Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

99. ĐẨY MẠNH TỔNG KẾT THỰC TIỄN VÀ NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN – MỘT TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG YẾU CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN CỦA QUÂN ĐỘI HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.4 KB, 26 trang )

1
Để nhận tài liệu liên hệ: Zalo 0978494441

TIỂU LUẬN

ĐẨY
ĐẨYMẠNH
MẠNH TỔNG
TỔNG KẾT
KẾT THỰC
THỰC TIỄN
TIỄN VÀ
VÀ NGHIÊN
NGHIÊN CỨU
CỨU LÝ
LÝ LUẬN
LUẬN –– MỘT
MỘT
TRONG
NHỮNG
NHIỆM
VỤ
TRỌNG
YẾU
CỦA
CÔNG
TÁC

TƯỞNG

LUẬN


TRONG NHỮNG NHIỆM VỤ TRỌNG YẾU CỦA CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN
CỦA
CỦAĐẢNG.
ĐẢNG. Ý
Ý NGHĨA
NGHĨAĐỐI
ĐỐI VỚI
VỚI CÔNG
CÔNG TÁC
TÁC TƯ
TƯ TƯỞNG
TƯỞNG LÝ
LÝ LUẬN
LUẬN CỦA
CỦAQUÂN
QUÂN
ĐỘI
ĐỘI HIỆN
HIỆN NAY
NAY


Hà Nội
Nội -- 2021
2021


2

MỞ ĐẦU

Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng nói chung, cơng tác tư tưởng,
lý luận nói riêng, nhằm đảm bảo cho Đảng khơng ngừng nâng cao vai trò
tiên phong và năng lực lãnh đạo với toàn xã hội. Trải qua hơn 75 năm lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln coi trọng tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trên cơ sở trung thành và vận dụng sáng tạo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lý luận và thực
BẮC
BẮC NINH,
NINH, THÁNG
THÁNG 55 NĂM
NĂM 2013
2013
tiễn, vào điều kiện cụ thể của nước ta. Nhờ đó mà Đảng ta đã có những
quyết sách chính trị đúng đắn lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Ngày nay tình hình thế giới và trong nước đang có nhiều biến đổi
phức tạp. Cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận diễn ra vơ cùng
gay gắt với nhiều hình thức mới; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa cũng đang đặt ra đòi hỏi phải giải đáp nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn mới. Tình hình đó đặt ra cho cơng tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận của Đảng những yêu cầu mới mang tính cấp thiết. Nghị
quyết Trung ương V (khố IX) về “Nhiệm vụ chủ yếu của cơng tác tư
tưởng trong tình hình mới” đã xác định “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” là một trong những nhiệm
vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
Đối với quân đội, là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành
của Đảng và nhân dân, quân đội phải có đóng góp xứng đáng vào thực hiện
nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng. Mặt khác, trước bối

cảnh mới của tình trong nước và quốc tế, nhiệm vụ của qn đội có bước phát
triển mới, địi hỏi phải đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận mới có thể đáp ứng được yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính


3
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận cũng là
một nhiệm vụ trọng yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội.
1. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận - một trong
những nhiệm vụ trọng yếu của công tác tư tưởng, lý luận.
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
Không phải ngẫu nhiên mà trong Nghị quyết Trung ương V (khoá IX)
Đảng ta đã đưa nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận lên hàng đầu
trong 6 nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong giai đoạn cách
mạng mới. Đảng ta đã dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn phong phú của cách mạng Việt
Nam từ ngày có Đảng lãnh đạo đến nay để khẳng định tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng
nói chung, cơng tác tư tưởng, lý luận nói riêng.
Chúng ta biết rằng, trong thực tiễn cách mạng thì bất cứ việc gì muốn
thành cơng đều phải có lý luận hướng dẫn, bởi lý luận khoa học bao giờ cũng
xuất phát từ thực tiễn và nhằm phục vụ cho hoạt động thực tiễn của con người.
Lý luận đóng vai trò mở đường và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đều đã khẳng định rất rõ vai trò to lớn
của lý luận cách mạng và về mối liên hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn.
Trong tác phẩm “Làm gì ?” V. I. Lênin viết: “Khơng có lý luận cách mạng thì
cũng khơng thể có phong trào cách mạng, chỉ Đảng nào có được một lý luận
tiên phong hướng dẫn mới có khả năng làm trịn vai trị chiến sĩ tiên phong” 1.
Đối với Đảng Cộng sản, để bảo đảm cho Đảng khơng ngừng nâng cao tính
tiên phong và năng lực lãnh đạo chính trị đối với xã hội thì một trong những

vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là Đảng phải được trang bị lý luận tiên
phong, đồng thời phải tiến hành tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
1

V. I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tập 6, tr. 30.


4
luận. Chỉ có tiến hành tốt việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, không
chậm trễ, mắc sai phạm trong công tác lý luận, Đảng mới tránh được nguy cơ
sai lầm về đường lối chính trị, mới giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với xã hội. Những quyết sách của Đảng đưa ra mới đúng đắn, giữ vững
được niềm tin của quần chúng đối với Đảng, hành động trong Đảng và ngoài
xã hội mới thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Đảng mà khơng có lý luận
dẫn đường thì “cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Người cịn chỉ rõ: “thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù qng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” 2. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin...”
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
rằng, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng thực
tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận xét tới cùng, là từ thực tiễn mà đúc
kết, khái qt nên. Khơng có thực tiễn thì khơng có lý luận. Lý luận và thực
tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, ln ln gắn bó với nhau và
thường xun tác động qua lại với nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trị là cơ
sở, động lực và là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chứng tính đúng
đắn của lý luận. Bởi vì, thực tiễn hiểu một cách khái quát nhất, đó là hoạt
động của con người nhằm bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển, đó là quá
trình khách quan của hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là cơ sở của
đời sống con người, đồng thời đó cũng là hoạt động cải tạo cách mạng của các

lực lượng xã hội khác nhau làm biến đổi thế giới.
Còn lý luận là cái phản ánh thực tiễn. Lý luận được thể hiện dưới dạng hệ
thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối
hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách
quan. Nói cách khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong
ý thức của con người. Lý luận phản ánh hiện thực khách quan và được nảy
2

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội 2000, tập 8, tr. 496.


