quan GCCN.
Như vậy, tư tưởng C.Mác và ăngghen về nguyên tắc Đảng độc
lập của GCCN có ý nghĩa vơ cùng lớn lao đối với các Đảng cộng sản
trên thế giới, được thực tiễn khẳng định, như Ph.Ăngghen từng nhắc
nhở nếu từ bỏ các nguyên tắc tất yếu dẫn đến sai lầm và biến chất
Đảng.
II. Trung thành, vận dụng sáng tạo tư tưởng C. Mác và
Ph.ăngghen về nguyên tắc Đảng độc lập của GCCN vào xây dựng
chỉnh đốn Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức của
Đảng ta hiện nay.
1. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta
Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền(1930-1945), trên cơ sở nắm
vững tư tưởng C. Mác và Ph.Ăngghen đứng trên lập trường của giai


15

cấp công nhân, Đảng ta nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng giữ
vững nguyên tắc của Đảng, từng bước lọai bỏ tư tưởng phi vô sản đi
ngược lại lợi ích của Đảng, củng cố đoàn két thống nhất trong Đảng,
đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của tư tưởng C.Mác và Ph.ăngghen bảo
vệ đường lối của Đảng. Vì thế đã đánh bại tư tưởng thỏa hiệp cải
lương, bi quan thất vọng và những quan điểm nghệ thuật sai lầm của
giai cấp tư sản, góp phần củng cố lịng tin của Đảng viên và quần
chúng vào chủ nghĩa Mác và đường lối cách mạng tạo điều kiện đưa
cách mạng vượt qua khó khăn giành thắng lợi.
Tuy vậy, thời kỳ này nhận thức về tư tưởng học thuyết Mác còn
hạn chế và thiếu hệ thống nên “nền tảng tư tưởng còn nhiều di tích tiểu

tư sản, đầu cơ biệt phái”[9, 90] đã làm nẩy sinh nhiều khó khăn cho
cơng tác xây dựng Đảng, làm hạn chế sự phát triển của cách mạng, nổi
lên rõ nhất là: “chưa nhận thức rõ địa vị của giai cấp vô sản, giai cấp
trong cách mạng và chức trách của Đảng. Có nhiều Đảng viên (như ở
Bắc kỳ và trung kỳ) còn hiểu rằng Đảng là của quần chúng lao khổ mà
không biết rằng Đảng cộng sản chỉ là Đảng của GCCN thơi”[9, 90].
Do đó đã ít bồi dưỡng lập trường GCCN và đấu tranh với những tư
tưởng phi vô sản, làm ảnh hưởng tới đường lối cách mạng của Đảng,
gây khó khăn cho cơng tác xây dựng Đảng.
Cũng từ nhận thức chủ nghĩa Mác còn hạn chế, nên đã dẫn tới
khuynh hướng tư tưởng tách dời các tổ chức với lãnh đạo đấu tranh,
chống khuynh hướng “tả”, hữu khuynh, biểu hiện rõ nhất là tư tưởng


16

phiêu lưu mạo hiển manh động khởi nghĩa non, không theo kịp sự phát
triển của phong trào cách mạng, kìm hãm phong trào đấu tranh của
quần chúng gây ảnh hưởng tới tính tiền phong của Đảng. Đảng ta chỉ
rõ: “nhiều địa phương khơng lãnh đạo được quần chúng cịn theo đi
quần chúng”[15, 306], cùng với đó là những sai lầm trong nhận biết kẻ
thù, là nguyên nhân của hiện tượng xóa nhịa gianh giới giai cấp, hợp
tác vơ ngun tác với phần tử phản động để chúng lợi dụng lôi kéo,
gieo tư tưởng mơ hồ gây ảnh hưởng trong quần chúng làm cho quần
chúng không nhận rõ bộ mặt phản động của chúng và lầm lẫn với
người cách mang gây khó khăn cho việc chống tờ rốt kít. Đảng ta phê
phán: “điều sai lầm sau hết nhưng không kém phần quan là thái độ
thỏa hiệp với bọn tơ rốt kít, liên hiệp với bọn tơ rốt kít...là một điều
lầm lỗi rất lớn”[10,288]. Tình hình đó làm cho vai trị lãnh đạo của
Đảng ở một số nơi chưa được đẩy mạnh dẫn tới phong trào cách mạng

