Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu Chương 15: Chiến dịch nước pháp và sự thoáI vị lần thứ nhất của na-pô-lê-ông 1814 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.79 KB, 10 trang )

Chơng mời năm
chiến dịch nớc pháp và sự thoáI vị lần thứ nhất của na-pô-lê-ông 1814
Trong năm 1814, cũng nh trong suốt cuộc đấu tranh của Na với Châu Âu năm 1813, Na chỉ huy hoàn toàn
trông cậy vào lực lợng vũ trang. Tuy nhiên Na cũng nhân thấy rằng, sau trận Lai-xích và trớc ngày quân
Liên minh xâm lợc nớc Pháp thì không thể hành động nh hồi tháng 7 và tháng 8 năm 1813 đợc nữa, hồi Na
cố tình phá hoại hội nghị Pra-ha. Ngoài nớc Pháp ra, lúc bấy giờ ngời ta còn đồng ý để lại cho Na tất cả
những đất đai đã chiếm đợc, trừ vùng I-ly-ri, các thành phố đồng minh thơng nghiệp ở miền tây-bắc nớc
Đức và một vài vị trí ở nớc Đức cùng với tất cả các danh vị và quyền đặc lợi, trờ danh vị và quyền lợi của
ngời bảo hộ Liên bang sông Ranh. Nhng Na đã phá vỡ các cuộc đàm phán, những mong thanh toán gọn
khối Liên minh bằng một trận đánh. Những điều kiện mà hiện nay ngời ta đa ra với Na chắc chắn là tệ hơn,
Nhng Na biết rằng nông dân và thợ thuyền, t sản thơng nghiệp và công nghiệp và tầng lợp công chức đông
đảo mà Na đã tạo nên, và điều quan trọng nhất là bộ t lệnh tối cao của quân đội đứng đầu là các thống chế,
nói tóm lại, toàn thể nhân dân bao gồm mọi giai cấp, trừ một số rất ít trờng hợp ngoại lệ, đều đã mệt lả vì
chiến tranh và khao khát hoà bình. Cho nên Na không trắng trợn từ chối cuộc đàm phán do Xanh E-nhăng
chuyển đạt, đồng thời còn làm ra vẻ mong muốn hoà bình, nhng Na đã kéo dài công việc trong gần hai
tháng trời (kể từ ngày 15 tháng 11 năm 1813, ngày Na nhận đợc những điều kiện giảng hoà). Không phải
vô cớ mà Na hy vọng quân Liên minh sẽ vi phạm những điều kiện do chính họ đã đa ra và nh vậy họ sẽ
phải chịu trách nhiệm về việc chiến tranh tiếp diễn. Na biết rằng trừ nớc áo ra thì không một nớc nào hiện
đang chiến tranh với ông lại mong muốn triều đại của ông tồn tại lâu dài và đặc biệt là nớc Anh ắt sẽ không
hài lòng chừng nào tỉnh Ăng-ve còn nằm trong tay Na. Nhng, theo những điều kiện từ Phrăng-pho gửi đến
cho Na thì toàn bộ nớc Bỉ (chứ không riêng gi tỉnh Ăng-ve) vẫn sẽ tiếp tục nằm trong đế quốc Pháp. Na còn
biết rằng càng làm trì trệ công việc thì càng tạo cơ hội tốt cho Cát-tn-rít, bộ trởng Bộ ngoại giao Anh, bác
bỏ những điều kiệm mà Thợng nghị sĩ A-béc-đin đã ng thuận ở Phrăng-pho hồi đầu tháng 11, dới áp lực
của Mét-te-ních. Nhng trong khi chờ đợi, Na cần phải làm ra vẻ rằng hiện nay ông ta không hề gây trở ngại
gì cho cuộc đàm phán hoà bình và nếu nh Na có trng binh một lần nữa thì không phải để chiến tranh mà chỉ
để làm hậu thuẫn cho thiện chí hoà bình của ông ta. "Tô không phản đối gì việc lập lại hoà bình - đó là lời
của Na trong bài diễn văn khai mạc khoá họp của Thợng nghị viện ngày 19 tháng 12 năm 1813 - Tôi rất
hiểu và rất thông cảm với quan niệm của ngời Pháp, tôi nói ngời Pháp bởi vì không một ngời Pháp nào
muốn đổi danh dự lấy hoà bình. Rất tiếc tôi phải đòi hỏi ở nhân dân hào hiệp này những hy sinh mới; nhng
những hy sinh ấy đều do những quyền lợi cao cả và quý báu nhất của họ đòi hỏi. Tôi đã phải tăng cờng
quân đội của tôi bằng nhiều cuộc động viên mới; các quốc gia chỉ có thể yên ổn thơng thuyết bằng cách


tung hết lực lợng của mình ra". Rõ ràng Na không muốn hoà bình. "Sao cho những thế hệ mai sau đừng nói
về chúng ta rằng: Họ đã hy sinh những quyền lợi căn bản của đất nớc; họ đã phục tùng những quyền lực mà
từ bốn thế kỷ nay nớc Anh đã không bắt nổi nớc Pháp phải theo". Diễn từ của Na kết thúc nh vậy để đáp lại
cuộc đàm phán hoà bình của các cờng quốc đã khai mạc từ hơn một tháng nay. Tháng 1 năm 1814, 11 vạn
tân binh đợc gọi nhập ngũ. Một cuộc động viên mới đợc quyết định. Na phái một số Thợng nghị sĩ khắp n-
ớc Pháp để động viên nhiệt tình của các cấp chính quyền địa phơng trong việc tuyển quân và thu các thứ
