Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Lý luận phê bình văn học của nhóm hàn thuyên tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.06 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

NGƠ THỊ THU HƢỜNG

Lý LN PH£ B×NH V¡N HäC
CđA NHãM HµN THUY£N
Chun ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mãsố: 9220120

TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2019


Cơng trình đƣợc hồn thành tại:
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. GS.TSKH BÙI VĂN BA
2. PGS.TS HOÀNG MINH LƢỜNG

Phản biện 1: ………………………………………………
Phản biện 2:………………………………………………
Phản biện 3: ………………………………………………

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp
trƣờng Họp tại: Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội
Vào hồi ….giờ … ngày … tháng … năm 2019

Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện: Thƣ viện Quốc Gia, Hà Nội


hoặc Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu những năm 40 thế kỷ XX có ba nhóm văn hóa văn học
nổi bật trên văn đàn Việt Nam. Hai nhóm Tri Tân và Thanh Nghị
được đánh giá tương đối nhất trí ngay từ đầu, riêng nhóm Hàn
Thuyên về cơ bản bị phê phán kịch liệt hầu như gần suốt nửa thế kỷ.
Nhưng đến thời kỳ sau Đổi mới Hàn Thuyên mới được khơi phục
dần, song đến nay vẫn cịn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu,
giải quyết. Đây chính là nguyên nhân cơ bản để chúng tôi lựa chọn
đề tài: Lý luận phê bình văn học của nhóm Hàn Thun.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Trong việc phấn đấu hiện đại hóa nền lý luận văn học của
nước nhà, phải ra sức tổng kết những thành tựu và thiếu sót, những
thành công và thất bại trong di sản lý luận của dân tộc từ thời trung
đại, nhất là trong thế kỷ XX. Riêng về nhóm Hàn Thuyên, xoay
quanh vấn đề tiếp thu lý thuyết nước ngoài gồm những chủ thuyết
nào, mối quan hệ của chúng ra sao, nhất là việc vận dụng những lý
thuyết ấy vào thực tiễn văn học nước nhà như thế nào, ý kiến chưa
thống nhất phải tiếp tục làm sáng tỏ với cách đánh giá khách quan,
theo đường lối đổi mới của Đảng.
2.2. Gắn bó chặt chẽ với mục đích về lý luận văn học nói trên
là ý nghĩa về văn học sử. Khi đã đánh giá khách quan chính xác thì
mới xác định đúng vai trị tích cực ít nhiều có thể có và tác dụng tiêu
cực của nhóm Hàn Thun trong tiến trình ý thức văn học của nước
nhà trong giai đoạn 1930-1945.

2.3. Cuối cùng, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có thể vận


2

dụng vào trong nhà trường trong việc giảng dạy phần Lí luận văn học
hiện đại và phần Văn học sử Việt Nam giai đoạn 1940-1945.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Ngồi tình hình chung của nhóm Hàn Thun, riêng về lĩnh
vực lý luận phê bình chỉ có hai nhân vật là Trương Tửu và Lương
Đức Thiệp. Lương Đức Thiệp mất tích ngay năm 1945. Các cơng
trình của ơng đều chủ yếu dựa vào bản gốc: Việt Nam thi ca luận
(1942); Văn chương và xã hội (1944), Nghệ thuật thi ca (1945); gần
đây phần lớn đều được Nxb Trí thức cùng Nxb Hội Nhà văn tái bản.
Còn Trương Tửu viết sách báo ngay từ năm 1931 (Triết lý Truyện
Kiều) và những cơng trình viết trong chế độ mới như Truyện Kiều và
thời đại Nguyễn Du (1956)... Tuy nhiên, chúng tôi chỉ tập trung
nghiên cứu các cơng trình do chính Nxb bản Hàn Thuyên công bố là:
Kinh Thi Việt Nam (1940); Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942); Tâm
lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1943); Văn chương Truyện Kiều
(1945); Tương lai văn nghệ Việt Nam (1945). Những cơng trình này
được in lại trong thế kỷ mới này qua việc sưu tầm và biên tập của
Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn: Trương Tửu - Tuyển tập nghiên
cứu, phê bình (2007) tạo điều kiện để chúng tôi so sánh đối chiếu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng và phạm vi đã xác định và để hoàn
thành nhiệm vụ nghiên cứu được rút ra ở cuối chương Tổng quan,
luận án quán triệt các phương pháp thông dụng trong nghiên cứu
khoa học nói chung như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn
dịch, quy nạp, so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống...

đến những phương pháp ở cấp độ triết học, tức chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.


3

Về các phương pháp thông dụng như phương pháp so sánh sẽ
thấy được vận dụng rất nhiều trong luận án này như so sánh giữa ba
nhóm Tri Tân, Thanh Nghị, Hàn Thuyên; so sánh những nhóm nhỏ
trong Hàn Thuyên như nhóm Trotskit, nhóm Mác-xít (nhưng khơng
theo Lênin), nhóm u nước nhưng dễ dao động; so sánh giữa hai
người trong một nhóm nhỏ như giữa Trương Tửu với Lương Đức
Thiệp... So sánh phải nêu chỗ giống nhau, mà cũng vạch ra điểm
khác nhau, tất nhiên tỉ lệ giữa hai mặt này tùy trường hợp cụ thể sẽ
rất khác nhau.
Vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
vào đề tài này là tương ứng với đối tượng, mà đối tượng nghiên cứu
chính ở đây là Lương Đức Thiệp, nhất là Trương Tửu đều tuyên bố
theo chủ nghĩa Mác. Như thế có thể lấy ngay chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử để soi xét những phát ngôn cùng sự vận
dụng của họ sẽ thấy họ có thành tâm học hỏi và có được sự hiểu biết
tương đối sâu; đồng thời cũng có những biểu hiện ấu trĩ máy móc,
phiến diện đối với chủ nghĩa Mác. Thao tác khoa học này rất khách
quan và công bằng, có tác dụng đề kháng lại những sự quy chụp và
suy diễn vơ căn cứ.
5. Những đóng góp mới của luận án
Lý luận phê bình văn học của nhóm Hàn Thuyên là một đề tài
rất khó và phức tạp. Trải qua quá trình rất cố gắng học tập nghiên
cứu, chúng tơi nhận thấy luận án có những đóng góp mới như sau:
5.1. Làm sáng tỏ thêm tính phong phú phức tạp kể cả mặt tích

cực của nhóm Hàn Thun như: về nguồn gốc gia đình, về tơn chỉ,
mục đích, về thái độ đối với chế độ mới, về đóng góp trong thời kháng
chiến chống Pháp, về cộng tác viên, về những ấn phẩm đã công bố.