phát triển không đều, kẻ thù có điều kiện tập trung đàn áp, gây tổn hại
đến phong trào cách mạng .
Nhưng khi đã được Đảng ta phát hiện và uốn nắn, kịp thời sửa
chữa, do vậy đảng vẫn vững vàng lãnh đạo toàn dân trải qua cuộc đấu
tranh đầy khó khăn gian khổ, từng bước rút kinh nghiệm, từng bước
phát triển để làm nên thành công to lớn của cách mạng tháng tám
1945. Thắng lợi này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, song có một
nguyên nhân cơ bản quyết định là đã vận dụng sáng tạo tư tưởng C.
Mác và Ph. ăngghen, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân,


17

phát huy tinh thần yêu nước của dân tộc, xây dựng đường lối đúng
đắn, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng và nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân lao động nên đã huy động tinh thần cách mạng cả
dân tộc vào cuộc đấu tranh giành chính quyền về tay những người lao
động.
Thời kỳ củng cố chính quyền cách mạng và chống thực dân Pháp
xâm lược ,bằng sách lược mềm dẻo khôn khéo tuyên bố “tự giải tán
Đảng” vào ngày 11/11/1945 để rút vào hoạt động bí mật để đấu tranh
hịa hỗn từng bước phân hóa, lọai bỏ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào
kẻ thù chủ yếu trước mắt vì mục tiêu chiến lược của cách mạng. Khi
khả năng đấu tranh hịa hỗn khơng cịn, Đảng đã chủ động lãnh đạo
nhân dân đứng lên “ kháng chiến giành độc lập dân tộc” với phương
châm “kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến lâu
đài, dựa vào sức mình là chính” đã khơng chỉ thể hiện tính độc lập tự
chủ của Đảng, mà còn thể hiện tinh thần tiến công cách mạng của giai
cấp cách mạng, tinh thần u nước kiên quyết đấu tranh vì lợi ích dân
tộc của Đảng ta, đường lối kháng chiến đã góp phần tăng cường và mở

rộng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành
động trong toàn Đảng.
Nhưng do nắm tư tưởng C.Mác và Ph.ăngghen chưa đầy đủ và
thiếu hệ thống, do trình độ và cơng tác giáo dục rèn luyện đảng viên
chưa theo kịp nhiệm vụ, cùng với đó tàn tích tư tưởng phong kiến
trong một nền nơng nghiệp lạc hậu cịn tồn tại trong nhiều đảng viên


18

đã hạn chế vận dụng lý luận vào thực tiễn, đã dẫn tới “đường lối chính
sách của Đảng nói chung là đúng, nhưng chính sách cụ thể cịn nhiều
thiếu sót. Nguyên nhân là vì kinh nghiệm nhiều nhưng chưa tổng kết
kinh nghiệm được mấy..., công tác tư tưởng không được chú trọng,..
năng lực trình độ lí luận của đảng viên nói chung là thấp”[16, 162],
nên có những ảo tưởng hịa bình với Pháp sau khi ký hiệp định sơ bộ,
vi phạm đường lối giai cấp trong cải cách ruộng đất, coi thường bạn
đồng minh của GCCN. Do đó, “lãnh đạo chính trị đúng là đánh đổ
những khuynh hướng sai lầm đó để giữ vững đường lối chính sách duy
nhất đúng của Đảng”. Từ thực tiễn đó, vấn đề đặt ra cho Đảng là phải
tiếp tục bồi dưỡng tư tưởng lập trường vô sản trên cơ sở giáo dục chủ
nghĩa Mác, kiên quyết đấu tranh chống ảnh hưởng tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tiếp tục xóa bỏ tàn tích tư tưởng phong kiến và các tư tưởng
không vô sản khác, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng
cường năng lực và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong thời kỳ mới.
Thời kỳ tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng (1954-1975) trong
điều kiện khó khăn phức tạp nhưng đã giành thắng lợi. điều đó khẳng
định: “Đảng ta giải quyết đúng đắn sáng tạo những vấn đề về đường
lối chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH, về quan hệ quốc tế, biểu

hiện sự thành công của việc xây dựng Đảng về chính trị”[19, 185]. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976) chỉ rõ: “Khuynh hướng cơ
hội nhủ nghĩa hữu và “tả” trong một số cán bộ đảng viên đã bị phê


