Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của c mác ý nghĩa của nó đối với vấn đề huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.7 KB, 33 trang )

Tiểu luận
Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý nghĩa của nó đối
với vấn đề huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay


Phần 1: LỜI MỞ ĐẦU
Trong mọi nền kinh tế, sự gia tăng tư bản và giá trị thặng dư luôn là quan tâm
hàng đầu của các nhà tư bản, để đi đến những mục tiêu đó, thì tuần hồn và
chu chuyển tư bản chính là những định hướng cơ bản mà nền kinh tế phải dựa
vào. Lựa chọn đề tài “ Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản của C.Mác. Ý
nghĩa của nó đối với vấn đề huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay ’’ là
dựa trên một số lý do sau:
-Thứ nhất, tuần hoàn và chu chyển là điều kiện để tư bản lớn lên và đồng thời
tạo ra giá trị thặng dư nhờ đó mà nền kinh tế mới phát triển được.
-Thứ hai, tuần hoàn và chu chuyển giống như một con đường mà bất kỳ một
nhà tư bản nào muốn tồn tại và phát triển thì buộc phải đi. Vì chỉ khi hiểu
được bản chất, những điều kiện và các yếu tố liên quan đến q trình lưu
thơng thì người ta mới có thể tham gia vào q trình sản xuất và tạo ra giá trị
thặng dư.
-Thứ ba, ngày nay nền kinh tế chịu nhiều yếu tố tác động về mọi mặt. Vì vậy,
việc bám sát vào q trình tuần hồn và chu chuyển có thể giúp cho các nhà tư
bản có thể phát triển dây truyền sản xuất, định hướng và hoạch định chiến
lược một cách đúng đắn và phù hợp hơn. Nhờ đó mới có thể đứng vững và
tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
-Thứ tư, từ việc lấy ví dụ thực tế về vấn đề huy động và sử dụng vốn của nước
ta hiện nay trong những năm gần đây sẽ góp phần hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý
luận tuần hoàn và chu chuyển tuần hồn của C.Mác. Thêm vào đó đây là một
vấn đề rất nhạy cảm hiện nay vì để thực hiện điều này thì địi hỏi sự nhạy bén
và sự đúng đắn cao độ nếu không sẽ rất dễ dẫn đến những hậu quả khôn
lường. Từ những kết quả trong thực tế cho thấy: Nếu sử dụng hợp lý nó sẽ góp
phần không nhỏ đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Ngược lại, nếu




không biết cách khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn vốn có thể dẫn đến
những sai lần ngiêm trọng gây thất thốt nguồn tài chính q báu đồng thời
cũng ảnh hưởng tới nhiều yếu tố khác .

.

Bên cạnh đó, việc tìm hiểu về tuần hồn và chu chuyển tư bản là một yếu tố
cần thiết cho tiền đề phát triển của nền sản suất nói riêng và nền kinh tế nói
chung, điều này góp phần làm cho mọi người hiểu rõ hơn một phần nào đó về
q trình lưu thông của tư bản và giá trị thặng dư.
Bài thảo luận dựa vào phương pháp tìm hiểu, thống kê, phân tích số liệu
trong thực tế, cùng với phân tích những luận điểm trong giáo trình những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và một số sách tham khảo khác.
Trong bài làm cịn có nhiều sai sót rất mong có sự đóng góp thêm của tất cả
các bạn và cơ giáo.


Phần 2: Cơ sở lý thuyết
1.TIỀN VÀ SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN THÀNH TƯ BẢN.
1.1 Sự ra đời của tiền
Khi nền kinh tế thị trường phát triển, con người có nhu cầu trao đổi hàng
hóa với nhau. Lúc đầu người ta trao đổi một cách rất ngẫu nhiên với nhau
bằng các vật ngang giá, nhưng càng về sau, khi lực lượng sản xuất và phân
công lao động phát triển cao, sản xuất hàng hóa và thị trường ngày càng mở
rộng, hàng hóa vơ cùng nhiều về số lượng, phong phú, đa dạng về chủng loại
mẫu mã. Lúc này để trao đổi hàng hóa thì xuất hiện rất nhiều vật ngang giá
chung làm cho sự trao đổi giữa các địa phương, các vùng miền trở nên hết sức
khó khăn dẫn đến địi hỏi một khách quan là cần phải có một vật ngang giá

chung nhất. Và khi vật ngang giá chung nhất này xuất hiện, chiếm vị trí độc
tơn, là vật để đánh giá mọi mức độ giá trị của các vật khác thì vật ngang giá
đó được coi là tiền.
Đã có nhiều loại tiền trên khắp thế giới nhưng về sau được cố định lại ở hai
kim loại quý là bạc, vàng và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trị
tiền tệ là do những ưu điểm của nó như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ,
không hư hỏng, với một lượng nhỏ nhưng chứa đựng giá trị lớn.
Về bản chất, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới
hàng hóa làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể
hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng
hóa.
1.2 Cơng thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thơng hàng hóa, đồng thời cũng là hình
thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình
thái một số tiền nhất định. Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản. Tiền chỉ