5
sinh trong những điều kiện lịch sử nhất định, cho nên các khái niệm, các phạm
trù lý luận đều mang tính lịch sử. Sự phát triển của hiện thực và sự thay đổi
của điều kiện lịch sử tất yếu đòi hỏi lý luận cũng cần được bổ sung và phát
triển theo, và nhờ thế mà lý luận khoa học sẽ ngày càng trở nên phong phú
hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn. Không nên biến các nguyên lý, lý luận thành
các giáo điều khơ cứng, máy móc. Điều căn bản nhất là rút ra từ đó những giá
trị về phương pháp luận. Nếu coi những khái niệm, những mệnh đề lý luận là
khuôn mẫu của mọi hiện thực để từ đó bắt hiện thực phải vận động theo một
cách máy móc thì sẽ phạm những sai lầm tai hại. Nó không chỉ làm cho lý
luận bị thui chột, trở nên khơ héo mà có khi cịn kìm hãm, thậm chí kéo lùi
tiến bộ của lịch sử. Căn cứ để xây dựng và phát triển lý luận chính là từ thực
tiễn và phải tìm trong thực tiễn, đồng thời thường xuyên tổng kết thực tiễn.
Nhìn vào thực tiễn của sự phát triển của đất nước trong những thập kỷ
gần đây, chúng ta có thể khẳng định: nếu khơng xuất phát từ thực tiễn, khơng
tổng kết thực tiễn thì chắc chắn khơng có lý luận đổi mới, khơng thể có đường
lối đổi mới đúng đắn. Lẽ dĩ nhiên khơng có có sự chỉ đạo của lý luận đổi mới
đúng đắn thì khơng thể có thực tiễn đổi mới thành cơng.
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 (thế kỷ XX) đất nước ta lâm vào

khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, sản xuất đình đốn, lạm phát với tốc độ
phi mã, chúng ta bị bao vây, cấm vận về kinh tế, đời sống của nhân dân hết sức
khó khăn, lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của cơ
quan Nhà nước giảm sút. Thực tế đó một phần do nguyên nhân khách quan, song
chủ yếu vẫn là do chủ quan của chúng ta. Chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm
trọng và kéo dài về chủ trương chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện. Nguyên nhân của những sai lầm ấy là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý
chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, ấu trĩ, lạc hậu về nhận thức lý
luận, chưa quan tâm đầy đủ việc tổng kết thực tiễn, duy trì cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp quá lâu, vận dụng lý luận không phù hợp với thực tiễn cách mạng


6
Việt Nam. Chính trong những năm tháng cực kỳ khó khăn đó, từ trong quần chúng
nhân dân đã xuất hiện việc làm sáng tạo như khoán ruộng đất về cho các hộ nông
dân ở Vĩnh Phú và một số nơi khác. Và Đảng ta - một Đảng đã có bề dày kinh
nghiệm và bản lĩnh đã nắm bắt, tổng kết được kinh nghiệm thực tiễn của quần
chúng, đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức, từng bước đề ra được những chủ
trương, chính sách phù hợp với thực tiễn, từng bước hình thành lý luận và đường
lối đổi mới đúng đắn ở nước ta.
Bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) tháng 8/1979
với những chủ trương “làm cho sản xuất bung ra”; sau đó là Chỉ thị 100/CTTW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khố IV) năm 1981 về khốn sản
phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông
nghiệp, các quyết định 25/CP, 26/CP của Thủ tướng Chính phủ năm 1982 về
nhiều nguồn cân đối và về “Kế hoạch ba phần”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ V (3/1982) với việc xác định lại thứ tự ưu tiên trong phát triển
kinh tế, khẳng định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (khoá V) tháng 6/1985 về giá, lương, tiền; và đặc biệt là kết
luận của Bộ Chính trị (khố V) tháng 8 năm 1986 về ba vấn đề kinh tế lớn. Đó
chính là những kết quả của sự tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy của Đảng ta,

là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho đường lối đổi mới của đất
nước.
Tiếp theo đến Đại hội VI của Đảng (12/1986) là cột mốc đánh dấu bước
chuyển quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng ta. Với phương châm “nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đề ra
đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Từ việc tổng kết thực tiễn, Đại hội đã
đưa ra được những nhận thức mới về cơ cấu kinh tế, về cơng nghiệp hố trong
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thừa nhận sự
tồn tại của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh và


7
chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình thức
kinh doanh phù hợp...
Đại hội VII (6/1991) tiếp tục tổng kết thực tiễn, tổng kết kết quả thực
hiện đường lối đổi mới, trên cơ sở đó đề ra “Cương lĩnh xây dựng dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế đến năm 2000”. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
của Đảng (1/1994) đã đẩy tới một bước tổng kết thực tiễn, đề ra những biện
pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện công cuộc đổi mới, đồng thời chỉ ra
những thuận lợi cơ bản tạo thời cơ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi
mới và bốn nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta (tụt hậu xa hơn về kinh tế;
chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng, quan liêu; âm mưu hành động
“diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch).
Đại hội VIII (6/1996) đã phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình đất nước
và rút ra kết luận: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, cơ bản
hoàn thành nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, cho phép
chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố. Đại hội nhận định “con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày

càng được xác định rõ hơn”.
Đại hội IX của Đảng (4/2001) trên cơ sở tổng kết thực tiễn của đất nước
sau 15 năm đổi mới đã bổ sung, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hoàn thiện
thêm một bước những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Mục tiêu của cách mạng nước ta được xác định là
“Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh”. Con đường đi lên của nước ta là phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng nhanh lực
lượng sản xuất, đồng thời từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất
phù hợp, bảo đảm công bằng xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đi đôi


8
với giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, xây dựng hệ thống chính trị thực sự dân
chủ, kỷ cương, năng động, trong sạch.
Như vậy, thông qua kết quả của công tác tác tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, dưới ánh
sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ tình hình kinh tế xã hội gặp rất nhiều khó khăn của những năm 70 và 80 của thế kỷ XX đến Đại
hội IX của Đảng thì nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta theo tinh thần đổi mới đã từng bước được
xác lập và hoàn thiện. Đời sống của nhân dân được cải thiện, lòng tin của
quần chúng đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng được củng cố, phát triển.
Có thể nói, sự đổi mới tư duy, đi sâu vào tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
là khâu đột phá của Đảng ta trong công tác tư tưởng, lý luận.
1.2.

