Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng việt.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 100 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU HÀ








CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT






LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ










Thái Nguyên - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU HÀ







CÁCH BIỂU HIỆN MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT


Chuyên ngành: Lí luận ngôn ngữ
Mã số: 60. 22. 01




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Văn Lộc




Thái Nguyên - 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Văn Lộc, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện luận văn này.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo trong Viện Ngôn ngữ học, các
thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Khoa
Sau đại học Trường ĐHSP Thái Nguyên đã giảng dạy trong khoá học và tạo
điều kiện, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.

Em xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Hội đồng đã
nhận xét, góp ý để luận văn được hoàn thiện hơn.

Thái Nguyên, tháng 09 năm 2008

Tác giả luận văn



Nguyễn Thị Thu Hà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT

N danh từ, ngữ danh từ, đại từ
V vị từ, ngữ vị từ
SP cụm chủ vị
Dấu (+) chỉ ra tính hiện thực của cấu trúc
Dấu (-) chỉ ra tính không hiện thực của cấu trúc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 7
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 7
4.1. Đối tượng nghiên cứu
7
4.2. Phạm vi nghiên cứu
7
4.3. Nguồn ngữ liệu
8
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Cái mới và những đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn 9

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

1.1. Quan hệ ngữ nghĩa 11
1.1.1. Định nghĩa
11
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa
15
1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu
15
1.2. Quan hệ cú pháp 16
1.2.1. Định nghĩa
16
1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp
17
1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu
18
1.3. Sự tƣơng ứng giữa quan hệ ngữ nghĩa - quan hệ cú pháp 22
1.4. Một số khái niệm có liên quan khác 24
1.4.1. Khái niệm quan hệ từ
24
1.4.2. Khái niệm động từ quan hệ
27
1.4.3. Khái niệm kết trị và kết trị của động từ tiếng Việt
27
1.5. Tiểu kết 30




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

CHƢƠNG 2: CÁC PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
MỐI QUAN HỆ NHÂN QUẢ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
2.1. Nhận xét chung

31
2.2. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng quan hệ từ 32
2.2.1. Thành tố chỉ nguyên nhân
32
2.2.2. Thành tố chỉ kết quả
47
2.3. Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng động từ quan hệ 54
2.3.1. Bản chất của các động từ quan hệ làm, khiến
54
2.3.2. Đặc điểm của các động từ quan hệ làm, khiến trong cấu trúc nhân quả
59
2.4. Tiểu kết 70
CHƢƠNG 3: VẤN ĐỀ PHÂN TÍCH NGỮ PHÁP
KIỂU CÂU CÓ Ý NGHĨA NHÂN QUẢ ĐƢỢC BIỂU HIỆN
BẰNG QUAN HỆ TỪ VÀ ĐỘNG TỪ QUAN HỆ

3.1. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc
biểu hiện bằng quan hệ từ

71
3.1.1. Các ý kiến khác nhau về cách phân tích kiểu câu này
71
3.1.2. Ý kiến trao đổi về cách phân tích kiểu câu này
79
3.2. Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc
biểu hiện bằng động từ quan hệ


86
3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu về cách phân tích kiểu câu này
86
3.2.2. Ý kiến trao đổi đề xuất
88
3.3. Tiểu kết 90
KẾT LUẬN 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN 98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp và công cụ tƣ duy của con
ngƣời. Nếu tƣ duy có tính chất chung cho nhân loại thì ngôn ngữ lại mang
đậm dấu ấn dân tộc. Việc tìm hiểu cách biểu hiện bằng phƣơng tiện ngôn ngữ
những nội dung tƣ duy nhất định có ý nghĩa không chỉ đối với việc học tập,
nghiên cứu ngôn ngữ mà còn có ý nghĩa đối với việc khám phá đặc điểm tƣ
duy của mỗi dân tộc.
1.2. Một nội dung tƣ duy có thể có nhiều hình thức biểu đạt bằng ngôn
ngữ. Quan hệ nhân quả là một trong những quan hệ rất phổ biến thuộc về tƣ
duy. Nó tồn tại ở tầng nghĩa sâu và đƣợc biểu hiện bằng các phƣơng tiện ngôn
ngữ. Nghiên cứu mối quan hệ này, đặc biệt là cách biểu hiện của nó trong câu
tiếng Việt giúp ta thấy đƣợc nét đặc thù trong cách biểu hiện mối quan hệ
nhân quả trong tiếng Việt và mối tƣơng quan giữa mặt hình thức và mặt nội
dung trong tiếng Việt nói riêng và trong ngôn ngữ nói chung.
1.3. Việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nguyên nhân kết quả
trong câu tiếng Việt có ý nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Về lí luận, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong

câu tiếng Việt góp phần làm rõ những vấn đề quan trọng nhƣ quan hệ ngữ
nghĩa, quan hệ ngữ pháp, nghĩa sâu và nghĩa cú pháp, cách biểu hiện một nội
dung quan hệ ngữ nghĩa bằng các phƣơng tiện ngôn ngữ khác nhau trong một
ngôn ngữ cụ thể.
Về thực tiễn, những kết quả của việc nghiên cứu cách biểu hiện mối
quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt có thể đƣợc sử dụng vào việc biên soạn
giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy - học ngữ pháp tiếng Việt, góp
phần nâng cao chất lƣợng dạy học.
1.4. Mặc dù mối quan hệ nguyên nhân kết quả là kiểu quan hệ rất phổ
biến, có vai trò quan trọng và việc nghiên cứu nó cần thiết và có ý nghĩa nhƣ
vậy nhƣng đến nay, việc nghiên cứu cách biểu hiện mối quan hệ này trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
câu tiếng Việt chƣa đƣợc các nhà Việt ngữ học thực sự quan tâm. Có thể nói,
đến nay, vẫn chƣa có công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về
quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt.
Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài Cách biểu
hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Khi nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, các nhà nghiên cứu nhƣ
Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, nhóm tác giả thuộc Ủy ban Khoa học
Xã hội, Đinh Văn Đức, Diệp Quang Ban… ít nhiều có quan tâm đến mối
quan hệ này. Nhƣng phần lớn trong số họ mới dành một mục trong các
chuyên luận ngữ pháp để nói về quan hệ nguyên nhân kết quả, và thƣờng chỉ
đề cập đến một cách khái quát.
2.1. Trong cuốn Ngữ pháp tiếngViệt hiện đại, Hữu Quỳnh đã tiến hành
miêu tả và phân loại các động từ biểu thị mối quan hệ nhân quả, xếp động từ
nhân quả vào nhóm động từ gây khiến. Theo định nghĩa của ông, “động từ
gây khiến giống nhƣ động từ ngoại hƣớng, hoạt động của nó chi phối hoặc
hƣớng vào đối tƣợng nhƣng với ý nghĩa khuyên bảo, cho phép hay ngăn cản
hành động của đối tƣợng”. Động từ gây khiến thƣờng đòi hỏi hai thành tố

