Tải bản đầy đủ (.pdf) (464 trang)

Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 464 trang )


Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh


báo cáo tổng kết
Đề tài khoa học cấp bộ năm 2007

Tên đề tài:
Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn
của đội ngũ cán bộ lnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng

Mã số: B.07-05

Cơ quan chủ trì: Viện Triết học
Chủ nhiệm đề tài: PGS, TS Trần Văn Phòng
Th ký khoa học: Th.s Đặng Quang Định




6771
28/3/2007

Hà Nội, năm 2007



2
Danh sách cộng tác viên tham gia đề tài



1. PGS, TS Trần Văn Phòng Viện Triết học, Học viện CT - HC Quốc gia Hồ
Chí Minh.
2. Th.s Đặng Quang Định Viện Triết học, Học viện CT - HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Công Chuyên Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Nam Định.
4. Th.s Trần Sĩ Dơng Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
5. TS Dơng Minh Đức Ban Khoa giáo Trung ơng
6. Th.s Thiều Quang Đồng Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
7. Th.s Đào Hữu Hải Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
8. TS Nguyễn Minh Hoàn Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
9. GS, TS Nguyễn Hùng Hậu Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ
Chí Minh.
10. Th.s Phạm Anh Hùng Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
11. Th.s Vũ Thanh Hơng Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
12. Th.s Lê Xuân Huy Trờng Chính trị tỉnh Hải Dơng
13. NCS Nguyễn Chí Hiếu Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
14. PGS, TS Nguyễn Thế Kiệt Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ
Chí Minh.
15. TS Nguyễn Thị Nga Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
16. PGS, TS Trần Sĩ Phán Viện Triết học, Học viện CT-HC Quốc gia Hồ Chí Minh.
17. GS, TS Phạm Ngọc Quang Viện Tôn giáo và tín ngỡng, Học viện CT-HC
Quốc gia Hồ Chí Minh.
18. Bùi Quang Toản Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Hải Dơng






3

Mục lục
Trang
Mở đầu

4
Chơng 1:
Năng lực tổng kết thực tiễn và vai trò của nó
đối với hoạt động lnh đạo của cán bộ lnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh

9
1.1. Năng lực tổng kết thực tiễn và những nhân tố ảnh hởng đến
năng lực tổng kết thực tiễn.
9
1.2. Vai trò của NLTKTT đối với hoạt động lãnh đạo của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
18
Chơng 2:
Năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ lnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng Thực
trạng và vấn đề đặt ra

32
2.1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt vùng đồng bằng
sông Hồng.
32
2.2. Những nhân tố khách quan ảnh hởng tới NLTKTT của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt vùng ĐBSH.
36
2.3. Thực trạng NLTKTT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt

cấp tỉnh vùng ĐBSH và nguyên nhân của thực trạng đó.
46
Chơng 3:
Một số nguyên tắc và giải pháp nâng cao
Năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ lnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong giai đoạn
hiện nay
75
3.1 Một số nguyên tắc chủ yếu trong quá trình nâng cao
NLTKTT của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng ĐBSH.
75
3.2 Một số giải pháp chủ yếu nâng cao NLTKTT của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng ĐBSH trong giai đoạn hiện nay.
82
Kết luận
109
Kiến nghị
111
Phụ lục
114
Công trình đ công bố liên quan đến đề tài
122
Danh mục tài liệu tham khảo
123

4


c¸c ch÷ viÕt t¾t trong ®Ò tµi



Ch÷ ®−îc viÕt t¾t Ch÷ viÕt t¾t
C«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ CNH,H§H
§ång b»ng s«ng Hång §BSH
N¨ng lùc tæng kÕt thùc tiÔn NLTKTT
Tæng kÕt thùc tiÔn TKTT

















5
Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài.

Đại hội IX của Đảng đề ra nhiệm vụ: Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và
nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới,

bức xúc nảy sinh từ thực tiễn
1
. Đại hội X của Đảng cũng nhấn mạnh nhiệm vụ:
Thờng xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng
đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lợng
nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã
hội và con đờng lên chủ nghĩa xã hội của nớc ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn đờng lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới
2
. Muốn thực hiện tốt
những nhiệm vụ mà Đại hội Đảng đề ra thì đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp phải
biết và tăng cờng tổng kết thực tiễn (TKTT). Muốn vậy họ phải có năng lực
tổng kết thực tiễn (NLTKTT).
TKTT là một khâu quan trọng, không thể thiếu trong quy trình lãnh đạo của
cán bộ lãnh đạo. TKTT có kết quả sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo rút ra đợc những
bài học kinh nghiệm để bổ sung, hoàn chỉnh những quyết định của mình; khắc
phục đợc bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, góp phần chỉ đạo thực tiễn tiếp
theo đạt hiệu quả cao. Hiệu quả TKTT phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhng một
trong những yếu tố quan trọng là năng lực TKTT của chủ thể.
Năng cao NLTKTT của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. NLTKTT là một trong cơ sở
quan trọng để cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh biết TKTT và góp phần ra đợc
các quyết định đúng trong chỉ đạo thực tiễn trên địa bàn tỉnh đợc phân công phụ
trách, đồng thời đề xuất những kiến nghị giúp Trung ơng có luận cứ sửa đổi, bổ
sung, hoàn chỉnh lý luận cũng nh chủ trơng chính sách. Thực tế chỉ ra rằng, để
hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh không những phải có
phẩm chất đạo đức mà còn phải có năng lực t duy lý luận, NLTKTT. Hơn nữa


1

Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,H. 2001, tr. 141
2
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, NxbCTQG,H. 2006, tr.131

6
công cuộc đổi mới đang đặt ra nhiều vấn đề mới đòi hỏi phải đợc tổng kết rút
kinh nghiệm kịp thời.
Cấp tỉnh là đơn vị hành chính với những điều kiện về quy mô kinh tế, chính
trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, văn hoá, giáo dục v.v.. có đủ điều kiện để có thể
tổng kết nhằm rút ra những vấn đề có tính lý luận góp phần bổ sung, hoàn thiện
chủ trơng, đờng lối của Đảng, chính sách của Nhà nớc cũng nh bổ sung,
hoàn thiện, phát triển lý luận. Các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) có vị
trí chiến lợc quan trọng trong sự phát triển của cả nớc.
Thực tiễn 20 năm đổi mới cho thấy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng
ĐBSH không chỉ biết triển khai nghị quyết của cấp trên vào địa bàn vùng mà còn
biết TKTT góp phần khuyến nghị với Trung ơng kịp thời bổ sung, phát triển lý
luận, hoàn thiện chủ trơng, chính sách, pháp luật. Tuy nhiên, có không ít cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng ĐBSH còn cha kịp thời TKTT một số vấn đề
nảy sinh từ thực tế địa bàn vùng. Cho nên họ còn lúng túng, bị động trong xử lý,
giải quyết một số vấn đề của địa phơng. Trong khi đó đòi hỏi của sự nghiệp đổi
mới ở vùng ĐBSH phải kịp thời TKTT góp phần chỉ đạo sự nghiệp đổi mới tiến
lên. Trên thực tế việc TKTT của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng này vẫn
còn chậm và cha đáp ứng yêu cầu. Tình hình này phản ánh NLTKTT của đội
ngũ cán bộ này phần nào còn bị hạn chế, cha đáp ứng yêu cầu đổi mới, đặc biệt
là trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH. Do đó, vấn đề Nâng cao năng lực tổng
kết thực tiễn của cán bộ lnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng đồng bằng sông
Hồng là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề NLTKTT của cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, song

vẫn còn là mảng trống cần tiếp tục đợc nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Xuân
Phơng trong luận văn thạc sĩ triết học (1998) Nâng cao NLTKTT cho cán bộ
chủ chốt cấp huyện ở Việt Nam hiện nay, đã đề cập tới NLTKTT và đề xuất một
số giải của pháp có tính định hớng để nâng cao NLTKTT cho đội ngũ cán bộ