thuế thờng lệ và bất thờng để nuôi quân đội. Ngay từ tháng 1 năm 1814, ngời ta đợc tin rằng cuối cùng
quân đội địch đã vợt qua sông Ranh và làn sóng xâm lợc đã tràn vào An-đát và Phăng-xơ Công-tê, rằng
Oen-linh-tơn đã vợt qua rặng Pi-rê-nê và đang tiên vào miền Nam nớc Pháp... "Tôi không sợ phải thú nhận
việc đó, - đó là lời hoàng đế nói với các Thợng nghị sĩ đợc phái đi các tỉnh - tôi đã chiến tranh quá nhiều ,
tôi đã có những dự án lớn lao, tôi đã muốn bảo đảm cho nớc Pháp quyền bá chủ trên thế giới. Tôi đã nhầm,
những dự án đó không tơng xứng với lực lợng dân số của dân chúng nớc ta. Đáng lẽ phải gọi toàn dân nhập
ngũ, và tôi đã nhận thấy đợc điều đó, nhng những yêu cầu cả tiến bộ xã hội và cả sự thuần hoá phong tục đã
không cho phép biến cả một quốc gia thành toàn dân vi binh". Nếu các Thợng nghị sĩ không muốn mất
khẩu khiếu trong suốt thời gian trị vì của Na thì ắt họ đã có thể trả lời ông hoàng đế rằng hoàng đế đã quá
khiêm tốn và rõ ràng là hoàng đế đã biến cả nớc thành binh lính, trừ đàn bà, con trẻ và ngời già. "Tôi phải
chịu lỗi vì quá tin vào vận hội của tôi, và tôi sẽ chịu... tôi mắc sai lầm thì chính tôi phải chịu - hoàng đế nói
tiếp - chứ không phải là nớc Pháp. Nớc Pháp không mắc sai lầm, nớc Pháp đã không tiếc cho tôi máu, đã
không từ chối một sự hy sinh nào đối với tôi...". Na coi việc ký kết hoà bình là một sự hy sinh mà cá nhân
ông phải chịu. Na nói: "Còn tôi, tôi chỉ dành lại cho tôi cái vinh dự là phải can đảm phi thờng, tức là can
đảm từ bỏ cái tham vọng cao quý nhất cha từng có, và, vì hạnh phúc của dân chúng, tôi can đảm hy sinh
những dự kiến lớn lao chỉ có thể thực hiện đợc bằng những cố gắng mà tôi không muốn đòi hỏi nữa". Rất ít
khi Na nói thành thật nh trong dịp này. Nhng Na không tính nhiệm gì mấy các Thợng nghị sĩ. Ngời ta có
thể tóm tắt ý kiến của Na về các Thợng nghị sĩ nh thế này: hôm nay là nô lệ, ngày mai là kẻ phản bội. Na
không còn nghi ngờ gì nữa về sự phản bội của Tan-lây-răng. Vừa mới trở về đến Pa-ri sau trận Lai-xích vào
tháng 11 năm 1813, trong một cuộc đại trào, Na đã dừng lại trớc mặt Tan-lây-răng, lớn tiếng hỏi: "Ông đến
đây làm gì? Tôi biết là ôn tin rằng ông sẽ làm thủ lĩnh nếu nh vừa rồi tôi chết đi. Hãy coi chừng, tha ông,
chống lại quyền lực của tôi, không đợc đâu. Xin báo để ông biết rằng nếu tôi ốm nguy kịch thì ông sẽ chết
trớc tôi!". Tuy vậy, Na cũng không cho xử bắn Tan-lây-răng, nh đã có lúc con cáo già ấy lo sợ, mà tháng 1
năm 1814, Na lại còn yêu cầu Tan-lây-răng cùng đi với Cô-lanh-cua để tiến hành đàm phán với quân Liên

minh, và đã giơ nắm đấm doạ khi Tan-lây-răng từ chối. Na không còn tin Phu-sê, cũng nh các thống chế
của ông ta; ông ta chỉ còn tin vào binh lính, nhng chỉ tin các cựu chiến binh, chứ không phải những binh
lính cha đến tuổi thành niên mà, trong hai năm sau cùng, ông ta đã bức họ phải lìa bỏ gia đình. Song số cựu
chiến binh chẳng còn là bao: ở vùng thôn quê La Mã, trên cáo nguyên Ma-đrít, ở những vùng lân cận Giê-
ruy-da-lem, trên con đờng từ Mát-xcơ-va về đến sông Bê-rê-di-na, trên khắp cánh đồng Lai-xích, xơng cốt
của họ còn phơi trắng ngổn ngang. Na đã phải cấp tốc gọi về những ngời còn sống sót trong số những đám
quân cũ ở Tây Ban Nha, ở Hà Lan và ở ý. Tuy nhiên, Na vẫn muốn chiến tranh, không muốn nói đến hoà
bình. Vả lại, sau hai tháng lần lữa và sau khi đã chà đạp lên đất nớc Pháp thì uân Liên minh, tin vào việc n-
ớc Pháp đã mệt mỏi rã rời và vào tỷ lệ đảo ngũ ngày càng nhiều trong các tầng lớp binh lính mới gọi nhập
ngũ của quân đội Pháp, đã xác định trong t tởng rằng sẽ chỉ để lại cho Na những đờng biên giới cũ của nớc
Pháp vào năm 1790, nghĩa là không bao gồm nớc Bỉ, nớc Hà Lan, xứ Xa-voa và tản ngạn sông Ranh chiếm
đợc từ thời kỳ cách mạng. Nh vậy là vẫn còn ít hơn so với những đề nghị hồi tháng 11 năm 1813, nhng lần
này phe Liên minh đều đồng ý, kể cả thợng nghị sĩ Cát-tun-rit, ngời đã thân chinh đến tận tổng hành dinh