phụ: một là danh từ, một là động từ và có khi hai thành tố phụ tạo nên cụm
chủ - vị. Các động từ gây khiến trong danh sách của Hữu Quỳnh, gồm có: để
(cho), khiến (cho), làm (cho), bắt, bắt buộc, cản trở, cho phép, cưỡng bức,
cưỡng ép, dắt, dẫn, dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm, giúp đỡ… [26, 70].
Hữu Quỳnh cũng tiến hành phân loại quan hệ từ mà ông gọi là từ nối.
Từ nối đƣợc ông định nghĩa nhƣ sau: “Từ nối là những từ chỉ các quan hệ ngữ
pháp chuyên dùng để nối các thành phần câu hay các thành tố trong cụm từ”.
Theo đó, những từ nối đƣợc ông phân chia thành hai nhóm: từ nối chính phụ
và từ nối liên hợp. Những từ vì, do, bởi, tại, nhờ đƣợc xếp vào nhóm từ nối
chính phụ, bởi “chúng biểu thị ý nghĩa nguyên nhân dùng trong cụm từ chính
phụ”.[26, 88 - 92]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ví dụ:
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình.(Nguyễn Du)
Vì chàng thiếp phải đi chăng về mò. (Ca dao)
Nhƣ vậy, Hữu Quỳnh mới chỉ dừng lại ở việc miêu tả và phân loại sơ
bộ các động từ biểu thị quan hệ nhân quả và các quan hệ từ nhân quả mà chƣa
có điều kiện miêu tả kĩ hơn theo các nhóm. Việc tác giả xếp làm, khiến vào
cùng nhóm với bắt, mời, cấm là sự nhầm lẫn.
2.2. Các tác giả thuộc Uỷ ban khoa học xã hội trong cuốn Ngữ pháp
tiếng Việt đã phân loại, miêu tả một cách cụ thể cấu tạo của câu ghép, trong
đó, câu ghép đƣợc chia thành câu ghép song song và câu ghép qua lại.
Theo các tác giả, “đặc điểm quan trọng của nòng cốt - nòng cốt đơn hay
nòng cốt ghép - là khả năng độc lập về ngữ pháp, tức là khả năng làm thành
câu - câu đơn hay câu ghép. Khi đứng độc lập làm thành phần câu, nòng cốt
đơn có vai trò biểu thị một quá trình tƣ duy và thông báo hoàn chỉnh”. [46, 217]
Ví dụ:
Con chăm học. Mẹ rất vui lòng.
Để làm thành một câu ghép, các tác giả đã sử dụng phƣơng tiện dẫn nối
là cặp quan hệ từ vì… nên biểu thị mối quan hệ nhân quả để chuyển câu đơn

thành câu ghép qua lại.
Ví dụ:
Vì con chăm học nên mẹ rất vui lòng.
Không những thế, nhóm tác giả này đã đƣa ra phƣơng án sử dụng nòng
cốt làm thành phần trong cấu tạo của câu đơn hoặc thành phần động ngữ
chứa động từ ngoại động có nghĩa gây khiến:
Ví dụ:
Con chăm học làm cho mẹ rất vui lòng.
Anh thành công khiến em rất vui lòng.
Trong trƣờng hợp này, nòng cốt câu đơn cũng có giá trị tƣơng đƣơng
với danh ngữ và cũng có những cách diễn đạt nhƣ:
Việc anh thành công khiến em rất vui mừng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Anh thành công, điều đó khiến em rất vui mừng.
Trong công trình này, các quan hệ từ đƣợc các tác giả gọi là kết từ. Kết
từ đƣợc chia thành những tiểu loại chính sau đây: a) “Kết từ chính phụ” tức là
kết từ biểu thị quan hệ chính phụ. Đó là những kết từ nhƣ: do, của, để, bởi,
bởi vì, tại, tại vì, mà, từ, đối với… b) “Kết từ liên hợp” tức là kết từ biểu thị
quan hệ liên hợp. Đó là những từ nhƣ: và, với, hay, hoặc, cùng, những, song,
thì… và những từ có thể dùng thành cặp như: nếu… thì, tuy… nhưng, vì… cho
nên, không những… mà còn, càng… càng, vừa… vừa” [45, 91].
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng các tác giả chƣa phân loại, phân tích, miêu tả
động từ biểu thị quan hệ nhân quả và quan hệ từ nhân quả một cách cụ thể,
mà mới chỉ đề cập đến một cách khái quát.
2.3. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Câu, Hoàng Trọng Phiến đã đề
cập đến các khía cạnh biểu hiện của động từ nhân quả và quan hệ từ nhân quả.
Đồng thời, ông đã tiến hành phân loại quan hệ từ khá cụ thể thành các nhóm.
Tác giả đã xếp những câu có chứa động từ khiến vào nhóm câu trung
gian giữa câu đơn và câu ghép, ông gọi đó là sự phức tạp hoá câu đơn, hay
còn gọi là kiểu câu móc xích. Kiểu câu này có mô hình tƣơng ứng nhƣ sau:

