Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

sang kien kinh nghiem tai san

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.66 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN ĐÔNG HẢI TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỊNH THÀNH A. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM  MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHI DẠY KIỂU BÀI TẬP LÀM VĂN “NGHE -KỂ MỘT CÂU CHUYỆN VUI” LỚP 3. Người viết : Tran Thanh Tam – Lớp 3A1 Đơn vị : Trường tiểu học Thoi Phong A. Năm học : 2010– 2011.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Nhận xét của Hội đồng khoa học giáo dục 1/ Cấp cơ sở: + Tổ: ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ( Tổ trưởng, ký tên ) + Hội đồng thi đua trường: ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… (Thủ trưởng, ký tên, đóng dấu ). 2/ Cấp huyện: ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… + Xếp loại : XÁC NHẬN. ( ………. đ ) TM.HĐSKKN. ( Người chấm, ký và ghi rõ họ, tên ). MỤC LỤC.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Trang Bìa phụ ..........................................................................................................1 Mục lục .........................................................................................................2 Tài liệu tham khảo ........................................................................................3. PHẦN I : MỞ ĐẦU ................................................................................4 I. Lý do chọn đề tài ...................................................................................4 1) Cơ sở lý luận ..................................................................................5 2) Cơ sở thực tiễn ...............................................................................6 II. Phạm vi nghiên cứu đề tài ....................................................................7 1) Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................7 2) Đối tượng nghiên cứu .....................................................................7 3) Phương pháp nghiên cứu ................................................................7. PHẦN II : GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ ............................................7 I. ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG .................................................................7 1) Về nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 3 ............................7 2) Về phía giáo viên ............................................................................8 3) Về phía học sinh ..............................................................................9 4) Về cơ sở vật chất và trang thiết bị ...................................................9 II. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn"Nghe - kể lại một câu chuyện vui"lớp 3.................................10 1) Nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện ..............................................10 2) Tạo hứng thú cho học sinh ngay từ khi giới thiệu truyện và khi kể mẫu .....................................................................................10 3) Tổ chức cho học sinh kể lại chuyện ...............................................12 III. Kết quả áp dụng ..................................................................................15 IV. Bài học kinh nghiệm ...........................................................................16. PHẦN III : KẾT LUẬN .......................................................................16.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO - Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3, tập 1 và 2. Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2004. - Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 3, tập 1 và 2. Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2004. - Vở bài tập Tiếng Việt lớp 3, tập 1 và 2. Nhà xuất bản giáo dục. Năm 2004. - Các tiết dạy Tập làm văn lớp 3. PHẦN I : MỞ ĐẦU Đất nước con người Việt Nam đang chuyển mình tiến lên ngày càng lớn mạnh, đó là sự lớn mạnh về kinh tế,chính trị, khoa học kỹ thuật … Kinh tế xã hội ngày càng phát triển đòi hỏi con người Việt Nam cũng phải vươn lên bắt nhịp với những đổi mới của xã hội. Để đào tạo ra những thế hệ con người Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo cũng phải đổi mới. Đổi mới trong ngành giáo dục không đơn thuần chỉ đổi mới về nội dung, chương trình, đổi mới trang thiết bị dạy học mà còn đổi mới phương pháp dạy học và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với nhận thức của học sinh giúp học sinh hứng thú linh hoạt trong việc chiếm lĩnh tri thức và tư duy.Với mục tiêu là : "Đào tạo con người mới phát triển toàn diện", chúng ta coi học sinh không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể giáo dục. Chính vì thế chúng ta cần dạy đủ sáu môn học, trong đó môn Tiếng Việt ở tiểu học là vô cùng quan trọng. Bởi nó làm nền tảng giúp học sinh, học các môn khác trong trường tiểu học..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Nội dung dạy học Tập làm văn lớp 3 chủ yếu rèn luyện cho học sinh ba kỹ năng cơ bản: Nghe, nói, viết nhằm phục vụ cho việc học tập và giao tiếp hàng ngày của các em.Trong ba kỹ năng cơ bản đó thì hai kỹ năng nghe, nói của học sinh được rèn luyện nhiều nhất. Ở loại bài tập "nghe và kể lại một câu chuyện" , loại bài tập này chiếm dung lượng khá lớn trong phân môn tập làm văn.Trong đó, số câu chuyện vui chiếm hơn một nữa số câu chuyện được học sinh kể. Dưới đây là những vấn đề tôi đã nghiên cứu, đúc rút giúp giáo viên áp dụng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3 kiểu bài nghe kể lại một câu chuyện vui. Tuy nhiên, do năng lực có hạn, thời gian nghiên cứu ngắn, tài liệu tham khảo còn thiếu thốn nên đề tài nghiên cứu của tôi cũng còn có nhiều thiếu sót. Tôi rất mong được sự góp ý từ phía các thầy cô giáo và lãnh đạo nhà trường để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn . I. Lý do chọn đề tài Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng đó là: "nghe - nói - đọc - viết". Trong đó môn tiếng Việt có các phân môn như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn... trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất thích hợp của các phân môn khác. Qua tiết tập làm văn, học simh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri, thức trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau. Cùng hợp tác trong cuộc sống lao động. Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản và dưới dạng viết văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn lớp 3 nói riêng. Vấn đề đặt ra: Người giáo viên dạy tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn tập làm văn là phân môn khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho HS khả năng trình bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chứng cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung quanh. Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, HS với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn đó, bản thân tôi đã tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm đề tài sáng kiến kinh nghiệm " Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn nghe - kể lại một câu chuyện vui ở lớp 3" ..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 1) Cơ sở lý luận: Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng : nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong và ngoài nhà trường. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh, đồng thời cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu như: Đọc thành thạo một văn bản ngắn, bước đầu biết đọc diễn cảm, viết đúng chính tả, viết rõ ràng, nghe nói một cách tự nhiên. Cung cấp cho học sinh những hiểu biết về xã hội, tự nhiên và con người. Từ đó bồi dưỡng cho học sinh tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Cũng như các môn học khác, môn Tiếng Việt cũng được đổi mới toàn diện về cấu trúc chương trình, nội dung. Sự đổi mới của môn học Tiếng Việt lớp 3 thể hiện rõ rệt ở tất cả các phân môn, đặc biệt là phân môn Tập làm văn. So với chương trình cải cách, phân môn tập làm văn đổi mới hoàn toàn về cấu trúc nội dung, thể hiện rõ nhất ở các dạng bài tập làm văn. Mảng truyện cười trong Tập làm văn lớp 3 nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe - kể. Nếu ở bài tập đọc các em được trực tiếp đọc văn bản thì ở phân môn tập làm văn việc tiếp nhận câu chuyện được thể hiện qua hình thức nghe thầy cô kể và ghi nhớ lại.Việc nghe kể này có tác dụng rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, nói song điều quan trọng các em không thể dừng lại ở việc kỹ năng nghe - nói mà còn rèn luyện kỹ năng nghe - phát hiện, nghe - phân tích, phán