của quân Liên minh. Hội nghị hoà bình đã họp ở Sa-ti-ông, nhng các cuộc đàm phán đã không mang lại kết
quả gì. "Trớc bản đề nghị nhục nhã mà ông đã gửi cho tôi, tôi bị kích động đến nỗi thấy rằng dù chỉ đặt tôi
vào cái thế mà ngời ta đã đề nghị với ông cũng đã là mất hết danh dự rồi...". Na viết nh vậy cho Cô-lanh-
cua, đại diện của ông ta ở hội nghị, khi Cô-lanh-cua báo cho Na biết đo là sự hy vọng cuối cùng để giữ đợc
ngai vàng và ngăn ngừa sự phục hng của dòng họ Buốc-bông đợc quân đội Liên minh giúp đỡ. "Lúc nào
ông cũng nói đến bọn Buốc-bông. chẳng thà tôi đành thấy bọn Buốc-bông phục hng ở nớc Pháp nhng là tôi
phải chịu nhận những đề nghị nhục nhã mà ông gửi". Chiến tranh, chiến tranh phải định đoạt tất cả. hội
nghị giải tán, không làm nên đợc trò gì, nhng cũng đã ở vào giai đoạn giữa cuộc chiến tranh tuyệt vọng của
Na chống khối Liên minh. Đêm 24 rạng ngày 25 tháng 1 năm 1814, Na lên đờng chinh chiến. Ông giao
quyền nhiếp chính cho vợ là Ma-ri Lu-i-dơ. Trờng hợp hoàng đế chết thì đứa con trai của hoàng đế, ông
vua nhỏ thành Rôm, lên ba tuổi, sẽ đợc đặt lên ngôi ngay, và Ma-ri Lu-i-dơ vẫn giữ quyền nhiếp chính.
Trong đời mình, Na cha hề yêu ai nh đứa trẻ này. Những ngời biết rõ hoàng đế đã không thể ngờ đợc rằng
hoàng đế lại có thể quyến luyến với đứa bé đến nh vậy, hơn với bất cứ ai. Khi hoàng đế ngồi làm việc trong
phòng của mình, bên cạnh lò sởi, đang viết hoặc đọc sách, đứa bé không rời khỏi đầu gối của hoàng đế, đứa
bé không muốn rời khỏi gian phòng và đòi bố phải chơi lính chì với nó, Mê-nê-ven, một trong những biệt
th riêng của Na đã kể lại nh vậy. So với tất cả mọi ngời ở trong triều, chú bé này là ngời duy nhất không e
sợ hoàng đế chút nào và chú ta cảm thấy mình hoàn toàn làm chủ trong phòng làm việc của hoàng đế. Suốt

cả ngày 24 tháng , Na ngồi trong phòng làm việc, bận giải quyết gấp các công việc khẩn cấp trớng khi lên
đờng đi đánh trận quyết định này, cuộc đọ gơm đáng sợ với toàn thể Châu Âu đứng lên chống Na. Chú bé
với con ngựa gỗ vẫn quẩn quanh bên bố nh thờng lệ, và cuối cùng lấy làm khó chịu khi thấy bố miệt mài
trên đống giấy tờ, nó kéo áo bố để bắt phải chú ý tới nó. Hoàng đế nhấc bỗng đứa con tung lên không rồi lại
bắt lấy để nô đùa với nó. Thích thú, chú vua nhỏ thành Rôm cuống quýt hôn bố. Tối đến, ngời ta ẵm nó đi
ngủ. Vào hồi ba giờ sáng, ngời vú, đêm ấy đến phiên trực trong phòng của thái tử, bất chợt thấy Na "rón
rén bớc vào", còn Na thì không biết ngời vú đang nhìn mình. Na đến đứng bên cạnh cái nôi của đứa con
đang ngủ say sa, chăm chú ngắm nghía hồi lâu. Lát sau, Na đã lên xe và đến với quân đội. Từ đó, không
bao giờ còn gặp lại đứa con trai của ông ta nữa. II Việc huấn kuyện tân binh cha xong, việc trng binh vẫn
tiếp tục, hoàng đé và các thống chế mới chỉ có 4 vạn 7 nghìn quân sẵn sàng chiến đấu đợc, còn Liên minh
đã dàn ra 23 vạn quân và một số quân gần bằng thế nữa đang cấp tốc kéo đến tăng cờng trên nhiều ngả đ-
ờng khác nhau. Hầu hết các thống chế, kể cả Nây, đều ngã lòng. Na là ngời duy nhất còn đầy hăng say và
khí thế, và ông ta vẫn cố gắng truyền lại cho các thống chế tinh thần lạc quan ấy. "Na tỏ ra cơng nghị và
nh trẻ lại", những ngời đọc chứng kiến đã kể lại nh vậy. Đến Vít-tơ-ri ngày hôm trớc thì ngày hôm sau, 26
tháng 1, Na cho tập trung hết lực lợng và đã đánh bật đợc Bluy-khe ra khỏi Xanh Đi-di-ê. Từ Xanh Đi-di-ê,
sau khi đã quan sá đợc hành động của quân Phổ, Na tiến đánh quân Phổ và đánh quân đoàn Nga của ốt-
xren Xắc-ken. Ngày 31 tháng 1, ở Biên, Na đã đánh thắng một trận mới vô cùng gay go, và trận này đã
khôi phục tinh thần cho binh sĩ, lúc đo đang bạc nhợc lên rất nhiều. Bluy-khe bị đánh bại, vội vã lui về Ba
xuya Ô-bơ, nơi mà chủ lực quân của Svác-xen-be đã đến tập trung. Quân Liên minh điều động một khối 12
vạn 2 nghìn quân ở khoảng giữa Sô-mông và Ba Xuya Ô-bơ. Trong tay chỉ còn hơn 3 vạn quân, nhng Na
quyết tâm nghênh chiến, không lui. Trận Rô-ti-e đã diễn ra từ tinh mơ ngày 1 tháng 1, kéo dài đến 10 giờ.