4

Nhất là về thân thế sự nghiệp cùng lĩnh vực nghiên cứu, đặc biệt là về
khuynh hướng rất khác nhau của các thành viên chủ chốt, nguyên nhân
chủ yếu làm nên tính phức tạp thiên về mặt tiêu cực của Hàn Thuyên.
5.2. Tư tưởng văn học của Trương Tửu thời trước Cách mạng
về cơ bản không theo chủ nghĩa Trotsky, càng không theo chủ nghĩa
Lênin. Tuy chân thành theo chủ nghĩa Mác nhưng có chiều hướng
giản đơn, đặc biệt là có kết hợp với chủ nghĩa S.Freud, sự kết hợp
này đã chi phối và điều chỉnh sự vận dụng triết lý nghệ thuật của
H.Taine mà ông đã sớm tiếp xúc từ thời đầu. Ơng khơng phản Mácxít hoặc Mác-xít giả hiệu mà rất gần gũi với chủ nghĩa Mác phương
Tây, cụ thể là chủ nghĩa Mác-phân tâm với đặc trưng là khơng theo
chủ nghĩa Lênin nhưng lại có xu hướng gắn kết với tư tưởng hiện đại
của Phương Tây.
5.3. Cũng không theo chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa
Trosky, nhưng Lương Đức Thiệp dần dần cố gắng học tập và vận
dụng chủ nghĩa Mác, tuy có chỗ máy móc dung tục ấu trĩ, nhưng
cũng có những nhận thức tương đối đúng đắn về mối quan hệ
giữa văn chương với xã hội, về đặc trưng của thể loại và lịch sử
thơ ca Việt Nam.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, Danh mục bài báo
của tác giả, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục về Danh mục ấn
phẩm của Hàn Thuyên xuất bản cục, luận án gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu.

- Chương 2: Khái quát về nhóm Hàn Thuyên.
- Chương 3: Tư tưởng văn học chủ yếu của Trương Tửu.
- Chương 4: Tiến trình lý luận phê bình văn học của Lương
Đức Thiệp.


5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Giai đoạn trƣớc Đổi mới 1986
1.1.1. Những ý kiến phủ nhận hoàn toàn
Trong bài Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hố mới
Việt Nam lúc này, đồng chí Trường Chinh đã khẳng định nhóm Hàn
Thuyên xuyên tạc chủ nghĩa Mác, phạm phải sai lầm của chủ nghĩa
Trosky. Tiếp theo Hoài Thanh với Thực chất tư tưởng Trương Tửu
(1958),Vũ Đức Phúc trong Bàn về cuộc đấu tranh tư tưởng trong
lịch sử văn học Việt Nam hiện đại 1930-1945, phủ nhận hồn tồn
nhóm Hàn Thuyên, kể cả cuốn Nghệ thuật thi ca của Lương Đức
Thiệp. Phan Cự Đệ cho rằng nhóm Hàn Thuyên “giả danh Mác-xít”.
Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Tố phê phán các tác giả trên đã xuyên tạc
lịch sử, hạ thấp truyền thống dân tộc. Đây chủ yếu là cách đánh giá
chính thống của ĐCSVN lúc bấy giờ. Ngay trong Từ điển văn học
(bộ cũ 1983, 1984), mục Hàn Thuyên do Nguyễn Hồnh Khung viết
cũng phải theo lập trường đó.
1.1.2. Những ý kiến tuy cũng có phê phán, nhưng có phần
khẳng định
Chu Thiên, phê bình cuốn Việt Nam thi ca luận, cho rằng
Lương Đức Thiệp đã ngay thẳng và cơng bình khi khen chê các nhà
thơ đương thời. Kiều Thanh Quế, Vũ Ngọc Phan đều cho rằng

Trương Tửu là một nhà tiểu thuyết xã hội. Đặc biệt Đinh Gia Trinh
đã phê bình lối phê bình gọi là khoa học của Trương Tửu. Các văn
nhân học giả miền Nam như Nguyễn Vỹ, Thanh Lãng Nguyễn Văn
Trung đều khen tài năng và bản lĩnh cùng ảnh hưởng của Trương


6

Tửu, tuy chưa chắc là thật sự Mác-xít nhưng có đem lại cái mới cho
nghiên cứu văn học. Tuy có lúc nói đến khuyết nhược điểm, nhưng
khơng q nặng về lập trường quan điểm.
1.2. Giai đoạn sau Đổi mới 1986
1.2.1. Những ý kiến đánh giá lại theo chiều hướng khẳng
định về cơ bản
Quán triệt đường lối Đổi mới của Đảng, Từ điển văn học (bộ
mới, 2004) có ba mục từ do Nguyễn Vinh Phúc viết về Hàn Thuyên,
Văn Tâm viết về Trương Tửu, Nguyễn Q. Thắng viết về Lương Đức
Thiệp. Khơng cịn chuyện phản động, Mác-xít giả hiệu. Tuy có nói
về sai lầm khuyết điểm nhưng ln ghi nhận những cơng lao đóng
góp. Từ đây dồn dập xuất hiện những sự kiện, nhất là về Trương
Tửu. Các nhà nghiên cứu tên tuổi của Viện văn học như Nguyễn
Ngọc Thiện, Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh liên tục công bố
những tư liệu, nhất là tuyển tập của Trương Tửu có kèm theo bài
nghiên cứu mở đầu về văn hóa, về văn xi, về lý luận phê bình. Các
Tiến sĩ trẻ như Nguyễn Mạnh Tiến, Đoàn Ánh Dương đã tái bản
phần lớn các cơng trình của Lương Đức Thiệp. Cơng việc này đặt
nền móng tốt cho việc nghiên cứu sâu vào Hàn Thuyên, nhất là về
Trương Tửu. Sau đó là Hội thảo khoa học Nhà văn, Giáo sư Trương
Tửu - Con người và sự nghiệp kỷ niệm 95 năm ngày sinh (18/11/1913),
hướng tới kỷ niệm 10 năm ngày mất (16/12/1999) Trương Tửu của

khoa Ngữ văn, ĐHSPHN vào tháng 11/2008. Tham dự có đông đảo
giới nghiên cứu văn học ở miền Bắc: Phan Ngọc, Hà Minh Đức,
Nguyễn Đình Chú, Phương Lựu, Phan Trọng Luận, Nguyễn Văn
Hồn, Lã Nhâm Thìn, Lại Ngun Ân, Nguyễn Văn Long, Trần
Đăng Suyền, Trần Đình Sử, La Khắc Hịa, Nguyễn Thị Bình, v.v...