đoán. Đó là một trong những hình thức rèn luyện tư duy logic cho trẻ rất hiệu quả. Trong những câu chuyện cười ở Tập làm văn lớp 3, tiếng cười không phải là mục đích, là cốt cách của câu chuyện mà nó là phương tiện chủ yếu quan trọng của thể loại truyện cười. Đối tượng thẩm mĩ chủ yếu của loại truyện này là những cái xấu, đáng cười, có thể cười hay nói cách khác đó là những thói hư tật xấu, cái cần và có thể phê phán bằng tiếng cười. Song khi đọc hoặc nghe kể chuyện cười, nếu cả người đọc và người nghe chưa phát hiện được ra hiện tượng buồn cười, chưa làm bật tiếng cười cũng có nghĩa là chưa nhận ra được ý nghĩa phê phán của truyện cười.Vì thế, việc rèn luyện kỹ năng nghe, kể cho học sinh bằng những câu chuyện vui cười có tác dụng giáo dục sâu sắc vừa tăng cường sự phản ứng của lý trí trước những hiện tượng khác với lẽ thường mà các em bắt gặp đâu đó từ trong sách đến cuộc sống sinh động hằng ngày. 2) Cơ sở thực tiễn: Qua thực tế giảng dạy, dự gìơ thăm lớp và trao đổi thảo luận với giáo viên về những điểm khó khi thực hiện chương trình tôi thấy loại bài tập nghe và kể lại một câu chuyện vui trong phân môn tập làm văn lớp 3 có ý nghĩa vô cùng quan trọng, loại bài tập này rất hấp dẫn, lôi cuốn học sinh tạo ra sự thoải mái cho giáo viên trong quá trình giảng dạy..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Nhưng trong thực tế giảng dạy, hiệu quả của bài tập nghe, kể lại một câu chuyện vui thường có từ hai bài tập trở lên. Ví dụ: Tiết tập làm văn của tuần 11 gồm hai bài: Bài 1 : Nghe và kể lại câu chuyện : Tôi có đọc đâu. Bài 2 : Nói về quê hương em. Nên việc dành thời gian cho việc nghe kể nhiều, giáo viên thường xem nhẹ, phần bài tập này mà chỉ dạy lướt qua hoặc dành thời gian không thích hợp mà chỉ chú trọng vào bài tập còn lại của tiết học. Chính vì loại bài tập này thường xem nhẹ, dành thời gian không thích hợp nên giáo viên chưa chú trọng tìm ra các phương án kể và hướng dẫn học sinh kể một cách sinh động nên việc thực hiện bài tập này thường diễn ra một cách chiếu lệ, kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu về kiến thức kỹ năng của bài tập và nhu cầu tìm tòi sáng tạo của học sinh. Trước tình hình thực tế đó, tôi đã trăn trở và suy nghĩ rất nhiều, bản thân là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi đã vận dụng đổi mới triệt để trong cách dạy loại bài tập "Nghe kể một câu chuyện vui"trong giờ Tập làm văn lớp 3. Bởi nếu dạy loại bài tập này đạt hiệu quả tốt sẽ rèn cho học sinh tốt các kỹ năng nghe, nói ngày một tốt hơn, đảm bảo được yêu cầu đổi mới cách dạy "nhẹ nhàng, thoải mái, học sinh tích cực chủ động phát hiện và tiếp thu kiến thức mới " hiệu quả hơn rất nhiều. Chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn trình bày " Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn nghe - kể lại một câu chuyện vui ở lớp 3" . II. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn nghe kể lại một câu chuyện vui ở lớp 3 1) Nhiệm vụ nghiên cứu: - Tìm hiểu nội dung chương trình và phương pháp dạy bài tập nghe - kể lại một câu chuyện vui ở Tập làm văn lớp 3. - Điều tra thực trạng dạy và học. - Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy các bài tập dạng này. 2) Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 3A1 Trường tiểu học Định Thành A. Xã Định Thành, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu. 3) Phương pháp nghiên cứu:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Điều tra thực trạng dạy và học. - Nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu liên quan. - Phương pháp tổng hợp, so sánh phân tích.. PHẦN II : GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ I. ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG: 1) Về nội dung chương trình môn Tiếng Việt lớp 3: Chương trình Tập làm văn lớp 3 được cấu trúc theo chương trình đồng tâm, tiết Tập làm văn được bố trí sắp xếp ở các tiết học cuối tuần sau khi học xong các tiết Tiếng Việt trong tuần. Kiến thức tiết Tập làm văn là ứng dụng kiến thức Tiếng Việt đã học trong tuần, trong chủ điểm. Phân môn Tập làm văn lớp 3 gồm 31 tiết và 4 tiết kiểm tra bao gồm các kiểu bài tập : * Bài tập nghe: Nghe và kể lại một mẩu chuyện ngắn; nghe và nói lại một mẩu tin. * Bài tập nói: - Tổ chức điều khiển cuộc họp , phát biểu trong cuộc họp - Kể hoặc tả miệng về người thân trong gia đình, trường, lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao, văn