Sau đó, Na vợt sông Ô-bơ không bị địch truy kích và tới Tơ-roay vào ngày 3 tháng 2. ở Rô-ti-e, quân Pháp
có thể tin rằng mình sắp thắng lợi hoàn toàn; thắng lợi của Na trong việc chống lại đợc những lợc lợng
đông gấp bốn, gấp năm lần thật vô cùng to lớn. Nhng không phải vì thế mà tình hình không còn cực kỳ
nguy hiểm, quân đội nhận đợc viện binh rất ít và rất chậm. Nây, Mắc-đô-nan, Béc-ti-ê, Mác-mông đều cho
rằng biện pháp duy nhất để cứu vãn ngai vàng là đàm phán hoà bình và khi hội nghị Sa-ti-ông bị thất bại thì
họ tỏ ra buồn bực. Nhng nghị lực của Na ngày càng lớn mạnh song song với sự hiểm nghèo. Ngay từ năm
1812, các thống chế đã nhận xét thấy ở Na có những biểu hiện trì trệ, mệt mỏi, hình nh thiên tài quân sự
của Na bị giảm sút. Nhng vào tháng 2 và tháng 3 năm 1814, các thống chế không còn tin vào con mắt của
mình nữa và thấy trớc mặt họ vẫn là tớng Bô-na-pác, ngời anh hùng trẻ tuổi ở ý và ở Ai Cập tựa hồ nh Na

đã trút bỏ đợc cái gánh nặng của 15 năm trị vì, 15 năm chiến tranh đẫm máu, 15 năm cai rị một cách độc
đoán cái đế quốc rộng lớn của ông và Châu Âu ch hầu. Na giữ vững tinh thần cho các thống chế và binh
lính, làm yên lòng cho các bộ trởng còn lại ở Pa-ri. Ngày 10 tháng 2, sau vài cuộc hành quân mau lẹ, Na
tiến công vào quân đoàn On-su-phi0ép đóng ở Săm-pô-be và đánh cho nó thất bại tan tành. Hơn 1 nghìn 5
năm trăm quân Nga bị giết chết, bị bắt làm tù binh chừng 3 nghìn, trong đo có cả viên tớng chỉ huy, số còn
lại bỏ chạy. Chiều tối, Na nói với các sĩ quan thân cận: "Nếu ngày mai a cũng gặp may măn nh hôm nay thì
15ngày nữa, ta sẽ đánh bật quân địch về đến sông Ranh, và từ sông Ranh đến sông Vi-xtuyn chỉ còn một b-
ớc chân". Ngày hôm sau, Na tiến từ Săm-pô-be về Mông-mi-ray, nơi quân Nga và quân Phổ đang trú quân.
Trận Mông-mi-ray diễn ra ngày 11 tháng 2, đã kết thúc bằng một thắng lợi mới và rực rỡ của Na. Trong số
2 vạn quân chiến đấu dới cờ của Liên minh thì họ bị tổn thất gần 8 nghìn ngời, còn Na mất cha đầy 1 nghìn
ngời. Quân Liên minh vội vã rút khỏi chiến trờng. hoàng đế lập tức tiến về Sa-tô Ti-e-ri, ở đó còn khoảng 1
vạn 8 nghìn quân Phổ và 1 vạn quân Nga. Sau này, Na nói là mình đã lại tìm thấy đôi hài trong chiến dịch
nớc ý. Những nhà bình luận quân sự đánh giá chiến dịch nớc Pháp năm 1814 nh một trong những chiến
dịch đặc sắc nhất của thiên hùng ca Na và là một chiến dịch trong đo thiên tài chiến lợng của hoàng đế đã
lên tới điểm tột cùng. Trận Sa-tô Ti-e-ri (ngày 12 tháng 2) là một chiến thắng mới của Na. Nếu Mắc-đo-nan
hành quân không mắc phải sai lầm và chậm trễ thì có lẽ quân Liên minh đã bị tiêu diệt. Ngày 13 tháng 2,
Bluy-khe đánh và đã đuổi lui đợc Mác-mông nhng ngày hôm sau, Na đến ứng cứu và đã đánh bại đợc
Bluy-khe ở Vô-săng. Trong trận này, tớng Phổ mất 9 nghìn quân. Tuy Na đã nhận thêm đợc viện binh và
quân Liên minh đã bị thua liền mấy trận nhng tình thế của hoàng đế vẫn nguy ngập vì lực lợng của quân
Liên minh đông gấp bội của Na. Nhng những chiến thắng bất ngờ và xảy ra hàng ngày đó đã gieo hoang
mang trong hàng ngũ quân đội Liên minh, đến nỗi Svác-xen-be, tổng chỉ huy quân Liên minh, ít nhất cũng
là trên danh nghĩa đã phải phái một trong những sĩ quan hầu cận đến tổng hành dinh của Na để đề nghị
hoãn binh. Hai trận đánh mới nữa ở Mooc-măng và ở Vin-lơ-nơ cũng lại đã kết thúc có lợi cho quân Pháp
và bức quân Liên minh phải tiến hành một cuộc hoãn binh bất ngờ. Na đã từ chối hội kiến riêng với bá tớc
