Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SKKN đạt lọai B cấp huyện NH 2018-2019: “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.94 MB, 23 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM TRƯỜNG MẦM NON QUANG TRUNG. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ CHO TRẺ LÀM QUEN VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC. TÁC GIẢ: NGUYỄN THỊ MỸ LIÊN LĨNH VỰC: Giao dục trẻ mẫu giáo (3 -4- tuổi) CẤP HỌC: Mầm non. Năm học: 2018 - 2019 I: ĐẶT VẤN ĐỀ Lý do chọn đề tài.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Bác hồ kính yêu của chúng ta khi con sống bác rất quan tâm đến mọi người. Nhất là các cháu thiếu niên nhi đồng bác chú ý đến từng bữa ăn giấc ngủ của trẻ và sự tiến bộ của trẻ. Bác nói : “Trẻ thơ như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan.” Đúng vậy trẻ mần non thật đáng yêu tâm hồn trẻ thơ ngây hồn nhiên như tờ giấy trắng. Mọi hoạt động vui chơi trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở trường mần non điều đem lại cho trẻ những kì lạ, thần tiên. Khi lọt lòng đến chập chững bước đi, tập nói, ngôn ngữ trau chuốt trẻ bằng ca dao bằng các câu chuyện. Câu chuyện, bài thơ, ca dao là tấm gương mẫu mực là lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập hữu hiệu trong việc giáo dục lòng yêu thiên nhiên yêu quê hương đất nước, mình yêu mến bạn bè, tình thân, biết yêu quý cái đẹp và ghét cái ác độc, phê phán những việc xấu. Cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành cho trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp nhất. Văn học là loại hình nghệ thuật xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, nó gắn bó với con người và trở thành nhu cầu không thể thiếu. Văn học phản ánh cuộc sống con người bằng những hình ảnh . Văn học còn phản ánh niềm vui, nỗi buồn, khát vọng, ước mơ của con người. Đối với trẻ 3- 4 tuổi người giáo viên cần năng động sáng tạo, linh hoạt dùng mọi hình thức: lời nói, cử chỉ, điệu bộ, đồ dùng trực quan đẹp trong giờ kể chuyện để trẻ nhanh tróng hiểu nội dung câu chuyện, nắm được cốt chuyện trẻ kể lại được chuyện là một hình thức phát triển ngôn ngữ tư duy, óc tưởng tượng tái tạo cho trẻ và qua đó giáo dục được trẻ thể hiện tình cảm yêu mến, quý trọng , ghét cái xấu, bảo vệ theo từng nội dung câu chuyện khác nhau. Văn học có vai trò vô cùng quan trọng. Văn học là phương tiện giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh, phát triển ngôn ngữ, quan hệ giao tiếp, trao đổi tình cảm, Văn học của trẻ là thế giới kỳ diệu đầy cảm xúc. Trẻ có thể tiếp nhận những câu truyện, bài thơ từ lúc còn trong nôi. Những lời ru của bà, của mẹ, những câu ca dao mộc mạc, gần gũi đã nuôi lớn tâm hồn trẻ thơ của trẻ. Tình yêu gia đình, quê hương cũng lớn lên từ tiếng hát, lời ru đó. Trẻ mầm non dê xúc cảm, ngây thơ trong sáng nên rất dê tiếp xúc với văn học. Thế giới văn học muôn màu, muôn sắc tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện: Thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ, tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ,… Đối với trẻ mầm non bước đầu trẻ được tiếp cận với nền văn hóa của loài người nên cần cho trẻ làm quen với những hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc rõ nét, giáo dục nghệ thuật cổ truyền đóng vai trò hết sức quan trọng..