nghệ … * Bài tập viết: - Điền vào giấy tờ in sẵn. - Viết một số giấy tờ theo mẫu. - Viết thư. - Ghi chép sổ tay . - Kể hoặc tả ngắn về người thân trong gia đình, trường, lớp, quê hương, lễ hội, hoạt động thể thao, văn nghệ … Trong tiết có kiểu bài nghe - kể lại một câu chuyện ngắn (10 tiết ). Số truyện vui học sinh được nghe kể chủ yếu tập trung ở học kỳ I: 6 truyện và một truyện vui ở học kỳ II trong tiết 5 ôn tập của tuần 35 . Như vậy số lượng tiết có bài tập nghe kể lại một câu chuyện vui trong phân môn Tập làm văn lớp 3 không nhiều nhưng mục tiêu của loại bài tập đề ra cho học sinh nghe và kể lại được nội dung câu chuyện đúng trình tự, đảm bảo nội dung qua đó rèn kỹ năng nghe, nói cho học sinh. Không những thế mà loại bài tập này còn.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> giúp các em thấy được ý nghĩa và giá trị của tiếng cười qua mỗi câu chuyện giúp các em có ý thức tránh được thói hư, tật xấu, rèn luyện hình thành thói quen cư sử tốt trong cuộc sống hằng ngày. Do đó mỗi câu chuyện vui trong Tập làm văn lớp 3 đều chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả. 2) Về phía giáo viên : Trong quá trình thực tế dự giờ thăm lớp giáo viên, và qua trao đổi với giáo viên dạy lớp 3 năm học này tại trường, tôi thấy việc giúp học sinh thực hiện loại bài tập " Nghe - kể lại một câu chuyện vui" trong giờ Tập làm văn lớp 3 thường được xem nhẹ vì những nguyên nhân sau đây: - Loại bài tập này đơn giản, nội dung tình tiết câu chuyện ngắn, học sinh dễ dàng thực hiện được yêu cầu bài tập. - Kiểu bài tập này thường được ghép với một bài tập khác có yêu cầu cao hơn trong cùng một tiết Tập làm văn. Chính vì thế giáo viên thường chỉ dạy qua, dành ít thời gian cho bài tập này mà dành thời gian cho bài tập khác nhiều hơn. - Do giáo viên không xác định rõ được mục tiêu, ý nghĩa của bài tập này mà không chú ý tới trong khi dạy. Chính vì lẽ đó nên khi hướng dẫn học sinh thực hiện dạy loại bài tập này giáo viên chỉ dạy đơn giản, có thể nói là qua loa với thời gian ngắn cho xong, còn dành thời gian cho bài tập còn lại. Thông thường quy trình dạy bài tập này giáo viên chỉ thực hiện như sau: - Giới thiệu câu chuyện. - Giáo viên kể mẫu ( hoặc đọc trong sách giáo viên - Cho học sinh kể mẫu ( HS khá giỏi ) - Giáo viên nêu ý nghĩa câu chuyện . Với cách thể hiện như vậy giờ học Tập làm văn kiểu bài nghe kể một câu chuyện vui trở nên nhàm chán, đơn điệu, câu chuyện vui trở thành buồn tẻ. 3) Về phía học sinh : Cũng xuất phát từ cách thể hiện như trên của giáo viên đã dẫn tới hiệu quả tiếp thu, lĩnh hội kiến thức của học sinh không cao. Học sinh không nhận thấy cái đáng cười, không thấy buồn cười dẫn đến việc kể lại của các em không còn hào hứng, đôi khi là bắt buộc, gò ép . Cũng do giáo viên kể chuyện thiếu sáng tạo ( đọc 1, 2 lần …) Học sinh kể chuyện cũng gần như lặp lại máy móc những từ ngữ ở câu chuyện mà giáo viên vừa kể ( hoặc đọc ), đối với học sinh khá, giỏi; còn đối với học sinh có nhận thức chậm hơn có thể các em nắm được nội dung câu chuyện xong kể khó thành công, ngôn ngữ lặp đi, lặp lại vấp váp ở nhiều chi tiết. Cho nên kỹ năng nói của các em.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> không được rèn, ngôn ngữ phát triển chậm, điều này ảnh hưởng rất lớn đến các bài tập luyện nói khác. Qua quan sát thực tế ở lớp 3A 1 của tôi, thời gian đầu năm học khi dạy dạng bài “Nghe – kể lại một câu chuyện vui” mà tôi vẫn áp dụng cách dạy như sách giáo viên hướng dẫn thì kết quả đạt được như sau: Sĩ số. 29. Giỏi. Khá. Trung bình. Yếu. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. 8. 27.59. 5. 17.24. 10. 34.48. 6. 20.69. 4) Về cơ sở vật vất trang thiết bị: Hiện tại ở trường tôi về cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy còn thiếu thốn rất nhiều. Bàn ghế cho học sinh ngồi còn chưa đúng quy cách và cũng rất khó khăn trong việc các em học theo nhóm Nhà trường chưa có thư viện riêng để học sinh đọc truyện cũng như phục vụ cho việc giảng dạy. Về trang thiết bị và đồ dùng dạy học ở môn Tập làm văn nói chung, dạng bài Tập làm văn nghe - kể lại một câu chuyện vui ở lớp 3" thì có rất ít tranh ảnh minh họa. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khi dạy kiểu bài Tập làm văn Nghe - kể lại một câu chuyện vui"lớp 3:. ". Qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng ở trường tôi, lớp tôi, đối với một câu chuyện vui khi đọc lên thấy có thể bật ngay tiếng cười nhưng sau khi học xong học sinh lại thấy bình thường, đơn điệu chẳng có gì đáng cười thì việc dạy của giáo viên coi như chẳng gặt hái điều gì sau bài dạy của mình. Chính vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp sau đây. 1) Nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện. - Điều này có thể không mới nhưng rất quan trọng, thông qua việc nghiên cứu kỹ nội dung câu chuyện ta nắm được cái gì ? Dạy cho học sinh cái gì ? - Giáo viên phải tìm hiểu kỹ xem câu chuyện vui nó gây cười như thế nào ? Cười ở chi tiết nào? Tiếng cười bật lên ở tình huống nào? Và tiếng cười ấy có ý nghĩa gì? Ví dụ : Trong truyện "Dại gì mà đổi". Cái chi tiết gây cười khi các em nhận ra hiện tượng buồn cười tưởng chừng có lý nhưng lại hoàn toàn vô lý. Điều vô lý ở chỗ cậu.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> bé đã biết là chẳng ai muốn đổi một đứa con ngoan lấy một đứa con nghịch ngợm, ấy vậy mà cậu bé vẫn rất nghịch ngợm. Ẩn sau tiếng cười sảng khoái ấy là sự phê phán rất ngọt ngào mà mỗi em đều tự nhận ra. Hay trong truyện "Không nỡ nhìn"( TV3 - Tập 1 tr.61) cái đáng cười là ở chỗ: Bản thân anh thanh niên trên chuyến xe đông người cũng nhận thấy là không nỡ ngồi nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng nên đã lấy tay che mặt. Những hiện tượng như vậy không phải là hiếm thấy trong cuộc sống . Câu chuyện ngầm khuyên các em hãy biết chia sẻ, nhường nhịn, biết sống vì mọi người - một yếu tố rất cần thiết trong cuộc sống của lớp trẻ hôm nay. Do đó việc giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung, nắm chắc ý nghĩa của truyện trước khi dạy là vô cùng quan trọng. 2) Tạo hứng thú cho học sinh ngay từ khi giới thiệu truyện và khi kể mẫu . Thông thường đối với không ít giáo viên coi việc giới thiệu bài là chuyện bình thường, không quan trọng nên đôi khi giáo viên làm tắt hoặc qua loa. Việc tạo hứng thú cho học sinh khi giới thiệu có tác dụng lớn, nó giúp cho các em tập trung theo dõi ngay từ đầu, đây là bước tiền đề để giúp các em tái hiện một cách đầy đủ câu chuyện khi kể lại. Tuỳ vào từng câu chuyện, mức độ gây cười và ý nghĩa phê phán của truyện, giáo viên chọn cách giới thiệu cho phù hợp, có thể lựa chọn một số phương án sau: Phương án 1: Giới thiệu dựa vào các gợi ý và tranh minh hoạ truyện trong sách giáo khoa. Điểm thuận lợi cho giáo viên khi giới thiệu loại truyện vui này là trong sách giáo khoa không có nội dung câu chuyện mà chỉ có các câu hỏi gợi ý và tranh minh hoạ. Riêng điều này đã thu hút sự chú ý, tạo sự tò mò cho học sinh khi các em đọc yêu cầu bài tập. Giáo viên cần biết dựa vào điều kiện thuận lợi này mà khai thác, khơi sâu trí tò mò của các em, nên kết hợp câu hỏi và tranh minh hoạ để giới thiệu. Ví dụ : Truyện " Giấu cày"( SGK- TV3 T1- Tr 128). Giáo viên cho học sinh đọc các câu hỏi gợi ý theo thứ tự sau: a. Khi được gọi về ăn cơm , bác nông dân nói thế nào ? b. Vì sao bác bị vợ trách ? c. Khi thấy mất cày bác làm gì ? Sau đó cho học sinh qua sát tranh mô tả về bức tranh, giáo viên dựa luôn vào tranh giới thiệu: "Trên một cánh đồng có hai người . một người đàn bà đang gọi một người đàn ông , còn một người đàn ông đang cất một vật gì đó vào bụi cây , nét mặt anh ta lấm lét vẻ bí mật. Câu chuyện xảy ra giữa họ như thế nào ? Các em cùng nghe cô kể câu chuyện "Giấu cày"..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Phương án 2 : Để cho học sinh đoán tình huống của truyện qua tranh minh hoạ. Hầu hết các tranh minh hoạ đều tập trung mô tả chi tiết gây cười của truyện. Giáo viên cho học sinh quan sát tranh, dự đoán hành động của nhân vật trong tranh, từ những dự đoán của học sinh giáo viên giới thiệu. Ví dụ : Trong truyện "Giấu cày" . Giáo viên cho học sinh dự đoán xem hành động của người đàn ông trong tranh là gì ? Sau khi học sinh đưa ra các dự đoán của mình, giáo viên dựa vào đó để giới thiệu truyện. Điều lưu ý ở đây dù giáo viên chọn phương án giới thiệu nào đi nữa nhất thiết phải có tranh minh hoạ treo trên bảng lớp. Giáo viên cần chú ý đến giọng nói, kết hợp cử chỉ, điệu bộ khi giới thiệu truyện. - Kể chuyện của giáo viên: Việc kể chuyện của giáo viên là yếu tố quyết định sự thành công việc dạy của giáo viên. Tiếp nhận các loại văn bản, đặc biệt là văn bản nghệ thuật thường tuân theo quy luật tiếp nhận chung. Song mỗi loại văn bản tương ứng với thể loại văn học khác nhau lại có cách tiếp nhận khác nhau. Truyện cổ tích có