Một số nội dung cần làm sáng tỏ trong tình hình hiện nay.

Hiện nay, chúng ta đang ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của

Đảng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, từng bước đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện xu hướng phát triển của tình hình thế giới
có những diễn biến hết sức phức tạp, vấn đề dân tộc, tôn giáo, vấn đề chống khủng
bố, nghèo nàn, lạc hậu, bệnh tật, dân số, môi trường... đang là những vấn đề có tính
tồn cầu, cịn nhiều bức xúc cần phải hợp tác giải quyết. Tình hình đó có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và chính sách đối ngoại của nước ta.
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Nghị quyết Trung ương V (khoá IX) đã chỉ rõ: Trong những năm qua “kết
quả nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn đã cung cấp nhiều luận cứ khoa
học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, góp phần
tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội”3. Nhiều cán bộ,
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khố IX, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 132.
3


9
đảng viên có bước trưởng thành trong việc vận dụng lý luận vào thực tiễn, chủ
động, tích cực, sáng tạo lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện nghị quyết của
Đảng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trình độ lý luận của Đảng ta có bước
phát triển rõ rệt, giải đáp có căn cứ khoa học một số vấn đề về lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, công tác lý luận vẫn còn lạc hậu, bất
cập: việc tổng kết thực tiễn vẫn còn yếu kém, chưa theo kịp sự phát triển và yêu
cầu của cách mạng. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa sâu sắc, mới
dừng lại ở những nét khái qt chung, cịn khơng ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực
tiễn chưa có lời giải đáp, hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục. Nhiều cán bộ,
đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn giản

đơn, hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn chưa sâu sắc, có mặt còn lệch lạc;
phương pháp tư duy vẫn chưa vươn tới tầm biện chứng, cịn dừng lại ở trình độ
cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng. Rất nhiều vấn đề công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận vẫn chưa kết luận được.
Chẳng hạn như nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta có quan hệ như thế nào với những quy luật phổ biến của kinh tế thị
trường nói chung? Tình trạng kém hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp Nhà
nước kéo dài từ nhiều năm nay bắt nguồn từ nguyên nhân nào? Tại sao việc cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm và chưa mang lại hiệu quả như
mong muốn, chưa tương xứng với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế? Làm thế
nào để vừa khuyến khích tư nhân phát triển, vừa hạn chế được sự phân hố
giàu nghèo, bảo đảm cơng bằng xã hội? Cần có những cơ chế, chính sách, giải
pháp gì để kinh tế Nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo? Kinh tế
hộ gia đình, kinh tế trang trại và hợp tác xã sẽ phát triển như thế nào? Bằng
cách nào để thúc đẩy sự hình thành, phát triển và hoàn thiện các loại thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là thị trường hàng hoá sức
lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ? Làm thế


10
nào và bằng cách nào để chủ động tham gia q trình tồn cầu hố, chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân? Làm thế nào để giải quyết hợp lý và khoa học quan hệ
giữa Đảng lãnh đạo với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và quản lý xã hội
bằng pháp luật? Vấn đề chống quan liêu, tham nhũng... Để giải quyết được
những vấn đề trên đây là cơng việc hết sức khó khăn, phức tạp, không thể một
sớm, một chiều, nhưng cũng cần phải được trả lời xác đáng. Để làm được điều
đó, như Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương V (khoá IX)
đã chỉ rõ, là phải tiếp tục đi sâu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để phát
triển lý luận và dùng lý luận để hướng dẫn và cắt nghĩa những vấn đề do thực

tiễn đặt ra.
Tổng kết thực tiễn là phương pháp căn bản trong hoạt động lý luận để
phát triển, bổ sung và cụ thể hoá cương lĩnh, đường lối chung của Đảng; để
tìm ra câu trả lời cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra hoặc lý luận còn chưa
sáng tỏ; để phát huy nhân rộng những điển hình tiên tiến, những việc làm hay,
phát hiện uón nắn, sửa chữa những việc làm chưa dúng, nâng cao trình độ lý
luận và năng lực lãnh đạo của Đảng, khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ
nghĩa kinh nghiệm. Tổng kết thực tiễn, nhất là những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh, là cách tót nhất để phát triển lý luận, làm cho lý luận thật sự có sức sống
để hướng dẫn và thúc đẩy thực tiễn khơng ngừng đi lên.
Tình hình trong nước hiện nay, những diễn biến tiếp theo của công cuộc
đổi mới cùng với những tác động của quá trình tồn cầu hố, của cuộc cách
mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự chống phá của kẻ thù... và của hàng
loạt nhân tố khác tác động đến nước ta, đòi hỏi phải đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận theo hướng làm sáng tỏ hơn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nghị quyết Trung ương V (khoá
IX) chỉ rõ: “Từ nay đến Đại hội IX, cần tập trung nghiên cứu những vấn đề
sau: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường công nghiệp


11
hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; đổi mới và
hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới;
phát triển văn hóa, con người và nguồn nhân lực, đặc điểm, nội dung của cuộc
cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại và sự phát triển của kinh tế tri thức;
những tác động nhiều mặt của q trình tồn cầu hoá; dự báo các xu thế phát
triển chủ yếu của thế giới và khu vực; những vấn đề lý luận quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình” của các
thế lực thù địch”4. Để làm được như vậy, trong quá trình tổng kết thực tiễn
phải nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản, có quan điểm nhìn nhận thực tiễn