7

Kỷ yếu Hội thảo tập trung vào 4 hướng: Lý luận phê bình; Sáng tác
tiểu thuyết; Hồi ức kỷ niệm; Di cảo của Trương Tửu. Sau đó, Hội
Nhà văn đã khôi phục lại Hội tịch và tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Trương Tửu vào tháng 11/2013. Tiếp theo, Hội thảo
mang tên “Những thí nghiệm của ngịi bút tôi”, tên một tác phẩm của
Trương Tửu do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức v.v...
1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu tiếp tục
Chúng tôi kế thừa xu hướng đánh giá lại Hàn Thuyên theo tinh
thần Đổi mới trong mấy chục năm qua. Nhưng với khả năng hạn chế
của mình chúng tơi thấy có mấy vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu
đào sâu hơn như sau:
- Khái quát về Hàn Thuyên, để thấy mối quan hệ giữa toàn thể
với bộ phận là có sự thống nhất, nhưng khơng được đồng nhất. Trước
hết phải tìm hiểu thêm nhóm Hàn Thun để thấy yếu tố tích cực
cũng như tiêu cực có thể tác động đến hai vị; mặt khác cũng không
nên đem bất cứ yếu tố nào của Hàn Thuyên đều gán cho hai vị. Vấn
đề này nêu lên trước là cần thiết, có ý nghĩa như tiền đề, như điều
kiện phục vụ cho việc đánh giá riêng về lĩnh vực lý luận phê bình
văn học như tiêu đề của luận án đã hàm ý.
- Trương Tửu là người say sưa vận dụng lý thuyết mới cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Mác, Ănghen, Lênin, S.Freud, H.Taine...

Cho nên người ta thường đánh giá ông về tư tưởng, lập trường quan
điểm. Vậy Trương Tửu có chịu ảnh hưởng hay khơng, chịu ảnh
hưởng đến mức nào, rồi vận dụng, nhất là vận dụng liên kết các
nguồn tư tưởng với nhau như thế nào?
- Lương Đức Thiệp không trải qua cuộc đời thăng trầm trong
chế độ mới, được xem như một hiện tượng đã sớm hoàn kết. Nhưng


8

vẫn cịn đó sự đánh giá về ơng thời trước cách mạng, tuy cũng có
khen, nhưng chủ yếu là thiên về phê phán theo tinh thần chung đối
với nhóm Hàn Thuyên thời ấy. Như thế luận án của chúng tôi sẽ cố
gắng góp phần đánh giá lại Lương Đức Thiệp theo tinh thần Đổi
mới, nhất là về con đường tư tưởng học thuật của ơng vươn đến quan
điểm Mác-xít đã diễn ra với những ưu, khuyết điểm như thế nào?

CHƢƠNG 2
KHÁI QUÁT VỀ NHÓM HÀN THUYÊN
2.1. Bối cảnh ra đời
Tập trung chủ yếu vào giai đoạn 1930-1945.
2.1.1. Bối cảnh chính trị văn hóa xã hội
Nhóm Hàn Thuyên ra đời trong bối cảnh chính trị xã hội khi thực
dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, đàn áp bóc lột nhân dân Việt Nam;
các cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra. Sự ra đời của Đảng Cộng sản và
các hoạt động văn hóa chính trị xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đã
ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác văn nghệ thời kì này.
2.1.2. Bối cảnh văn học
Đó là sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác nói chung và tư tưởng văn
nghệ Mác-xít nói riêng. Và tư tưởng văn nghệ này đã tham gia vào trong

bầu khơng khí học thuật sôi nổi từ những năm 30 nửa đầu thế kỉ, có
tiếng nói và ảnh hưởng sâu sắc. Bên cạnh đó càng xuất hiện nhiều các tổ
chức văn học khác nhau.
2.2. Những biểu hiện tích cực nhóm Hàn Thun
2.2.1. Xét từ gốc gác gia đình
Nxb Hàn Thuyên hình thành từ gia đình nhà tư sản yêu nước


9

Nguyễn Xuân Giới, trưởng nam Nguyễn Xuân Tái làm Giám đốc,
thứ nam Nguyễn Xuân Lương phụ trách tài vụ, chàng rể Trương
Tửu làm Tổng biên tập. Trong quá trình hoạt đơng ln bị thực dân
Pháp, phát xít Nhật, chính quyền Bảo Đại đàn áp, sách nhiễu. Cuộc
kháng chiến bùng nổ, cụ Nguyễn Xuân Giới liền hiến Nxb cho cách
mạng và hầu như toàn gia đều đi theo kháng chiến. Cụ Giới có 5
người con đều tịng qn, được Hồ Chủ tịch tặng Huân chương
kháng chiến hạng nhất.
2.2.2. Xét từ tôn chỉ mục đích
Nxb Hàn Thun có phương châm sáng tác như sau: Tác phẩm
xuất bản phải có chất lượng; “Tác giả phải là người có uy tín trong
xã hội và đồng nghiệp; Tơn vinh vắn hóa, lịch sử dân tộc, chống
phong kiến thực dân; Có tư tưởng Mác-xít, hướng về chủ nghĩa xã
hội; Là diễn đàn của nhiều xu hướng tư tưởng khác nhau, miễn là
chống phong kiến thực dân, văn hóa nơ dịch; Tác giả hồn tồn chịu
trách nhiệm về tác phẩm của mình”…
2.2.3. Xét từ ấn phẩm
Nxb Hàn Thun đã xuất bản nhiều cơng trình có đóng góp
cho nền văn hóa khoa học nước nhà: Văn học khái luận, Nguồn gốc
dân tộc Việt Nam, Việt Nam văn học cổ sử, Lê Thánh Tơng… Sau

Tổng khởi nghĩa, có in sách báo Sao vàng của Việt Minh. Năm 1946
dịch và in Tuyên ngôn Cộng sản cùng nhiều sách về chủ nghĩa Mác.
2.2.4. Về cộng tác viên
Không những Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng
Chi mà cịn có Nguyễn Tn, Chu Thiên, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đỗ
Cung, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Lạp, Đỗ Phồn, Phạm Ngọc
Kh... nói chung các nhân vật này về sau đều đi theo cách mạng.