biến thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi chúng được sử dụng để
bóc lột lao động của người khác.
Tiền được coi là tư bản vận động theo công thức: T - H - T ( tiền - hàng - tiền),
tức là sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa, rồi hàng hóa lại chuyển hóa
ngược lại thành tiền.
Nhìn vào cơng thức chung của tư bản ta thấy có hai sự vận động, do hai giai
đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có hai
nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng tạo thành, hai người có quan hệ
kinh tế với nhau là người mua và người bán.
Lưu thông của tư bản bắt đầu từ việc mua (T - H) và kết thúc bằng việc bán
(H - T). Trong đó tiền vừa là điểm xuất phát vừa là điểm kết thúc của q
trình, hàng hóa chỉ đóng vai trị trung gian; tiền ở đây khơng được chi ra dứt
khốt mà chỉ là ứng ra rồi thu về.

Mục đích của lưu thông tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn
thế nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu về bằng số tiền ứng ra thì
vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận
động đầy đủ của tư bản là T - H - T’, trong đó T’= T + ΔT. Số tiền trội hơn so
với số tiền ứng ra gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ban đầu đã chuyển hóa thành
tư bản.
Vậy tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đính lưu thơng tư bản là sự
lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động của tư bản là khơng có
giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là khơng có giới hạn.
1.3 Mâu thuẫn trong cơng thức chung của tư bản.
Khi đưa tiền vào lưu thông, số tiền trở về tay người chủ sau khi kết thúc
q trình lưu thơng tăng thêm một giá trị là ∆T. Vậy có phải do lưu thơng đã
làm tăng thêm lượng tiền đó hay khơng?


Trong lưu thông ta xét 2 trường hợp trao đổi ngang giá và trao đổi khơng
ngang giá:
Nếu hàng hố trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá
trị còn tổng số giá trị cũng như phần thuộc về mỗi bên trao đổi thì trước sau
cũng không thay đổi. Về mặt giá trị sử dụng hai bên cùng có lợi cịn về mặt
giá trị thì cả hai bên cùng khơng có lợi. Như vậy trao đổi ngang giá thì khơng
ai thu được lợi từ lưu thơng một lượng giá trị lớn đã bỏ ra.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, nếu người bán bán hàng hóa
với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị của hàng hóa đó như vậy người bán
có được giá trị thặng dư. Nhưng bù lại người mua lại bị mất đi một lượng giá
trị đó. Ngược lại, nếu người bán bán hàng hóa của anh ta với một lượng giá trị
nhỏ hơn lượng giá trị thực của hàng hóa đó thì anh ta bị mất đi một lượng giá
trị thặng dư và người mua của anh sẽ có được lượng giá trị thặng dư đó. Trong
một vài trường hợp thì đây có thể coi là cách làm dầu lên của một số người, và
họ có được giá trị thặng dư thật trong lưu thơng. Những người giàu có lên kia

là do họ cướp đoạt giá trị thặng dư đó trên tay của người khác chứ không phải
họ tạo thêm ra từ sự bóc lột sức lao động của riêng ai. Nhưng những người
này là quá ít, quá nhỏ bé trong xã hội, không thể đại diện cho một tầng lớp
nào trong xã hội. Hơn thế nữa nếu xét trên một tổng thể tồn thế giới thì lượng
giá trị thặng dư khơng thay đổi.
Do đó dù khi trao đổi ngang giá hay khơng ngang giá thì cũng khơng tạo
ra giá trị thặng dư. Lưu thơng hàng hố khơng tạo ra giá trị thặng dư.
Như vậy, liệu giá trị thặng dư có phát sinh ngồi lưu thơng được khơng?
Thực tế người sản xuất hàng hố khơng thể biến tiền của mình thành tư bản
nếu không tiếp xúc với lưu thông.
“Vậy tư bản không thể xuất hiện trong lưu thông và cũng khơng thể xuất
hiện ở bên ngồi lưu thơng nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời


khơng phải trong lưu thơng”. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư
bản.
1.4 Các công thức của tư bản
- Công thức chung của tư bản công nghiệp:
Sức lao động
T-H

- H’ - T’
Tư liệu sản xuất

Trong công thức chung của tư bản công nghiệp, cũng như công thức chung
của tư bản, điểm xuất phát và điểm kết thúc đều là tiền. Mục đích của các nhà
tư bản cơng nghiệp ở đây là dùng tiền để mua hàng hóa gồm tư liệu sản xuất
và sức lao động rồi nhờ sức lao động mà họ mua để, làm thay đổi tư liệu sản
xuất làm ra một hàng hóa khác. Và bán với một số tiền T’ lớn hơn số tiền đã
mua vào ban đầu để lấy giá trị thặng dư.