Pa, phái viên của Svác-xen-be nhng đã nhận bức th của tớng áo và không trả lời ngay. "Ta đã bắt đợc từ 3
đến 4 vạn tù binh, ta đã thu đợc 2 nghìn cỗ pháo và bắt đợc rất nhiều tớng lĩnh". Na đã viết nh vậy cho Cô-
lanh-cua và tuyên bố rằng ông ta chỉ bằng lòng lập lại hoà bình với quân Liên minh với điều kiện là nớc
Pháp giữ nguyên đợc "các đờng biên giới thiên nhiên" (sông Ranh, dãy núi An-pơ, dãy núi Pi-rê-nê). Na từ
chối đình chiến. Ngày 18 tháng 2, một trận đánh mới lại diễn ra ở Mông-tơ-rô, ở đó quân Liên minh đã bị
đánh lui, bị thiệt hại 3 nghìn ngời vừa bị giết vừa bị thơng và 4 nghìn bị bắt làm tù binh. Theo lời của các

nhà quan sát và của các ký giả, ngay cả của bên đối phơng, thì trong chiến dịch năm 1814 dờng nh hoàn
toàn tuyệt vọng ấy, tài năng của Na đã trội hẳn lên. Song vì Na có ít quân quá, các thống chế (Vích-to, Ô-
giơ-rô) đã suy sụp đến cùng cực, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, nên đã làm cho Na không thể
khuyếch trơng tiệt để đợc những thắng lợi vừa rực rỡ vừa kỳ quan của ông. Na lóng nảy khiển trách, tức
giận la mắng các tớng tá của mình, thúc ép họ hành động: "Cái lý do mà ông đa ra nghèo nàn lắm, Ô-giơ-rô
ạ. Tôi đã tiêu diệt 8 vạn quân địch bằng những tiểu đoàn tân binh không có bạo dạn và vừa mới mặc quần
áo... Nếu sáu chục tuổi đời của ông đã đè nặng lên ông thì ông hãy thôi đi, đừng chỉ huy nữa". "Hoàng đế
nhất định không muốn hiểu rằng tất cả những ngời dới quyền của hoàng đế không phải là những Na", một
trong những tớng lĩnh của Na viết trong tập hồi ký nh vậy. Sau khi đã nhóm họp hội đồng quân sự. Svác-
xen-be thỉnh thị ý kiến hoàng đế A-lếch-xan, vua nớc Phổ, hoàng đế nớc áo, và ông đã quyết định đình
chiến vói Na một lần nữa. Để tiến hành việc này, ngời ta cử hoàng thân Lit-sơ-en-xrai, ngời đứng đầu một
trong những lệnh tộc có tiếng tăm của nớc áo, mang theo những đề nghị mới đến gặp Na. Hiển nhiên là
quân Liên minh rất lo lắng và một số trong bọn họ đã muốn giải quyết thật sớm công việc bằng cách ký
một điều ớc hoà giải. Na không từ chối tiếp nhận phái viên của Liên minh. Bằng những lời ẽ rất nhã nhặn,
Lít-sơ-en-xtai cam kết với Na rằng Liên minh thật sự mong muốn hoà bình và không muốn phục hng dòng
họ Buốc-bông. tuy nhiên, cuộc đàm thoại đã không mang lại kết quả gì. Với những thắng lợi rực rỡ đến cực
điểm, lúc bấy giờ Na cho rằng mình đã tiêu diệt đợc gân một nửa quân số của Liên minh (8 vạn trong số 20
vạn) nên ông đã ỷ vào u thế thuyệt đôi về thiên tài quân sự của mình, cái thiên tài 00ã giúp ông đánh một
kẻ địch vô cùng mạnh mẽ phải thất bại liên tiếp. Từ Pa-ri, Tan-lây-răng và đồng loã, từ lâu đã có những
mối liên lạc bí mật rất chặt chẽ với quân Liên minh để chuẩn bị cho dòng họ Buốc-bông trở lại. Đối với bọ
này, phe Liên minh giữ thái độ hết sức dè dặt và chính ngay kẻ thù không đội trời chung với Na, nh A-lếch-
xan chẳng hạn, lại ng để ông vua nhỏ thành Rôm lên ngôi, miễn là Na thoái vị . Nhng lúc này ngời ta không
bàn đến chuyện thoái vị nữa. Ngời ta biết rằng một tên quý tộc cũ ngời Pháp, nam tớc vùng Gu-hô, quê
quán ở Tơ-roay, đã gửi lên A-lếch-xan bản kiến nghị ủng hộ dòng họ Buốc-bông. A-lếch-xan trả lời là quân
Liên minh cha hề có quyết định gì về việc thay thế triều đại Na bằng triều đại Buốc-bông và khuyên những
kẻ ký kiến nghị (không phải chỉ có một mình Gu-ho) nên tránh những cuộc vận động nguy hiểm nh vậy.