10

Trái với tình hình cộng tác viên, các thành viên chủ chốt lại khơng
giản đơn như thế, họ có những chủ kiến khác nhau, hành động và
đường đi cũng khác nhau.
2.3. Tính phức tạp của những thành viên chủ chốt
2.3.1. Những trí thức có lịng u nước nhưng dễ dao động
- Nguyễn Đức Quỳnh, nhà tiểu thuyết, sử gia, quê Hưng n.
Ơng khơng dính gì chủ nghĩa xã hội và Quốc tế Cộng sản. Thời kỳ
Hàn Thuyên ông sáng tác nhiều nhưng khơng phải lý luận phê bình
văn học. Năm 1946, ông ra vùng chiến khu tham gia kháng chiến
nhưng bị Pháp bắt, rồi trở vào Nam luôn.
- Lê Văn Siêu quê ở Hà Nội, trong thời Hàn Thuyên viết nhiều
về kinh tế, kỹ nghệ. Sau toàn quốc kháng chiến có tản cư ra vùng tự
do tham gia Hội đồng chuyên môn sản xuất kỹ nghệ ở Liên khu III,
nhưng bị Pháp bắt, sau đó cũng vào Nam. Ở Sài Gịn ơng có viết
nhiều về văn học sử Việt Nam, nhưng không phải thời Hàn Thuyên.
2.3.2. Những người đã từng hoặc đang theo chủ nghĩa Trosky
- Hồ Hữu Tường quê ở Cần Thơ, đúng là trùm Trotskit ở
Việt Nam, song đến năm 1939 đã từ bỏ Đệ tứ Quốc tế, nhưng vẫn
bị Pháp đày đi Côn Đảo trước khi Hàn Thuyên thành lập. Cho đến

khi ra tù, trở lại Hà Nội vào tháng 7/1945 ông mới liên hệ được
Trương Tửu và xuất bản cuốn Tương lai kinh tế Việt Nam. Năm
1947, ông sơ tán về Kẻ Sặt bị Pháp bắt và từ bỏ kháng chiến ln.
Chính khách, khoa học gia, ông đồng thời còn nổi tiếng với tiểu
thuyết trào phúng.
- Nguyễn Tế Mỹ hiện chưa rõ tiểu sử. Ông chuyên viết về
lịch sử như Hai bà Trưng khởi nghĩa đã bị đồng chí Trường Chinh
phê phán là “vin lấy học thuyết duy vật biện chứng, duy vật lịch


11

sử của Mác để biện hộ cho chính sách xâm lược của bọn phong
kiến nhà Đông Hán”, bọn Troskit phản Mác-xít là như vậy. Điều
này có gây tai tiếng cho cả nhóm, nhưng đây là chun ngành lịch
sử, khơng thể gán sai lầm này cho các người ở chuyên môn khác.
2.3.3. Các nhà lý luận phê bình văn học có xu hướng Mác-xít
nhưng khơng theo chủ nghĩa Lênin, ít nhiều bị tình nghi là Troskit.
Dù số lượng chủ chốt có thể gia giảm, thì vẫn chỉ có hai nhà lý luận
phê bình là Trương Tửu và Lương Đức Thiệp. Thật ra, trong bốn vị
trên cũng có người nghiên cứu văn học nhưng không phải trong thời
Hàn Thuyên. Ngược lại, Trương Tửu, Lương Đức Thiệp cũng không
chỉ viết lý luận phê bình mà con viết về lịch sử, xã hội, thậm chí cịn
sáng tác nữa, nhất là Trương Tửu. Dù sao hai vị này cũng rất khác
nhau về tầm cỡ, nhất là về số phận, cho nên cách tiếp cận vấn đề
trong hai chương trọng điểm tiếp theo không thể không khác nhau.

CHƢƠNG 3
TƢ TƢỞNG VĂN HỌC CHỦ YẾU CỦA TRƢƠNG TỬU
Xem xét từ Kinh Thi Việt Nam (1940) đến Tương lai văn nghệ

Việt nam (1945) của Trương Tửu để rút ra những vấn đề sau đây:
3.1. Tƣ tƣởng văn học của Trƣơng Tửu khơng mang tính
chất Trotskit, nhƣng cũng khơng theo chủ nghĩa Lênin
3.1.1. Tư tưởng văn học của Trương Tửu khơng mang tính
chất Trotskit
Trong Văn học và cách mạng (1923) Trosky lập luận rằng giai
cấp vô sản làm cách mạng không chỉ đánh đổ một giai cấp thống trị,
mà xóa bỏ mọi giai cấp, cho nên khơng xây dựng văn hóa văn học vơ


12

sản mà là thiết lập nền văn hóa văn học toàn nhân loại. Trái lại trong
Tương lai văn nghệ Việt Nam, Trương Tửu chủ trương xây dựng nền
Tân văn nghệ, cách mạng, xã hội chủ nghĩa, quần chúng và khoa học
do giai cấp vô sản làm “kim chỉ nam trong mọi hành động”.
3.1.2. Tư tưởng văn học của Trương Tửu cũng khơng theo
chủ nghĩa Lênin
Lênin chủ trương “nền văn hóa quốc tế khơng phải là phi dân
tộc”, nhưng tính dân tộc khơng hề có trong Tương lai văn nghệ Việt
Nam. Lênin nêu ra nguyên lý tính đảng trong văn học nghệ thuật,
nhưng Trương Tửu thì cho rằng nền Tân văn nghệ có một “tổ chức
nịng cốt của nó là Đồn kiến thiết Tân văn nghệ... sẽ hành động
không theo mệnh lệnh của một đảng phái nào, chỉ theo sự quyết định
của đại đa số đoàn viên”.
3.2. Dấu ấn của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa S.Freud trong
tƣ tƣởng văn học của Trƣơng Tửu
3.2.1. Dấu ấn của chủ nghiã Mác
Không theo chủ nghĩa Lênin, nhưng Trương Tửu thành tâm
nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Trong Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công