19

phán và ngăn chặt”. Đặc biệt Đảng ta đã đập tan các hoạt động tun
truyền cơng kích chủ trương chính sánh của Đảng và âm mưu phá hoại
nghị quyết TW9 (12/1963) tiến tới thực hiện mưu đồ “truất bỏ trung
ương, quyết định ra đường lối mới và bầu trung ương mới” của những
nhóm chống Đảng những năm (1963-1967) bảo vệ đường lối của
Đảng, trong thời kỳ này công tác xây về tư tưởng và tổ chức có mặt
cịn mang tính chất hữu khuynh, công tác tư tưởng ở những bước
ngoặt có lúc chưa kịp thời, bng lỏng, tư tưởng ngại khó khăn gian
khổ, cách mạng nửa vời, chủ nghĩa cá chân, vụ lợi, cục bộ địa phương
là hệ quả của nhận thức hạn chế. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Đảng
ta chỉ ra một số phương hướng chỉ đạo công tác xây dựng Đảng là:
“Phải xây dựng Đảng vững mạnh cả ba mặt: Chính trị tư tưởng và tổ
chức, ba mặt đó gắn liền với nhau, quyết định lẫn nhau”.
Những năm đầu xây dựng CNXH (1975-1986) hoạt động công
tác tư tưởng và tổ chức của Đảng còn nhiêu mặt không theo kịp yêu
cầu cách mạng như bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lí luận, giáo điều
máy móc trong việc tiếp thu truyền bá, vận dụng tư tưởng C.Mác và
Ph.Ăngghen, chủ nghĩa Mác - Lênin nhất là những nguyên lí quy luật
của thời kỳ quá độ lên CNXH, trong công tác tổ chức khuyết điểm lớn
nhất là “sự trì trệ chậm đổi mới cơng tác cán bộ” trên tất cả các khâu,
một bộ phận đảng viên và tổ chức Đảng vi phạm nguyên tắc tổ chức,
nguyên tác lãnh đạo và sinh hoạt Đảng. Đảng ta cho rằng đó là:
“Những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ trương, chính sách lớn,



20

sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[23, 26]. Từ bài học
lịch sử cho thấy, dù trong điều kiện hồn cảnh nào Đảng cũng phải
khơng ngừng chăm lo xây dựng vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và
tổ chức. Để đáp ứng yêu cầu này, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải
xây dựng đường lối chính trị đúng đắn khoa học, tổ chức thực hiện
nghiêm túc, rút kinh nghiệm bổ xung phát triển đường lối kịp thời.
Công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay,dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của công cuộc đổi
mới đã chứng minh sự phát triển, trưởng thành của Đảng ta. Khảng
định cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá lên CNXH là
đúng đắn, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng là trung thành và
vận dụng sáng tạo của Đảng ta. Tuy nhiên để vươn lên ngang tầm với
nhiệm vụ cách mạng hiện nay, Đảng ta phải thường xuyên xây dựng
chỉnh đốn Đảng để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của mình, đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH vì mục tiêu dân
giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh tiến lên CNXH.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ cơ bản thường
xuyên về xây dựng Đảng của GCCN mà còn là điều kiện tiên quyết,
giải pháp tối ưu để có thêm sức mạnh trước những thời điểm chuyển
biến của cách mạng, một yêu cầu khách quan và cấp bách trong tình