cách kể của truyện cổ tích, truyện cười có cách kể của truyện cười. Khi sáng tác truyện cười, tác giả phải thường xuyên sử dụng hư cấu, tưởng tượng và biện pháp phóng đại, cường điệu để xây dựng ngôn ngữ, cử chỉ, trường hợp và hoàn cảnh đáng cười. Có thể cái cười đã có sẵn trong đời sống xã hội, nhưng phát hiện và thể hiện nó thành truyện cười lại đòi hỏi tác giả phải có sự nhạy cảm về cái hài và có tài sáng tạo, hư cấu. Để bộc lộ hết những ý đồ của tác giả, ý nghĩa sâu sa của truyện, đòi hỏi giáo viên phải có nghệ thuật kể chuyện riêng, lời kể phải rõ ràng, mạch lạc, đặc biệt là những câu chứa hiện tượng buồn cười. Giáo viên kể một cách dễ hiểu không quá vắn tắt, nhưng không dài dòng, giọng kể phải không nhanh, không chậm quá. Bởi nhanh quá tiếng cười sẽ không có điều kiện bộc lộ, chậm quá tiếng cười sẽ chùng lại hoặc lơi lỏng ra. Trong khi kể chuyện, đôi khi giáo viên phải biết tạo khoảng trống nhằm cuốn hút học sinh và đặc biệt là không được cười trước học sinh. Giáo viên phải kể nhiệt tình, đầy sự rung cảm song lại phải kìm hãm nhiệt tình và rung cảm ở bên trong không cho nó bộc lộ ra thành tiếng cười quá sớm cần biết cười đúng lúc, có như vậy mới làm cho học sinh thấy bất ngờ làm nổ tiếng cười giòn giã. Mặt khác, muốn kể thành công giáo viên phải thuộc truyện, phải nắm chắc nội dung câu chuyện, biết sử dụng hợp lý những yếu tố phi ngôn ngữ: Cử chỉ, điệu bộ, nét mặt trong khi kể. Một điều giáo viên hết sức nên tránh là không được đọc truyện . 3) Tổ chức cho học sinh kể lại chuyện . Đây là yêu cầu cơ bản thứ hai trong khi giáo viên giải quyết loại bài tập này. Học sinh kể lại được chuyện bằng ngôn ngữ của mình, kể mạch lạc, đầy đủ nội dung, lời kể tự nhiên, hấp dẫn và khiến cho các bạn trong lớp bật cười ở những chi.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> tiết cười. Học sinh thực hiện được điều này tức là bài dạy của giáo viên đã thành công . Trong thực tế khi học sinh kể lại chuyện, số học sinh trong một lớp kể chuyện đạt được những yêu cầu trên không nhiều, nếu không nói là ít hoặc không có. Học sinh chỉ đơn thuần nêu lại những chi tiết câu chuyện, cố gắng nhắc lại được những lời cô giáo vừa kể thì càng tốt. Cho nên bước này gây cho học sinh sự nhàm chán buồn tẻ, hoặc căng thẳng không cần thiết . Việc giúp học sinh kể lại chuyện một cách tự nhiên, sinh động thể hiện cái tài và khả năng sư phạm của mỗi giáo viên. Với từng truyện phụ thuộc vào nội dung và chi tiết gây cười mà giáo viên có hình thức tổ chức cho học sinh kể lại chuyện cho phù hợp, tạo sự phấn khởi cho học sinh . Phương án 1 : Kể bằng lời một nhân vật trong truyện . Kể bằng lời của nhân vật trong truyện rèn cho học sinh kỹ năng kể chuyện theo lời một nhân vật trong câu chuyện, trau giồi cách diễn đạt giàu trí tưởng tượng của học sinh qua việc thay đổi ngôi kể. Kể bằng lời của nhân vật còn luyện cho học sinh trí nhớ và khả năng dùng từ ngữ chính xác, diễn đạt sáng ý và làm nổi bật ý nghĩa câu chuyện . Trong một câu chuyện có bao nhiêu nhân vật, giáo viên nên cho học sinh kể theo lời từng ấy nhân vật. Để chuẩn bị cho học sinh kể theo lời nhân vật, giáo viên nên chuẩn bị một số phụ trang như tấm bìa hoặc mũ ghi tên nhân vật. Khi học sinh nào lên kể theo lời nhân vật nào thì cho học sinh đó đội mũ hoặc đeo trước ngực tấm bìa có ghi tên nhân vật đó. Hình thức tổ chức kể: giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể, mỗi học sinh kể bằng lời một nhân vật trong truyện . Ví dụ : Trong truyện "Tôi có đọc đâu !"( TV3 - tập 1 tr.92 ) Giáo viên cho học sinh thi kể theo hai lời của hai nhân vật: Người viết thư và người ngồi bên cạnh. Điều đáng chú ý khi hướng dẫn học sinh kể theo lời nhân vật người ngồi bên cạnh ở tình huống gây cười người ngồi bên cạnh kêu lên: "Không đúng ! Tôi có đọc trộm thư của anh đâu !"em đó phải thể hiện ở giọng kèm theo nét mặt của người bị bắt quả tang đọc trộm thư: ngờ nghệch, thật thà. Hay khi học sinh kể bằng lời nhân vật người viết thư giọng kể vui, dí dỏm. Hai câu người viết thư viết thêm vào thư kể với giọng bực dọc . Phương án 2 : Đóng kịch Có thể nói những câu chuyện vui trong phân môn Tập làm văn lớp 3đều có thể dựng thành kịch, bởi tình tiết câu chuyện đơn giản, nội dung ngắn, những câu chuyện kể đều dễ dàng chuyển thành lời thoại. Việc chuẩn bị cho đóng kịch những câu chuyện này không quá cầu kỳ, chỉ cần những phụ trợ rất đơn giản như chiếc khăn đội đầu, dây buộc thắt lưng hoặc xắn ống quần … nhằm tạo hứng thú cho học sinh khi kể và các bạn theo dõi ..