Trứ, sau khi trao đổi và tiếp thu với các học giả trong và ngoài nước,
Trương Tửu đã đúc kết: “Muốn hiểu một cá nhân, nhất là một thiên
tài… phải nghiên cứu tất cả cái hệ thống xã hội trong đó cá nhân kia,
đứng ở phạm vi đẳng cấp của mình đã bị hoàn cảnh quyết định và đã
chiến đấu để phản đơng lại hồn cảnh ấy. Khảo sát văn tài như vậy,
tức là khảo cứu theo phương pháp duy vật biện chứng là cái phương
pháp khoa học cao nhất, hiệu nghiệm nhất trong tư tưởng giới hiện
đại của loài người”. Từ đây, Trương Tửu đã nghiên cứu sự tác động
và phản tác động qua lại giữa thời đại, đẳng cấp của Nguyễn Công
Trứ với tâm lý và tư tưởng của ông. Tất nhiên cũng có nhiều chỗ


13

hiểu chủ nghĩa Mác máy móc ấu trĩ như về tính giai cấp mà chính
ơng cũng thừa nhận.
3.2.2. Dấu ấn của chủ nghĩa S.Freud cùng một số thuyết tâm
lý khác
Trong Kinh thi Việt Nam, chứng tỏ Trương Tửu cũng theo dõi
tương đối sát lý thuyết phân tâm học. Ơng khơng nhắc đến quan niệm
của Freud hồi cuối TK XIX - đầu TK XX mà nói đến sự thay đổi quan
niệm ấy sau năm 1920. Nó khơng hình dung bằng các khái niệm chỉ các
trạng thái, tính chất, phạm vi của tâm lý, mà là khá trực diện với con
người: bản ngã, bản thể, siêu ngã. Ông vận dụng quan niệm cho rằng
sáng tác văn nghệ chỉ là thăng hoa những ẩn ức tính dục bằng những
hình thức khơng thể bắt bẻ được về mặt đạo đức và pháp lý qua cách
liên tưởng đến những lời thơ câu đố dân gian như chiếc chiếu, hút thuốc
lào, thơ Hồ Xuân Hương... Trong vơ thức khơng phải chỉ chất chứa sự
thèm khát tính dục, mà còn tiềm ẩn những giấc mơ da diết khác và
Trương Tửu liên tưởng đến giấc mơ Từ Hải của Nguyễn Du.

Chủ nghĩa Freud là một hệ thống tư tưởng đồ sộ, phức tạp, mà
cùng một lúc ông đồng thời vận dụng nhiều loại lý thuyết của các
nhà tâm lý thần kinh bệnh học như Morel, Kraplin, Boll… nên không
tránh khỏi sai lạc như những suy diễn về căn bệnh của Nguyễn Du và
Thúy Kiều.
3.2.3. Sự tương đồng với chủ nghĩa Mác-phân tâm, một loại
hình của chủ nghĩa Mác phương Tây
Tư tưởng văn hóa, văn học của Trương Tửu trước Cách
mạng đã khơng tán thành tính đảng, lại xem nhẹ tính dân tộc, rõ
ràng là khơng theo chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng Cộng sản,
nhưng khơng phải là phản Mác-xít, hoặc Mác-xít giả hiệu. Bởi vì


14

chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là một loại hình, ngồi nó ra cịn có các
loại hình khác mà tiêu biểu là chủ nghĩa Mác phương Tây với đặc
điểm là kết hợp chủ nghĩa Mác với tư tưởng hiện đại phương Tây.
Trương Tửu trên cơ sở thành tâm vận dụng nhiều quan điểm của
Mác, lại có kết hợp với phân tâm học, do vậy là rất tương đồng
với một loại hình lý luận phê bình của chủ nghĩa Mác phương
Tây, cụ thể là chủ nghĩa Mác-phân tâm. Dù sao không tuân thủ
những nguyên lý của Lênin vẫn là sai, nhưng Trương Tửu có thể
là người đầu tiên cho thấy nhà lý luận phê bình Mác-xít vẫn có thể
vận dụng thích đáng lý thuyết hiện đại phương Tây, một điều mà
đến nay đã được thừa nhận rộng rãi.
3.3. Lý thuyết của Hypolyte Taine trong tƣ tƣởng văn học
của Trƣơng Tửu
3.3.1. Những yếu tố cải biến
Trương Tửu tiếp xúc H.Taine sớm nhất với ba khái niệm cơ

bản: race, milieu, moment nhưng khi đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của Mác và Freud thì khơng thể khơng tác động đến cái vốn có trước.
Về ngun văn chữ race phải dịch là chủng tộc mới đúng của
H.Taine, nhưng Trương Tửu hiểu là nòi giống rồi chuyển dịch dần
sang dòng dõi, huyết thống, di truyền... như khi phân tích về Nguyễn
Du, như thế là đã lồng thêm phân tâm học vào. Về nguyên văn
moment là thời đại, H.Taine cho đó là “những tình huống chung về
trí tuệ và đạo lý”, nhưng Trương Tửu đã đi sâu thêm vào cơ sở kinh
tế xã hội, sự đấu tranh của các lực lượng và khuynh hướng xã hội,
nghĩa là bổ sung và nâng cao bởi lý luận Mác-xít.
3.3.2. Yếu tố giữ nguyên
Trương Tửu vận dụng nguyên vẹn nguyên tắc phân tích từ môi


15

trường (milieu) của H.Taine, qua sự phân tích cảnh trí quê hương nội
ngoại của Nguyễn Du đến sự so sánh những lối tả cảnh khác nhau
giữa Thế Lữ, Lan Khai, Lưu Trọng Lư...
3.4. Sự chuyển biến nhanh chóng về tƣ tƣởng và học thuật
của Trƣơng Tửu ngay khi tham gia Cách mạng và kháng chiến
Tuy không vướng vào những tội danh như đã từng bị quy
chụp, nhưng Trương Tửu vẫn có những sai lầm và khuyết điểm của
mình. Mười năm tham gia cách mạng và kháng chiến, tức là lúc Hàn
Thun trong thực tế khơng cịn nữa, nhưng thực ra nó vẫn tồn tại ở
Trương Tửu theo một nghĩa nào đó. Nói thẳng ra đó là bằng hành
động chứng tỏ ông đã nhận thấy và kiên quyết sửa chữa những sai
lầm và khuyết điểm trước kia.
3.4.1. Tích cực phục vụ chế độ mới
Trương Tửu là học giả duy nhất trong nhóm Hàn Thuyên tận

tụy phục vụ cho chế độ mới. Điều này cho phép chúng ta liên tưởng
ông đã thấy không thể như trước cách mạng, mà cần phải đem sự
nghiệp văn hóa khoa học của mình vào quỹ đạo chung của cách
mạng dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Từ đây, ông đã quyết tâm dốc
sức phục vụ cách mạng và kháng chiến và ngày càng được tín nhiệm
cao cả trên hai mặt trận: Văn hóa và Giáo dục.
3.4.2. Từ chính trị phản tỉnh đến học thuật
Xuất phát từ lập trường cơ bản và bao trùm đó, ơng đã rất nghiêm
túc và chân thành nhìn lại những sai lầm lệch lạc trong những cơng trình
trước Cách mạng. Trực tiếp vận dụng triệt để ý kiến của Lênin, Lê
Duẩn, Trường Chinh, ông đã viết công trình Truyện Kiều và thời đại
Nguyễn Du suy tôn tác phẩm này đậm đà phẩm chất dân tộc lên mức
cổ điển chưa từng có.