21


hình hiện nay, để ln cho Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, xây
dựng dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, cần
phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, giải quyết chính xác
vấn đề thực tiễn đặt ra. Nhưng để có đường lối đúng đắn trong hồn
cảnh bình thường đã khó, ở những bước ngoặt lịch sử, trong bối cảnh
quốc tế có những diễn biến nhanh chóng và phức tạp như hiện nay lại
càng khó khăn hơn nhiều. Bởi vậy vấn đề đặt ra và trở thành nhu cầu
then chốt, bức thiết hiện nay là phải tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng
trên tất cả các mặt chính tri tư tưởng và tổ chức, nhằm đảm bảo cho
Đảng xứng đáng với vai trò một Đảng cầm quyền, đưa cách mạng việt
nam không ngừng phát triển trong thời kỳ mới.
Về mặt chính trị tư tưởng:
Đây là vấn đề cốt tử, vấn đề bao trùm quan trọng hàng đầu, quyết
định nhất tới toàn bộ hoạt động của Đảng, cũng như tồn bộ cơng tác
xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay, nhằm bảo đảm cho Đảng luôn
trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đứng trên lập trường giai cấp để có cương lĩnh, đường lối
chích trị đúng đắn cho mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phát triển của cách
mạng, đáp ứng yêu cầu lịch sử, tạo sự đoàn kết thống nhất tư tưởng và
hành động trong toàn Đảng, toàn dân.


22

Vấn đề cơ bản hàng đầu để độc lập về chính trị tư tưởng là giữ
vững và tăng cường bản chất GCCN, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng
lực trí tuệ, năng lực hoạch định đường lối và tổ chức thực tiễn, rèn
luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là thuộc tính

cơ bản nhất, là vấn đề bao trùm của Đảng, có ý nghĩa quyết định nhất
đối với vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và các mối quan hệ của
Đảng, là vấn đề có tính nguyên tắc với tất cả các Đảng mác xít chân
chính. điều đó càng quan trọng đối với Đảng ta, một Đảng ra đời và
trưởng thành ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông
nghiệp chậm phát triển, số lượng GCCN khi Đảng mới ra đời chỉ hơn
1% dân số, trong khi đó nơng dân chiếm hơn 90%. Vì thế vạch ra
đường lối đúng và bảo đảm cho đường lối ấy thực hiện thắng lợi có
liên quan đến nhiều mặt trong việc giữ vững và tăng cường bản chất
GCCN của Đảng.
Bản chất GCCN của Đảng được biểu hiện tập trung ở nền tảng tư
tưởng, ở mục tiêu lí tưởng, đường lối chiến lược sách lược, ở nguyên
tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng. Bản chất đó cịn được biểu hiện ở
phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên và mỗi quan hệ
Đảng với nhân dân, Đảng với quan hệ quốc tế. Tất cả những vấn đề đó
đặt ra nếu khơng nhận rõ và khảng định bản chất giai cấp, khơng có
biện pháp tích cực bồi dưỡng giữ vững bản chất GCCN của Đảng thì
Đảng sẽ bị biến chất. Vì thế, giữ vững bản chất GCCN, tính tiền phong
của Đảng là nội dung xun suốt có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối


23

với công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nhằm đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN. Đồng thời là
biện pháp cơ bản cấp bách để nâng cao bản lĩnh chính trị năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm lành mạnh hóa đời sống kinh tếxã hội, chống những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và các
hoạt động chống phá của kẻ địch.
Hiện nay đất nước ta đang chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta
đang đứng trước thử thách về bản lĩnh chính trị, uy tín năng lực lãnh