7
lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài mới ở phạm vi cấp
huyện, do vậy vấn đề này vẫn cần đợc nghiên cứu sâu thêm.
Tác giả Trần Văn Phòng, trong các bài Vài suy nghĩ về TKTT trong sách
Góp phần tìm hiểu một số vấn đề kinh tế xã hội dới ánh sáng đổi mới của
Đảng Học viện CTQG Hồ Chí Minh, H.1993; Nâng cao NLTKTT của đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh Tạp chí Lý luận chính trị số 3/1997 cũng đã
nghiên cứu những nội dung cơ bản về NLTKTT nói chung, thực trạng NLTKTT ở
cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh nớc ta nói riêng và đề xuất một số giải pháp
nhằm từng bớc nâng cao NLTKTT cho đội ngũ cán bộ này.
Trong bài Công tác TKTT trong điều kiện mới của tác giả Trần Hữu Tiến
đăng trên Tạp chí Cộng sản số 3/ 1990 chủ yếu đề cập yêu cầu TKTT trong điều
kiện đổi mới trên tinh thần mới để đạt hiệu quả hơn.
Tác giả Nguyễn Phú Trọng lại đề cập nhiều tới vai trò, tầm quan trọng của
TKTT, trong bài TKTT - một nhiệm vụ trọng yếu của công tác lý luận hiện nay
trong sách Một số vấn đề lý luận, thực tiễn hiện nay Học viện CTQG Hồ Chí
Minh, tập 1; H.2003.
Các giải pháp để nâng cao chất lợng TKTT lãnh đạo của Đảng nói chung
đợc tác giả Đặng Kim Thành đề cập trong bài Nâng cao chất lợng tổng kết
các bài học kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng đăng trên Tạp chí Lý
luận chính trị số 2/2002.
Tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai trong bài Năng lực tổ chức thực tiễn của
cán bộ chủ chốt cấp xã hiện nay (qua khảo sát ở đồng bằng sông Hồng), Tạp chí
Lý luận Chính trị số 8/2006, đã phân tích mối quan hệ giữa nhận thức và tổ chức
thực tiễn, trong đó ít nhiều liên quan tới tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ này.

Tuy nhiên, tác giả tập trung chủ yếu vào phân tích năng lực tổ chức thực tiễn.
Tác giả Võ Minh Khang trong luận văn thạc sỹ Nâng cao năng lực tổng kết
thực tiễn cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long (qua
thực tế tỉnh Bạc Liêu) đã bớc đầu đa ra đợc quan niệm về NLTKTT cũng
nh kết cấu của nó nh: năng lực lựa chọn vấn đề TKTT; năng lực tiếp nhận, xử

8
lý thông tin cho TKTT, năng lực khái quát kinh nghiệm thực tiễn, năng lực vận
dụng kết quả TKTT vào tổ chức chỉ đạo thực tiễn tiếp theo của đội ngũ cán bộ
này. Tác giả cũng bớc đầu đề xuất đợc một số giải pháp nhằm từng bớc nâng
cao NLTKTT cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện đồng bằng sông Cửu Long.
Tuy nhiên, nhìn chung, NLTKTT vẫn còn là mảng trống cần tiếp tục nghiên
cứu, nhất là xem xét NLTKTT của đối tợng cụ thể là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng ĐBSH.
3. Mục đích của đề tài.

Trên cơ sở phân tích thực trạng NLTKTT của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng ĐBSH, đề tài đề xuất một số giải pháp nhằm từng bớc nâng cao
NLTKTT của đội ngũ cán bộ này đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH hiện nay.
4. Nhiệm vụ của đề tài.
- Phân tích NLTKTT và vai trò của nó đối với hoạt động lãnh đạo của cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh.
- Chỉ ra thực trạng NLTKTT của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt vùng
ĐBSH cùng những nguyên nhân của thực trạng này.
- Đề xuất một số nguyên tắc và giải pháp nhằm từng bớc nâng cao
NLTKTT cho đội ngũ cán bộ này.
5. Đối tợng, phạm vi nghiên cứu.
- Đối tợng nghiên cứu là NLTKTT ở cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh,
gồm các đồng chí là Tỉnh uỷ viên, trong đó có những đồng chí là Trởng, phó
các ban ngành chủ chốt của các tỉnh, Bí th Huyện uỷ.

- Không gian nghiên cứu của đề tài là vùng ĐBSH (gồm 11 tỉnh, thành phố:
Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dơng, Hải Phòng, Hng Yên, Nam Định, Thái Bình, Hà
Nam, Ninh Bình, Hà Tây và Vĩnh Phúc).
- Đề tài nghiên cứu NLTKTT dới góc độ nhận thức luận trên lập trờng
của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phơng pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng lý luận của CNDVBC và CNDVLS, t tởng Hồ Chí
Minh, đờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nớc ta về cán bộ, về công tác

9
lý luận, về TKTT. Đề tài kế thừa những kết quả của các tác giả đi trớc về vấn
đề này.
Trong quá trình triển khai, đề tài vận dụng các phơng pháp chính nh
lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; so sánh, điều tra, thống kê, quán triệt
sự thống nhất về lý luận và thực tiễn, phơng pháp chuyên gia, toạ đàm với các
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
Đề tài còn sử dụng các nghị quyết, các tài liệu của các cấp uỷ Đảng và chính
quyền các tỉnh vùng ĐBSH làm căn cứ để đa ra những nhận định, đánh giá của
mình.
7. Kết cấu nội dung nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung
gồm 3 chơng, 6 tiết.



