16

CHƢƠNG 4
TIẾN TRÌNH LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC
CỦA LƢƠNG ĐỨC THIỆP
Lương Đức Thiệp khơng cịn tư liệu gì khác ngồi những cơng
trình cho nên cần được xem xét chúng theo trình tự thời gian để được
hình dung thêm về những bước đường tư tưởng học thuật của một
học giả trẻ đột ngột mất tích năm 1945.
4.1. Việt Nam thi ca luận (Khuê Văn xuất bản cục, 1942)
4.1.1. Về thơ ca Việt Nam cổ điển và hiện đại
- Lương Đức Thiệp cho rằng thơ ca cổ điển Việt Nam chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của thơ cổ điển Trung Quốc, nhưng chỉ giới hạn
trong việc tìm hiểu các thể thơ 5 chữ và 7 chữ. Ông đã phân biệt
được sự khác nhau giữa thơ ca phương Đông thiên về tổng hợp với

thơ ca phương Tây thiên về phân tích; vừa chỉ ra tính chất tổng hợp
nhiều xu hướng của thơ xưa, vừa cho thấy việc phân chia thành các
xu hướng thơ chỉ là tương đối, đồng thời cũng khẳng định mối quan
hệ mật thiết, sâu sắc giữa thơ với đời sống hiện thực, với những sự
vật bình dị thân thuộc.
Ơng nêu ra những ngun nhân gị bó đã ngăn cản sự phát
triển của thơ Việt Nam xưa. Ông tập trung nghiên cứu một số thể thơ
Việt Nam tiêu biểu, như thể lục bát. Ơng cũng chỉ ra sự chuyển biến
của hình thức thơ ca Việt Nam từ lục bát đến ca trù.
- Trong quá trình tìm hiểu về thơ Việt Nam hiện đại, Lương
Đức Thiệp đã cho thấy sự ảnh hưởng của thơ Pháp với thơ ca Việt
Nam. Trước hết là sự xuất hiện đội ngũ nhà thơ chuyên nghiệp là Tản
Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử... Các


17

nhà thơ này đều có ý thức sâu sắc về thiên chức thi sĩ của mình, về vị
trí và sứ mạng thơ ca. Mặt khác, ông cũng chỉ ra sự ra đời của các xu
hướng khác nhau trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Ở từng xu hướng,
ông đều chỉ ra những ưu điểm và hạn chế thông qua những nhà thơ đại
diện tiêu biểu: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hồng Chương.
Với Lương Đức Thiệp, thơ mới khơng chỉ là phong trào thơ
lãng mạn, mà phong trào này cũng có những hạn chế của nó. Tất
nhiên ơng khơng tránh khỏi những đánh giá sai lạc như nhận xét
thiếu cân nhắc về Thơ Tố Hữu và cũng chưa thấy được cái hay của
thơ Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư...
4.1.2. Những vấn đề liên quan với đặc trưng chung của thơ
- Lương Đức Thiệp đã xác lập một định nghĩa khá đúng đắn và
đầy đủ về thơ; khẳng định mối quan hệ giữa nguồn thi cảm với chất

liệu thể hiện, giữa tâm hồn thi sĩ và sự vật. Ơng cịn phân biệt giữa
nội dung của thơ ca với nội dung của các ngành khoa học khác. Từ
đó, ơng suy luận về giá trị của thơ ca, về ý nghĩa sự tồn tại của thơ ca
trong thời gian và không gian.
- Lương Đức Thiệp còn tập trung thể hiện quan niệm thỏa
đáng của mình về thơ “thuần tuý”: “Về lối thơ thuần túy, Đường thi
vẫn đáng làm mẫu mực, vì nó là sự điều hịa hồn tồn giữa tâm hồn
và sự vật, sự cân xứng trọn vẹn về hình thức và ý thơ”. Cịn theo
nghĩa cực đoan thì ơng mượn thơ Nguyễn Xuân Sanh ra phân tích
với tất cả ưu, khuyết điểm của nó.
- Lương Đức Thiệp cũng dành một dung lượng khá lớn cho
việc khẳng định những nguyên tắc sáng tác thơ như “Nối liền mối
thông cảm giữa sự vật với tâm hồn thi sĩ”; “Giác quan hóa hay cụ thể
hóa tình cảm và ý tưởng”; “Tượng trưng hóa sự vật và ý tình”...


18

Muốn càng yêu quý thơ ca Việt Nam, không thể khơng hiểu xã
hội và lịch sử Việt Nam. Có lẽ vì thế mà ơng đã giành thời gian để
viết Xã hội Việt Nam và Việt Nam tiến hóa sử (1943). Đến đây đã
tương đối có đủ điều kiện để giải quyết mối quan hệ giữa văn chương
và xã hội theo quan điểm Mác-xít.
4.2. Văn chƣơng và xã hội (Đại học thư xã, 1944)
4.2.1. Về sự phản ánh xã hội và tính giai cấp của văn học
Lương Đức Thiệp khẳng định văn chương là một hình thái ý
thức của con người, phải bắt nguồn từ xã hội: “Một tác phẩm dù cao
siêu đến đâu cũng không do công cuộc sáng tác riêng của một cá
nhân. Cả cuộc tiến hóa của lịch sử đã ấp ủ, thai nghén rồi phát sinh ra
nó, giúp nó trưởng thành, rồi hoặc lại xơ nó vào cõi chết theo nhịp