D
1
Đ
1
D
2
Đ
2.
Ví dụ:
Công việc này khiến chúng tôi lo lắng.
Toàn bộ câu là một chuỗi các yếu tố móc xích nhau và chia thành hai
bậc: khiến - chúng tôi và chúng tôi - lo lắng. [24, 189]
Theo Hoàng Trọng Phiến, kết cấu móc xích có thể có giới từ cho, để
cho… tuy nhiên, yếu tố giới từ không có vai trò quyết định đối với kết cấu
móc xích.
Ví dụ:
Công việc này khiến cho tôi lo lắng.
Việc ra đi của nó khiến cho tôi lƣu luyến.
Các loại câu nhân quả đƣợc tác giả chia thành 19 nhóm tƣơng ứng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tuy tác giả đã chia các loại câu nhân quả thành các nhóm nhƣng lại
chƣa có điều kiện miêu tả kỹ các cấu trúc nhân quả.
2.4. Tác giả Lê Biên trong cuốn Từ loại tiếng Việt hiện đại, coi “động
từ gây khiến là những động từ chỉ vận động có tác động gây khiến, chi phối
hoạt động của đối tƣợng” [2, 79].
Theo ông, động từ gây khiến đòi hỏi phải có hai bổ ngữ: bổ ngữ thứ
nhất (A1) là đối tƣợng chịu tác động của động từ gây khiến, thƣờng là danh từ
và có thể là đại từ xƣng hô; bổ ngữ thứ hai (A2) là bổ ngữ nội dung do hành
động của chủ thể (động từ gây khiến) chi phối, tác động gây ra ở đối tƣợng, vì
vậy, bổ ngữ chỉ nội dung thƣờng là động từ, tính từ (hoặc một ngữ động từ,

ngữ tính từ…).
Sơ đồ cấu trúc của động từ gây khiến là:
A - V - A1 - A2
Ví dụ:
Con học giỏi khiến cho cha mẹ vui lòng.
Trời mƣa làm cho cây cối xanh tƣơi.
Hai bổ ngữ (A
1
, A
2
) đều bị chi phối của động từ gây khiến nhƣng
chúng vẫn có quan hệ với nhau. Nếu tách A
1
- A
2
ra thì đó là một kết cấu chủ -
vị có nội dung thông báo, miêu tả hoàn chỉnh, ví dụ: cha mẹ vui lòng, cây cối
xanh tươi. Nhƣ vậy, theo quan điểm của Lê Biên, 2 bổ ngữ của động từ gây
khiến nếu tách riêng ra có thể tạo thành một cụm chủ vị.
Những động từ gây khiến theo Lê Biên gồm: sai, bảo, đề nghị, yêu cầu,
cho, cho phép, khuyên, cấm, ngăn cản, khiến (cho), làm (cho), làm…
2.5. Trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt, Diệp Quang Ban đã chia động từ
tiếng Việt thành hai lớp: lớp động từ độc lập và lớp động từ không độc lập.
Lớp động từ độc lập là “những động từ biểu thị ý nghĩa quá trình (hành
động hoặc trạng thái). Ý nghĩa quá trình có thể nhận thức đƣợc tƣơng đối rõ,
ngay cả trong trƣờng hợp động từ không có từ khác đi kèm để bổ nghĩa” [1, 96].
Lớp động từ độc lập đƣợc phân chia thành một số nhóm nhỏ, dựa theo
“khả năng kết hợp đƣợc của động từ với một số nhóm phụ từ nhất định và khả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
năng chi phối của động từ đối với những thực từ hay kết hợp từ đi kèm cho

tính chuyên môn” [1, 96]. Động từ quan hệ đƣợc tác giả xếp vào nhóm thứ
hai, tức là nhóm động từ có thực từ đi kèm biểu thị đối tƣợng sai khiến và nội
dung sai khiến. Những động từ này có tên gọi chung là động từ khiên động
thuộc lớp động từ ngoại động.
Những động từ khiên động gồm có: nhờ, bảo, cử, bắt, khiến, yêu cầu…
Ví dụ:
Công an huyện yêu cầu bộ phận hình sự của công an tỉnh trợ giúp xác
minh. (Cao Duy Thảo)
Một hôm hợp tác xã họp cử Keng đánh một chiếc xe bò lên huyện chở
phốt phát về. (Nguyễn Kiên)
2.6. Nguyễn Kim Thản trong cuốn Động từ trong tiếng Việt, xếp làm,
khiến vào nhóm “động từ gây khiến”. Theo ông, “động từ gây khiến biểu thị
hoạt động thúc đẩy, cho phép, giúp đỡ hay cản trở sự thực hiện của những
hoạt động khác” [28]. Đặc điểm ngữ pháp của động từ gây khiến đƣợc ông
xếp vào bốn cấu trúc chính và hai cấu trúc đƣợc cải biến dƣới dạng thức rút gọn.
Những động từ gây khiến theo Nguyễn Kim Thản gồm: bảo, bắt buộc,
buộc, bắt, cản trở, cho phép, cổ vũ, cưỡng bức, cưỡng ép, dạy, dắt, dẫn dắt,
dìu dắt, đề nghị, đòi hỏi, cấm giục, gọi, giúp đỡ, hướng dẫn, hô hào, kêu gọi,
khuyên nài, ép, sai, thuyết phục, yêu cầu…
Tóm lại, qua các công trình hiện có, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc
phân loại kho từ vựng nói chung và phân loại động từ, quan hệ từ nói riêng
thành các loại, nhóm, tiểu nhóm. Mối quan hệ nhân quả cũng đƣợc các tác giả
đề cập đến qua việc phân tích nhóm từ (ngữ) với thành tố phụ chỉ nguyên
nhân và câu ghép nhân quả. Song tính chất của mối quan hệ nhân quả và cách
biểu hiện của nó là lĩnh vực nghiên cứu mới chỉ đƣợc đề cập khái quát.
Điều đáng chú ý là phần lớn các tác giả có đề cập đến các động từ quan
hệ làm, khiến đều nhầm lẫn các động từ này với động từ cầu khiến (bắt, bảo,
cấm, mời, khuyên…)
3. Mục đích nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ bản chất của mối quan hệ
nhân quả với tư cách là một kiểu quan hệ ngữ nghĩa, phân biệt nó với quan hệ
cú pháp; trên cơ sở đó, tìm hiểu phương thức biểu hiện mối quan hệ nhân quả
trong câu tiếng Việt, qua đó, giúp người dạy, người học ngữ pháp tiếng Việt
nắm vững, sử dụng tốt quan hệ từ nhân quả và động từ quan hệ biểu thị mối
quan hệ nhân quả trong giảng dạy và học tập ngữ pháp tiếng Việt.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là cách biểu hiện mối quan hệ nhân
quả trong câu tiếng Việt hiện đại.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung vào 2 phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả:
- Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện ngữ pháp
(bằng quan hệ từ)
- Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng phƣơng tiện từ vựng - ngữ
pháp (bằng động từ quan hệ)
4.3. Nguồn ngữ liệu
Chúng tôi có khoảng 2000 phiếu tƣ liệu ghi các câu có ý nghĩa nhân
quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ rút ra từ sách giáo
khoa ngữ văn phổ thông, từ báo chí và các tác phẩm văn học bằng tiếng Việt
(hầu hết là các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo đƣợc chúng tôi sử dụng trong luận
văn là phương pháp miêu tả.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp, thủ pháp nghiên cứu
sau đây:
Phương pháp thống kê, phân loại đƣợc chúng tôi áp dụng để thu thập,
xử lí các câu có sử dụng quan hệ từ và động từ quan hệ biểu thị quan hệ nhân quả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phương pháp đối chiếu, so sánh đƣợc chúng tôi sử dụng để làm nổi