10
Chơng 1

Năng lực tổng kết thực tiễn
và vai trò của nó đối với hoạt động lnh đạo
của cán bộ lnh đạo chủ chốt cấp tỉnh


1.1.
Năng lực tổng kết thực tiễn và những nhân tố ảnh hởng
đến năng lực tổng kết thực tiễn.

1.1.1. Năng lực tổng kết thực tiễn.
Tổng kết thực tiễn (TKTT) là một mắt khâu không thể thiếu trong quy
trình tổ chức thực tiễn. Nó có vai trò hết sức to lớn trong sự phát triển của lý luận,
khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, góp phần quan trọng vào quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. TKTT là phơng thức cơ bản để
bổ sung, hoàn thiện chủ trơng, đờng lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nớc. TKTT vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý. TKTT, xét về bản chất là hoạt động trí tuệ; là quá trình bằng t duy

khoa học với phơng pháp biện chứng duy vật phân tích, đánh giá, khái quát hoạt
động sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo chính trị - xã hội, cải tạo các quan hệ xã
hội; hoạt động thực nghiệm khoa học nhằm kiểm tra sự đúng sai của lý luận để
bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ
đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo
3
. Có thể nói, TKTT là vòng
khâu cuối cùng của quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn, đồng thời là mở đầu
cho quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn ở giai đoạn mới. TKTT là một mắt khâu
của quá trình tổ chức hoạt động thực tiễn, nhng bản thân nó không phải là thực
tiễn mà đó là hoạt động trí tuệ của chủ thể tiến hành TKTT. TKTT chỉ có giá trị,
chỉ có ý nghĩa khi những bài học kinh nghiệm đợc rút ra có tác dụng chỉ đạo
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo. Hiệu quả của TKTT đạt
đến mức độ nào, cao hay thấp, khách quan hay không khách quan, theo hớng


3
Xem thêm, Trần Hữu Tiến: Công tác tổng kết thực tiễn trong điều kiện đổi mới; T/C Cộng sản số 7/1990

11
tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhng trớc hết là NLTKTT
của chủ thể tiến hành TKTT. TKTT phụ thuộc vào các yếu tố nh: Trình độ t
duy lý luận; Năng lực tổng kết thực tiễn (NLTKTT); phẩm chất đạo đức của chủ
thể tổng kết thực tiễn. Không có trình độ t duy lý luận nhất định thì chủ thể
TKTT khó mà tổng kết thực tiễn một cách có lý luận. Nghĩa là, không rút ra đợc
những bài học kinh nghiệm có tính khái quát cao, có giá trị chỉ đạo thực tiễn.
Không có phẩm chất đạo đức thì chủ thể tổng kết thực tiễn khó mà TKTT một
cách khách quan, trung thực. Nh vậy, những kết luận rút ra từ TKTT cũng khó
mà có tính khái quát cao. Không có NLTKTT nói chung, chủ thể TKTT sẽ khó
khăn từ việc lựa chọn vấn đề tổng kết, đến tổ chức lực lợng tổng kết, cũng nh

vận dụng những bài học kinh nghiệm rút ra từ TKTT. Những yếu tố này quan hệ
mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, cùng nhau ảnh hởng tới
chất lợng TKTT.
Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài này, chúng ta đi sâu tìm hiểu về năng
lực tổng kết thực tiễn. Vậy, năng lực là gì? thế nào là năng lực TKTT?.
Theo Từ điển Tiếng Việt, do Nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2000,
Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một
hoạt động nào đó ở mức độ cao, hoặc năng lực đợc hiểu là những phẩm chất của
con ngời tạo cho con ngời đó khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình
hoạt động nhất định
4
. Năng lực còn đợc hiểu là Tổng hợp những thuộc tính
độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trng của một hoạt động
nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy
5
.
Nh vậy, năng lực nói chung thờng đợc hiểu là khả năng của chủ thể trong
việc thực hiện có hiệu quả tối đa một công việc cụ thể, một hoạt động cụ thể nào
đó trong những điều kiện nhất định; là những phẩm chất của con ngời tạo cho
họ có khả năng hoàn thành một công việc nào đó có hiệu quả nhất
6
. Khi nói đến
năng lực là nói đến năng lực của từng con ngời - chủ thể cụ thể. Đó là con ngời


4
Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2000, tr. 639
5
Bùi Văn Huệ: Giáo trình tâm lý học, NxbĐHQG, H. 2000, tr. 174
6

Xem thêm, Trần Văn Phòng: Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
tỉnh; T/C Lý luận Chính trị, số 3/2002; tr.49

12
đã trởng thành về mặt xã hội, một chủ thể có nhân cách, đang hoạt động cho
mình và cho đồng loại. Do vậy, tuỳ thuộc vào nghề nghiệp, hoàn cảnh sống và
hoạt động, chức trách mà cá nhân đảm nhiệm,v.v mà năng lực của họ đợc
biểu hiện ra một cách sinh động, đa dạng, khác nhau.
Vận dụng vào TKTT, có thể hiểu một cách chung nhất, NLTKTT là khả
năng của chủ thể TKTT một cách có kết quả nhất. Nghĩa là những kết quả rút ra
từ TKTT có giá trị chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo
của chủ thể. Nhng TKTT lại là một quy trình gồm nhiều bớc: lựa chọn, xác
định vấn đề tổng kết; thu thập, xử lý thông tin liên quan tới vấn đề tổng kết; tổ
chức lực lợng tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm; vận dụng các bài học
kinh nghiệm vào tổ chức thực tiễn. Nh vậy, NLTKTT đợc biểu hiện cụ thể ở
khả năng xác định đúng và trúng vấn đề cần TKTT; khả năng lập kế hoạch, tổ
chức lực lợng TKTT một cách tối u nhất; khả năng thu thập, phân tích, xử lý
thông tin liên quan tới vấn đề tổng kết một cách kịp thời, chính xác, đúng đắn;
khả năng rút ra các bài học kinh nghiệm có tính khái quát cao; khả năng vận
dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn và hoạt động nhận thức.
Khả năng xác định đúng và trúng vấn đề cần TKTT đóng vai trò quan
trọng trong thành công của TKTT. Nếu lựa chọn vấn đề TKTT không đúng và
không trúng thì tất nhiên việc TKTT sẽ không có kết quả. Để lựa chọn đúng vấn
đề đòi hỏi chủ thể tổng kết phải có khả năng lựa chọn những vấn đề mà thực tiễn
cuộc sống hay lý luận đặt ra, đòi hỏi phải có câu trả lời đúng. Nói khác đi, đây là
những vấn đề có tình huống, mà giải quyết chúng sẽ góp phần thúc đẩy thực tiễn
cũng nh lý luận tiến lên. Nếu chọn vấn đề đúng và trúng sẽ góp phần đảm bảo
tính mục đích cũng nh tính thực tiễn của vấn đề tổng kết. Nếu xác định vấn đề
tổng kết thực tiễn không đúng và không trúng thì TKTT sẽ không có hiệu quả.
TKTT nh vậy sẽ không phát huy đợc vai trò, ý nghĩa của mình đối với lý luận

cũng nh khắc phục các căn bệnh kinh nghiệm, giáo điều.
Khả năng lập chơng trình, kế hoạch, tổ chức lực lợng TKTT một cách tối
u nhất cũng đóng vai trò rất quan trọng trong TKTT. Nó thể hiện tính chủ động,