tiến triển không ngừng của nhân loại”. Nhưng xã hội ln có mâu
thuẫn và đấu tranh giai cấpcho nên văn học cũng in dấu ấn đẳng cấp.
4.2.2. Phân tích tính giai cấp của văn học hiện đại Việt Nam
Lương Đức Thiệp phân chia văn học hiện đại Việt Nam ra
năm xu hướng, nhưng tập trung phân tích vào xu hướng tư sản và
tiểu tư sản. Về xu hướng tư sản, ông thấy: “Họ là hạng người Việt
Nam có thế lực nhất trong xã hội, được sống đầy đủ về vật chất,
muốn được phóng khống về tình cảm, nhất là về ái tình, nhưng bị
gia đình và giáo lý phong kiến ràng buộc”. Về xu hướng tiểu tư sản,
ông viết: “Địa vị xã hội đẳng cấp tiểu tư sản rất chơng chênh. Tình
hình sinh hoạt này thường gây cho họ một tâm trạng phức tạp luôn
luôn bị giằng co giữa hai tình cảm mãnh liệt; một đằng họ muốn trở
thành tư sản nên khao khát giàu có, một đằng họ sợ rớt xuống lưu
manh mà ghê khiếp cảnh nghèo nàn”.


19

4.3. Nghệ thuật thi ca (Nxb Hàn Thuyên, H.1945)
4.3.1. Đào sâu thêm về tính xã hội và tính giai cấp của thơ
Lương Đức Thiệp có đưa ra thêm khái niêm bản năng đẳng
cấp tương đối mới mẻ: “Ngay trong phát hiện về văn học mà
chúng ta thường cho là phần tinh hoa nhất của con người, bản
năng đẳng cấp vẫn cứ hiện ngun hình”. Ơng cũng cho rằng sự
chi phối của đẳng cấp và điều kiện sinh hoạt xã hội đã khiến cho
văn học có một giá trị giới hạn trong khơng thời gian. Ơng phản
đối nhiều học giả và nghệ sĩ duy tâm có các quan niệm tuyệt đối
về thơ ca, nghĩa là cái giá trị mỹ thuật trên cả thời gian và không
gian, trên cả đẳng cấp và ngồi xã hội.
4.3.2. Lại nói thêm về nội dung tình cảm và hình thức ngơn

ngữ của thơ
Về mặt nội dung của thơ, theo Lương Đức Thiệp không phải chỉ
là sự thống nhất mà cịn là sự chuyển hóa của tư tưởng thành tình cảm
trong thơ: “Trong lĩnh vực thi ca, tư tưởng triết học hay gì gì nữa cũng
phải kinh qua một thời kỳ nung nấu trong tiềm thức để chuyển biến
thành tình cảm. Được tình cảm hóa rồi, nghĩa là đã biến thành chân
cảm, những tư tưởng kia mới có thể dùng được trong sáng tạo”.
Về mặt hình thức mà một phương diện của nó là thể thơ,
Lương Đức Thiệp đã phát hiện cho nó có liên quan chặt chẽ với ngơn
ngữ đa âm hay độc âm: Hình thức thi ca khơng thể vượt ra ngồi
vịng chi phối của tính cách độc âm hay đa âm trong ngơn ngữ. Hầu
hết thi ca phương Tây thường có xu hướng dùng rất nhiều vần chân...
Trái lại, thứ tiếng độc âm lại khác. Mỗi âm chỉ được một ý, một việc.
Do tính cách độc âm này mà hình thức thi ca Tàu và Việt thường
không dùng được những câu nào dài bởi luật âm hưởng quy định.


20

4.3.3. Về triển vọng của thơ
Sau khi nêu ra nhiều khó khăn, tiêu cực và bế tắc trong sáng
tác thơ, ông đã tìm hướng giải quyết trong sự thay đổi của tương lai,
theo chủ nghĩa xã hội khoa học, nhưng sự hiểu biết cịn rất mơ hồ,
khơng tưởng.
KẾT LUẬN
Cơng trình Lý luận phê bình văn học của nhóm Hàn Thun
nhằm tìm hiểu vai trị và tác dụng của Hàn Thun trong nền văn học
hiện đại Việt Nam giai đoạn 1940-1945, cùng những bài học ưu
khuyết điểm của nó đối với việc xây dựng nền lý luận phê bình dân
tộc, hiện đại ngày nay. Với đầy đủ những cơng trình lý luận phê bình

văn học của Hàn Thuyên dưới dạng nguyên bản đương thời hoặc
trong các tuyển tập ngày nay; với sự tổng quan nghiêm túc tình hình
nghiên cứu có chọn lọc kế thừa nhất là giai đoạn sau Đổi mới; với
các phương pháp thơng dụng như so sánh, phân tích, tổng hợp v.v...
nhất là với hai phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
được sử dụng triệt để, linh hoạt liên quan trực tiếp đến một số nội
dung cơ bản của đề tài, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu sâu vào
nhiều vấn đề, rồi có tóm tắt sơ lược lại kết quả ở mỗi chương. Trên
cơ sở nghiên cứu đó, đã hình thành một cách tương đối hoàn chỉnh
hệ thống ba điểm của phần Kết luận chung như sau:
1. Nhóm Hàn Thuyên đã có đóng góp cho sự nghiệp văn hóa
khoa học nước nhà, có thái độ tích cực với cách mạng và kháng
chiến. Điều này có cơ sở từ tơn chỉ mục đích được xác định là “Tơn
vinh văn hóa, lịch sử dân tộc, chống phong kiến thực dân”, từ đa
phần những ấn phẩm được cơng bố đều có chất lượng như Nguồn


21

gốc dân tộc Việt Nam, Việt Nam cổ văn học sử, Văn học khái luận...
mà phần lớn tác giả, cộng tác viên về sau đều đi theo cách mạng.
Nhưng Hàn Thuyên cũng là nhóm phái học thuật rất phức tạp,
nguyên nhân chủ yếu ở khuynh hướng tư tưởng khác nhau của những
nhân vật chủ chốt. Có những người khơng phải khơng có lịng u
nước nhưng dễ dao động; có tham gia kháng chiến chống Pháp,
nhưng rồi quay về vùng địch như Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu.
Có người đúng là theo chủ nghĩa Trotsky như Hồ Hữu Tường,
Nguyễn Tế Mỹ… Có người có xu hướng Mác-xít nhưng muốn kết
hợp với phân tâm học, lại không theo chủ nghĩa Lênin như Trương
Tửu, Lương Đức Thiệp.