bật những nét tƣơng đồng và khác biệt của các quan hệ, các hiện tƣợng ngữ
nghĩa và ngữ pháp liên quan đến cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả.
Luận văn cũng sử dụng các thủ pháp thử nghiệm nhƣ bổ sung, lƣợc
bỏ, thay thế, cải biến và mô hình hóa để hạn chế sự cảm tính, chủ quan trong
miêu tả các hiện tƣợng ngữ nghĩa, ngữ pháp và để hỗ trợ làm tăng hiệu quả
của các phƣơng pháp trên.
6. Cái mới và những đóng góp của luận văn
Với luận văn này, có thể nói lần đầu tiên, cách biểu hiện mối quan hệ
nhân quả trong câu tiếng Việt đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống và mang
tính chuyên sâu. Qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp
chính sau đây:
- Tổng kết (có nhận xét, đánh giá) một cách tƣơng đối có hệ thống ý
kiến của các nhà nghiên cứu về cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả bằng
quan hệ từ và động từ quan hệ.
- Phân tích, miêu tả làm rõ phƣơng thức biểu hiện mối quan hệ nhân
quả trong câu tiếng Việt bằng quan hệ từ, đặc điểm, tính chất của mối quan hệ
cú pháp giữa bộ phận chỉ nguyên nhân và bộ phận chỉ kết quả trong câu có ý
nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng quan hệ từ.
- Phân tích, miêu tả, làm rõ phƣơng thức biểu hiện quan hệ nhân quả
bằng động từ quan hệ, làm rõ đặc tính ý nghĩa và ngữ pháp (thuộc tính kết trị)
của các động từ quan hệ làm, khiến và tính chất ngữ pháp của kiểu câu có các
động từ này làm vị ngữ.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chƣơng này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản làm cơ sở cho việc
nghiên cứu đề tài. Đó là những vấn đề khái quát về quan hệ ngữ nghĩa, quan
hệ cú pháp và một số khái niệm khác có liên quan đến việc nghiên cứu đề tài.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chương 2: Cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả trong câu tiếng Việt

Chƣơng này phân tích, miêu tả cách biểu hiện mối quan hệ nhân quả
bằng phƣơng tiện ngữ pháp (bằng quan hệ từ nhân quả) và bằng phƣơng tiện
từ vựng - ngữ pháp (bằng các động từ quan hệ làm, khiến).
Chương 3: Vấn đề phân tích ngữ pháp kiểu câu có ý nghĩa nhân quả
được biểu hiện bằng quan hệ từ và động từ quan hệ
Chƣơng này đề cập đến các nguyên tắc và các thủ pháp xác định thành
phần câu, khả năng chuyển đổi câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng
quan hệ từ thành câu có ý nghĩa nhân quả đƣợc biểu hiện bằng động từ quan
hệ (làm, khiến) và ngƣợc lại; đồng thời phân tích, định loại về mặt cấu trúc
cho câu nhân quả tiếng Việt.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Quan hệ ngữ nghĩa
1.1.1. Định nghĩa
Trong cuốn Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Wallace L. Chafe coi
cấu trúc ngữ nghĩa là cấu trúc được tạo xung quanh động từ trung tâm kèm
với các danh từ có quan hệ với nó theo một số hướng. Nhƣ vậy, cấu trúc ngữ
nghĩa chính là quan hệ danh - động. [47, 19]
Trong cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, nhóm tác giả
cho rằng: “Quan hệ ngữ nghĩa là mối liên hệ (tƣơng quan) từ vựng - ngữ cú
giữa các bộ phận của phát ngôn”. [48, 239]
Tác giả Trần Ngọc Thêm cho rằng quan hệ ngữ nghĩa có 2 loại:
“Quan hệ ngữ nghĩa bậc một, mang tính khái quát cao đƣợc nhiều khoa
học (ngôn ngữ học, triết học, toán học, logic học) quan tâm, nhƣ: quan hệ thứ
tự, quan hệ bao hàm, quan hệ tƣơng tự, quan hệ đồng nhất, quan hệ mâu
thuẫn” [44, 314].
“Quan hệ ngữ nghĩa bậc hai, làm nhiệm vụ cụ thể hoá cho các quan hệ

bậc một. Chẳng hạn, quan hệ thứ tự đƣợc cụ thể hoá thành các quan hệ: định
vị thời gian, trình tự diễn đạt, nhân quả v.v… Quan hệ bao hàm đƣợc cụ thể
hoá thành các quan hệ: giống loài, chung riêng, sở hữu, đặc trƣng…” [44, 314].
Dƣơng Hữu Biên lại coi “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là một trong
hai dạng quan hệ cơ bản giữa một vị từ và các đối tố của nó”. Theo đó, tác giả
cũng xác định “quan hệ ngữ nghĩa - chức năng là quan trọng bởi nó chiếm giữ
đƣợc cấu trúc cơ bản và nền tảng về các biến cố, sự kiện; đồng thời, nó có
một sự phong phú và đa dạng về tên gọi trong nhiều lí thuyết khác nhau nhƣ
vai nghĩa, vai cách, vai ngữ nghĩa cách, quan hệ chủ đề…”
Theo tác giả, “các quan hệ chủ đề miêu tả chức năng ngữ nghĩa học của
một đối tố với việc quan tâm đến vị từ trong một câu.
Ví dụ:
(1) Mne nravitsja eta kniga. (Tôi thích cuốn sách này)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ta thấy chủ thể (kẻ thể nghiệm) là ở trạng thái tặng cách (cách ba):
Mne; còn đối thể (vật được thể nghiệm) là ở hình thái chủ cách hay danh cách
(cách một): eta kniga. Do vậy, về mặt logic sự tình thì (1) có thể đƣợc miêu tả
nhƣ (2):
(2) (Cuốn sách này [NOM] làm tôi [DAT] thích)
Nhƣ vậy, về cơ bản, các quan hệ chủ đề hoạt động với tƣ cách là một
bề mặt chung giữa ngữ nghĩa học từ vựng và cú pháp học. Nói cách khác, các
quan hệ chủ đề là những quan hệ hai mang: Một mặt, chúng là những quan hệ
có tính ngữ nghĩa về bản chất và có quan hệ đến sự biểu hiện ngữ nghĩa từ
vựng của động từ, bởi lẽ chúng là một cách hành chức về ý nghĩa của động từ.
Trong khi đó, ở mặt khác, chúng lại có những ngụ ý đối với ngữ pháp. Các
quan hệ chủ đề này đã xác lập đƣợc một cách xác đáng vị trí đối với cơ sở
ngữ nghĩa của mình, nhƣng chúng cũng có thể là nhạy cảm đối với các yêu
cầu của ngữ pháp”. [3]
Chúng tôi tiếp thu và vận dụng ý kiến của các nhà nghiên cứu và để có
những hiểu biết cụ thể hơn về quan hệ ngữ nghĩa, chúng tôi dựa vào lí thuyết