13
tính tự giác, tính khoa học trong TKTT của chủ thể. Nếu không có chơng trình,
kế hoạch cụ thể, chi tiết cho TKTT thì rất có thể việc TKTT sẽ bị động, khó mà
đạt hiệu quả mong muốn; vấn đề cần tổng kết có thể bị bỏ qua, còn vấn đề cha
cần tổng kết lại đợc tổ chức tổng kết. Khi ấy những vấn đề có tình huống do
cuộc sống thực tiễn đặt ra sẽ bị cuộc sống vợt qua. Nh vậy, việc TKTT sẽ trở
nên thừa vì nó không đáp ứng về mặt thời gian của vấn đề cần tổng kết. TKTT sẽ
trở nên theo đuôi cuộc sống mà không góp phần chỉ đạo đợc cuộc sống, đợc
hoạt động thực tiễn cũng nh hoạt động lý luận tiếp theo. Đồng thời, việc tổ chức
tốt lực lợng tham gia TKTT cũng hết sức quan trọng, góp phần nâng cao hiệu
quả TKTT, phát huy đợc năng lực của các lực lợng am hiểu chuyên môn, am
hiểu thực tiễn vào TKTT. Nói khác đi, khi ấy sẽ phát huy đợc vai trò trí tuệ tập
thể trong TKTT. Phát huy tốt vai trò của lực lợng TKTT cũng rất quan trọng, nó
góp phần đảm bảo cho TKTT đạt kết quả tối u nhất. Bởi lẽ, chủ thể tiến hành
TKTT không thể có đủ hiểu biết về tất cả những vấn đề của cuộc sống, không đủ
thời gian để thực hiện TKTT. Vì vậy, tổ chức lực lợng tham gia TKTT một cách
hợp lý sẽ tranh thủ đợc khả năng chuyên môn, sự am hiểu thực tiễn của nhiều
ngời, phát huy đợc sức mạnh tập thể. Trên cơ sở đó, TKTT sẽ đạt hiệu quả và
phát huy vai trò đối với hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo nói
chung.
Khả năng thu thập, phân tích, xử lý thông tin trong TKTT một cách
nhanh nhạy, chính xác, kịp thời đúng đắn đóng vai trò đặc biệt quan trọng để
TKTT có đợc đánh giá chính xác, phản ánh chân thực những gì thực tiễn đang
diễn ra. Nguồn thông tin không kịp thời, không chính xác không chỉ làm sai lệch
kết quả TKTT mà nó còn làm mất đi tính thời sự của vấn đề cần tổng kết, tiếp
cận.

Khả năng thu thập, phân tích, xử lý thông tin thể hiện ở chỗ, chủ thể từ
những thông tin đa dạng nhiều chiều, bề bộn của thực tiễn biết chắt lọc, lựa chọn
những thông tin đầy đủ, chính xác phục vụ cho TKTT một cách hiệu quả, thiết
thực nhất. Thu thập thông tin đã quan trọng, nhng xử lý thông tin còn quan
trọng hơn. Bởi lẽ, chủ thể có thể chìm ngập trong thông tin nhng vẫn có thông

14
tin vì không biết xử lý thông tin phục vụ TKTT. Thu thập và xử lý thông tin hiệu
quả sẽ góp phần thiết thực vào TKTT một cách hiệu quả nhất. Để thu thập, xử lý
thông tin có chất lợng đòi hỏi chủ thể phải có trình độ t duy lý luận, sâu sát
thực tiễn cuộc sống, bám cơ sở, gần dân, có tấm lòng trung thực. Đồng thời phải
biết sử dụng hợp lý nguồn thông tin từ đội ngũ các chuyên gia, các nhà chuyên
môn, các phòng, ban chức năng.
Khả năng rút ra các bài học kinh nghiệm có tính khái quát cao đóng vai
trò quyết định trong việc rút ra các kết luận đúng đắn khi TKTT. Từ những t
liệu, dữ kiện, thông số, tài liệu, qua khảo sát thực tế, chủ thể vận dụng sáng tạo
phơng pháp biện chứng duy vật cũng nh các phơng pháp phân tích và tổng
hợp; diễn dịch và quy nạp; so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học, thống kê,v.v..
để rút ra những kết luận chính xác, có tính khái quát cao. Những kết luận đợc
rút ra từ TKTT có tính khái quát cao là những kết luận có giá trị định hớng, chỉ
đạo cho hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo. Đồng thời, chúng còn
có giá trị bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận cũng nh điều chỉnh, bổ sung
đờng lối, chính sách. Để tiếp nhận và xử lý thông tin có hiệu quả, chủ thể TKTT
phải có năng lực nhất định trong t duy lý luận, trong phân tích, tổng hợp. v.v..
Trên cơ sở xử lý thông tin đúng thì việc rút ra các kết luận và các bài học kinh
nghiệm sẽ đúng và trúng. Nh vậy, vai trò định hớng, chỉ đạo hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo của TKTT mới đạt yêu cầu.
Khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn và nhận
thức tiếp theo đóng vai trò kết thúc một chu trình TKTT. Giá trị, ý nghĩa của
TKTT chỉ đợc phát huy khi các bài học kinh nghiệm rút ra đợc vận dụng vào

chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo. Nếu chủ thể TKTT
không có khả năng vận dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn và
nhận thức tiếp theo thì TKTT sẽ không phát huy đợc vai trò, ý nghĩa của mình.
Do đó, năng lực vận dụng các bài học kinh nghiệm thực tiễn vào hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn tiếp theo là yêu cầu, đòi hỏi ở mỗi ngời cán bộ lãnh
đạo, quản lý. Cũng do vậy, ngời có NLTKTT không thể không có khả năng vận

15
dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận
thức tiếp theo.
Nh vậy, có thể thấy, NLTKTT đóng vai trò hết sức quan trọng trong quy
trình, tổ chức thực hiện TKTT cũng nh hiệu quả TKTT. NLTKTT cũng nh mọi
năng lực khác vừa là sản phẩm của tự nhiên (sinh học) vừa là sản phẩm mang
tính lịch sử xã hội. Tuy nhiên, mặt tự nhiên (sinh học) chỉ thực sự trở thành năng
lực và đợc phát huy khi nó thẩm thấu qua hoạt động thực tiễn, hoạt động tự học
tập, rèn luyện của chủ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Năng lực của con
ngời không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do
tập luyện mà có
7
.
1.1.2. Những nhân tố ảnh hởng tới NLTKTT.
Trớc hết, NLTKTT phụ thuộc vào các yếu tố sinh học của chủ thể TKTT,
nh hoạt động của t duy, của hệ thần kinh cấp cao, của trí nhớ, của sự thông
minh, của sức khoẻ thể chất, v.v.. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, con
ngời là thực thể sinh học - xã hội. Mặt sinh học của con ngời phụ thuộc vào
quy luật tự nhiên nh các thuộc tính sinh học, tính di truyền, biến dị, đồng hóa,
dị hóa,v.v.. trong quá trình sinh sản và phát triển. Mỗi con ngời đợc sinh ra và
lớn lên đều mang gen di truyền từ bố mẹ. Sự di truyền theo hớng trội, hớng tốt
sẽ tạo ra thế hệ mới có một cơ thể khoẻ mạnh, t chất thần kinh tốt, có khả năng
phát triển cao về sức khoẻ và trí tuệ. Nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế

giới đã khẳng định những yếu tố sinh học có tính chất bẩm sinh đóng vai trò
quan trọng (cá biệt là rất quan trọng) trong việc tạo ra t chất thần kinh thông
minh (chỉ số IQ cao), năng khiếu bẩm sinh, trí nhớ tốt, khả năng trực giác nhạy
bén, sự nhạy cảm và khả năng phân tích, tổng hợp, phán đoán tốt. Đó chính là
những cơ sở, tiền đề, điều kiện tạo nên sự phát triển của năng lực con ngời nói
chung và năng lực tổng kết thực tiễn của con ngời nói riêng. Những yếu tố sinh
học này là cơ sở, điều kiện, tiền đề cho chủ thể TKTT thực hiện NLTKTT có hiệu
quả. Ngay NLTKTT, xét về khả năng cũng là thuộc về những yếu tố di truyền,
yếu tố sinh học. Vì năng lực là yếu tố thuộc về chủ thể. Tất nhiên, những yếu tố