đúng đắn, có phương pháp luận khoa học trong đánh giá và giải quyết các vấn
đề, tức là phải nắm vững những nguyên lý cơ bản và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tránh khuynh hướng coi nhẹ
nghiên cứu lý luận cơ bản, trượt theo chủ nghĩa thực dụng, đồng nhất hiện
thực khách quan với kinh nghiệm, lấy những kinh nghiệm hời hợt làm tiêu
chuẩn chân lý, coi tính có ích của thực tiễn chỉ là ở chỗ thoả mãn những lợi
ích chủ quan của cá nhân hay của mọt nhóm người.
Nghị quyết Trung ương V cũng yêu cầu các cơ quan lãnh đạo, các cấp uỷ
đảng phải đặc biệt quan tâm công tác lý luận, thường xuyên tổng kết, đúc rút
lý luận, giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên.
Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư phải trực tiếp làm cơng
tác lý luận và chỉ đạo công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Cần đổi
mới phương pháp và cách thức tổng kết thực tiễn, đi sâu vào cuộc sống, vào
các mặt hoạt động của đất nước mà tiếp nhận thông tin, phân tích, khái quát
thành lý luận, đồng thời phải nhạy bén nắm bắt những diễn biến mới và những
vấn đề mới của thế giới, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của
nhân loại. Cần có những hình thức, phương thức phát huy sức mạnh tổng hợp
huy động rộng rãi các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn cùng tham
gia nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát huy đến mức cao nhất trí tuệ tập thể,
4

Sđd, tr. 135.


12
thực hiện dân chủ trong nghiên cứu khoa học, khuyến khích thảo luận, tranh
luận, khơng nên có những định kiến, mặc cảm với những ý kiến trái với những
kết luận hiện hành. Trong nghiên cứu, thảo luận cần phải tôn trọng, xem xét
một cách khách quan ý kiến thuộc về thiểu số.
Để đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực

tiễn đã nêu ở trên, vấn đề mấu chốt quyết định là phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ chuyên làm công tác lý luận có phẩm chất chính trị vững vàng, có
động cơ trong sáng, bản lĩnh khoa học và trình độ lý luận cao, có tư duy độc
lập, đủ sức nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời phải có chính
sách thích hợp, tạo mọi điều kiện và mơi trường thuận lợi cho đội ngũ này
hoạt động sáng tạo. Cần phải có cơ chế gắn kết, phối hợp hoạt động giữa các
cơ quan lãnh đạo quản lý với cán bộ lý luận, thường xuyên cung cấp thông tin,
thông báo những chủ trương, yêu cầu của Đảng cũng như những kết quả
nghiên cứu lý luận để gợi ý, bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau trong nghiên cứu
lý luận và tổng kết thực tiễn.
2. Quân đội đối với nhiệm vụ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận
trong tình hình hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V (khố IX).
Cơng tác tư tưởng, lý luận trong qn đội là một bộ phận hữu cơ trong
công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, là một mặt cơ bản cấu thành hoạt động
cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu,
trưởng thành của qn đội ta khẳng định vai trị tích cực và hiệu quả to lớn
của công tác tư tưởng, lý luận trong việc xây dựng bản chất giai cấp công
nhân, tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần của quân đội, bảo đảm cho quân
đội luôn luôn là công cụ bạo lực sắc bén, là lực lượng chính trị trung thành, tin
cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là đội quân chiến đấu, đội quân
công tác, đội quân sản xuất, góp sức vào việc hồn thành thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


13
Trong tình hình nhiệm vụ cách mạng mới, cơng tác tư tưởng, lý luận nói
chung và cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nói riêng của quân đội
càng đóng vai trị to lớn hơn trong việc ổn định tình hình tư tưởng, xây dựng ý
chí quyết tâm cho cán bộ, chiến sĩ trước yêu cầu, nhiệm vụ và âm mưu thủ đoạn
của kẻ thù. Vì vậy, đó cũng là nhiệm vụ trọng yếu của lãnh đạo, chỉ huy các cấp

trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của quân đội.
2.1. Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ của cơng tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận trong quân đội.
Trong tình hình hiện nay, vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc hồn
thành nhiệm vụ và ổn định tình hình tư tưởng trong quân đội là phải nhận thức
đúng, nhận thức rõ những yêu cầu, nội dung cơ bản, trên cơ sở đó hướng sự
nỗ lực cao nhất của các cấp, các ngành, các cơ sở nghiên cứu trong toàn quân
vào những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận cần phải bám sát đường lối chính trị, quân sự của Đảng, thực tiễn của đất
nước, hoạt động của quân đội, kịp thời phát hiện, dự báo, đề xuất phương
hướng, biện pháp giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, cung cấp nhiều luận
cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chiến lược quốc phòng - an ninh,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng và Nhà nước, phục vụ sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng uỷ quân sự Trung ương và Bộ quốc phòng trong
việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao sức mạnh
tổng hợp và sức chiến đấu của quân đội đáp ứng yêu cầu trong mọi tình
huống.
Ngày nay, đất nước ta bước sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh. Đây là một nhiệm vụ vẻ vang nhưng cũng hết sức
lớn lao, khó khăn và khơng kém phần phức tạp, địi hỏi tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn ta phải ra sức phấn đấu để vượt qua tình trạng nước nghèo, kém phát triển,
thực hiện công bằng xã hội, đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và


14
hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Trong quá trình cách mạng
to lớn, sâu sắc tồn diện đó, qn đội khơng chỉ cảnh giác với mọi âm mưu thâm