về ba bình diện của câu.
Nhƣ đã biết, trong hệ thống các đơn vị ngữ pháp, câu là kiểu đơn vị có
đặc tính rất phức tạp. Theo quan niệm đƣợc thừa nhận rộng rãi hiện nay, câu
là một thực thể hỗn hợp đƣợc hình thành nên không phải bởi một mà bởi ba
bình diện: bình diện tâm lý, bình diện cú pháp và bình diện logic [19, 103].
Tán thành về cơ bản quan niệm về ba bình diện của câu đƣợc nhắc đến trên
đây nhƣng có sự điều chỉnh về tên gọi cho quen thuộc và dễ hiểu hơn, chúng
tôi phân biệt câu ở bình diện giao tiếp (tâm lý), bình diện cú pháp và bình
diện nghĩa sâu (logic).
Ở bình diện giao tiếp, câu là một đơn vị thông báo (một thông điệp)
đƣợc dùng trong những tình huống nói năng cụ thể. Phân tích câu về mặt giao
tiếp chính là xác định đề ngữ - điểm xuất phát của thông báo và thuyết ngữ -
phần còn lại của câu có chức năng thuyết minh về đề ngữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Về mặt cú pháp, câu là đơn vị đƣợc tạo thành từ sự kết hợp giữa các từ
theo những quan hệ cú pháp nhất định. Phân tích câu về mặt cú pháp là xác
định các thành phần cú pháp của câu nhƣ chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng
ngữ…; các quan hệ ngữ pháp nhƣ quan hệ chính phụ, quan hệ đẳng lập, quan
hệ chủ vị; các kiểu câu phân theo cấu trúc cú pháp cơ bản nhƣ câu đơn, câu
ghép, hoặc các kiểu câu phân theo đặc trƣng hình thức và chức năng thực hiện
hành vi ngôn ngữ nhƣ câu nghi vấn, câu cầu khiến… [30, 39].
Về mặt nghĩa sâu, câu là một cấu trúc gồm các thành tố ngữ nghĩa nằm
trong mối quan hệ nhất định phản ánh trực tiếp sự kiện, hiện tƣợng trong hiện
thực khách quan. Phân tích câu về mặt nghĩa sâu là xác định hạt nhân ngữ
nghĩa của câu (biểu thị các sự tình) và các tham tố ngữ nghĩa của bậc nghĩa
sâu (biểu thị các thực thể tham gia vào các sự tình).
Theo Nguyễn Văn Lộc, trong việc phân tích mặt ý nghĩa của các thành
phần câu (nghĩa của các thực từ trong câu), vấn đề khó khăn, phức tạp nhất là
xác định bản chất và ranh giới các ý nghĩa cụ thể. Đến nay, bản chất của các
nghĩa cú pháp kiểu nhƣ chủ thể, đối thể, công cụ, nguyên nhân… chƣa đƣợc

hiểu thống nhất và chƣa đƣợc xác định rõ ràng. Trong các công trình ngữ
pháp, các kiểu nghĩa trên đƣợc đồng nhất với phạm trù nghĩa sâu đƣợc xác
định trên cơ sở cấu trúc sâu theo cách hiểu của Ch.Fillmore. Theo quan niệm
này thì những cấu trúc kiểu nhƣ: (1) Malchik bezyt (Cậu bé đang chạy) và (2)
Beg malchika (Sự chạy của cậu bé) sẽ nằm trong một lƣợc đồ ngữ nghĩa
chung, trong đó từ “machik” luôn có ý nghĩa chủ thể hoạt động. Nhƣng nếu
chỉ dựa vào nghĩa sâu để xác định, phân tích các thành phần câu thì sẽ có mâu
thuẫn nảy sinh: Hoá ra thành tố chỉ chủ thể hoạt động không chỉ đƣợc xác
định trong mối quan hệ với động từ (ở cấu trúc (1) mà còn đƣợc xác định
trong mối quan hệ với danh từ ở cấu trúc (2)). Việc xác định, phân tích mặt
nội dung của các thành phần câu chỉ dựa vào nghĩa sâu cũng sẽ gặp một số
khó khăn không thể khắc phục đƣợc. Chính S.D.Kasnelson đã chỉ ra điều này
khi nhận xét về ngữ pháp cách của Ch. Fillmore. S.D.Kasnelson cho rằng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trong những câu nhƣ (1) Dzon otkryl dver kljuchom (Giôn mở cửa bằng chìa
khoá) và (2) Kljuch otkryl dver (Chiếc chìa khoá mở cửa), theo ngữ pháp cách
của Ch. Fillmore thì Kljuchom và kljuch (chìa khoá) đều ở cách công cụ (cách
I). Nhƣng theo ý kiến của S.D. Kasnelson thì cách phân tích nhƣ vậy sẽ mâu
thuẫn với chính điều mà Ch. Fillmore đã khẳng định và cố gắng chứng minh,
đó là: Mỗi động từ xét về mặt kết trị, đều đƣợc đặc trƣng bởi một lƣợc đồ kết
trị nhất định, chẳng hạn, lƣợc đồ kết trị của động từ otkryl (mở) là: ngƣời hành
động - đối thể tác động - công cụ. Để khắc phục mâu thuẫn này, theo
S.D.Kasnelson thì phải cho rằng chỉ trong câu (1), Kljuchom mới có ý nghĩa
công cụ thuần tuý, còn trong câu (2), kljuch có ý nghĩa hỗn hợp: chủ thể và
công cụ. [18, 111]. Cũng với quan niệm tƣơng tự, N.V.Solnesva cho rằng
trong câu Xe này chở hàng, từ xe chỉ chủ thể hoạt động mặc dù theo lý thuyết
cách của Ch. Fillmore thì xe là công cụ [43, 31]. Nghĩa chủ thể của từ xe trong
câu trên cũng nhƣ nghĩa chủ thể của từ kljuch trong câu (2) chính là nghĩa cú
pháp. Nhƣ vậy, khi xác định, phân tích mặt nội dung của các thành phần câu,
việc dựa vào nghĩa sâu là cần thiết nhƣng không đầy đủ và không cho phép