- Công thức chung của tư bản thương nghiệp:
T - H - T’
Nhà tư bản thương nghiệp dùng tiền của mình để mua hàng hóa của các nhà
sản xuất rồi bán ra với giá cao hơn.
Thực chất khi nhà tư bản thương nghiệp mua hàng hóa của nhà tư bản cơng
nghiệp thì có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp đã gúp tư bản cơng nghiệp
lưu thơng hàng hóa, quay vịng vốn nhanh hơn, kiếm được nhiều lợi nhuận
hơn. Vì thế nhà tư bản công nghiệp sẵn sàng bỏ ra một lượng giá trị thặng dư
mà họ đã bóc lột từ sức lao động làm thuê cho các nhà tư bản thương nghiệp
để hàng hóa của mình được lưu thơng.
Vậy lượng tiền hay giá trị thặng dư mà nhà tư bản thương nghiệp có được
cũng là giá trị thặng dư bóc lột được từ sức lao động của công nhân làm thuê.
- Công thức chung của tư bản cho vay:
T - Cho vay - T’


Các nhà tư bản cho vay dùng tiền của mình để cho người khác vay với một lãi
xuất họ cho là hợp lí rồi sau một thời gian họ sẽ thu lại được một khoản tiền
khác lớn hơn khoản tiền họ bỏ ra. Lúc này họ cũng đã có thêm một lượng giá
trị thặng dư mới từ lượng tư bản mà họ đã bỏ ra.
Về bản chất, các nhà tư bản công nghiệp là người vay tiền của các nhà tư bản
cho vay để lấy vốn đầu tư, sản xuất, có thể là mua thêm tư liệu sản xuất và sức
lao động để tạo thêm ra giá trị thặng dư cho họ. Các nhà tư bản cơng nghiệp
này muốn có thêm vốn để có thể có thêm nhiều giá trị thặng dư hơn thì họ
phải nhường một lượng tư bản nhất định cho tư bản cho vay. Nói cách khác tư
bản cho vay có được lượng giá trị thặng dư là nhờ sự bóc lột sức lao động của
các lao động làm thuê. Lượng giá trị thặng dư đó thực chất là được bóc lột từ
các cơng nhân lao động mà nhà tư bản công nghiệp đã thuê về.
-


Công thức chung của tư bản ngân hàng:
T - Ngân hàng - T’

Nhà tư bản ngân hàng là một nhà tư bản đặc biệt, họ là những người kinh
doanh một mặt hàng đặc biệt đó là tiền. Tiền được họ bỏ ra thực hiện hai hoạt
động đồng thời cùng xảy ra trong một lúc là cho các nhà tư bản công nghiệp
hay các nhà tư bản khác vay như một nhà tư bản cho vay, và đồng thời họ
cũng đi vay tiền của bất kì ai kể cả là các nhà tư bản hay các cơng
nhân,...miễn là họ có tiền và sau một thời gian sẽ trả lại với một lượng lớn
hơn. Tư bản ngân hàng hoạt động theo kiểu vừa cho vay có lãi xuất vừa đi vay
có lãi xuất, và họ thu được giá trị thặng dư nhờ lãi xuất họ cho vay lớn hơn lãi
xuất họ đi vay.
Các nhà tư bản khác tìm đến vay tiền của tư bản ngân hàng là để có thêm vốn
để sản xuất kinh doanh, họ cũng sẵn sàng nhường một phần giá trị thặng dư
mà mình kiếm được cho tư bản ngân hàng. Những người có tiền khác cho nhà
tư bản ngân hàng vay cũng là để lấy một lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản


ngân hàng nhận được từ tư bản sản xuất. Nhà tư bản ngân hàng nhận được
khoản giá trị thặng dư lớn hơn khoản giá trị thặng dư mà họ phải trả cho
người có tiền cho họ vay và họ vẫn có lãi.
-

Cơng thức chung của tư bản kinh doanh ruộng đất:
T - Ruộng đất - T’

Nhà tư bản ruộng đất có ruộng đất và họ cho một nhà tư bản cơng nghiệp nào
đó th trong một thời gian để họ có điều kiện sản xuất, có thêm được giá trị
thặng dư. Nhưng bù lại, nhà tư bản cơng nghiệp đó phải nhượng lại một phần
giá trị thặng dư mà mình sản xuất ra được kiếm được từ việc bóc lột công

nhân làm thuê cho nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Vậy suy cho cùng thì
lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản ruộng đất có cũng là lượng giá trị thặng
dư mà các lao động làm thuê bị bóc lột. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất lúc
này trở thành người gián tiếp bóc lột các lao động làm th.
2.TUẦN HỒN CỦA TƯ BẢN
Tư bản cơng nghiệp trong q trình tuần hồn đều vận động theo cơng
thức:
Sức lao động
T-H

...SX...- H’ - T’
Tư liệu sản xuất

Sự vận động này trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai
đoạn sản xuất.
- Giai đoạn thứ nhất- giai đoạn lưu thông.
Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường các yếu tố sản xuất, để mua tư liệu sản
xuất và sức lao động.
Q trình lưu thơng đó được biểu thị như sau:
Sức lao động
T-H
Tư liệu sản xuất


Giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, chức năng giai
đoạn này là mua các yếu tố cho quá trình sản xuất, tức là biến tư bản tiền tệ
thành tư bản sản xuất.
- Giai đoạn thứ hai- giai đoạn sản xuất
Sức lao động
T-H