7
Hồ Chí Minh, toàn tập, NXBCTQG, H. 1995; tập 5; tr.180

16
sinh học này chỉ là điều kiện cần chứ cha đủ cho TKTT đạt hiệu quả. Những
yếu tố sinh học này nếu không đợc trau dồi, rèn luyện, phát triển thì sẽ thui chột
và không phát huy đợc một cách hiệu quả nhất trong TKTT.
Thứ hai, môi trờng kinh tế - xã hội mà trong đó chủ thể TKTT sống và
hoạt động có ảnh hởng quan trọng tới NLTKTT của họ. Nh chúng ta đã rõ, con
ngời là sản phẩm của hoàn cảnh kinh tế xã hội, tất nhiên không phải là sản
phẩm thụ động của hoàn cảnh, nhng hoàn cảnh kinh tế xã hội nh thế nào sẽ
sản sinh ra những con ngời hoạt động thực tiễn và con ngời có NLTKTT nh
thế ấy. Bởi lẽ, NLTKTT là thuộc về khả năng của chủ thể. Nhng khả năng ấy, ở
một lát cắt nhất định lại là sản phẩm của hoàn cảnh kinh tế xã hội. Hoàn cảnh
kinh tế xã hội ảnh hởng trực tiếp đến sự phát triển thể chất của con ngời - cơ
sở sinh học của mọi năng lực nói chung, NLTKTT nói riêng. Năng lực của con
ngời xét đến cùng đợc nảy sinh từ trong quan hệ của con ngời đối với tự
nhiên và quan hệ giữa con ngời với nhau trong sản xuất vật chất. Trong hoạt
động thực tiễn, trớc hết là hoạt động sản xuất vật chất, những khả năng của con

ngời đợc hình thành, củng cố, phát triển. Hoàn cảnh kinh tế xã hội nh là
chất men kích thích những năng lực của con ngời nảy sinh, phát triển. Hoàn
cảnh kinh tế xã hội không chỉ là nguồn gốc sâu sa của những năng lực của con
ngời, mà nó còn đặt ra đòi hỏi, yêu cầu con ngời phải có các năng lực khác
nhau, trong đó có NLTKTT.
Các thiết chế chính trị xã hội trong hoàn cảnh kinh tế xã hội cũng ảnh
hởng tới NLTKTT của con ngời. Chẳng hạn, thiết chế - xã hội tiến bộ, dân
chủ, đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, v.v.. sẽ là những môi trờng thuận
lợi cho mọi năng lực của con ng
ời, trong đó có NLTKTT phát triển. Ngợc lại,
thiết chế chính trị - xã hội không dân chủ, đời sống kinh tế, văn hoá lạc hậu,v.v..
sẽ ảnh hởng tiêu cực tới mọi năng lực của con ngời, trong đó có NLTKTT.
Môi trờng kinh tế xã hội còn bao hàm trong nó môi trờng, điều kiện
làm việc của con ngời - chủ thể tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn, điều kiện làm
việc tốt, trang thiết bị máy móc, phơng tiện,v.v..đợc trang bị đầy đủ sẽ giúp
con ngời thu nhận và xử lý thông tin chính xác, nhanh nhạy, kịp thời. Trên cơ sở

17
đó giúp TKTT hiệu quả hơn. Ngợc lại, điều kiện làm việc không thuận lợi, thì
những năng lực của con ngời không có điều kiện để phát triển.
Thứ ba, giáo dục, đào tạo ảnh hởng trực tiếp đến NLTKTT của con
ngời. Có thể nói, NLTKTT của con ngời luôn tỉ lệ thuận với vốn tri thức mà
con ngời thu nhận đợc từ giáo dục, đào tạo; từ việc tự học tập, tự rèn luyện, tự
trau dồi của bản thân con ngời. Giáo dục, đào tạo là con đờng ngắn nhất trang
bị cho chủ thể TKTT những tri thức khoa học, đặc biệt là những nguyên tắc
phơng pháp luận chung của phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở đó, con ngời
mới nâng cao đợc năng lực lựa chọn vấn đề TKTT; năng lực xử lý thông tin;
năng lực khái quát hoá để rút ra những bài học kinh nghiệm có tính lý luận cao
và năng lực vận dụng các bài học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn và nhận thức
tiếp theo. Giáo dục, đào tạo còn trang bị cho chủ thể TKTT những nguyên tắc

phơng pháp luận để học tập, trao dồi, phát triển năng lực nói chung, năng lực
NLTKTT nói riêng.
Thứ t, hoạt động thực tiễn của con ngời - chủ thể TKTT ảnh hởng quan
trọng tới NLTKTT của chính họ. Thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực của nhận
thức, của lý luận mà còn là cơ sở, nguồn gốc sâu xa và động lực của mọi năng lực
của con ngời, trong đó có NLTKTT. Thực tiễn là chất men kích thích nảy sinh
những năng lực của con ngời. Chỉ có thông qua hoạt động mà trớc hết và chủ
yếu là hoạt động thực tiễn con ngời mới làm bộc lộ những năng lực của bản
thân. Cũng thông qua hoạt động thực tiễn năng lực của con ngời, trong đó có
NLTKTT mới đợc phát huy tối đa, mới có điều kiện cọ sát, trau dồi, rèn luyện,
phát triển. Ngời nào càng tham gia hoạt động thực tiễn nhiều, thì càng có cơ
hội, điều kiện trau dồi, rèn luyện, phát triển NLTKTT. Chính Ph.Ăngghen đã chỉ
rõ, ..việc ngời ta biến đổi tự nhiên, là cơ sở trực tiếp nhất, chủ yếu nhất của t
duy con ngời và trí tuệ con ngời đã phát triển song song với việc ng
ời ta đã
học cải biến tự nhiên
8
. Chính thông qua hoạt động thực tiễn - cải biến giới tự
nhiên cũng nh xã hội, con ngời đã phát triển trí tuệ cũng nh mọi năng lực của