Vài ngày sau khi Na tiến vào Tơ-roay thì Gu-hô bị bắt, bị đa ra toà án binh và bị xử bắn. Sau này, A-lếch-
xan lấy làm lạ rằng không hề thấy xuất hiện ở những vùng nông thôn nớc Pháp ý muốn lật đổ Na. Trái lại,
ở vùng núi Vốt-giơ, vùng Lo-ren, vùng núi Giuy-ra, chính nông dân đã bắt đầu tiến công vào những binh
lính Liên minh đi rớt lại sau, và biểu thị rõ rệt mối căm hờn đối với kẻ xâm lợc. Những sự việc ấy xảy ra

một phần là do nông dân phản ứng chống lại những vụ cớp bóc của quân Liên minh cũng nh vì họ lo sợ lại
phải chịu đựng dòng họ Buốc-bông đợc đa về bằng "những xe vân tải của nớc ngoài" và việc lập lại những
luật lệ phong kiến. Na đã nhanh chóng cảm thấy điều đó. "Cần phải dùng lại phơng pháp công kích và cách
giải quyết vấn đề trong năm 1793" của ông ta. Na viết nh vậy cho các thống chế. Nhng, mặc dầu thất bại,
quân Liên minh vẫn không ngã lòng. Rất nhiều quyền lợi bị đe doạ. Một loạt chiến thắng kỳ diệu, mà Na
liên tiếp thu đợc vào lúc tình thế Na dờng nh tuyệt vọng, đã dẫn họ đến chỗ lo âu tự hỏi rằng rồi đây sự tình
sẽ ra sao nếu con ngời ấy, con ngời mà từ lâu tất cả bọn họ đã phải coi là nhà chỉ huy lỗi lạc nhất của lịch
sử thế giới, vẫn còn ngồi trên ngai vàng, khôi phục đợc sức lực và hùng cờng trờ lại? Lúc ấy, một hoặc hai
năm nữa, ai sẽ là kẻ đi tới đích. Vào thợng tuần tháng 3, hoàng đế đã tập hợp đợc hơn 7 vạn 5 nghìn ngời;
ông tách ra 4 vạn quân để bám sát hoạt động của Svác-xen-be đang rút lui, còn lại 3 vạn 5 nghìn quân, Na
ném truy kích Bluy-khe. Viên quan cai trị khu Xoát-xông đã nộp thành phố cho Bluy-khe, chỉ nhờ sai lầm
ấy của Bluy-khe mới thoát khỏi bị tiêu diệt. 1. Tức là năm Pô-ná-pác chỉ huy quân đội cộng hoà anh dũng
đè bẹp cuộc nổi dậy của bọn bảo hoàng ở Yu-lông - ND. Nhng sau khi tránh khỏi bị bắt. Bluy-khe đã
không thể lẩn tránh giao chiến: ngày 7 tháng 3, Na đã đuổi kịp và đánh bại Bluy-khe ở Cra-on; sau khi bị
thất bại nặng nề, Bluy-khe chạy trốn vào La-ông; ở đó, Na đã cố sức để đánh bật Bluy-khe ra nh vô hiệu
(vào ngày 9, 10 tháng 3). Tuy vậy, ít lâu sau, hoàng đế cũng đuổi đợc Bluy-khe ra khỏi đấy, mặc dầu không
tiêu diệt gọn đợc nh đã dự định. U-đi-nô và Mắc-đo-nan, đợc hoàng đế giao cho 4 vạn quân để bám chắc
Svác-xen-be đã phải tháo chạy vào vùng Prô-vanh. Ngày 9 tháng 3, đại diện của các cờng quốc Liên minh
đã ký ở Sô-mông một giao ớc cùng nhau cam kết trớc hết là sẽ buộc Na phải thu nớc Pháp trở về những đ-
ờng biên giới nh trớc năm 1792, giải phóng hoàn toàn nớc Hà Lan, nớc ý, nớc Tây Ban Nha, nớc Thuỵ Sĩ,
tất cả các quốc gia Đức, và sẽ không xếp khí giới chừng nào mục đích trên còn cha thực hiện đợc; ngoài ra,
nớc Nga, nớc Phổ và nớc áo cam kết mỗi nớc sẽ cung cấp 15 vạn quân, còn nớc Anh cung cấp quân Liên
minh mỗi năm một khoản viện trợ là5 triệu đồng bảng Anh trong suốt thời gian chiến tranh. Quân Liên
minh cũng không thể phỏng đoán đợc đến bao giờ và làm thế nào để bẻ gãy đợc sự kháng cự tuyệt vọng
của Na, ngời mà hiện nay cũng nh trớc đây không bao giờ muốn nghe nói đến biên giới cũ. Trong thời gian
này, các thống chế của Na gặp hết rủi ro này đến rủi ro khác. ở phía nam, quân đội Anh của Oen-linh-tơn
tiến về Booc-đô, sau khi đã đánh lui đợc các thống chế Xun và Xuy-sê. Khuyếch trơng chiến quả. Svác-
xen-be tiếp tục đánh Mắc-đô-nan và U-đi-nô. Không để cho quân đội và chính mình có thời gian nghỉ ngơi
sau trận La-ông. Na lao vào đánh quân đoàn Nga, Phổ đang chiếm đóng ở Rem của viên tớng công tớc
Xanh Pri, một kẻ lu vong ngời Pháp chạy sang phục vụ nớc Nga. Trận Rem (ngày 13 tháng 3) đã kết thúc