...SX...- H’
Tư liệu sản xuất

Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất (TBSX),
có chức năng thực hiện sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động
để sản xuất ra hàng hóa mà trong đó giá trị của nó có giá trị thặng dư. Trong
các giai đoạn tuần hoàn của tư bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết
định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Kết thúc của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản
hàng hóa.
- Giai đoạn thứ 3- giai đoạn lưu thông
H’- T’
Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàng hóa, chức năng
là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra. Trong giai đoạn
này, nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hóa của
nhà tư bản được chuyển hóa thành tiền.
Kết thúc giai đoạn thứ ba, tư bản tư bản hàng hóa chuyển hóa thành tư bản
tiền tệ. đến đây mục đích của nhà tư bản đã được thực hiện,tư bản quay trở
lại hình thái ban đầu trong tay chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn nói trên là sự vận động có tính tuần
hồn: tư bản ứng ra dưới hình thái tiền tệ và rồi đến khi quay trở về cũng dưới


hình thái tiền có kèm theo giá trị thặng dư. Q trình đó tiếp tục được lặp đi
lặp lại khơng ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
Tư bản vận động qua 3 giai đoạn, qua mỗi giai đoạn tư bản tồn tại dưới
một hình thức và làm trên một chức năng nhất định. ở giai đoạn một tư bản
tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ mà chức năng của nó là mua hàng hố. Cụ
thể hơn chính là mua tư liệu sản xuất và sức lao động. ở giai đoạn hai, tư bản

tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất mà chức năng của nó là sản xuất ra giá
trị thặng dư. Cụ thể hơn ở giai đoạn này nhà tư bản sử dụng sức lao động tác
động lên tư liệu sản xuất để tạo nên sản phẩm. Lao động của công nhân làm
thuê sẽ tạo ra một lượng sản phẩm mà nhà tư bản khơng phải trả bằng vật
ngang giá đó là giá trị thặng dư. ở giai đoạn ba tư bản tồn tại dưới hình thức tư
bản hàng hố chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. ở giai
đoạn này nhà tư bản đem hàng hố ra thị trường bán, trong hàng hố cơng
nhân làm thêm. Nhà tư bản đem về giá trị bán được lớn hơn lượng giá trị bỏ ra
ban đầu.
Từ quá trình vận động của nhà tư bản ta rút ra định nghĩa về sự tuần hoàn
của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai
đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau
để rồi lại quay về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
Vậy q trình tuần hồn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và
sản xuất, nó bao hàm cả hai. Trong những khâu, những giai đoạn nhất định nó
thực hiện một chức năng nhất định. Giai đoạn I và giai đoạn III sự vận động
của tuần hồn diễn ra trong lưu thơng. ở hai giai đoạn này nó thực hiện chức
năng mua các yếu tố sản xuất và bán hàng hố có chứa đựng cả giá trị thặng
dư.


Giai đoạn II diễn ra trong sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất giá trị
và giá trị thặng dư. Giai đoạn II mang tính chất quyết định và chỉ trong giai
đoạn này mới sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhưng cũng khơng vì vậy
mà ta phủ nhận vai trị của lưu thơng vì nếu khơng có lưu thơng việc sản xuất
hàng hố sẽ bị đình trệ, chúng ta không thể nào tái sản xuất tư bản chủ nghĩa
do đó tư bản cũng khơng tồn tại được.
Tư bản chỉ có thể tuần hồn một cách bình thường trong điều kiện các
giai đoạn phải kế tiếp nhau liên tục, không ngừng. Nếu mà gián đoạn ở đâu thì

sẽ ảnh hưởng đến tồn bộ q trình tuần hồn của tư bản. Mặt khác tư bản
cũng chỉ tuần hoàn một cách bình thường nếu tất cả tư bản của các nhà tư bản
phải tồn tại ở ba hình thức: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá,
và một bộ phận thứ ba là tư bản hàng hố phải biến thành tư bản tiển tệ.
Khơng chỉ từng tư bản cá biệt mới thế mà điều này đòi hỏi tất cả các tư bản
trong xã hội cũng phải thế. Các tư bản không ngừng vận động, khơng ngừng
trút bỏ hình thức này để mang hình thức khác, thơng qua q trình vận động
này tư bản lớn lên.
3.CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN
Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là một q trình định kỳ đổi mới
và lặp đi lặp lại, chứ không phải là một q trình cơ lập riêng lẻ thì gọi là chu
chuyển của tư bản. Những tư bản khác nhau chu chuyển với vận tốc khác
nhau tùy theo thời gian sản xuất và thời gian lưu thơng của hàng hóa.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian kể từ khi tư bản
ứng ra dưới một hình thức nhất định (tiền tệ, sản xuất, hàng hố) cho đến khi
nó trở về tay nhà tư bản do cùng dưới hình thức như thế nhưng có thêm giá trị
thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời
gian lưu thông.
Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất.


Thời gian sản xuất gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và
thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác
động của nhiều yếu tố như :
Tính chất của ngành sản xuất, như ngành đóng tài thời gain sản xuất

-

nhất định phải dài hơn ngành dệt vải, dệt thảm trơn ngắn hơn dệt thảm
trang trí hoa văn.