độc, xảo quyệt của các thế lực thù địch, chủ động ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả
với chiến lược “diễn biến hồ bình”, sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược của
chủ nghĩa đế quốc trên mọi quy mơ, mà cịn phải cùng toàn Đảng, toàn dân chiến
thắng nghèo nàn, lạc hậu, đẩy lùi mọi nguy cơ và những căn bệnh xã hội bắt nguồn
từ chủ nghĩa cá nhân. Tình hình và nhiệm vụ đó địi hỏi qn đội phải coi trọng hơn
nữa việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần làm rõ hơn con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kịp thời cung cấp những luận cứ khoa học cho việc
xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng, góp phần tăng cường
sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy và nâng cao ý chí
cách mạng tiến cơng, tinh thần đại đồn kết dân tộc, quyết tâm nắm bắt thời cơ,
vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của quân đội khơng chỉ góp
phần làm sáng tỏ những điều được khẳng định trong đường lối của Đảng, mà còn
phải làm rõ cơ sở khoa học liên quan trực tiếp đến cuộc đấu tranh nhằm giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự trong
sạch vững mạnh của các tổ chức trong hệ thống chính trị, chống lại sự phủ định,
xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với quan điểm đường lối của Đảng, củng cố
niềm tin của bộ đội và nhân dân vào định hướng xã hội chủ nghĩa, vào lý luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, tích cực đấu tranh ngăn chặn và khắc phục có hiệu
quả hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là hiện tượng suy thoái về đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, chống quan liêu, tham nhũng... góp phần làm lành
mạnh các quan hệ xã hội.


15
Trong tình hình mới nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của quân đội có bước phát
triển mới: Bảo vệ Tổ quốc phải gắn chặt giữa bảo vệ vững chắc độc lập chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc với bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng

xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi mới. Để góp phần thực hiện tốt yêu cầu,
nhiệm vụ đó quân đội cần phải kết hợp chặt chẽ với các trung tâm nghiên cứu
của Trung ương và địa phương, các viện nghiên cứu của các ngành, các lĩnh
vực, tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề nổi cộm trong tình hình hiện
nay thuộc về lĩnh vực chung của đất nước, đồng thời phải đi sâu nghiên cứu
những vấn đề cơ bản, tập trung vào giải quyết, tháo gỡ những vướng mắc
trong thực tiễn, liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ quốc phòng - an ninh trong
thời kỳ mới, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phịng tồn dân,
giữ vững an ninh quốc gia và tồn vẹn lãnh thổ. Nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của quân đội là phải tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và thực tiễn về xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân trong điều kiện mới. Các trung tâm nghiên cứu của quân
đội cần tập trung làm rõ luận cứ khoa học cho việc xây dựng, hoàn thiện
đường lối quân sự của Đảng, phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo công tác quốc phòng
an ninh, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch.
Nghiên cứu lý luận phải hướng vào giải đáp những vấn đề trong thực tiễn
mà kẻ địch thường xuyên tập trung vào xuyên tạc, lợi dụng để kích động, chia
rẽ, phân hố như vấn đề phi chính trị hố qn đội, vấn đề dân tộc, tơn giáo...
vạch trần những luận điệu vô căn cứ, thiếu khoa học, những thủ đoạn mị dân,
tìn cách lơi kéo những người bất mãn, gây tâm lý hoang mang trong nhân dân.
Còn tổng kết thực tiễn phải nâng lên tầm lý luận mới, góp phần nhân rộng các
điển hình, các nhân tố mới, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đất nước. Quân
đội cần phải đi sâu vào tổng kết, đúc rút kinh nghiệm về xử lý, giải quyết
điểm nóng, chẳng hạn như việc giải quyết điểm nóng ở Tây Nguyên những


16
năm gần đây. Từ đó đúc rút ra kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng
của quân đội, về tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa bàn nói chung, địa bàn

vùng đồng bào cơng giáo, đồng bào dân tộc thiểu số; về xây dựng mơ hình
kinh tế kết hợp với quốc phòng - an ninh trên các địa bàn chiến lược...
Trong điều kiện tính chất cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, đặc
biệt là trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng diễn ra rất gay go, quyết liệt và phức
tạp cùng với sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đã và đang đặt ra yêu
cầu rất cao, toàn diện về chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân.
Bên cạnh đó, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ,
trang bị vũ khí phục vụ cho chiến tranh ngày càng hiện đại, vũ khí cơng nghệ cao
đã và đang được sử dụng ngày càng phổ biến. Qua thực tiễn các cuộc chiến tranh
do Mỹ và đồng minh tiến hành ở Nam Tư, Apganitxtan và Irăc gần đây cho thấy
khơng phải là khơng có tâm trạng lo lắng lan truyền trong tư tưởng, tâm lý của một
bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong quân đội về khả năng đối phó của chúng ta nếu
cuộc chiến tranh tương tự xảy ra đối với ta. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn phải trên cơ sở bài học kinh nghiệm của nhân dân ta qua các cuộc kháng
chiến và thực tiễn hiện tại để làm rõ cơ sỏ khẳng định chúng ta có thể tồn tại và
chiến thắng, củng cố giữ vững niềm tin của cán bộ, chiến sĩ. Đặc biệt cần làm rõ
mối quan hệ con người và vũ khí theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin trong
giai đoạn hiện nay, tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hoá đường lối quân sự của Đảng
thành hệ thống quan điểm chỉ đạo, xác lập những nguyên tắc, hồn thiện cơ chế
chính sách, xây dựng qui trình khoa học về chuẩn bị chính trị tinh thần cho quân
đội ngay trong thời bình và cơ chế, phương thức huy động, sử dụng sức mạnh
chính trị - tinh thần của cả đất nước khi có chiến tranh xảy ra. Hoạt động tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận của quân đội phải hướng vào làm sáng tỏ và cụ thể
hoá những chủ trương, phương hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trước mắt cần tập trung vào một số vấn đề được
cán bộ, chiến sĩ quan tâm, nếu không giải quyết tốt sẽ làm nảy sinh tư tưởng tiêu


