Tính chất của hàng hóa cộng cộng
• Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu
dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì
không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho
việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng
nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những
ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể loại
trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có vé
vào xem.
• Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng, việc
một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác
đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có
thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng
hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu
dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong
muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
[sửa] Hàng hóa công cộng thuần túy và không thuần túy
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu trên như quốc
phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh...Các hàng hóa đó có chi phí biên để phục vụ thêm
một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi đã xây dựng xong thì nó ngay lập
tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân số luôn tăng.
Tuy nhiên có nhiều hàng hóa công cộng không đáp ứng một cách chặt chẽ hai tính chất đó
ví dụ đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường sẽ bị tắc nghẽn và do đó
những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu dùng của những người
tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công
cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng
giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu...có thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người
sử dụng nhằm tránh tắc nghẽn.
[sửa] Hàng hóa công cộng quốc gia và hàng hóa công
cộng địa phương
• Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho toàn bộ
quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ thường được
xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng quốc gia tiêu
biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v…
• Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ yếu cho
công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong hai tính
chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một số hàng
1
hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng, vệ sinh
môi trường, cung cấp nước sạch, v.v…
• Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng không bó
hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri thức có
thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều có thể
được hưởng lợi ích do tri thức đem lại.
[sửa] Cung cấp hàng hóa công cộng
[sửa] Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
• Điều kiện Samuelson : muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một cách
hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một ngân
sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa cá
nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của
hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở
mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng khác nhau và để
tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng
và hàng hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân
về hàng hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp
của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác đường cung về hàng
hóa công cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối
ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển đổi biên giữa hàng
hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul Samuelson đã chứng
minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả thì tổng tỷ
suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng giá
trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi
phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính là điều kiện Samuelson về cung
cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả khi đã xác định được mức cung
cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công
cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
• Cân bằng Lindahl : theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công cộng sẽ
được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với
đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để
cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị
trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu
quyết định, do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải
quyết vấn đề xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có
hiệu quả, nhà kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình
mô phỏng mô hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô
hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công cộng thuần
túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn định cho cá
nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là mức mà cầu
của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân tương ứng với
những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng thị trường
2
hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi
cá nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ đi xe không trả
tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá nhân phải thực
hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ một cách trung thực
nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết được số tiền mà cá nhân
khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu của
mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong
trường hợp cực đoan, nếu một người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không
ảnh hưởng gì đến việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện
tượng kẻ đi xe không trả tiền. Nếu có rất ít kẻ đi xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng
vẫn có thể được cung cấp một cách hiệu quả. Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá
nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện thì dư
luận, áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng hóa công cộng.
Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để bê tông hóa con đường chung
một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp,
không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền.
Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để
buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư
nhân không muốn cung cấp hàng hóa công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung
cấp hàng hóa công cộng và thu các khoản đóng góp thông qua thuế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng bị hạn chế.
Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát triển
của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua đường
cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người không
chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại sao, gần đây, tư nhân
ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công cộng.
[sửa] Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công
cộng
3
Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng điều đó là không
được mong muốn
Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn tình trạng tắc
nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể được hưởng đầy đủ lợi
ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức phí quá cao (chẳng hạn do chi phí
giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm
gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư
nhân đứng ra cung cấp hàng hóa cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ
khiến cho tổn thất phúc lợi xã hội xảy ra. Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây
cầu có công suất thiết kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc
qua cầu miễn phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe
lượt và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với
hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa
đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá.
Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng không hiệu quả là
nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một người có vườn bên đường
được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ quan cũng như nhiều người cùng được
thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra
với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của
những người hàng xóm, chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.
[sửa] Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
Hàng hóa công cộng có chi phí giao dịch lớn
Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm loại trừ bằng
giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ thống các trạm thu phí
trên đường cao tốc,...thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung cấp nó miễn phí và tài trợ bằng
thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn thất phúc lợi xã hội trong hai trường
4
hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này. Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên
để sản xuất là c và do phát sinh thêm chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức
cung cấp hàng hóa cộng cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là
Qo. Tuy nhiên do giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử dụng hàng
hóa, xã hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu
hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo. Trong
trường hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên xã hội cũng bị
tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do tiêu dùng quá mức.
Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên cung cấp hàng hóa công cộng
miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn thất phúc lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng
quá mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn
phí và ngược lại. Tuy nhiên việc cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn
toàn không liên quan đến khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu
chính phủ thấy rằng một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính
phủ hoàn toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó.
DỊCH VỤ CÔNG, DỊCH VỤ CÔNG CỘNG
Dịch vụ công nhấn mạnh phía cung ứng dịch vụ, vai trò của Nhà nước trong việc cung cấp
dịch vụ công. Dịch vụ công cộng nhấn mạnh tính chất của dịch vụ, tính phục vụ chung cho
cộng đồng.
Dịch vụ công được hiểu là những giao dịch trực tiếp về dịch vụ giữa Nhà nước (hoặc các
tổ chức được Nhà nước ủy nhiệm) và công dân với tư cách là khách hàng. Nói rộng hơn,
khi Nhà nước đứng ra với tư cách là người bảo đảm cung cấp các dịch vụ công thì các dịch
vụ đó được gọi là các dịch vụ công. Khái niệm dịch vụ công bao gồm một số loại dịch vụ
khác nhau, thậm chí rất khác nhau về tính chất. Tuy nhiên, các dịch vụ này có các đặc điểm
chung như sau:
Thứ nhất, đây là những hoạt động phục vụ nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu, các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các dịch
vụ này cho xã hội. Trách nhiệm bảo đảm ở đây hàm ý rằng, hoặc Nhà nước tổ chức các
đơn vị công lập đảm nhiệm cung cấp hoặc Nhà nước không trực tiếp tổ chức cung ứng thì
ủy nhiệm cho một chủ thể khác thực hiện. Tuy nhiên, trong trường hợp Nhà nước ủy
nhiệm việc cung ứng các dịch vụ này cho khu vực tư nhân thì Nhà nước vẫn có vai trò điều
tiết đặc biệt nhằm bảo đảm sự công bằng trong phân phối, bảo đảm khả năng tiếp cận bình
đẳng cho mọi công dân, nhất là với các dịch vụ cơ bản, khắc phục các khiếm khuyết của
thị trường.
Thứ hai, việc Nhà nước cung ứng dịch vụ công thường không thông qua quan hệ thị trường
đầy đủ. Người sử dụng có thể phải thanh toán một phần hoặc toàn bộ chi phí; tuy nhiên,
5