bằng cuộc chạy dài của quân Liên minh, với một nửa số quân bị mất và Xanh Pri chết trận. Nhng những
chiến thắng mới ấy không thể làm thay đổi gì tình thế, vì quân Liên minh đã kiên quyết không nhân nhợng,
và Na cũng kiên quyết không chấp nhận những điều kiện của phe Liên minh và thà mất hết, kể cả ngai
vàng, còn hơn chịu để đế quốc phải thu hẹp lại trong những đờng biên giới cũ. Khi Cô-lanh-cua, theo lệnh
của Na, tuyên bố với các đại biểu Anh, Nga, Phổ và áo họp ở hội nghị Sa-ti-ông rằng Na dứt khoát gạt bỏ
những đề nghị của họ, và đòi tả ngạn sông Ranh cùng với Cô-lô-nhơ và May-ăng, Ăng-ve và Phlăng-đrơ,
Xa-voa và Ni-xơ vẫn nằm trong biên giới của đế quốc nh trớc đây, thì cuộc đàm phán cũng bị tan vỡ. Vợt
qua phòng tuyến của Na và các vị trí tiền tiêu của quân Nga, bá tớc Vi-tơ-ron, tay sai của buyên Buốc-bông
và mật phái của Tan-lây-răng, đã từ Pa-ri đến bản doanh của quân Liên minh ngày 17 tháng 3 và đợc A-
lếch-xan tiếp đón ngay. Y đem đến cho A-lêch-xan tin tức và ý kiến của Tan-lây-răng cho rằng quân Liên
minh phải tiến gấp về Pa-ri chứ không nên đuổi theo Na; Vi-tơ-ron còn nói chắc rằng ở Pa-ri ngời ta đang
chờ quân Liên minh, và khi họ tới, ngời ta có thể sẽ tuyên bố ngay sự truất ngôi hoàng đế của Na và sự lên
ngôi của Lu-i XVIII (nh lâu nay bá tớc xứ Prô-văng vẫn tự xng) để phục hng dòng họ Buốc-bông). Nhng
Vi-tơ-ron đã hoảng hốt rụng rời khi phát hiện đợc rằng mặc dầu A-lếch-xan rất mong muốn Na sụp đổ,
song lại cho rằng quân Liên minh tuyệt đối không nên can thiệp vào sự lựa chọn ngời kế nghiệp Na, và Nga
hoàng lại đã coi nền cộng hoà nh một giải pháp tốt đẹp. Vi-tơ-ron không còn tin ở hai tai của hắn nữa. "Lạy
chúa, rồi chúng ta sẽ đi đến đâu?". Vi-tơ-ron thốt lên nh vậy khi báo cáo lại cuộc gặp gỡ. Hình nh A-lếch-
xan đã bị cái thực tế sau đây đập mạnh vào óc: những sự phản kháng ở Pháp bắt đầu mang tính chất một
cuộc kháng chiến của nớc Pháp sau Cách mạng chống lại quân đội nớc ngoài kéo vào để lập lại chế độ xã
hội cũ và phục hng dòng họ Buốc-bông, và hình nh hiểu rằng tình thế này sẽ củng cố vị trí của Na đến mức
nào, một con ngời luôn luôn đáng sợ và luôn luôn chiến thắng, nên A-lếch-xan đã không muốn đặt nớc
Pháp, và nhất là "đám dân đen" của nớc Pháp đứng trớc hai con đờng: Na hay là bọn Buốc-bông. A-lếch-
xan đã đặt họ đứng trớc hai con đờng khác: Na hay chế độ cộng hoà. Đó là một mánh lới tinh vi, nhng khối
óc chật chội của kẻ nịnh thần chính thống và tên lu vong Vi-tơ-ron không thể nào hiểu đợc điều đó nên hắn
đã sững sờ kinh ngạc ki phát hiện ra cái chủ nghĩa Cộng hoà Pháp của Sa hoàng của toàn thể các quốc gia
Nga. A-lếch-xan luôn luôn xác định rằng bọn Buốc-bông và những tên Vi-tơ-ron tuyệt chẳng hiểu chút gì
về tình trạng t tởng ở Pháp, nhng ông ta cũng chú ý đến lời khuyên của Tan-lây-răng do Vi-tơ-ron đem lại
cùng lúc với một bức th không ký tên và cố ý viết ngoằn ngoèo nh một ngời tập viết. Sợ bị mất đầu, vì Vi-
tơ-ron có thể bị cảnh binh của Na bắt dữ ở dọc đờng, và mặc dầu chữ viết khác đi và sai văn phạm, cảnh
binh vẫn có thể truy ra đợc, nên Tan-lây-răng đã khẩn khoản khuyên A-lếch-xan và phe Liên minh tiến

quân về Pa-ri, dù có phải bỏ Na còn cha bị đánh quỵ và ở hai bên sờn. Nguy cơ không phải từ trong bản
chất của tên phản bội quỷ quyệt Tan-lây-răng mà ra, song lại ở chỗ hắn đã hoàn toàn biết rõ tình trạng dao
động và hoang mang đang bao trùm lên Pa-ri, từ dân chúng đến quân đội. Ngày 20 tháng 3, trận ác-xít-xuya
Ô-bơ đã diễn ra giữa Na lúc đó ở gần 3 vạn quân với quân Liên minh do Svác-xen-be chỉ huy lúc đầu giao