Quy mô hoặc chất lượng sản phẩm, như xây dựng một xí nghiệp mất
thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường.
Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay
ngắn
Năng suất lao động
Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu
V.v…
Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.
Trong thời gian lưu thông , tư bản không làm chức năng sản xuất , do đó
khơng sản xuất ra hàng hóa, cũng khơng sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian
lưu thơng gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. Thời gian lưu
thơng dài hay ngắn là do các nhân thố sau đây quy định: thị trường xa hay
gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của ngành giao thơng
vận tải..
Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá
trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Số vòng chu chuyển
Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thì số
lần chu chuyển trong 1 đơn vị thời gian (1 năm) khơng giống nhau, nói cách
khác, tôc độ chu chuyển của chúng khác nhau.
Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vòng) chu chuyển cảu tư bản
trong một năm


Ta có cơng thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản như sau:
n= TGn/TGa
Trong đó:
n: Số lần chu chuyển cảu tư bản trong 1 năm
TGn: Thời gian trong năm
TGa: Thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định

Như vậy, tốc độ chu chuyển cảu tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu
chuyển cảu tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời
gian san xuất va thời gian lưu thơng của nó
Lực lượng sản xuất phát triển, kỹ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ
chức sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hóa học, sinh học hiện đại
vào sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch
được cải tiển… cho phép rút nagwns thời gian chu chuyển ảu tư bản, dơ đó,
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
4. TƯ BẢN CỐ ĐỊNH VÀ TƯ BẢN LƯU ĐỘNG .
Các bộ phận khác nhau cảu tư bản sản xuất không chu chuyển một cách
giống nhau. Sở dĩ như vậy là vì mỗi bộ phận tư bản dịch chuyển giá trị của nó
vào sản phẩm theo những cách thức khác nhau. Căn cứ vào tính chất chu
chuyển khác nhau, người ta chia tư bản sản xuất thành hai bộ phận: tư bản cố
định va tư bản lưu động.
Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất đồng thời là bộ phận
chủ yếu của tư bản bất biến (máy móc, thiết bị, nhà xưởng…) tham gia tồn
bộ vào q trình sản xuất, nhưng giá trị của nó khơng chuyển hết một lần vào
sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mịn của nó trong q
trình sản xuất.


Tư bản cố định được sủ dụng lâu dài trong nhiêu chu kỳ sản xuất và nó bị
hao mịn dần trong q trình sản xuất. Có 2 loại hao mịn là hao mịn hữu hình
và hao mịn vơ hình.
Hao mịn hữu hình là hao mịn về vật chất, hao mịn giá trị sử dụng. hoa
mịn hữu hình do q trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các
bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn tới chỗ hỏng và phải được thay
thế.
Hao mòn vơ hình là sự hao mịn thuần túy về mặt giá trị. Hoa mịn vơ hình
xảy ra ngay cả khi máy móc cịn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy

móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao
hơn. Để tránh hao mịn vơ hình các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao
động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc…nhằm tận dụng máy móc
trong thời gian càng ngắn càng tốt.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để
tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên
tránh được thiệt hại hao mịn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mịn vơ
hình gây ra. Nhờ đó mà có điệu kiện đổi mới thiết bị nhanh.
Tư bản lưu động là một bộ phận cảu tư bản sản xuất, gồm một phần tư
bản bất biến ( nguyên liệu, vật liệu, vật liệu phụ…) và tư bản khả biến (sức lao
động) được tiêu dùng hoàn toàn trong chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được
chuyển tồn bộ vào sản phẩm trong quá trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ
chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu
chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được
sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước: mặt khác do tốc độ
chu chuyển của tư bản lựu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư
trong năm tăng lên.


Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động
là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong
quá trình sản xuất.


Phần 3: Thực tiễn
1.KINH TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY .
Hệ thống kinh tế
Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp. Trong khi nền kinh tế ngày càng
được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn ở

mức độ cao. Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường.
Việt Nam có nhiều thành phần kinh tế. Theo cách xác định hiện nay của chính phủ, Việt
Nam có các thành phần kinh tế sau:
- kinh tế nhà nước
- kinh tế tập thể.
- kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân).
- kinh tế tư bản nhà nước.
- kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Cơ cấu kinh tế
Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh
tế, đó là:
1) nơng nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
2) cơng nghiệp (bao gồm cơng nghiệp khai thác mỏ và khống sản, công
nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân
phối khí, điện, nước).
3) thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế.
Tình hình kinh tế.
Cơng cuộc 15 năm đổi mới của đất nước ta đã tạo được những thành
tựu to lớn .Viêt Nam từ một nước phải nhập khẩu lương thực nay đã sản xuất
đủ tự cung cấp ,có dự trữ và còn xuất khẩu gạo ....xuất khẩu tăng mạnh ,thâm
hụt thương mại giảm .Từ năm 1989 Việt nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô,đem