xác định bản chất của thành phần câu với tƣ cách là phạm trù cú pháp.
Nghĩa cú pháp và nghĩa sâu mặc dù có mối quan hệ mật thiết với nhau
nhƣng vẫn là hai kiểu nghĩa khác nhau về bản chất và chúng không phải luôn
luôn tƣơng ứng với nhau. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ nghĩa cú pháp
của một từ chỉ đƣợc xác định trong mối quan hệ với nghĩa ngữ pháp của các
từ khác và luôn có hình thức ngữ pháp riêng để biểu thị, còn nghĩa sâu đƣợc
xác định trong mối quan hệ giữa các từ vựng của từ và không có hình thức
ngữ pháp riêng để biểu thị. [35]
Từ những ý kiến luận giải về nghĩa sâu trên đây, chúng tôi rút ra quan
niệm của mình về cấu trúc ngữ nghĩa và quan hệ ngữ nghĩa nhƣ sau: Cấu trúc
ngữ nghĩa của câu (cấu trúc chìm, cấu trúc sâu) đƣợc phân biệt với cấu trúc cú
pháp (cấu trúc nổi) ở chỗ: cấu trúc ngữ nghĩa của câu là cấu trúc biểu thị mối
quan hệ ngữ nghĩa (quan hệ nghĩa sâu theo cách hiểu trên) giữa các từ, tổ hợp
từ trong câu. Vậy, quan hệ ngữ nghĩa là mối quan hệ về mặt nghĩa sâu giữa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
các từ, tổ hợp từ trong câu phản ánh trực tiếp quan hệ giữa các sự vật, hiện
tƣợng trong hiện thực khách quan.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ ngữ nghĩa
- Quan hệ ngữ nghĩa phản ánh trực tiếp mối quan hệ giữa các sự vật, sự
kiện, hiện tƣợng trong thực tế khách quan. Nó khác với quan hệ cú pháp chỉ
trực tiếp phản ánh mối quan hệ giữa các từ.
- Khác với quan hệ cú pháp luôn có hình thức cú pháp riêng để biểu thị,
quan hệ ngữ nghĩa không bắt buộc phải có hình thức cú pháp riêng để biểu
thị. Chẳng hạn, quan hệ ngữ nghĩa nhân quả trong câu tiếng Việt có thể biểu
hiện dƣới các hình thức cú pháp là các cấu trúc có động từ quan hệ hoặc các
cấu trúc có quan hệ từ nhân quả kiểu nhƣ:
Sự ra đi của anh khiến mẹ lo lắng. (bằng động từ quan hệ “khiến”)
Vì sự ra đi của anh nên mẹ lo lắng. (bằng quan hệ từ “vì…nên”)
1.1.3. Các dạng phổ biến của quan hệ ngữ nghĩa trong câu
- Quan hệ chủ thể - hành động: Nam đọc. Mẹ về. Nó chạy…

- Quan hệ hoạt động - đối tƣợng: đọc sách. đập đá…
- Quan hệ hoạt động - công cụ: ăn bằng đũa. liên lạc bằng điện thoại…
- Quan hệ sở hữu: tiền của tôi. sách của Nam…
- Quan hệ nguyên nhân - kết quả: chết vì bệnh. sống nhờ bạn…
1.2. Quan hệ cú pháp
1.2.1. Định nghĩa
Quan hệ cú pháp đƣợc hiểu là mối quan hệ giữa các thực từ trong câu
đƣợc xác định dựa vào vai trò, chức năng của các từ đối với nhau. “Cú pháp
bắt đầu ở nơi diễn ra sự kết hợp giữa các từ” [41, 28]. Theo cách hiểu này thì
quan hệ giữa một thực từ và một hƣ từ (ví dụ: đang đi, rất đẹp, bằng điện
thoại…) không phải là quan hệ cú pháp thực sự. Kiểu quan hệ này đƣợc gọi là
quan hệ cận cú pháp(kvazisintaksicheskaja svjaz).
Để có cơ sở xác định tính chất của mối quan hệ cú pháp, trƣớc hết, cần
xác định sự có mặt của mối quan hệ cú pháp giữa các từ. Hai từ (thực từ)
đƣợc coi là có quan hệ cú pháp với nhau nếu giữa chúng có thể xác định mối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
quan hệ nhất định về mặt nội dung (ý nghĩa) và mối quan hệ về hình thức.
Mối quan hệ hình thức giữa hai từ đƣợc xác định qua thủ pháp thay thế bằng
từ nghi vấn (thủ pháp đặt câu hỏi): Hai từ đƣợc coi là có quan hệ hình thức
với nhau nếu chúng lập thành tổ hợp trong đó ít nhất có một từ có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn. Chẳng hạn, trong câu: Lan học toán rất giỏi, bằng
thủ pháp đặt câu hỏi kết hợp với thủ pháp phân tích ngữ nghĩa, ta có thể xác
định đƣợc các cặp thực từ có quan hệ cú pháp với nhau là: Lan học, học toán,
học rất giỏi. Trong mỗi cặp này, các thực từ đều có quan hệ với nhau cả về
nội dung (ý nghĩa) lần hình thức (Ai học? Học gì? Học thế nào?). Các từ toán
và giỏi mặc dù đứng gần nhau nhƣng không có quan hệ cú pháp với nhau
(không thể xác định mối quan hệ ý nghĩa và hình thức giữa chúng). Tổ hợp
gồm các từ có quan hệ cú pháp với nhau có thể gọi là cấu trúc cú pháp còn
các thực từ tham gia cấu trúc cú pháp có thể gọi là thành tố cú pháp.
Nhƣ vậy, để xác định quan hệ cú pháp cần dựa vào “khả năng dùng độc