chiến có ngót 11 vạn quân và sau này cuối trận đánh đã điều động tới gần 9 vạn. Mặc dầu Na đã giành phần
thắng và thực tế đã đánh lui đợc quân địch trên nhiều điểm, nhng kết quả trận đánh vẫn cha rõ rệt: Na
không truy kích Svác-xen-be, đã vợt qua sông Ô-bơ và phá cầu. Trong trận này, Na mất 3 nghìn ngời, quân
Liên minh mất 9 nghìn, nhng cả lần này nữa, Na đã không thể tiêu diệt đợc quân Liên minh. Quân Liên
minh kinh sợ một cuộc chiến đấu dân tộc, một cuộc dấy lên của toàn dân Pháp nh cuộc chiến tranh trong
thời kỳ Cách mạng anh hùng đã cứu nớc Pháp thoát khỏi cuộc xâm lợc của nớc ngoài và sự phục hng của
triều đại Buốc-bông... Nhng A-lếch-xan, Phri-đrích, Vin-hen, Phran-xơ, Svác-xen-be và Mét-te-ních hẳn sẽ
yên tâm nếu họ đợc nghe câu chuyện giữa Na và tớng Xê-bát-xti-a-ni sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ. "Này, tớng
quân, tình hình này tớng quân bảo sao?". "Hạ thần cho rằng chắc hẳn hoàng thợng còn nhiều nguồn dự trữ
khác mà hạ thần không biết tới". "Chỉ có thế thôi đấy, chẳng còn gì nữa đâu". "Vậy sao hoàng thợng không
nghĩ đến việc kích động quốc dân đứng lên". "ảo tởng, thật là ảo tởng nếu vay mợn kinh nghiệm của cuộc
chiến tranh Tay Ban Nha và của cuộc Cách mạng Pháp, nếu kích động nhân dân của cái nớc mà cách mạng
đã thủ tiêu bọn quyền quý và bọ tăng lữ, mà chính bản thân tôi thì lại là thủ tiêu cách mạng. Na đã thấu suốt
sự thể: đã thừa sức kiên trì trong việc thủ tiêu. Mọi dấu tích của cách mạng, thì bây giờ đây, trong cuộc
chiến đấu sống mái để giữ lấy Pa-ri này, dẫu cho Na có muốn chăng nữa cũng không thể kêu gọi đợc sự
giúp đỡ của cuộc Cách mạng Pháp mà trớc kia ông ta đã chà đạp và bóp nghẹt đợc. Cuộc nói chuyện trên
đây giữa Na và tớng Xê-bát-xti-a-ni xảy ra ba ngày sau cuộc hội đàm giữa A-lếch-xan và Vi-tơ-ron: Na coi
việc động viên quần chúng đông đảo nổi dậy với tinh thần, khí thế nh năm 1792 - mà kết thúc là sự tuyên
bố thành lập nền cộng hoà - là ảo tởng; còn nh A-lếch-xan, kẻ thù không đội trời chung của Na, thì đúng là
đang muốn tớc bỏ mọi chỗ dựa của Na ở trong nhân dân Pháp bằng cách khơi động, vẽ ra trớc mắt họ sự
phục hng chế độ cộng hoà. III Sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ, Na định đánh vào hậu phơng của quân địch để cắt
đứt liên lạc của họ với sông Ranh, nhng quân Liên minh đã quyết tâm tiến thẳng về Pa-ri. Những bức th
của hoàng hậu Ma-ri Lu-i-dơ và của bộ trởng Bộ công an Xa-va-ri viết cho Na, bị quân Cô-dắc chặn bắt đ-
ợc, đã làm cho. A-lếch-xan tin chắc rằng ở Pa-ri ngời ta không hy vọng gì vào cuộc kháng toàn dân và nếu
quân Liên minh vào đợc thủ đô thì sẽ kết thúc đợc chiến tranh, sẽ quyết định luôn cả sự sụp đổ của Na.
Quân Liên minh đi đợc đến bớc quyết định ấy là nhờ có Pốt-dô đi Boóc-gô, ngời đảo Coóc; Boóc-gô là kẻ

vốn có mối thù với Na từ lâu, và chính vì thế nên đã đợc A-lếch-xan tin cậy. Sau trận ác-xit-xuya Ô-bơ, khi
quân Liên minh đợc tin là Na định cắt đờng liên lạc của họ, thì Boóc-gô tuyên bố: "Mục tiêu của chiến
tranh là ở Pải. Chừng nào các ngài còn nghĩ đến giao chiến thì các ngài còn bị đánh bại, vì bao giờ Na cũng
nghênh chiến hơn các ngài, và vi binh lính của Na, mặc dầu bất mãn nhng do danh dự thôi thúc, họ sẽ hy
sinh đến ngời cuối cùng ở bên cạnh Na. Dẫu quyền lực quân sự của Na có bị phá tan, Na vẫn vĩ đại, rất vĩ
đại nữa kia, và dẫu thiên tài của Na có bị đánh đổ, song vẫn vĩ đại hơn các ngài. Nhng quyền lực chính trị
của Na thì đã bị thủ tiêu. Thời thế đã thay đổi. Nền chuyên chế quân sự đợc thừa nhận là một công lao sau

×