lại nguồn thu lớn .Lạm phát được kiềm chế dần dần .Vị thế của nước ta trên
trường quốc tế không ngừng được nâng cao .Sức mạnh tổng hợp của quốc gia
càng tăng lên rất nhiều ,tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với
những triển vọng tốt đẹp .GDP tăng bình quân hàng năm 7% ,gia sản lượng
công nghiệp hàng năm 13,5%.Hệ thống kết cấu hạ tầng ,bưu chính viễn thơng
đường xá ....được tăng cường .Văn hóa xã hội có những tiến bộ ,đời sống nhân

dân được cải thiện .Tình hình kinh tế chính trị xã hội được ổn định ,quốc
phòng an ninh được tăng cường .
2. Vốn và vấn đề huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiên nay .
2.1.khái niệm ,bản chất ,phân loại và vai trò của vốn .
2.1.1. Khái niệm về vốn và nguồn vốn
Vốn(C) là biểu hiện bằng tiền của tất cả các nguồn lực đã bỏ ra để đầu tư. Các
nguồn lực có thể là của cải vật chất tài nguyên thiên nhiên là sức lao động và
tất cả các tài sản vật chất khác.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng
giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã
hội. Đây là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho
đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
2.1.2. Bản chất của nguồn vốn
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích
luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã
hội .
2.1.3. Vai trò của nguồn vốn đầu tư:
Để thực hiện hoạt động đầu tư phát triển thì phải có vốn. Vốn là chìa khố để
thực hiện mọi mục tiêu của doanh nghiệp. Vốn có tầm quan trọng đối với hoạt
động kinh tế như máu trong cỏ thể người.


Kế thừa những tư tưởng của những nhà kinh tế cổ điển,C. Mác đã trình bày
những quan điểm của mình về vai trò của vốn qua các học thuyết : tích luỹ ,
tuần hồn và chu chuyển, tái sản xuất tư bản xã hội, học thuyết địa tô... Đặc
biệt C.Mác đã chỉ ra nguồn gốc của vốn tích luỹ là lao động thặng dư do
người lao động tạo ra, và nguồn vốn đó khi đem vào việc mở rộng và phát
triển sản xuất thì nó vận động như thế nào. Khi nghiên cứu nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa C. Mác đã tìm thấy quy luật vận động tư bản (vốn) mà quy luật
này nếu ta trừu tượng những biểu hiện cụ thể về mặt xã hội thì sẽ thấy bổ ích

rằng cơng thức:
T – H –(SLĐ-TLSX) ...SX...H’...T’
Cơng thức đó đã chỉ ra rằng bất kì một doanh nghiệp nào muốn thực hiện quá
trình sản xuất kinh doanh cũng đều phải trải qua 3 giai đoạn: Mua-Sản xuấtBán hàng. Và điều quan trọng cho mỗi người sản xuất, mỗi doanh nghiệp phải
biết tìm cách cấu trúc một cách khơn ngoan các yếu tố của tiền vốn ,đầu tư
nhằm tạo ra nhiều của cải nhất cho mỗi cá nhân , mỗi doanh nghiệp và của cả
xã hội. Cơng thức đó cũng chỉ ra rằng trong dòng chảy liên tục của vốn đầu tư
nếu như hình thái nào trong ba hình thái trên chưa đi vào chu trình vận động
liên tục của các hoạt động sản xuất kinh doanh thì đồng vốn đó vẫn ở dạng
tiềm năng, chứ nó chưa đem lại lợi ích thiết thực cho mỗi các cá nhân, mỗi
doanh nghiệp và tồn xã hội. Tích luỹ vốn (tư bản) theo C.Mác là: “Sử dụng
giá trị thặng dư làm tư bản, hay chuyển hoá giá trị thặng dư trở lại thành tư
bản...”. Từ những phân tích trên C. Mác đã chỉ ra bản chất của q trình tích
luỹ vốn trong các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa: “Một khi kết hợp được sức
lao động và đất đai tức là hai nguồn gốc đầu tiên của cải, thì tư bản có một sức
bành chướng cho phép nó tăng những yếu tố tích luỹ của nó lên q những
giới hạn mà bề ngồi hình như do lượng của bản thân tư bản quyết định, nghĩa


là do giá trị và khối lượng của những tư liệu sản xuất (trong đó tư bản tồn tại)
đã được sản xuất ra quyết định”.
Yêu cầu khách quan của tích luỹ vốn đã được C.Mác khẳng định do những
nguyên nhân sau :”Cùng với sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa thì quy mơ tối thiểu mà một tư bản cá biệt phải có để có thể kinh
doanh trong điều kiện bình thường cũng tăng lên.”
Từ đó C. Mác khẳng định :” Sự cạnh tranh bắt buộc nhà tư bản nếu muốn duy
trì tư bản của mình thì phải làm cho tư bản ngày càng tăng thêm mãi lên và
không thể nào tiếp tục làm cho tư bản đó ngày càng tăng lên được nếu khơng
có sự tích luỹ ngày càng nhiều thêm”.C. Mác cịn chỉ ra rằng những nhân tố
quy định quy mơ của tích luỹ : khối lượng giá trị thặng dư (lơị nhuận) năng