lập của một tổ hợp từ nhất định hoặc khả năng dùng tổ hợp đó với tƣ cách là
biến thể rút gọn của cấu trúc lớn hơn”. [41, 58]
1.2.2. Cách biểu hiện quan hệ cú pháp
Trong tiếng Việt, hình thức cú pháp đƣợc dùng để biểu hiện mối quan
hệ cú pháp là:
- Trật từ từ
Trong tiếng Việt, trật tự từ là phƣơng thức quan trọng nhất. Điều này
thể hiện ở chỗ mỗi kiểu cấu trúc cú pháp tiếng Việt thƣờng đƣợc đặc trƣng
bởi một kiểu trật tự từ nhất định. Chẳng hạn, theo qui tắc, cấu trúc chủ vị
trong tiếng Việt có trật tự C - V (chủ - vị) còn cấu trúc chính phụ có trật tự C -
P (chính - phụ). Sự thay đổi trật tự trên đây sẽ phá vỡ hoặc làm thay đổi bản
chất cấu trúc (so sánh: tôi hỏi và hỏi tôi, xây nhà và nhà xây). Mô hình câu
đơn của tiếng Việt ở dạng điển hình là C - V vốn có tính cố định cao. Trong
khi đó, đối với các ngôn ngữ biến hình trật tự lại tƣơng đối tự do.
- Quan hệ từ (từ nối, kết từ)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Về ngữ pháp, sự có mặt hay vắng mặt của hƣ từ có thể làm thay đổi bản
chất cú pháp của câu. Chẳng hạn, trong câu Trước nguy cơ Tổ quốc bị xâm
lược đã buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí chiến đấu sự có mặt của trước đã
làm cho câu sai ngữ pháp.
Về ngữ nghĩa, hƣ từ có tác dụng phân biệt hay làm rõ mối quan hệ ngữ
nghĩa giữa các thực từ. So sánh: gà mẹ khác với gà của mẹ.
- Ngữ điệu
Vai trò quan trọng của ngữ điệu trong cú pháp tiếng Việt thể hiện ở tác
dụng của nó trong việc phân biệt các kiểu cấu trúc cú pháp. Chẳng hạn, nhờ
ngữ điệu (trên văn bản đƣợc biểu hiện bằng dấu câu) mà ta phân biệt đƣợc
cấu trúc chính phụ với cấu trúc đẳng lập trong trƣờng hợp nhƣ: anh tôi (chính
phụ); anh, tôi (đẳng lập). Ngữ điệu cũng giúp cho việc phân biệt cấu trúc
chính phụ với cấu trúc chủ vị. Chẳng hạn, trong Cậu học sinh đang xem ti vi
là em tôi thì “cậu học sinh đang xem ti vi” là cấu trúc chính phụ với yếu tố

phụ “đang xem ti vi” đƣợc phát âm nhẹ hơn và liền với trung tâm “cậu học
sinh”; còn trong Lúc ấy, cậu học sinh vẫn đang xem ti vi thì cậu học sinh vẫn
đang xem ti vi là cụm chủ vị với vị ngữ đang xem ti vi đƣợc phát âm nhấn
mạnh hơn và tách biệt rõ rệt khỏi chủ ngữ.
1.2.3. Cách xác định quan hệ cú pháp trong câu
Tính chất của mối quan hệ cú pháp giữa các từ (các thành tố cú pháp)
trong cấu trúc cú pháp đƣợc xác định dựa vào vai trò cú pháp của chúng. Vai
trò của mỗi thành tố trong cấu trúc đƣợc xác định dựa vào mối quan hệ nội bộ
của cấu trúc (vai trò bên trong hay vai trò “đối nội”) và mối quan hệ với các
yếu tố bên ngoài (hay vai trò “đối ngoại”).
Theo Nguyễn Văn Lộc, việc xác định tính chất của mối quan hệ cú
pháp trong cấu trúc có thể đƣợc thực hiện qua các bƣớc sau:
Bước 1: Xác định vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố.
Vai trò trong cấu trúc của mỗi thành tố đƣợc thể hiện ở hai khía cạnh:
vai trò của các thành tố đối với nhau và vai trò của mỗi thành tố đối với toàn
cấu trúc nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Vai trò của các thành tố đối với nhau đƣợc đánh giá theo hai mặt: mặt
nội dung và mặt hình thức. Về nội dung, trong hai thành tố của cấu trúc, thành
tố nào có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho thành tố kia sẽ là thành tố có vai trò
phụ, thành tố đƣợc bổ sung sẽ là thành tố có vai trò chính. Về hình thức, trong
hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn
sẽ là thành tố có vai trò phụ, thành tố không có khả năng thay thế bằng từ
nghi vấn sẽ là thành tố chính. Sau khi đã xem xét riêng mặt nội dung và hình
thức, cần xem xét kết hợp cả hai mặt để xác định thành tố chính của cấu trúc
xét trong quan hệ đối với nhau: Thành tố giữ vai trò chính cả về nội dung lẫn
hình thức sẽ đƣợc coi là thành tố chính.
Vai trò của mỗi yếu tố đối với toàn cấu trúc thể hiện ở khả năng chi
phối ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc: Trong hai thành tố của cấu
trúc, thành tố nào quy định bản chất ý nghĩa (ý nghĩa chung, tính đa dạng về

