Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tải Top 2 mẫu phân tích Chinh phụ ngâm hay chọn lọc - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.69 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Phân tích tác phẩm Chinh phụ ngâm</b>


Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa
đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vơ cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên
miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai
vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nơng dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân
sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập
trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những
nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã
nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản
dịch sang chữ Nơm của bà Đồn Thị Điểm được coi là hồn hảo hơn cả, thể hiện thành cơng
lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.


Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc
biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đơi của con người. Đó là
điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.


Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người
chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn
đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cơ
đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đơi đồn tụ hạnh phúc ngày
càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất
rõ tâm trạng cô đơn ấy.


Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung
bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khộ ở người chinh phụ đang khao khát được
sống trong tình u và hạnh phúc lứa đơi.


Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:


– Đoạn 1 : Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại


chùng: Nỗi cơ đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố
tìm cách giải khy nhưng khơng được.


– Đoạn 2: Từ Lịng này gùi gió đơng có tiện… đốn Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện
khơi: Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh vật khiến lòng nàng thêm sầu thảm.
– Đoạn 3: Từ Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết
đau!. Cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy,
chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đơi lứa un ương lại
phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều khơng có câu trả
lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả
tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.


Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người
chinh phụ:


<i>Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước</i>
<i>Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.</i>
<i>Ngồi rèm thước chẳng mách tin,</i>
<i>Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?</i>


<i>Đèn có biết dường bằng chẳng biết?</i>
<i>Lòng thiếp riêng bi thiết mà thơi.</i>


<i>Buồn rầu nói chẳng nên lời,</i>
<i>Hoa đèn kia với bóng người khá thương!</i>


Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn.
Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt
ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.


Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Khơng gian im ắng, chỉ có ngọn đèn
đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại
nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vơ tri vơ giác. Nhìn ngọn đèn chong
suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong
lịng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!


Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngồi hiên vắng và suốt năm canh ngồi một
mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm
trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.


Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc
nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngồi phịng, trong phịng. Nỗi cơ đơn tràn
ngập khơng gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng.


Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man
của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:


<i>Gà eo óc gáy sương năm trống,</i>
<i>Hịe phất phơ rũ bóng bốn bên.</i>
<i>Khắc giờ đằng đẵng như niên,</i>
<i>Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.</i>


Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng
trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy,
người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cơ độc biết chừng nào!


Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc


đến hai chữ chiến tranh:


<i>Hương gượng đốt hồn đà mê mải,</i>
<i>Gương gượng soi lệ lại châu chan.</i>


<i>Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,</i>
<i>Dày un kinh đứt, phím loan ngại chùng.</i>


Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vịng vây của cảm giác cơ đơn đáng sợ
nhưng vẫn khơng sao thốt nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây
khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau,
chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi
thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại khơng cầm được nước mắt bởi vì nhớ
gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn
phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lịng vì tình
cảnh vợ chồng đang chia lìa đơi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím
loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cơ đơn đang chất
ngất trong lịng mình vậy.


Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ,
tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người
chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh
phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông
chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và
tuyệt vọng, nàng chí cịn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:


<i>Lịng này gửi gió đơng có tiện ?</i>
<i>Nghìn vàng xin gửi đến non n.</i>


<i>Non n dù chẳng tới miền,</i>



<i>Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung
mái ấm gia đình với bóng dáng thân u của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:


<i>Non Yên dù chẳng tới miền,</i>


<i>Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.</i>


Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vơ biên:
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con
đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và
cơ đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều
mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại:


<i>Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,</i>
<i>Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.</i>


Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất
trời thì bao la, bát ngát, khơng giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm
cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm
uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi
đớn đau cho thể xác:


<i>Cảnh buồn người thiết tha lòng,</i>
<i>Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.</i>


Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da
diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn


qua đơi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm
tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng
ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn
trường trong lịng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ
lên án chiến tranh của tác giả.


Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người
chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang
cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người
chinh phụ cơ đơn:


<i>Sương như búa, bổ mịn gốc liễu,</i>
<i>Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngơ.</i>


Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên
đến câu: Sâu tường kêu vắng chng chùa nện khơi thì khơng khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi
người chinh phụ chí mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.


Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
<i>Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,</i>


<i>Một hàng tiêu gió thốc ngồi hiên.</i>
<i>Lá màn lay ngọn gió xuyên,</i>


<i>Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.</i>
<i>Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,</i>
<i>Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.</i>


<i>Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,</i>


<i>Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!</i>


Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện
rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vị võ một mình một bóng mà
thơi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng tốt lên cái ý lứa dơi quấn qt gần gũi, âu
yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.


Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như
búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngơ, Một hàng tiêu gió thốc ngồi
hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng,
dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một
cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt
dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh
lẻ loi đơn chiếc.


Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh
vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp
với diễn biến của tâm trạng nhân vật.


Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng
phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh
phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh
phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng địi quyền
sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.


<b>2. Phân tích Chinh phụ ngâm chi tiết</b>


Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ngợi ca những


khát khao niềm hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân đã gửi gắm tâm sự, nỗi bất bình của
mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét
cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà viết Kh ốn. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Cơn cảm thông
thâm thúy trước số phận những người dân phụ nữ có chồng đi lính mà làm ra tuyệt tác Chinh
phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến
trái tim người đọc khi tái hiện hồn cảnh cơ độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ
ước mơ niềm hạnh phúc đoàn tụ.


Chinh phụ ngâm ra đời vào tầm khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, trào lưu khởi
nghĩa nơng dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình
chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, khơng hẹn ngày tái ngộ. Số phận và thảm kịch của những
con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái
tim của Đặng Trần Cơn.


<b>Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ</b>


Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, tuân theo thể trường đoản cú.
Khi Đồn Thị Điểm dịch sang chữ Nơm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát,
dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa góp phần thể hiện tình cảnh và tâm
trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với chủ với nguyên
tác và có nhiều sáng tạo trong q trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân
vật trữ tình: sau lúc cưới khơng lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì
thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh
phụ.


Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh
phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chống đi đánh trận, khơng có tin
tức, khơng rõ ngày quay trở về.


<b>Phân tích Chinh phụ ngâm qua nỗi niềm của người chinh phụ</b>



Tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn bủa vây của người chinh phụ, nỗi thương nhớ người chồng
phương xa, sự khao khát niềm hạnh phúc lứa đơi… là những ý chính khi phân tích Chinh phụ
ngâm.


<b>Sự lạnh lẽo và nỗi cơ đơn bủa vây của người chinh phụ</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,</i>
<i>Ngồi rèm thưa rủ thác địi phen.</i>
<i>Ngồi rèm thước chẳng mách tin,</i>
<i>Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”</i>


Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước tiến mình, như đếm
từng ngày chồng đi. Những bước tiến lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ,
như bước tiến người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều
bước lại ngẩn ngơ”.


Trong những buổi đi dạo của nàng khơng cịn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự việc
ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm
xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân trong thú vui sướng, niềm
hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho việc
an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi.


Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được
lặp đi tái diễn trong vơ thức, nàng chẳng cịn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ
dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Thẩm mỹ và làm đẹp sử dụng từ ngữ “vắng”,
“thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương u, càng tơ đậm sự lẻ loi, buồn bã,
bồn chồn của nhân vật trữ tình.


Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà cịn trơng ngóng tin chàng. Nàng


đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi không an tâm, nhưng chim thước khơng tới. Nàng
lại trỏ bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lịng. Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy nàng nhận ra rằng
càng hi vọng, mịn mỏi trơng chờ thì sẽ càng hụt hẫng, tuyệt vọng.


Khát khao sum vầy đồn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn,
thất vọng. Vướng mắc tu từ và điệp từ “rèm” tái diễn ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc
của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình
u, niềm hạnh phúc khơng cịn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm thế
nào!