8
C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, NxbCTQG,H.1994, tập 20, tr. 720

18
mình. Sự vận động, phát triển liên tục của hoạt động thực tiễn của bản thân con
ngời luôn đặt ta những yêu cầu mới trong TKTT. Điều đó đòi hỏi con ngời
luôn phải nghĩ cách để TKTT một cách hiệu quả thiết thực. Thông qua đó,
NLTKTT của con ngời ngày càng đợc rèn luyện, trau dồi.
Thứ năm, nhu cầu và lợi ích là một trong những nhân tố ảnh hởng trực

tiếp, quan trọng tới NLTKTT. Có thể nói, mọi hoạt động của con ngời, trong đó
có hoạt động TKTT, đều nhằm đạt mục đích nhất định để thoả mãn nhu cầu, lợi
ích của mình. Khi lợi ích đợc bảo đảm sẽ là nguồn động viên thúc đẩy chủ thể
trau dồi, rèn luyện, phát triển năng lực nói chung, NLTKTT nói riêng. Ngợc lại,
khi lợi ích không đợc bảo đảm, sẽ ít nhiều ảnh hởng đến NLTKTT của chủ thể.
Do vậy, cái chi phối mục đích hoạt động của con ngời là lợi ích. Nhu cầu và lợi
ích là cái luôn luôn chi phối suy nghĩ, hành động của con ngời. Liên quan đến
TKTT thì tổng kết nh thế nào, có hiệu quả không, các kết luận rút ra có tính
khái quát không, v.v..phụ thuộc nhiều vào năng lực của chủ thể TKTT. Mà chủ
thể TKTT lại bị nhu cầu, lợi ích chi phối. Nói khác đi, động cơ t tởng hay mục
đích đợc hình thành bởi sự tác động của hoàn cảnh thực tiễn đối với con ngời
cũng chính là lợi ích, trong đó bao hàm cả tri thức đợc đúc kết trong hoạt động
thực tiễn, đợc hình thành nhằm thoả mãn những nhu cầu mới đợc hình thành
(tức là những vấn đề thực tiễn mới đang đợc đặt ra). Chính theo nghĩa đó thì lợi
ích của con ngời bao giờ cũng gắn chặt với những kết quả - những bài học kinh
nghiệm đợc tổng kết và rút ra từ trong hoạt động thực tiễn. Cũng chính vì lợi ích
là sự phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa ngời và ngời trong hoạt động thực
tiễn, cho nên những bài học kinh nghiệm đợc rút ra từ trong hoạt động thực tiễn
ấy dù phản ánh quy luật khách quan thì bao giờ cũng mang tính chủ quan tính
lợi ích của chủ thể TKTT và tổ chức thực tiễn. Vì vậy, nếu những lợi ích ấy phản
ánh đợc lợi ích chung của xã hội thì những bài học kinh nghiệm đ
ợc rút ra
càng có tác dụng tích cực trong việc chỉ đạo thực tiễn tiếp theo của toàn xã hội.
Nhu cầu, lợi ích còn ảnh hởng trực tiếp đến thái độ, động cơ TKTT cũng nh
thái độ, ý thức phấn đấu rèn luyện nâng cao NLTKTT của bản thân từng ngời.
Ngời có động cơ không trong sáng vì lợi ích cá nhân,v.v..thì TKTT không thể

19
khách quan, trung thực và cũng khó mà nâng cao đợc NLTKTT. Hoặc nếu nh
có NLTKTT nhng động cơ không đúng thì sẽ chỉ là ngời có tài mà không có

đức thì cũng trở thành vô dụng. Nh vậy thì TKTT sẽ không có hiệu quả.
Thứ sáu, năng lực tổng kết thực tiễn còn phụ thuộc vào chính sự cố gắng
của bản thân chủ thể tổng kết thực tiễn. Thực tế đã chứng tỏ, ngời nào càng
chăm chỉ học tập, càng cố gắng vơn lên học hỏi và tham gia vào hoạt động thực
tiễn xã hội càng nhiều thì càng có cơ hội phát triển năng lực nói chung, NLTKTT
nói riêng. Sự cố gắng phấn đấu vơn lên về mọi mặt của chủ thể TKTT sẽ ảnh
hởng trực tiếp quan trọng tới việc rèn luyện, trau dồi NLTKTT của họ. Điều này
thể hiện ở ý chí phấn đấu, ý thức rèn luyện vơn lên; ở tấm lòng trung thực trong
TKTT; ở tinh thần dám chịu đựng gian khổ, sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân để
nắm bắt thông tin,v.v..
Tất cả những nhân tố trên ảnh hởng, tác động lẫn nhau và cùng tác động
tới năng lực tổng kết thực tiễn của cán bộ. Vì vậy, muốn nâng cao NLTKTT cho
cán bộ cần phải lu ý tới tất cả những nhân tố này.
1.2. Vai trò của NLTKTT đối với hoạt động lnh đạo của cán bộ
lnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
1.2.1. Thực chất hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh.
Khái niệm cán bộ lãnh đạo nói chung là chỉ những ngời đứng đầu, phụ
trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Do vậy,
cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đề ra phơng hớng, chủ trơng, quyết định liên
quan tới tổ chức, đơn vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là
ngời dẫn dắt, tổ chức, đơn vị, phong trào theo một hớng đi cụ thể. Họ là những
ngời điều hành, chỉ đạo thông qua các quyết định. Chính họ cũng là những
ngời sẽ điều chỉnh các quyết định sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Hoạt
động lãnh đạo là hoạt động điều khiển mang tính định hớng đối với đối tợng
lãnh đạo bằng các phơng pháp nh ra lệnh, động viên, giáo dục, thuyết

20
phục,v.v.. nhằm đạt mục tiêu nhất định. Có thể đồng ý với cách hiểu, Lãnh đạo
bằng đề ra đờng lối, chủ trơng và tổ chức, động viên thực hiện

9
.
Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động, định hớng, điều chỉnh
hành vi đối với đối tợng lãnh đạo cũng là con ngời với nhu cầu, lợi ích, tình
cảm,v.v.. - nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định. Chính vì vậy, chủ thể lãnh đạo,
một mặt phải am hiểu công việc, mặt khác phải am hiểu con ngời - đối tợng
lãnh đạo. Chỉ trên cơ sở đó hoạt động lãnh đạo mới có kết quả.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bớc nh: Thu thập và xử lý
thông tin; ra quyết định; xử dụng cơ quan tham mu, chuyên gia (phòng ban
chuyên môn) tổ chức thực hiện các quyết định; tổ chức việc kiểm tra thực hiện
các quyết định; tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các quyết định để chuẩn
bị cho việc ra quyết định tiếp theo. Nh vậy, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực
hiện các quyết định (thực chất là tổng kết thực tiễn) để chuẩn bị cho việc ra quyết
định tiếp theo là nhiệm vụ không thể thiếu của ngời lãnh đạo nói chung. Hoạt
động của chủ thể lãnh đạo ở các cấp khác nhau có thể khác nhau về hình thức,
quy mô, mức độ, phạm vi và lĩnh vực,v.v..(chẳng hạn lãnh đạo cấp tỉnh khác lãnh
đạo cấp huyện, quận) nhng về bản chất là giống nhau.
Cán bộ lãnh đạo cũng khác với cán bộ quản lý. Quản lý đợc hiểu là Tổ
chức và điều khiển các hoạt động theo những yếu cầu nhất định
10
. Nh vậy,
quản lý cũng là hoạt động có ý thức của con ngời nhằm theo đuổi những mục
đích xác định. Quản lý về cơ bản có những chức năng nh: lập kế hoạch, tổ chức
bộ máy, chỉ đạo, thực hiện sự phối hợp và kiếm soát nguồn lực. ở Việt Nam,
trong nhiều trờng hợp cụ thể, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán
bộ quản lý là thống nhất với nhau, trùng lặp nhau. Sự phân biệt giữa lãnh đạo và
quản lý chỉ có tính tơng đối. Tất nhiên, về bản chất hoạt động lãnh đạo khác
hoạt động quản lý. Sự khác nhau đó đợc thể hiện rõ nhất ở nội dung; mục tiêu;
phơng pháp và phơng tiện. Hoạt động quản lý là nhằm tổ chức, sắp xếp, chỉ
đạo các hoạt động thuộc phạm vi quản lý theo một trật tự, quy trình nhất định.