nghĩa) của cấu trúc, tổ chức hình thức của cấu trúc (tính đa dạng về tổ chức,
khả năng cải biến của cấu trúc nhƣ cải biến danh hoá, cải biến bị động, cải
biến vị trí…) sẽ đƣợc coi là thành tố có vai trò quan trọng hơn.
Bước 2: Xác định vai trò của các thành tố trong mối quan hệ với các
yếu tố ngoài cấu trúc (vai trò “đối ngoại”).
Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có khả năng đại diện cho
cấu trúc trong mối quan hệ cú pháp với các thành tố bên ngoài sẽ đƣợc coi là
thành tố có vai trò chính xét về mặt quan hệ bên ngoài.
Bước 3: Xác định vai trò của các yếu tố trong cấu trúc dựa đồng thời
vào vai trò bên trong lẫn vai trò bên ngoài.
Trong hai thành tố của cấu trúc, thành tố nào có vai trò chính cả trong
mối quan hệ bên trong lẫn quan hệ bên ngoài sẽ đƣợc coi là thành tố chính
của cấu trúc.
Theo nguyên tắc trên đây, có thể xác định trong tiếng Việt hai kiểu
quan hệ cú pháp cơ bản và hai kiểu cấu trúc cú pháp tƣơng ứng:
+ Quan hệ đẳng lập: sách và báo. ăn và ngủ…
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Trong những cấu trúc kiểu này, mỗi thành tố về hình thức đều có khả
năng thay thế bằng từ nghi vấn (Sách và gì? Gì và báo?), còn về nội dung,
không thành tố nào bổ sung ý nghĩa cho thành tố nào. Trong quan hệ với các
yếu tố ngoài cấu trúc, mỗi thành tố đều có khả năng đại diện cho cả cấu trúc.
Nhƣ vậy, các thành tố trong kiểu cấu trúc này có vai trò ngang nhau. Kiểu
quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ đẳng lập hay quan hệ
bình đẳng.
+ Quan hệ chính phụ (quan hệ phụ thuộc một chiều): bàn gỗ. đọc sách.
giỏi văn…
Trong những cấu trúc kiểu này, các thành tố đứng sau (gỗ, sách) là các
thành tố phụ vì về nội dung, chúng đều bổ sung ý nghĩa cho các từ đứng trƣớc
(gỗ bổ sung cho nhà ý nghĩa về chất liệu, sách bổ sung cho đọc ý nghĩa đối
thể); về hình thức, chúng đều có khả năng thay thế bằng từ nghi vấn (ví dụ:

Nhà gì? Đọc gì?). Các thành tố này cũng không có khả năng chi phối bản chất
ý nghĩa và tổ chức hình thức của cấu trúc.
Trong mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài, các thành tố này hoàn
toàn không có khả năng đại diện cho cả cấu trúc. Các thành tố đứng trƣớc có
đặc điểm hoàn toàn trái ngƣợc với các thành tố vừa nhận xét là các thành tố
chính của cấu trúc. Kiểu quan hệ trong các cấu trúc này có thể gọi là quan hệ
phụ thuộc một chiều hay quan hệ chính phụ.
Ngoài hai kiểu quan hệ cú pháp cơ bản trên đây (quan hệ đẳng lập và
quan hệ chính phụ) còn một kiểu quan hệ có đặc tính không hoàn toàn rõ
ràng. Thuộc về kiểu này là:
1) Quan hệ chủ vị: Ví dụ: Mẹ về. Nó ngủ. Nó bận…
Cấu trúc kiểu này lâu nay vẫn đƣợc gọi là cấu trúc chủ vị (cụm chủ vị,
cụm từ tƣờng thuật, mệnh đề). Hầu hết các tác giả nghiên cứu về ngữ pháp
tiếng Việt coi quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa hai thành tố
tạo nên cấu trúc nòng cốt của câu. Tuy nhiên, các tác giả theo quan niệm này
có cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của chủ ngữ, vị ngữ. Có tác giả coi
chủ ngữ là thành tố có vai trò quan trọng hơn [31]; một số lại coi vị ngữ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
thành tố có vai trò quan trọng hơn. Số còn lại cho chủ ngữ, vị ngữ là hai thành
tố có vai trò ngang nhau.
Khác với các tác giả quan niệm quan hệ chủ vị là quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau, V.S.Panfilov cho rằng về bản chất, quan hệ chủ vị cũng chỉ là một dạng
của quan hệ chính phụ trong đó vị ngữ là thành tố chính [41, 77-78]
2) Quan hệ đối ứng: Quan hệ đối ứng lại tồn tại trong một số kiểu câu
ghép nhƣ:
Câu ghép nhân quả: Vì trời mưa nên đường trơn. v.v…
Câu ghép điều kiện - kết quả: Nếu tự vẽ mình sặc sỡ thì ta càng xám xịt. v.v…
Câu ghép nhƣợng bộ: Tuy ngủ ít nhưng ông tỉnh táo lắm. v.v…
Đối với các cấu trúc kiểu này, cũng có hai cách phân tích: a) coi đây là
cấu trúc chính phụ, trong đó, thành tố đứng sau (thành tố chỉ kết quả) là thành

tố chính [15]; b) coi đây là cấu trúc trong đó các thành tố có quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau [24].
Xem xét bản chất của các cấu trúc kiểu đối ứng vừa dẫn ra theo nguyên
tắc xác định trên đây, ta thấy quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc kiểu
này quả là có nét nhất định của tính chất phụ thuộc lẫn nhau. Nét phụ thuộc
lẫn nhau của các thành tố trong kiểu cấu trúc này thể hiện rõ ở mối quan hệ
nội bộ cấu trúc. Về hình thức, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có khả năng
thay thế bằng từ nghi vấn (Ví dụ: Ai về? Ai ngủ? Vì sao đường trơn? Vì trời
mưa nên thế nào?). Về nội dung, mỗi thành tố trong cấu trúc đều có tác dụng
nêu đặc điểm ý nghĩa cho thành tố kia (ở cấu trúc chủ vị, chủ ngữ bổ sung cho
vị ngữ ý nghĩa chủ thể hoạt động hay kẻ mang đặc điểm của sự vật do danh từ
hay đại từ làm chủ ngữ biểu thị, còn vị ngữ nêu hoạt động hay đặc điểm của
sự vật do chủ ngữ biểu thị). Tuy nhiên, nếu xem xét những cấu trúc trên đây
theo mối quan hệ ngoài cấu trúc thì có thể nhận thấy ở kiểu cấu trúc này lại có
tính chất chính phụ khá rõ trong đó vai trò chính thuộc về thành tố thứ hai (vị
ngữ trong cấu trúc chủ vị và thành tố chỉ kết quả trong quan hệ đối ứng) vì chỉ
các thành tố này mới có khả năng đại diện cho cả cấu trúc trong mối quan hệ
với bên ngoài.

×