đạo của mình - trong những năm qua cơng tác xây dựng đảng cố nhiều
cố gắng, nhưng cũng có nhiều điểm yếu bất cập như: phương pháp
lãnh đạo năng lực quản lí của một số cấp bộ đảng cịn yếu kém, tình độ
văn hóa, chun mơn nghiệp vụ, mà đặc biệt là sự sa sút phẩm chất,
đạo đức, lối sống của một số cán bộ đảng viên đang là vấn đề nổi cộm
gây ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và sói mịn lịng
tin đối với Đảng.
Sự thối hóa về tư tưởng và lập trường chính trị hiện nay là sự
biểu hiện ở sự phủ nhận những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Máclênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự phủ nhận về mặt lí luận tất yếu sẽ có
những quan điểm sai lầm phản động, nguyên nhân sự thối hóa đó là
nhận thức lí luận cịn hạn chế, do không được đào tạo bồi dưỡng đầy
đủ, kịp thời, khi chuyển sang kinh tế thị trường có sự thiếu hụt căn bản
về kiến thức, trình độ năng lực... song ngun nhân cơ bản của sự
thối hóa bản chất trước hết và chủ yếu là do nhận thức, do lập trường


24

giai cấp không vững, thiếu kiên quyết và triệt để, cịn để chủ nghĩa cá
nhân len lỏi, trong khi đó lại kém tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách
mạng, đến nay có mơi trường thuận lợi, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy che
khất lí tưởng chính trị, lập trường giai cấp. Như vậy, bản chất GCCN
của Đảng quyết định đến tính độc lập, nền tảng tư tưởng và việc xây
dựng đường lối chính trị của Đảng, tác động đến hoạt động của Đảng,
do vậy vấn đề quan trọng là phải giữ vững và tăng cường bản chất
GCCN của Đảng. Song trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng bao
gồm tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức. Do đó khơng chỉ xây
Đảng về chính trị tư tưởng mà còn xây dựng về mặt tổ chức Đảng.
Về mặt tổ chức
Công tác tổ chức của Đảng là vấn đề lớn, có vị trí quan trọng của

nó. Tổ chức là diều kiện vật chất bảo đảm cho tư tưởng được củng cố,
biến thành hành động, thành hiện thực. Trong điều kiện Đảng lãnh Đạo
chính quyền xây dựng CNXH thì cơng tác tổ chức hết sức quan trọng,
nó bao gồm cơng tác cán bộ, công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, tổ
chức cơ sở đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng,... Thực hiện tốt
công tác tổ chức làm cho Đảng thành một tổ chức độc lập, vững mạnh,
bảo đảm cho việc thực hiện đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng,
cho sự thống nhất ý trí và hành động của tồn Đảng, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Công tác cán bộ là vấn đề rất hệ trọng của công tác XDĐ, nhất là
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Hồ Chí Minh đã từng khảng định:


25

“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Thấm nhuần tư tưởng của
người trong mọi thời kỳ cách mạng Đảng ta đều quan tâm đến công tác
cán bộ; đặc biệt trong sự nghiệp đổi mới ĐH lần thứ VI của Đảng chỉ
rõ: “Đổi mới cán bộ các cấp là một mắt xích quan trọng nhất mà Đảng
ta phải nắm chắc để thúc đẩy các cuộc cải cách có ý nghĩa cách
mạng”[23, 132], tiếp tục tư tưởng đó NQTW3 khóa VII đã vạch ra
“chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước”... Đây
thực sự là bước chuyển biến mạnh mẽ về công tác cán bộ của Đảng, nó
khảng định vị trí của cơng tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ
hoạt động của Đảng, là nguyên nhân của những nguyên nhân.
Từ thực trạng “công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới chưa đáp
ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành
của nhà nước trong thời kỳ mới. Đại hội IX xác định: “tiếp tục đổi mới
công tác cán bộ” với nội dung cơ bản là: xây dựng đội ngũ cán bộ
trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lí ở ác cấp vững mạnh về

chính trị, tư tưởng, gương mẫu về đạo đức lối sống, có trí tuệ, kiến
thức và năng lực thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân, có chính
sách phát hiện tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng người
có đức có tài.
Về cơng tác xây dựng đội ngũ Đảng viên, đảng ta nhận thức đảng
viên là cầu nối giữa Đảng với quần chúng là lực lượng tiên phong
trong việc tổ chức hướng dẫn tập hợp quần chúng thực hiện đường lối
chủ chương chính sánh của Đảng, pháp luật nhà nước. Đội ngũ Đảng


×