17
cực ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của quân đội. Một

số vấn đề như chấn chỉnh tổ chức, thực hiện chính sách đối với sĩ quan, vấn đề
thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị
viên theo Nghị quyết 51 NQ/TW ngày 20/7/2005 của Bộ Chính trị... đây là những
vấn đề rất quan trọng trong xây dựng quân đội cách mạng. Khi nghiên cứu phải
đứng vững và dựa chắc vào nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, gắn chặt giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, lấy thực tiễn
được tổng kết đối chiếu với lý luận. Có như vậy mới có thể bảo vệ, bổ sung và
phát triển lý luận một cách khoa học. Trên cơ sở đó có căn cứ đúng đắn để khẳng
định cái đúng đắn, cái đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua.
2.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong quân đội.
Yêu cầu công tác tư tưởng, lý luận trong quân đội rất cao và phải bảo
đảm tính kịp thời, đúng đắn. Trong khi đó thực tiễn của đất nước và quân đội
ln ln có sự biến đổi rất nhanh chóng và sâu sắc. Công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận muốn đáp ứng yêu cầu đề ra phải nắm vững phương
hướng có tính ngun tắc là lấy xây dựng quân đội về chính trị làm cơ sở để
xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối
trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Quá trình tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải nắm vững tính Đảng, tính khoa học, đồng
thời đề cao tính chiến đấu, kịp thời và kiên quyết đấu tranh khắc phục tư
tưởng bảo thủ, nhận thức giản đơn, phiến diện và những biểu hiện giáo điều,
độc đốn, gia trưởng. Trong tình hình hiện nay, một mặt phải đi sâu vào
nghiên cứu làm rõ hơn nữa những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đối chiếu với q trình xây dựng, chiến đấu
và trưởng thành của quân đội để khẳng định những ưu điểm và thành tựu đã
đạt được nhờ có sự quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời đẩy mạnh tự phê bình và


18

phê bình, từng bước đấu tranh khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong tư
duy lý luận và chỉ đạo hoạt động thực tiễn.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước ngày càng đi vào chiều sâu, những biến
đổi trên thế giới diễn ra với những yếu tố khó lường, những vấn đề mới đặt ra
đối với công tác xây dựng quân đội đòi hỏi phải được giải đáp, làm sáng tỏ
ngày càng nhiều thì việc tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu,
phát triển lý luận càng trở nên quan trọng và cấp bách. Để đẩy mạnh công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong quân đội hiện nay cần chú trọng
làm tốt những vấn đề cơ bản sau:
Một là, phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành hơn 60 năm qua
Quân đội nhân dân Việt Nam luôn được sự dẫn dắt, lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với
quân đội là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, bảo đảm cho quân đội hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, trong đó có nhiệm vụ tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận của quân đội. Các cấp uỷ đảng trong quân đội lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là một nguyên
tắc bất di bất dịch. Đó khơng chỉ là một ngun lý của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn là bài học được đúc rút từ thực tiễn lịch sử sinh
động của cách mạng Việt Nam, từ thực tiễn tiến hành cơng tác đảng, cơng tác
chính trị của quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nghị
quyết Trung ương V (khoá IX) đã chỉ rõ: “ Coi trọng việc tổng kết thực tiễn
trong nghiên cứu lý luận và trong hoạt động của các cấp uỷ đảng; coi tổng kết
thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành”. 5 Nhờ có sự lãnh
đạo của các cấp ủy đảng mà công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận có
đường hướng, bước đi đúng đắn; đánh giá, xem xét, kết luận sự việc, hiện
5

Sđd, tr. 134-135.



19
tượng có cơ sở khoa học theo đúng hiện thực khách quan, bảo đảm tính kịp
thời, chính xác, tránh được sai lầm đáng tiếc xảy ra.
Đảng lãnh đạo công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận bằng việc
xác định quan điểm, phương hướng nghiên cứu thông qua hệ thống các
chương trình, đề tài nghiên cứu, định hướng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận của các tổ chức đảng và xây dựng mạng lưới các cơ quan nghiên cứu,
xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, xây dựng các chính sách khuyến khích tài
năng và lao động sáng tạo, tạo mọi điều kiện phát huy tự do tư tưởng, tổ chức
thu hút đội ngũ cán bộ khoa học trong và ngoài quân đội, các cơ quan khoa
học tham gia tích cực vào q trình hoạch định đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước, đường lối quân sự và nghệ thuật quân sự của Đảng. Sự lãnh đạo
của Đảng còn thể hiện ở việc tổ chức kiểm tra hoạt động tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận của các tổ chức đảng, việc thực hiện vai trò của cơ quan
Nhà nước đối với công tác này. Thông qua kiểm tra cấp uỷ đảng kịp thời uốn
nắn, định hướng để hoạt động tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đạt mục
đích yêu cầu đề ra.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, trước hết các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên của
Đảng phải có nhận thức đúng đắn, sâu sắc vị trí vai trị của cơng tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận trong quân đội trong tình hình mới - đó là một nhiệm vụ trọng yếu
của cơng tác tư tưởng lý luận hiện nay. Từ đó xác định nhiệm vụ tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận là công việc, trách nhiệm của các tổ chức đảng và của mỗi đảng
viên. Các tổ chức đảng phải tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ, nhận thức, ý
thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Phải xây dựng các tổ chức đảng trong
quân đội thực sự trong sạch, vững mạnh có đủ năng lực, trình độ lãnh đạo, chỉ đạo
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Thường xuyên bồi dưỡng, sử dụng có
hiệu quả và có chế độ đãi ngộ thoả đáng đội ngũ cán bộ lý luận, bảo đảm cho đội ngũ