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Đối với trẻ tiếp xúc với những câu truyện, bài thơ, ca dao quá muộn hoặc không được nghe thì khi trưởng thành trẻ sẽ không thể cảm nhận hết được những cái đẹp của văn học việt nam. Nhận thức được điều này, là một cô giáo mầm non trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ giai đoạn này. Là người đặt nền móng vững chắc cho những bước tiếp theo của cuộc đời trẻ, dạy dỗ trẻ khi các cháu còn thơ ngây, trong trắng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Chính vì vậy thông qua môn “làm quen với văn học” là môn học đặc biệt quan trọng trong giáo dục mầm non. Bởi giá trị của những tác phẩm văn học là chỗ chúng có ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ. Những truyện kể, truyện dân gian, những bài thơ thực hiện là một trong các hình thức nhận thức thế giới của các em, giúp các em chính xác hoá những biểu tượng đã có về thực tế xã hội xung quanh, từng bước cung cấp thêm những khái niệm mới và mở rộng kinh nghiệm sống cho các em dưới sự hướng dẫn của cô giáo. Môn “làm quen với văn học” giúp hình thành nhân cách cho trẻ, giúp trẻ phát triển tư duy, ngôn ngữ, năng lực nhận thức của trẻ. Hình thành và phát triển tính tích cực, tính sáng tạo và chủ động cho trẻ thì cô giáo là người gây hứng thú tạo điều kiện cho trẻ học tập được tốt môn “ làm quen văn học”. Nhân thức được vấn đề đó tôi đã nghiên cứu và đưa ra “Một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lý luận Văn học là môn rất quan trọng với trẻ mần non, là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ phát triển đủ vốn từ để nói năng lưu loát, để diên đạt gẫy gọn biết sử dụng đúng từ đúng lúc, đúng chỗ không những thế việc dạy trẻ làm quen với những từ nghệ thuật như từ tượng hình, tượng thanh giúp trẻ phát triển tưởng tượng, óc sáng tạo, khả năng tư duy độc lập trong suy nghĩ. Làm quen với tác phẩm văn học chỉ ra mức độ, giới hạn, yêu cầu của việc cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học thông qua nghệ thuật đọc và kể chuyện của cô giáo. Hoạt động này nhằm dẫn dắt, hướng dẫn trẻ cảm nhận trẻ những giá trị nội dung nghệ thuật phong phú trong tác phẩm khơi ngơi ở trẻ sự rung động và hứng thú với tác phẩm văn học. Cái hay cái đẹp của tác phẩm văn học và sự thể hiện sự cảm nhận đó qua các hoạt động mang tính chất văn học nghệ thuật như đọc thơ, kể chuyện, chơi trò chơi đóng kịch … góp phần phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể, cần giúp trẻ nhận biết các mối quan biểu hiện giữa hoàn cảnh trạng thái tình huống và nhân cách vật : giữa lời kể, lời thuật, lời bạch chữ tình và ngôn ngữ nhân vật. Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần với tính chất nhiều ý và tinh luyện ngôn ngữ văn hóa, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực nghĩa bóng mà nhà văn muốn truyền đạt đến trẻ. Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần giúp trẻ mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, phát triển ngôn ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú với các tác phẩm văn học. 2. Cơ sở thực tiễn Sức mạnh của tác phẩm văn học là vô cùng lớn. Trong quá trình cho trẻ tiếp xúc với tác phẩm văn học, bằng tài năng sư phạm và nghệ thuật đọc và kể chuyện văn học của cô giáo sẽ hướng dẫn trẻ vào những vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật tác phẩm gây ấn tượng đầu tiên cho trẻ và hình tượng được xây dựng bằng ngôn ngữ dân tộc. Là giáo viên cần phải dạy trẻ biết lắng đọng các tác phẩm. với tác phẩm văn học trẻ được hòa vào cõi mộng mơ, trao rồi thói quen đón nhận được các hòa âm tinh tế thoáng qua bất trượt đến từ nguồn sống khác, nghĩa là dạy trẻ tập trung rung động của mình chứ không phải của người khác. Bằng sự biểu cảm của ngôn ngữ những hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên nhiên được vẽ nên bằng ngôn ngữ được tác động mạnh đến trẻ. Ấn tượng trẻ thu nhận được từ tác phẩm văn học khi nghe đọc, kể tác phẩm phụ.