9
Từ điển tiếng Việt, Minh Tâm chủ biên, Nxb Thanh Hoá, 1998, tr. 720
10
Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng 2000, tr.1242

21
Trong khi đó, hoạt động lãnh đạo là nhằm mục tiêu định hớng chung. Nội dung
chủ yếu của lãnh đạo là đề ra chủ trơng, đờng lối chung cũng nh phơng
hớng chung để thực hiện chủ trơng, đờng lối đó. Đồng thời kiểm tra việc thực
hiện chủ trơng, đờng lối đó cũng nh điều chỉnh, hoàn thiện chủ trơng, đờng
lối sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong khi đó, nội dung của quản lý
phải đề ra đợc các chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể, các mô hình, phơng án thực hiện
rất cụ thể để đạt hiệu quả trong tổ chức thực hiện. Về phơng pháp, phơng tiện
thì lãnh đạo cơ bản là động viên, thuyết phục, giáo dục đối tợng lãnh đạo. Trong
khi đó thì quản lý chủ yếu lại dùng mệnh lệnh có tính chất bắt buộc. ở nớc ta,
lãnh đạo không tách rời quản lý, quản lý không tách rời lãnh đạo. Có thể nói,
lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, làm cơ sở tiền đề cho quản lý, còn quản
lý là quá trình hiện thực hóa đờng lối lãnh đạo, giúp lãnh đạo đạt kết quả tối u
nhất.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nớc ta hiện nay (Trung ơng;
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng; quận, huyện, thị xã và xã, phờng thị
trấn), cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan trọng xét trên nhiều phơng diện của đời
sống kinh tế xã hội. Quy định của Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, nớc ta có 64 tỉnh, thành phố trong một quốc gia thống nhất. Cấp tỉnh
là cấp trực tiếp với Trung ơng, là mắt khâu đầu tiên để chủ trơng, đờng lối,
chính sách của Trung ơng đến với địa ph
ơng. Tỉnh là gạch nối giữa Trung
ơng với địa phơng. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải ra đợc các

quyết định phản ánh đúng chủ trơng, đờng lối, chính sách của Trung ơng,
đồng thời phải phù hợp với thực tiễn địa bàn tỉnh mà họ phụ trách.
ở Việt Nam, hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nh thế nào
sẽ ảnh hởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia nh thế ấy. Vì vậy, chất lợng lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa to lớn đối với việc
tổ chức thực hiện chủ trơng, đờng lối, chính sách của Trung ơng ở cơ sở. Chủ
trơng, đờng lối, chính sách của Trung ơng có triển khai, tổ chức thực hiện
đợc ở cấp dới hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động lãnh đạo của đội

22
ngũ cán bộ này. Hơn nữa, tỉnh là địa bàn TKTT tơng đối có quy mô đủ để phát
hiện những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn giúp Trung ơng nghiên cứu, bổ
sung, hoàn thiện chủ trơng, đờng lối, chính sách và khái quát thành lý luận cho
phù hợp thực tiễn mới. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện cũng phải bao quát
tất cả các mặt kinh tế xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng,v.v..Tuy nhiên,
phạm vi và mức độ bao quát của họ trên địa bàn hẹp hơn, trên quy mô nhỏ hơn
rất nhiều so với cấp tỉnh.
Xung quanh khái niệm cán bộ chủ chốt còn nhiều ý kiến khác nhau,
cha thống nhất. Nhng đa số các ý kiến cho rằng, cán bộ chủ chốt là những
ngời có chức năng lãnh đạo, đợc giao nhiệm vụ đảm nhận những nhiệm vụ
quan trọng trong bộ máy lãnh đạo, quản lý, để điều hành và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ đợc giao. Chúng tôi tán thành với quan điểm cho rằng, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt là những ngời đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất
trong một tập thể, có quyền ra những quyết định về chủ trơng, có trách nhiệm
và quyền điều hành một tập thể, một đơn vị, một tổ chức để thực hiện những
nhiệm vụ của tập thể hoặc tổ chức ấy, thậm chí có thể chi phối, dẫn dắt toàn bộ
hoạt động của một tổ chức nhất định
11
. Nh vậy, ngời cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh bao gồm toàn bộ Ban chấp hành đảng bộ tỉnh, họ giữ những cơng vị

chủ chốt ở cấp tỉnh và có thể ở cả huyện. Hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh về thực chất là phải ra đợc những quyết định đúng đắn để chỉ
đạo các lĩnh vực của tỉnh theo đúng đòi hỏi của thực tiễn. Điều đó đòi hỏi đội
ngũ này phải hiểu sâu sắc đờng lối, chủ trơng của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nớc, đồng thời am hiểu thực tiễn địa phơng. Trong hoạt động lãnh đạo
ở cấp tỉnh, mặc dù phạm vi tác động có hẹp hơn so với địa bàn cả nớc, nhng
các lĩnh vực cần tác động cũng phong phú, đa dạng không kém. Hoạt động lãnh
đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh cũng toàn diện, bao quát mọi lĩnh vực từ chính
trị, đến kinh tế, văn hoá, xã hội, anh ninh, quốc phòng, xây dựng đảng,v.v..


11
Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên): Luận cứ khoa học cho việc cao chất lợng đội ngũ cán bộ
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại háo đất nớc, Nxb CTQG,H.2001, tr.35-36.