20
đó có đủ phẩm chất, năng lực, có trình độ chuyên sâu, vốn sống thực tiễn để trở thành
những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng.
Hai là, phải xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác lý luận - vấn
đề mấu chốt quyết định đối với nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng,
lý luận nói chung và cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nói riêng
là một trong những giải pháp lớn mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp
hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã đề ra, nhằm thực hiện tốt công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới. Đó cũng chính là một định hướng cơ bản,
một giải pháp rất quan trọng, một vấn đề mấu chốt quyết định để tiếp tục đẩy
mạnh và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
trong quân đội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Cán bộ làm công tác lý luận trong quân đội là lực lượng nịng cốt trong
nghiên cứu lý luận, góp phần tích cực vào việc phát triển, bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, củng cố
và tăng cường vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong qn đội. Trước
tình hình mới nhiệm vụ cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong
quân đội rất nặng nề và phức tạp, với những yêu cầu ngày càng cao. Để làm
tròn trách nhiệm của người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng, lý luận
của Đảng, của quân đội, phải xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ.
Mỗi cán bộ làm công tác nghiên cứu lý luận cần phải nỗ lực phấn đấu rèn
luyện theo đúng tiêu chuẩn của người cán bộ trong tình hình mới, có phẩm
chất có năng lực, có ý thức trách nhiệm với cơng việc. Ngồi ra phải có kiến
thức chun sâu, đặc biệt là trí tuệ, trình độ lý luận, phương pháp cơng tác
kiên trì, tỉ mỉ, khoa học. Theo đó cần thực hiện một số yêu cầu chủ yếu sau:
-


Tích cực học tập trau dồi tri thức và phương pháp tư duy khoa học.

Bản chất, mục đích của cơng tác tư tưởng, lý luận địi hỏi ở người làm công tác


21
lý luận của Đảng, của quân đội phải giữ vững nguyên tắc thống nhất giữa tính
cách mạng và tính khoa học trong nghiên cứu lý luận. Nền tảng tư tưởng định
hướng cho suy nghĩ và hành động đúng đắn, sáng tạo của người cán bộ làm
công tác nghiên cứu lý luận trong quân đội chính là lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng. Sự hiểu biết sâu
sắc hệ thống lý luận đó là cơ sở cho sự phát triển tư duy chính trị nhạy bén, giúp
cho mỗi cán bộ có khả năng phát hiện và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả
những vấn đề lý luận phức tạp đang đặt ra trong thực tiễn hoạt động của quân
đội hiện nay. Ngồi ra, người cán bộ làm cơng tác nghiên cứu lý luận trong
quân đội phải tích cực rèn luyện phương pháp tư duy khoa học, mà hạt nhân
của nó là phương pháp tư duy biện chứng. Đó là một điều kiện bảo đảm cho sự
sáng tạo trong nhận thức và nghiên cứu lý luận của cán bộ quân đội.
-

Phải thường xuyên cập nhật thông tin và tri thức mới, nhất là thơng

tin có liên quan đến vấn đề tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Muốn làm giàu trí tuệ, nâng cao trình độ tư duy cần phải thường xuyên
cập nhật thông tin và tri thức mới. Để nâng cao chất lượng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận đòi hỏi những người làm công tác lý luận phải kịp thời
nắm bắt những phát triển mới về lý luận, những thành tựu mới của khoa học
xã hội và nhân văn trong nước và thế giới. Có như vậy mới có cơ sở khoa học
để nhận thức, đánh giá đúng vấn đề, rút ra được kinh nghiệm thực tiễn chính
xác, góp phần bổ sung và làm giàu thêm lý luận khoa học về vấn đề cần

nghiên cứu và tổng kết. Nếu thiếu thơng tin thì cán bộ nghiên cứu lý luận
khơng thể trở thành một chuyên gia giỏi trong lĩnh vực khoa học mà mình
theo đuổi.
-

Phải bám sát, đi sâu vào thực tiễn của quân đội, đời sống của cán

bộ, chiến sĩ để phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đúc kết kinh nghiệm
thực tiễn. Đây chính là một phương thức cơ bản để phát triển lý luận khoa
học, đồng thời cũng là một biện pháp rất quan trọng để cung cấp chất liệu


22
nâng cao trí tuệ của cán bộ làm cơng tác lý luận trong qn đội. Thơng qua đó
giúp cho cán bộ nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về những vấn đề thực tiễn
đang đặt ra đòi hỏi phải có lời giải đáp. Giúp cho cán bộ làm cơng tác lý luận
trong quân đội khắc phục và tránh xa được những ảnh hưởng của chủ nghĩa
giáo điều, lối làm việc sách vở một chiều, cắt rời sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn giữa tư tưởng và hành động.
- Phải tích cực, chủ động tham gia đấu tranh phê phán các quan điểm thù
địch, sai trái. Thông qua các bài viết, các cơng trình nghiên cứu của mình, các cán
bộ làm công tác lý luận phải nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, đấu tranh
trực diện với những quan điểm thù địch, sai trái, đả kích sự lãnh đạo của Đảng,
xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chế độ, phủ nhận những giá trị tư tưởng, lý luận cơ
bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối quan
điểm của Đảng. Đó cũng là việc làm có ý nghĩa quan trọng để nâng cao trình độ,
năng lực của cán bộ làm cơng tác lý luận của quân đội ta hiện nay.
Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp, mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư
tưởng trong tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận.
Thực tiễn hoạt động của quân đội diễn ra rất phong phú, đa dạng, trên

nhiều khía cạnh, lĩnh vực và thường xuyên vận động, biến đổi. Vì vậy, việc
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong quân đội cũng là một nhiệm vụ hết
sức khó khăn, phức tạp, không phải một sớm, một chiều, một hoặc vài người
là có thể làm được mà phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các
ngành, của mọi lực lượng cả trong và ngoài quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng nói: “Vì một người dù khơn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm
đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một
vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.