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Nhưng khi giáo viên tổ chức cho học sinh đóng kịch thành công thì việc học sinh kể lại câu chuyện này bằng hình thức đóng kịch lại thu được kết quả ngoài mong muốn của giáo viên. Tất cả học sinh đều muốn tham gia cả người đóng và người theo dõi: theo dõi xem bạn đóng có hay, có đạt không và còn muốn thể hiện mình đóng đạt hơn bạn . Điều khó khăn với giáo viên khi tổ chức hình thức này là phải chuẩn bị sẵn lời thoại cho kịch để khi các em thảo luận chuẩn bị đóng mà chưa tìm ra lời thoại phù hợp cho lời kể thì giáo viên bổ sung. Cách tiến hành: Trước khi lên đóng kịch giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm để các em tìm lời thoại và phân vai nhân vật. Khi học sinh đóng chú ý cho các em đóng tự nhiên thể hiện cử chỉ, điệu bộ, nét mặt cho phù hợp. Ví dụ: Cho học sinh đóng kịch truyện "Giấu cày"(Tiếng Việt 3 - Tập 1 trang 128). Câu chuyện này có thuận lợi chỉ cần bổ sung rất ít lời thoại hoặc không nếu thấy không cần thiết, nhưng điều cốt yếu là hướng dẫn các em một số hành động: anh nông dân đang cày ruộng, hành động anh ta giấu cày nét mặt lấm lét vẻ bí mật nhưng miệng lại hét to: "Để tôi giấu cái cày vào bụi đã !"rồi hành động anh ta kiểm tra thấy mất cày thì nét mặt hốt hoảng ngó trước ngó sau, ghé sát vào tai vợ thì thào "Nó lấy mất cày rồi !"vẻ bí mật kín đáo. Giáo viên chú ý lời nói thầm của bác nông dân tuy là thì thào nhưng cũng phải đủ to để cả lớp nghe được vì đây chính là tình huống làm bật nên tiếng cười. Hay trong truyện "Kéo cây lúa lên"( Tiếng Việt 3 - Tập 1 trang 137 ). Giáo viên có thể chuẩn bị một số lời thoại sau: - Chàng ngốc ( nói với vợ ): Bà ơi , tôi đi thăm đồng đây ! - Chị vợ ( khi chàng ngốc về ): Gớm, sao hôm nay mình chăm chỉ vậy ! - Chàng ngốc ( ở ngoài ruộng lẩm bẩm ): Lúa nhà mình xấu quá , lúa người ta đẹp thế kia, làm thế nào bây giờ ? À, mình nghĩ ra rồi, mình sẽ kéo cây lúa nhà mình lên xem có cao hơn nhà người ta không nào ! - Chị vợ ( khi chàng ngốc về ): Sao , mình đi thăm đồng thấy lúa nhà mình thế nào ? - Chàng ngốc: Lúa của nhà ta xấu quá ! Nhưng hôm nay tôi đã kéo nó lên cao hơn lúa ở ruộng bên rồi ! - Chị vợ: Ối giời ơi ! Ông làm thế thì chết hết lúa rồi còn gì ! ( Rồi hớt hải chạy đi ) . Phương án 3 : Kể bằng tranh minh họa . Kể chuyện theo tranh minh họa giúp học sinh yếu dễ dàng nhớ lại các tình tiết của câu chuyện. Dựa vào các hình ảnh sinh động trong câu chuyện các em có.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> thể hình dung thêm lời thoại cho truyện. Những tranh minh họa cũng đã có sẵn các lời thoại thì như vậy học sinh cũng sẽ nhớ lâu các tình tiết câu chuyện. Trong một câu chuyện có bao nhiêu tình tiết, thì giáo viên nên chuẩn bị bấy nhiêu tranh cho học sinh kể theo tình tiết của từng tranh. Hình thức tổ chức kể: giáo viên tổ chức cho học sinh thi kể, học sinh kể yếu của lớp sẻ dễ dàng kể được câu chuyện bằng tranh minh họa. Tuy nhiên phần này hơi khó đối với giáo viên là phải chuẩn bị khá nhiều tranh trong một tiết Tập làm văn có câu chuyện vui. Do giáo viên phải tốn khá nhiều về thời gian lẫn vật liệu để vẽ tranh. Phải đầu tư kinh phí hơi nhiều cho tiết dạy này.Vì vậy ở phần này giáo viên nên chọn những câu chuyện có ít tình tiết để dễ chuẩn bị tranh cũng như ít tốn kém thời gian lẫn kinh phí. Ví dụ : Trong truyện "Tôi có đọc đâu !"( TV3 - tập 1 tr.92 ) Giáo viên chuẩn bị cho học sinh 4 tranh trong câu chuyện này. + Tranh 1 : Cảnh bưu điện có một người ngồi viết thư. + Tranh 2 : Có một người thanh niên đi đến ngồi bên cạnh người viết thư và anh này nhìn chăn chú vào bức thư của người viết thư. + Tranh 3 : Cũng là tranh 2 nhưng lúc này giáo viên nên ghi thêm lời thoại của truyện vào tranh “ Mình không thể viết được nữa, vì có người đọc trộm thư ”. + Tranh 4: Người ngồi bên nhảy nhổm lên và kêu lên: "Không đúng ! Tôi có đọc trộm thư của anh đâu !"( Giáo viên cũng nên ghi lời thoại vào tranh ) III. Kết quả áp dụng: Để có kết quả khách quan khi áp dụng biện pháp trên tôi đã theo dõi và thống kê kết quả đầu năm học đến thời điểm cuối học kì I của lớp mình. Đầu năm học tôi áp dụng cách dạy thông thường như sách giáo viên hướng dẫn. Rồi sau đó tôi áp dụng dạy theo các biện pháp mà tôi đưa ra cho đến cuối học kì I thì kết quả thu được như sau:. Năm học. Thời điểm. Sĩ số. Giỏi. Khá. Trung bình. Yếu. SL. %. SL. %. SL. %. SL. % 20.69. 