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> thuộc vào trình độ phát triển nhận thức thẩm mỹ của trẻ vào khả năng cảm nhận văn học trong sự thống nhất nội dung và hình thức nghệ thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận thấy rằng, trẻ mẫu giáo có khả năng cảm nhận văn học nghệ thuật trong thể hoàn chỉnh thống nhất giữa nội dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe người lớn đọc, kể chuyện. Trẻ 3 - 4 tuổi trong khi nghe kể những câu truyện có tính hài hước đã biểu hiện hành động điệu bộ cho thấy chúng hiểu không chỉ nội dung mà cả những sự bất thường của tình tiết có tính hài hước của tác phẩm. Tiếp nhận văn học ở trẻ em ít bị ràng buộc bởi lí trí chứa đựng tưởng tượng mạnh mẽ. Ở trẻ tưởng tượng một cái có thật. Do vậy trẻ em rất dê bị cuốn hút bởi những hình tượng hoang đường kì vĩ tác động mạnh vào trí tưởng tượng của trẻ như truyện: “Quả bầu tiên” “Cậu bé tí hon” như vậy trí tưởng tượng phát triển mạnh ở trẻ mẫu giáo. 2.1. Những thuận lợi Nhà trường nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo đặc biệt là phòng GD – ĐT huyện Gia Lâm Được Ban giám hiệu nhà trường hỗ trợ mua sắm về cơ sở vật chất như: các phương tiện giảng dạy, đồ dùng, đồ chơi học tập sinh động giúp trẻ dê hiểu, hứng thú tiếp thu bài nhanh chóng có hiệu quả. Ban giám hiệu đã tạo điều kiện cho các giáo viên kiến tập chuyên đề “làm quen văn học”. Khuyến khích động viên tập thể giáo viên học tập, học hỏi rút kinh nghiệm lẫn nhau. Ngoài ra nhà trường tổ chức thăm lớp dự giờ các giáo viên trong trường để góp ý, rút kinh nghiệm. Bản thân cố gắng tự học, tự sáng tạo thiết kế nhiều đồ dùng đẹp để phục vụ cho môn học. Các giáo viên trong lớp nhiệt huyết với nghề, yêu nghề, mến trẻ, có khả năng sáng tạo. Được sự động viên khích lệ và giúp đỡ của tập thể giáo viên trong trường cũng như bạn bè đồng nghiệp và gia đình. Điều kiện cơ sở vật chất khang trang đầy đủ, bản thân luôn chủ động tích cực tìm tòi nghiên cưú học hỏi kinh nghiệm. Khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ rất đồng đều rất ít trẻ nói ngọng, nói lắp(2 trẻ). Điều này thuận lợi cho việc dạy trẻ kể truyện hay đọc các bài thơ Phụ huynh luôn quan tâm đến con em mình, nhiệt tình cùng tôi trong việc dạy dỗ các cháu và thường xuyên ủng hộ những nguyên vật liệu để làm đồ dùng, sáng tạo cho tiết văn học cho các cháu. 2.2. Những khó khăn.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Phụ huynh đa phần làm công nhân xí nghiệp nên chưa quan tâm nhiều đến việc học của trẻ. Những bài hát dân ca có trong chương trình chủ yếu là hát cho trẻ nghe, có rất ít bài dạy cho cháu hát. Một số cháu chưa hề được đến trường, lớp và một số cháu còn quá nhỏ. Do trình độ nhận thức không đồng đều. Trẻ không đi học đều, nhất là những ngày mưa gió hoặc giá rét. Trẻ chưa có thói quen ngồi học, chưa hứng thú học, vẫn còn nói chuyện, trêu bạn.. Một số cháu hạn chế do bị nói ngọng, phát âm chưa rõ lời. Trẻ ở lứa tuổi này tập trung chú ý và ghi nhớ không chủ định, dê nhớ, dê quên và nhanh chán. Để khắc phục khó khăn trên tôi đã suy nghĩ, tìm tòi ra những phương pháp dạy và học ở mọi hoạt động để giúp trẻ thuộc thơ, truyện. Là một giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ 3- 4 tuổi tôi đã trăn trở suy nghĩ rất nhiều xem mình phải làm gì để trẻ yêu cô, thích tới lớp và hứng thú với môn học “làm quen với văn học” Và muốn đạt được mục địch đó tôi đã có những biện pháp sau 3. Biện pháp thực hiện 3.1. Biện pháp 1: Đối với trẻ Truyền thụ kiến thức cho trẻ phải hấp dẫn, nhẹ nhàng theo phương châm “học mà chơi - chơi mà học” một cách tự nhiên thoải mái mà không gò bó, áp đặt. Nhận thức được điều đó tôi luôn tìm tòi suy nghĩ làm thế nào mà trẻ có được hứng thú trong học tập để các cháu tiếp thu bài cũng như các cháu tiếp nhận thế giới xung quanh một cách đúng đắn, hồn nhiên. Đặc biệt