23
ở một lát cắt nhất định có thể coi địa bàn tỉnh nh một quốc gia thu nhỏ.
Cũng vì vậy, hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải
mang tính toàn diện, tính bao quát nhng cũng rất cụ thể, không đợc hời hợt,
thiển cận. Do những trọng trách khác nhau đợc giao phó mà mỗi cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh có nhiệm vụ, vai trò, vị trí cụ thể khác nhau, nhng ở họ
có đặc điểm chung nhất là những ngời có hoạt động lãnh đạo. Hoạt động lãnh
đạo đòi hỏi họ phải có một số đặc trng chủ yếu sau:
1) Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trờng của giai cấp công
nhân, tuyệt đối trung thành với lý tởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh, đặt lợi ích của Đảng, giai cấp, dân tộc lên trên lợi ích cá
nhân mình.
2) Có năng lực dự báo kiểm tra, phát hiện những vấn đề chính trị, xã hội,
năng lực tham gia đóng góp vào đờng lối chủ trơng chính sách, có tài tổ chức
thực tiễn, chỉ huy điều khiển công việc cho khối lợng lớn quần chúng trong đời

sống chính trị xã hội trên địa bàn tỉnh. Lênin thờng xuyên nhắc nhở phải: "chú ý
tìm ra và thử thách một cách hết sức nhẫn nại, hết sức thận trọng những ngời
thực sự có tài tổ chức, những ngời có bộ óc sáng suốt và có bản lĩnh tháo vát
trong thực tiễn, những ngời vừa trung thành với CNXH lại vừa có năng lực lặng
lẽ (bất chấp sự hỗn loạn và ồn ào) tổ chức công tác chung vững chắc và nhịp
nhàng của một khối ngời to lớn trong phạm vi tổ chức xô-viết. Chỉ có những
ngời nh thế, chúng ta mới đề bạt lên những chức vụ lãnh đạo lao động của
nhân dân, lên những chức vụ lãnh đạo, quản lý, sau khi đã thử thách họ hàng
chục lần bằng cách cho họ đảm nhận từ những nhiệm vụ đơn giản nhất đến
những nhiệm vụ khó khăn nhất"
12
.
3) Có tinh thần cách mạng sáng tạo, tinh thần dân chủ và tính quyết đoán
chính trị. Với tinh thần trách nhiệm cao, quyết tâm chống độc đoán, chuyên
quyền. Gơng mẫu về đạo đức, lối sống, có trách nhiệm cao trong cuộc sống


12
Lênin toàn tập, tập 36, Nxb TB, M, 1977, tr. 236 - 237.


24
gia đình và với cộng đồng, trung thực với đồng chí, với nhân dân và với chính
bản thân mình, tiêu biểu cho lẽ phải công bằng trong đời sống xã hội.
4) Có tri thức văn hoá nhất định, có phong cách công tác khoa học, có kinh
nghiệm, có nghệ thuật trong hoạt động lãnh đạo, quản lý, có sức truyền cảm
chính trị trong quần chúng và biết dùng ngời. Tức là, họ phải là những con
ngời hành động, có năng lực sáng tạo cao, có bản lĩnh và phong cách của nhà
lãnh đạo, nhà tổ chức. Họ phải thể hiện mình nh là sự phản ánh, sự kết tinh
những tinh hoa của địa phơng, ngời thể hiện và đáp ứng những gì mà dân

chúng mong đợi, đòi hỏi.
Trong cơ cấu đa dạng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nổi
bật ba nhóm: lãnh đạo chính trị, lãnh đạo quản lý nhà nớc, chuyên môn nghiệp
vụ. Những chức vụ, chức danh, chức trách khác nhau, công việc, thẩm quyền,
phạm vi hoạt động và trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh khác
nhau, nhng đều là những thành phần chủ yếu bảo đảm cho sự vận hành bộ máy
quyền lực của hệ thống quyền lực của nhân dân trên địa bàn tỉnh. Từ góc độ hoạt
động và vị trí của họ trong phát triển kinh tế - xã hội, có thể khái quát một số đặc
trng cơ bản của hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nh
sau:
Một là, hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh đòi hỏi
phải không ngừng tìm tòi, nghiên cứu vạch ra chơng trình phát triển của tỉnh về
mọi mặt, vận dụng sáng tạo đờng lối chủ trơng của Đảng, chính sách của Nhà
nớc ở địa phơng mình, đồng thời tổ chức quần chúng thực hiện. Lãnh đạo là
định hớng cho đối tợng lãnh đạo thông qua hệ thống cơ chế đờng lối, chơng
trình chính trị, chính sách "làm thức tỉnh" hành vi của đối tợng lãnh đạo, định
hớng chính trị hoạt động của đối tợng lãnh đạo và tổ chức, xã hội.
Một loạt những vấn đề đặt ra nh, đa nền kinh tế của tỉnh phát triển theo
hớng nào, cơ cấu kinh tế nào để nhanh chóng tạo ra tăng trởng; lựa chọn khâu
đột phá nào, đòn bẩy và các tác nhân kích thích nào để tạo ra sự thay đổi cân
bằng, vợt qua cửa ải đói nghèo, lạc hậu. Vấn đề ổn định chính trị, lành mạnh xã
hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh... Đây là những vấn đề đòi hỏi rất nhiều

25
trí lực, sự sáng tạo, sáng kiến của địa phơng, trớc hết là ở cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh.
Nhờ có bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo nhất định mà ngời cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải có tầm nhìn xa trông rộng, vợt qua những nhận
thức cũ, vạch ra đợc những cái mới, thực hiện những mục tiêu đổi mới t duy
trong kinh tế, chính trị, trong mọi lĩnh vực hoạt động của tỉnh. Mặt khác, họ còn

là ngời tổ chức tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện chủ trơng chính sách
đó. Chức năng cơ bản của ngời cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh là tuyên
truyền, tổ chức, huấn luyện, động viên quần chúng nhân dân, biết khơi dậy đợc
những tiềm năng sáng tạo của họ, khiến họ chủ động tìm kiếm những biện pháp
có hiệu quả nhất để thực hiện có hiệu quả chủ trơng của Đảng, chính sách của
Nhà nớc .
Hai là, hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải là
hoạt động tự giác, chủ động, sáng tạo. Ngời cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
không phải là ngời chỉ biết theo chỉ thị của cấp trên một cách thụ động, máy
móc mà chính họ biết chủ động, tự giác vận động mọi lực lợng thực tiễn để hiện
thực hoá t tởng một cách sáng tạo. Sáng tạo là bản chất của mọi lao động chân
chính, là tổng hợp sự phát triển cao của thể chất và tinh thần, là sản phẩm của
quá trình lao động trí tuệ của cá nhân. Mặt khác, họ còn là ngời có năng lực đề
xuất, phát hiện, có sáng kiến để giải quyết kịp thời những vấn đề do thực tiễn trên
địa bàn tỉnh đặt ra. Họ có khả năng tích luỹ kinh nghiệm của bản thân và của
ngời khác, cho những khám phá mới, đa đến những nhận thức mới.
Ba là, hoạt động lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải biết
khơi dậy tính tích cực xã hội của nhân dân trong tỉnh. Tức là khơi dậy đợc sự
hăng hái, chủ động, sáng tạo trong hoạt động của quần chúng và cán bộ, đảng
viên trong các tổ chức chính trị xã hội nhằm tạo ra những biến đổi xã hội hợp quy
luật. Ngày nay trong quá trình xây dựng CNXH, đòi hỏi ngời cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh phải biết nâng cao tính tích cực chính trị, thắng không kiêu, bại
không nản; giầu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy

×