2009 2010. Khảo sát đầu năm. 29. 8. 27.59. 5. 17.24. 10. 34.48. 6. 2009 2010. Cuối học kì I. 29. 12. 41.38. 10. 34.48. 7. 24.14. 0. Phân tích kết quả.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Từ kết quả thu được trên đây tôi thấy chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt và điều đặc biệt khi áp dụng các biện dạy học trên đây học sinh vô cùng hào hứng chủ động tham gia hoạt động học. Để có được kết quả như vậy đòi hỏi giáo viên phải xác định được vị trí và tầm quan trọng của bài dạy, nghiên cứu nắm chắc nội dung kiến thức mà mình cần cung cấp cho học sinh. Không coi nhẹ bất cứ một hoạt động nào. Giáo viên phải thay đổi các hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt cho phù hợp với tâm lý của học sinh, làm cho tiết dạy luôn luôn mới đối với học sinh. Có như vậy bài dạy mới nhẹ nhàng, sinh động, đạt hiệu quả cao như giáo viên mong muốn. IV. Bài học kinh nghiệm : 1) Đối với giáo viên : - Cần nắm chắc chương trình, nội dung bài dạy, kiến thức kỹ năng mà mỗi học sinh cần lĩnh hội. - Cần nghiên cứu kỹ, sâu bài trước khi dạy, có sự cân nhắc lường trước những tình huống có thể xảy ra khi dạy. - Cần tổ chức, tham gia các hội thảo chuyên đề về bài dạy hoặc trao đổi với bạn bè, đồng nghiệp. - Báo cáo với lãnh đạo, chuyên môn của trường, các cấp nhằm có biện pháp tháo gỡ khi gặp khó khăn vướng mắc. - Nắm chắc tâm lý học sinh để có những phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp. 2) Đối với học sinh : Để góp phần tạo sự thành công cho bài học đòi hỏi học sinh : - Tích cực học tập, tham gia thảo luận với bạn . - Có đầy đủ sách vở, dụng cụ học tập. - Mạnh dạn đưa ra những lời thoại tự nhiên, phù hợp với câu chuyện, phù hợp với ngôn ngữ lứa tuổi của mình . - Khẳng định vai trò của mình trong quá trình học một cách tự tin , hăng hái sôi nổi nhiệt tình tham gia vào hoạt động học . PHẦN III : KẾT LUẬN Trong dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3, để giúp các em các bài tập nghe kể các câu chuyện vui cười đạt hiệu quả cao, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm chắc yêu cầu của bài tập trong sách giáo khoa, kết hợp khai thác hợp lý tranh minh.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> hoạ và hệ thống câu hỏi gợi ý trong sách, bởi đó chính là điểm tựa cần thiết để học sinh nhớ nội dung câu chuyện. Với lứa tuổi học sinh tiểu học, đọc truyện, nghe kể chuyện là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Mảng truyện vui cười trong sách giáo khoa tiểu học đã đem lại cho các em vui vẻ, thư giãn, sự bình ổn …là những cái rất cần thiết và quý trọng trong cuộc sống. Một đứa trẻ có óc hài hước hóm hỉnh sẽ dễ vượt qua những khó khăn, trở ngại của cuộc sống và dễ hoà nhập vào cuộc sống hơn những đứa trẻ không có khả năng này . * Ý kiến đề xuất . + Đối với nhà trường : - Thường xuyên mở những hội thảo, chuyên đề về phương giảng dạy cũng như về nội dung chương trình để giáo viên có điều kiện tham gia học hỏi. Nội dung những chuyên đề nên chi tiết, chia nhỏ cụ thể, không mang tính chất chung chung khái quát. - Cần tổ chức các cuộc thi kể chuyện trong nhà trường, để tạo điều kiện cho giáo viên trong đơn vị giao lưu học tập cũng như nâng cao kĩ năng kể chuyện của giáo viên. - Cần làm tham mưu với các cấp lãnh đạo cung cấp thêm tranh kể chuyện cho giáo viên phục vụ tiết dạy kể chuyện. + Đối với giáo viên : - Trong quá trình dạy học nên áp dụng các phương pháp, biện pháp một cách linh hoạt, có các hình thức tổ chức dạy học phù hợp, đa dạng để học sinh tích cực chủ động tiếp thu kiến thức và tạo một không khí học tập thoải mái, vui vẻ . - Cần chuẩn bị tốt phương tiện trực quan, đồ dùng học tập để tường minh kiến thức giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức bài học . Trên đây là những vấn đề tôi đã nghiên cứu, đúc rút giúp giáo viên áp dụng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3 kiểu bài nghe kể lại một câu chuyện vui . Rất cảm ơn các đồng chí trong hội đồng khoa học đã chú ý theo dõi và lắng nghe chuyên đề này. Cuối lời tôi xin chúc các đồng chí dồi dào sức khẻo và thành công trong cuộc sống. Xin chân thành cảm ơn ! Định Thành, ngày 08 tháng 03 năm 2010. Người viết SKKN.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Tran thanh Tam.

<span class='text_page_counter'>(19)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×