23
Vì vậy cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm.
Người thấy rõ mặt này, người thì trơng thấy rõ mặt khác của vấn đề đó... Mà
có thấy rõ mọi mặt thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”6.
Đối với công việc nào cũng vậy, đặc biệt là nhiệm vụ tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận thì càng phải phát huy trí tuệ, công sức của tập thể, mở
rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng. Có như vậy mới huy động được mọi
lực lượng, mọi tổ chức, mọi đối tượng tham gia. Cung cấp nhiều luận cứ khoa
học cho việc hoạch định đường lối chính trị, quân sự của Đảng, phục vụ cho
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, lý luận về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới, đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ
bình”, “phi chính trị hố qn đội” của các thế lực thù địch.
Để làm tốt được việc đó, cần phải có hình thức, phương pháp huy động
rộng rãi các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn cùng tham gia nghiên
cứu tổng kết, phát huy đến mức cao nhất trí tuệ tập thể, thực hiện hiện dân chủ
trong nghiên cứu khoa học. Trong quá trình nghiên cứu tổng kết thực tiễn một
mặt phát huy vai trò của cán bộ chuyên trách, mặt khác phải hợp tác, trao đổi
với các cơ quan, lực lượng nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn, khoa
học nghệ thuật quân sự ở bên ngoài quân đội. Cán bộ nghiên cứu phải tích cực
xin ý kiến các bậc lão thành cách mạng đã từng làm công tác lãnh đạo, chỉ

huy, từng làm công tác nghiên cứu giảng dạy để tiếp thu kinh nghiệm của họ.
Do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, có thể có cách nhìn nhận và ý
kiến khác nhau, đó là điều bình thường. Cần mở rộng dân chủ, phát huy tự do
tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng và sự suy nghĩ sáng tạo, khuyến khích thảo
luận, tranh luận, khơng nên có những định kiến, mặc cảm với những ý kiến
trái với những kết luận hiện hành. Trong nghiên cứu thảo luận dù ý kiến là
thiểu số cũng phải được tôn trọng, xem xét một cách nghiêm túc. Điều quan
trọng là mọi cách nhìn, mọi ý kiến, mọi cuộc tranh luận phải xuất phát từ động
6

Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 5, tr 504.


24
cơ trong sáng, từ cái nhìn trung thực, với tinh thần xây dựng, góp phần thúc
đẩy thực tiễn đổi mới, thực tiễn xây dựng quân đội đi đến thành công.
Thực hiện giải pháp này, chúng ta phải chống nhận thức lệch lạc, cho
nhiệm vụ tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chỉ là công việc của cán bộ
chuyên trách, cán bộ chính trị, thiếu ý thức trách nhiệm trong thảo luận, xây
dựng đề cương, nghiên cứu khoa học. Đồng thời, đề nghị Đảng, Nhà nước,
Quân đội phải có chế độ chính sách thích hợp, tạo mọi điều kiện và môi
trường thuận lợi cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác lý luận và các
lực lượng tham gia hoạt động sáng tạo. Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng những cán
bộ đầu ngành, những chun gia giỏi, có trình độ học vấn đáp ứng với yêu cầu
của nhiệm vụ, gắn bó với hoạt động thực tiễn, nghiên cứu phát triển lý luận.
Bốn là, cung cấp đầy đủ, kịp thời những thơng tin chính xác, khách quan cho
các cơ quan, cán bộ nghiên cứu lý luận. Đầu tư kinh phí thích đáng và hiện đại
hố cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các cơ quan làm công tác nghiên cứu lý luận.
Đây là một giải pháp rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận. Nguồn thông tin cung cấp cho cán

bộ, cơ quan nghiên cứu chính là nguồn “nguyên liệu” q báu, nếu khơng có nó
các nhà nghiên cứu sẽ thiếu chất liệu để làm sáng tỏ vấn đề mình cần nghiên cứu.
Thơng tin chính xác, kịp thời bao nhiêu thì sản phẩm nghiên cứu càng có giá trị, có
cơ sở khoa học bấy nhiêu. Mặt khác, các phương tiện, các cơ sở nghiên cứu càng
hiện đại thì việc nghiên cứu càng thuận lợi và chính xác.
Cung cấp thơng tin đầy đủ, kịp thời và đầu tư thoả đáng, hiện đại hoá cơ sở vật
chất, kỹ thuật cơ sở nghiên cứu đó là việc làm thường xuyên, là trách nhiệm của cấp
uỷ và người chỉ huy, cán bộ chính trị các đơn vị. Những thơng tin cung cấp phải
chính xác, nhiều chiều về tình hình các mặt của đất nước, của các ngành, các địa
phương, các nhiệm vụ an ninh, quốc phòng, đời sống hàng ngày của cán bộ, chiến sĩ
thực hiện nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, công tác và lao động
sản xuất. Nguồn thơng tin phải bảo đảm tính thời sự, có ý nghĩa chính trị xã hội to


25
lớn. Phải cập nhật tình hình tư tưởng trong xã hội, trong lực lượng vũ trang đối với
từng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt quan tâm tạo điều
kiện để các cơ quan, các cán bộ nghiên cứu lý luận tiếp cận được những thông tin về
hoạt động lý luận và kinh nghiệm thực tiễn nước ngồi. Tăng cường đầu tư kinh phí
cho hoạt động nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nhưng phải có sự chỉ đạo, lãnh
đạo chặt chẽ có trọng tâm, trọng điểm tránh dàn trải, tập trung vào những cơng trình
mang tính cấp bách, có giá trị lãnh đạo, chỉ đạo cơng tác quốc phịng an ninh. Đồng
thời phải tích cực kiểm tra việc sử dụng kinh phí một cách hợp lý, tránh thất thoát.
Trên đây là những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng hiệu quả công
tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong quân đội hiện nay. Mỗi giải pháp
có vị trí vai trị riêng, có hướng tác động riêng. Phát huy đồng bộ cả bốn giải
pháp sẽ thúc đẩy công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đạt chất lượng
hiệu quả tốt hơn, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề cần phải giải đáp đối với
nhiệm vụ quốc phòng an ninh. Cung cấp kịp thời luận cứ khoa học cho sự lãnh
đạo, chỉ đạo của đảng uỷ, chỉ huy các cấp đối với các hoạt động của quân đội,

góp phần xây dưng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao
phó.
Tóm lại: Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về vai trị của lý luận và thực tiễn, về mối quan hệ giữa lý luận và
thực tiễn. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ yêu cầu nhiệm vụ
của sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, từ thực
trạng của công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của chúng ta trong
thời gian qua, cũng như những âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch mà Nghị quyết Trung ương V (khoá IX) đã xác định: “đẩy
mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” là
một trong những nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình


×