suất lao động xã hội và quy mô vốn ban đầu (lượng tư bản ứng trước)...
Như vậy, cùng với lao động, vốn (tư bản) là một trong các yếu tố đầu vào sản
xuất ra hàng hố, dịch vụ.Cơng nghệ sản xuất hiện có quyết định mức sản
lượng được sản xuất ra từ một lượng tư bản và lao động nhất định.
2.1.4. Phân loại nguồn vốn
2.1.4.1)Vốn ngân sách nhà nước
Đây là nguồn vốn lớn và chiếm tỷ trọng thường xuyên . Có nguồn vốn ngân
sách vừa là một thế mạnh nhưng cũng tạo khơng ít hạn chế trong hoạt động
quản lý của doanh nghiệp.
2.1.4.2)Nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung (gồm các hoạt động phát hành
cổ phiếu.).
Phát hành cổ phiếu là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp và là nguồn
tài chính dài hạn rất quan trọng của doanh nghiệp.
♦ Cổ phiếu thường.


Cổ phiếu thường (cịn gọi là cổ phiếu thơng thường) là loại cổ phiếu thông
dụng nhất, đồng thời là chứng khoán quan trọng nhất đước trao đổi, mua bán
trên thị trường chứng khoán.
Sau khi phát hành phần lớn cổ phiếu nằm trong tay các nhà đầu tư- các cổ
đông. Những cổ phiếu này gọi là những cổ phiếu đang lưu hành trên thị
trường. Cơng ty phát hành có thể mua lại những cổ phiếu của mình và giữ
chúng nhằm mục đích nào đó, chúng được gọi là cổ phiếu ngân quỹ. Việc mua
bán những cổ phiếu này phụ thuộc vào một sổ yếu tố như:
- Tình hình biến động vốn , khả năng đầu tư,thị giá chứng khốn.
- Chính sách đối với việc sát nhập hoặc thơn tính cơng ty.
-Tình hình trên thị trường chứng khốn và quy định của uỷ ban chứng khoán
nhà nước.
♦ Cổ phiếu ưu tiên.
Được hiểu là loại cổ phiếu phát có kèm theo một số điều kiện ưu tiên cho nhà

đầu tư sở hữu nó. Thường chỉ chiểm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu
được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp việc sủ dụng cổ phiếu ưu
tiên là thích hợp.
Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó thường có cổ tức cổ định. Người chủ sở
hữu cổ phiếu này có quyền được thanh tốn lãi trước các cổ đơng thông
thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức cho các cổ đơng ưu tiên thì các cổ đơng
thường sẽ khơng được nhận cổ tức của kỳ đó.
Các cổ phiếu ưu đãi có thể được chính cơng ty phát hành thu lại khi công ty
cần thiết
Một vấn đề rất quan trọng cần đề cập khi phát hành cổ phiếu ưu tiên là thuế.
Khác với chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập cơng ty,cổ tức
được lây từ lợi nhuân sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên.
♦Chứng khốn có thể chuyển đổi.


Ở một số nước, các cơng ty có thể phát hành những chứng khốn kèm theo
những điều kiện có thể chuyển đổi được. Nói chung, sự chuyển đổi và lựa
chọn cho phép các bên (cơng ty,người đầu tư) có thể chuyển đổi.
2.1.4.3)Nguồn vốn vay ngân hàng và các nguồn vay khác
 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
♦ Vai trị:
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ
đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà cịn đối với tồn bộ
nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng
hoặc khơng sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại
vững chắc trên thương trường.Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp
thường vay ngắn hạn ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở
rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
♦ Phân loại.

• Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân thành ba loại:
-Vay dài hạn: thường tính từ 3 năm trở lên, có nơi tính 5 năm. Có lãi suất cao,
vì mang nhiều rủi ro cho người cho vay.
-Vay trung hạn: Từ 1 đến 3 năm. Có lãi suất thấp hơn vay dài hạn.
-Vay ngắn hạn : dưới 1 năm. Có lãi suất thấp nhất.


Theo tính chất và mục đích sử dụng, có thể phân thành các loại:

-Vay để đầu tư tài sản cố định.
-Vay đầu tư tài sản lưu động.
-Vay theo dự án.
 Nguồn vốn tín dụng thương mại (Vốn chiếm dụng của nhà cung cấp)
● Khái niệm


Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được biểu
hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hố. Tín dụng thương mại xuất
hiện là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng. Do đặc tính thời vụ trong
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng
hóa.
●Vai trị
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp
thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp
ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu, đồng thời giúp
cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hố của mình. Mặt khác, sự tồn tại
của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn
nhằm đáp ứng kịp thời hoạt động sản xuất kinh doanh.
● Hạn chế
- Hạn chế về quy mơ tín dụng: Tín dụng thương mại là do các doanh nghiệp

cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay
có nhu cầu cao hơn thì người cho vay khơng thể đáp ứng được.
- Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kì sản xuất của
các doanh nghiệp có thể khơng phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn mà
người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu khơng phù hợp
nhau thì tín dụng này khơng thể xảy ra.
- Hạn chế về phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình
thức hàng hóa, vì vậy mà doanh nghiệp chỉ có thể cung cấp được tín dụng cho
một số doanh nghiệp nhất định, những doanh nghiệp cần hàng hố đó để sử
dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra.
2.2 .vấn đề huy động và sử dụng vốn ở nước ta hiện nay.
2.2.1. Vấn đề huy động vốn ở nước ta hiện nay.


Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh được thì phải có vốn. Trong
nền kinh tế thị trường vốn tồn tại ở nhiều dạng: tài sản, tiền, sức lao động...
Có rất nhiều nguồn vốn khác nhau: Vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn vay,
vốn tự có, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết, vốn do nước ngoài tài trợ...
Từ các nguồn vốn này các doanh nghiệp phải tìm một giải pháp, một nguồn
vốn sao cho hợp lý để đưa vào kinh doanh sản xuất.
-Đối với các doanh nghiệp quốc doanh hay gọi là các doanh nghiệp nhà nước
nguồn vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp là ngân sách nhà nước. Nhà nước
trực tiếp bỏ ngân sách của mình ra cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
hàng năm nhà nước thu về một lượng nào đó(hiện nay là 6% đối với số tiền
nhà nước bỏ ra). Ngoài ra hiện nay nhà nước cổ phần hố, liên doanh tồn
phần và từng phần với nước ngồi để có vốn đầu tư sản xuất kinh doanh.
-Đối với các doanh nghiệp cả quốc doanh lẫn tư nhân trong cơ chế thị trường,
nguồn vốn vay ngân hàng là một phần trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Nhà nước có nhiều ưu đãi khi đề ra các mức lãi suất khác nhau khi vay ngân
hàng cho các doanh nghiệp sản xuất. Nhưng tình hình thực tế hiện nay cho

thấy rằng các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả,
chưa đủ sức cạnh tranh và thích nghi với cơ chế thị trường, ngày càng kéo dài,
kể cả nợ ngân sách, nợ chiếm dụng vốn lẫn nhau phổ biến.
Từ kinh doanh thua lỗ, nợ nần dây dưa khó địi dẫn đến khả năng tự tích luỹ
của doanh nghiệp rất hạn chế, tái đầu tư đổi mới thiết bị thấp, chất lượng sản
phẩm kém nên gặp khó khăn trong tiêu thụ và cạnh tranh sản phẩm trên thị
trường. Mặt khác việc cấp tín dụng cho vay đáp ứng cho hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp cịn nhiều khó khăn, vấn đề này xuất phát từ
việc ngân hàng chưa tìm ra một hệ thống các kỹ thuật cho vay thích hợp với
các doanh nghiệp.


Một số nguyên tắc để ngân hàng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp là sự tín
nhiệm của ngân hàng đối với doanh nghiệp đó, sự tin tưởng sẽ thu hồi lại
được vốn và lãi đúng hạn. Tuy nhiên để đánh giá một doanh nghiệp có đủ tín
nhiệm hay khơng còn phụ thuộc vào việc ngân hàng thu nhập được lượng
thông tin về hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay một thực trạng cần được
khắc phục ở hầu hết các ngân hàng là thông tin về khách hàng thiếu đầy đủ
làm cho các doanh nghiệp có tình hình tài chính tồi tệ cũng được cấp phép cho
vay. Gây ra tình trạng ngân hàng không thu hồi lại được vốn. Các ngân hàng
là trung tâm tiền tệ, là nơi trung gian để người thừa vốn đến gửi và những
người thiếu vốn đến vay. Đây là một nguồn vốn rất đáng quý cho các doanh
nghiệp của chúng ta hiện nay. Nhưng ta thấy trong hệ thống ngân hàng cịn có
nhiều bất cập: quá cửa quyền, thiếu trách nhiệm nên gây ra không ít hiệu quả
nặng nề mà nhà nước là người hứng chịu.Mấy năm gần đây hệ thống ngân
hàng có nhiều đổi mới vấn đề vay tín dụng có dễ dàng hơn nếu có đầy đủ giấy
phép hợp lệ. Tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội trong sản xuất kinh
doanh.
-Cổ phần hoá doanh nghiệp là vấn đề huy động vốn rất hợp lý hiện nay. Khi ta
cổ phần hoá doanh nghiệp chúng ta huy động được nguồn vốn trong dân cư

mà vẫn duy trì sự chi phối của nhà nước ở mức độ cần thiết.
-Hiện nay chúng ta đã có thị trường chứng khốn, thơng qua đó chúng ta có
một điều kiện rất thuận lợi để mua bán những loại hàng hố đặc biệt - đó là
chứng khốn. Chứng khốn hiện nay rất đa dạng: cổ phiếu thông thường, cổ
phiếu ưu đãi... Thị trường chứng khoán là phương thức tài trợ trực tiếp (gửi
tiết kiệm vào các định chế tài chính là tài trợ gián tiếp) để người có vốn đầu tư
thẳng cho người có nhu cầu. Nhờ có thị trường chứng khốn các doanh nghiệp
có thể phát hành cổ phiếu trái phiếu dễ dàng, khi cần tăng vốn hoặc cần vốn
thời gian dài đề đổi các máy móc thiết bị. Thơng qua giá cả chứng khốn của


×