Lĩnh vực nghiên cứu cụ thể thì rất khác nhau, chỉ có Trương
Tửu và Lương Đức Thiệp mới chuyên sâu vào lý luận phê bình văn
học đúng trong thời Hàn Thuyên. Không thể đem những sai lầm bất
cứ của ai đó thuộc lĩnh vực nghiên cứu khác, kể cả lý luận phê bình ở
giai đoạn khác tạo nên ấn tượng chung, để gán ghép cho hai nhân vật
này. Tất nhiên, hai nhân vật này cũng còn viết về các lĩnh vực khác
và có thể sai lầm, nhưng cũng không nên bệ nguyên si những sai lầm
ấy gán vào những cơng trình lý luận phê bình của họ.
2. Thực chất tư tưởng văn học của Trương Tửu về căn bản
không mắc sai lầm như của Trotsky cho rằng phải xây dựng ngay
nền văn hóa văn học tồn nhân loại, chứ không phải nền văn học vô
sản. Trái lại, trong Tương lai văn nghệ Việt Nam, Trương Tửu chủ
trương xây dựng nền Tân văn nghệ gồm bốn yếu tố: cách mạng, xã
hội chủ nghĩa, khoa học và quần chúng. Trong quá trình triển khai
các nội dung cụ thể của các yếu tố ấy, Trương Tửu đã nêu cao vai trị
lịch sử tiên phong của giai cấp vơ sản trong lịch sử nhân loại.


22

Nhưng Trương Tửu lại mắc sai lầm khơng nêu tính đảng và
tính dân tộc như Lênin được quán triệt trong đường lối và văn nghệ
của ĐCSVN. Không theo chủ nghĩa Lênin, nhưng Trương Tửu
khơng phản Mác-xít hoặc Mác-xít giả hiệu. Bởi vì chủ nghĩa Lênin,
hay nói rộng ra là chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là một loại hình, ngồi ra
chủ nghĩa Mác cịn nhiều loại hình khác mà tiêu biểu là chủ nghĩa
Mác phương Tây, đem chủ nghĩa Mác kết hợp với tư tưởng hiện đại
phương Tây với nhiều trường phái như chủ nghĩa Mác-phân tâm, chủ
nghĩa Mác-hiện sinh, chủ nghĩa Mác-cấu trúc. Trương Tửu thành tâm
theo chủ nghĩa Mác, có chỗ hiểu khá toàn diện và vận dụng tương

đối thành cơng, như cho rằng khơng những hồn cảnh chi phối con
người, mà con người cũng phản tác động lại hoàn cảnh. Tất nhiên
cũng có nhiều chỗ hiểu ấu trĩ phiến diện như vấn đề giai cấp. Ơng lại
cịn kết hợp với chủ nghĩa S.Freud, cũng có chỗ đúng đắn, nhưng lại
pha trộn nhiều thuyết tâm lý khác, cho nên cũng đã dẫn đến nhiều
nhận định sai lầm. Dù sao, cách làm của Trương Tửu chủ yếu tương
đồng với chủ nghĩa Mác-phân tâm ở phương Tây với những ưu
khuyết điểm rõ ràng. Tuy không tuân thủ những nguyên lý của
Lênin, nhưng lại gợi ý những người Mác-xít vẫn có thể vận dụng
thích đáng lý thuyết hiện đại của phương Tây, một điều mà đến khi
Đổi mới đã được thừa nhận.
Thực chất tư tưởng văn học của Trương Tửu cũng không vận
dụng nguyên si lý thuyết của H.Taine mà có cải biến bằng chủ nghĩa
Mác và phân tâm học. Trương Tửu tiếp xúc với H.Taine sớm nhất.
Về sau tiếp xúc với hai nguồn lý thuyết mới mạnh mẽ và hiện đại
hơn, thì có tác dụng uốn nắn trở lại cái trước. Nguyên tắc race của
H.Taine vốn có nghĩa là chủng tộc, thì có lồng thêm tính khí, huyết


23

thống, di truyền của S.Freud vào. Nguyên tắc moment, vốn có nghĩa
là tổng số hồn cảnh, sự kiện thì lại gồm thêm cơ sở kinh tế xã hội
của Mác vào. Chỉ có ngun tắc milieu thì vẫn giữ ngun như cũ.
Tuy không vướng vào những tội danh như người ta quy chụp,
nhưng Trương Tửu bên cạnh những đóng góp vốn có, khơng phải là
khơng có những sai lầm. Nhưng điều đáng q là trong mười năm
tiếp theo, ơng đã tích cực phục vụ chế độ mới, ra sức phản tỉnh từ
chính trị đến học thuật. Sống trên đời có ai không sai lầm, cho nên
đánh giá con người, tiêu chuẩn cao nhất là biết thành tâm sửa chữa

sai lầm. Tất nhiên có sai lầm gì khác nữa thì vẫn phải phê bình,
nhưng phải chăng việc nào ra việc ấy, khơng nên thành kiến với
chuyện cũ mà họ đã thành tâm khắc phục, để rồi đến lúc phải sửa sai,
cũng khó cởi lòng mà giải tỏa trọn vẹn.
3. Khác với Trương Tửu, Lương Đức Thiệp tài năng thì khơng
bằng, tên tuổi lại chủ yếu chỉ xuất hiện trên văn đàn trong khoảng
thời gian ba bốn năm, với các cơng trình: Việt Nam thi ca luận
(1942); Xã hội Việt Nam (1943); Việt Nam tiến hóa sử (1943); Văn
chương và xã hội (1944); Nghệ thuật thi ca (1945)... Thời gian ngắn
ngủi, lĩnh vực quan tâm nghiên cứu ít hơn Trương Tửu, cho nên ở
Lương Đức Thiệp có tính chất tập trung hơn theo một lơgic nhất
định. Qua các cơng trình nghiên cứu của ông, có thể thấy điều mà
Lương Đức Thiệp quan tâm trước tiên là thơ ca Việt Nam. Nhưng
ông phải hiểu xã hội và lịch sử Việt Nam như thế nào thì mới có chỗ
dựa về cơ sở hiện thực. Từ đó, ơng giải quyết mối quan hệ giữa văn
chương với xã hội ấy ra sao để soi sáng về quan điểm. Cuối cùng,
ông quay lại đánh giá thơ ca nhưng là nâng cao trên bình diện lý
thuyết chung. Tất nhiên, đây khơng phải là một lơgic khép kín, mà


×