<b>Khát khao chia sẻ thấu hiểu và nỗi nhớ thương chồng phương xa</b>


Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng
tối cơ đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn:


<i>“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?</i>
<i>Đèn có biết dường bằng chẳng biết,</i>


<i>Lịng thiếp riêng bi thiết mà thơi.</i>
<i>Rầu rĩ nói chẳng nên lời,</i>


<i>Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”</i>


Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người
chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong
muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư…


Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác
phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn
không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với những người mình yêu.


Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi
cơ đơn khi Trương Sinh đi lính.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

bấc dầu kia khơng những khơng thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cơ đơn, lẻ loi
người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khơn cùng.


Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”,
“rầu rĩ”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự việc bi thương, thảm thiết. Từ “thiết” theo nghĩa
Hán Việt còn tồn tại nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao
khát được bộc lộ, được thấu hiểu.


Nhưng trong tình cảnh cơ độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ biết
dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận
tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng
nghệ thuật và thẩm mỹ trong miêu tả tâm trạng của tác giả!


Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu:
<i>“Gà eo óc gáy sương năm trống,</i>


<i>Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”</i>


Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trơng ngóng người chinh phụ, thức trọn năm canh,
nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, rầu rĩ. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó
chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với việc tĩnh lặng, trầm lắng trong
tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng trống không gian mênh mông, hiu quạnh,
khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Thẩm mỹ và làm đẹp lấy động
tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cơ độc
hơn, dày vị nàng hơn.


Khơng chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hịe phất phơ” cũng khiến người chinh


phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng vía mập mờ lay động trong
đêm, như ẩn như hiện, như có như khơng. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ
hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum
họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xơi.


Phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây hịe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài thơ
Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi
đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn
bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Cơn.
Từ đó ta thấy nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ
“rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.


<b>Niềm khát khao niềm hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ</b>


Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ơm nỗi nhung
nhớ, thấm thía về thảm kịch đời mình:


<i>“Khắc giờ đằng đẵng như niên,</i>
<i>Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”</i>


Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những
thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian
trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày khơng cịn
được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”.


Từ láy “đằng đẵng” kéo dãn dài thời gian, kéo dãn dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người
phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy
Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày
tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân gia đình dang dở, về cuộc đời
khơng được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng


là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, khơng có kết
quả cuối cùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Cơn “Sầu tự hải/
Khắc như niên”, ta thấy Đồn Thị Điểm không chỉ trung thành với chủ với nguyên tác mà còn
tồn tại những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc đơn giản và giản dị hiểu,
đơn giản và giản dị đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.


<b>Những gắng gượng để thốt khỏi nỗi cơ đơn của người chinh phụ</b>


Người chinh phụ chán ghét thời gian trơi chậm chạp, cố vùng thốt khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ
loi dai dẳng:


<i>“Hương gượng đốt hồn đà mê mải</i>
<i>Gương gượng soi lệ lại châu chan.</i>


<i>Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,</i>
<i>Dây un kinh đứt, phím loan ngại chùng.”</i>


Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại khơng kìm lấy được lịng
mà mê man trong q khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp
làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm.


Người chinh phụ cũng bổi hổi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vơ tình đưa
nàng trở về những tháng ngày niềm hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí
ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía
thảm kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia
không thể lấy lại được.



Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ
nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để
giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ
chẳng buồn đối hồi đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”.
Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi.
Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng
thương hai con mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười
nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn
phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này.


Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy, khi cảm thấy việc đốt hương hay soi gương không thể
giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm về tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình
ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây un”, “phím loan” tượng trưng cho tình u đơi lứa, cho vợ
chồng hịa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hơn nhân gia
đình hiện nay đang bị chia cắt, về người chồng ngồi chiến trường bặt vơ âm tín.


Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng nỗ lực gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng
vùng vẫy trong nỗi cơ đơn nhưng lại bị chính nỗi cơ đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp
quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng thú vui. Hơn thế nữa chúng lại như liều
thuốc kích thích khối u sầu khổ trong tâm nàng. Nàng chỉ muốn được sum vầy mà thơi, nhưng
buổi đồn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8></div>

<!--links-->

×