hơn với trẻ nhà trẻ mẫu giáo bé một điều rất quan trọng là làm sao ngay từ thời thơ ấu, các em đã biết yêu thương con người và biết bảo vệ thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên, con người vốn là khởi điểm của lòng yêu nước. Trẻ ở lứa tuổi này ngôn ngữ tích cực của trẻ phát triển mạnh mẽ, trẻ rất thích nói và hỏi luôn mồm, suốt ngày. Nhưng ngôn ngữ của trẻ chưa được hoàn thiện, trẻ đang ở độ tuổi học ăn, học nói, học tiếp xúc với các đồ vật xung quanh và cách sử dụng chúng. Trẻ thích hỏi về mọi thứ. “Cái gì?, cái kia, con gì?”. Tuy vậy trẻ chưa thể nghe cả một đám đông đang nói chuyện. Nếu được người lớn hướng dẫn và gợi ý thì trẻ sẽ được phát hoàn thiện hơn và biết cách sử dụng các nhân vật trong truyện được tốt hơn. Chính vì vậy, việc hướng dẫn trẻ “làm quen với tác phẩm văn học” là một nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với lứa tuổi trẻ. Vì lẽ đó, là một giáo viên trong ngành, tôi thấy mình cần phải có một sáng kiến.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> kinh nghiệm và phương phát dạy trẻ để gây ấn tượng cho trẻ giúp trẻ kể chuyện chính xác. Đó là phương pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ trong giờ kể chuyện. Chính vì vậy bản thân tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ làm như thế nào để trẻ có hứng thú trong học tập, để các cháu tiếp thu bài cũng như nhận thức được thế giới xung quanh một cách đúng đắn, hồn nhiên. Là một cô giáo dạy trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo bé, tôi đã không ngừng học hỏi, tìm tòi, suy nghĩ và thông qua thực tế giảng dạy trên lớp tôi nhận thức rõ tầm quan trọng trong việc dạy trẻ nhớ và thuộc thơ truyện là hết sức cần thiết và không thể thiếu được: Đó cũng chính là nội dung sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng thực hiện. 3.1.1. Giờ đón trẻ Những ngay đầu đến lớp các cháu nhỏ chưa quen cô, quen lớp, trẻ nhà mẫu giáo bé còn khóc vì chuyển lớp mới hay có một số trẻ mới đi còn nhớ nhà nhớ bố mẹ. Đối với trẻ, cô giáo mới, các bạn mới còn lạ lắm bỡ ngỡ, sợ sệt. Tôi nhẹ nhàng đón trẻ, dỗ dành trẻ, an ủi động viên trẻ. Bằng tình yêu nghề, mến trẻ tôi hướng trẻ đến với những tranh ảnh đẹp minh hoạ cho nhưng bài thơ hay những câu chuyện. Trẻ rất thích xem tranh, được cô trò chuyện về nội dung tranh từ đó cô nêu ý nghĩa giáo dục trong câu chuyện giúp trẻ hiểu được nội dung truyện một cách sâu sắc. VD: Thơ ” Bạn mới”. Hình ảnh: Cô giáo đọc thơ kết hợp tranh minh họa Cho trẻ xem tranh: có cô giáo, các bạn, có nhiều đồ chơi, .... . Hỏi trẻ bài thơ nói về ai? ....tôi vừa cho trẻ xem vừa hỏi trẻ những câu hỏi đàm thoại: + Cô vừa đọc cho con nghe bài thơ gì?.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> + Ngày đầu đến lớp bạn nhỏ như thế nào? + Thấy bạn nhút nhát các bạn trong lớp đã làm gì? + Cô giáo có thấy vui khi nhìn thấy các bạn chơi với? + Khi lớp chúng mình có bạn mới các con sẽ làm gì? Có khi tôi linh động sử dụng con rối, mô hình là những nhân vật trong bài thơ hay trong truyện kể để giúp trẻ tiếp xúc với các nhân vật. Trẻ sẽ nhớ lâu hơn nội dung truyện. Cô sử dụng rối tay vẫy chào các bạn đến lớp và yêu cầu trẻ chào lại. Khi trẻ đã quen đến lớp cô giáo hướng dẫn trẻ vào những góc tranh truyện. Cô khơi dậy cho trẻ lòng say mê tìm hiểu thế giới xung quanh nên đặt câu hỏi cho trẻ, cô giáo lựa chọn các câu hỏi sao cho phù hợp tạo hứng thú cho trẻ. Những trẻ ngoan, nhanh nhẹn tôi thường động viên khen ngợi kịp thời, đúng lúc. Từ đó sau khi thực hiện tôi thấy trẻ thích đến lớp, thích chơi với bạn và thích hoạt động với môn” “làm quen với văn học” mỗi ngày đến lớp. 3.1.2. Giờ hoạt động học Muốn trẻ hoạt động tích cực hơn nữa, giáo viên cần chủ động tổ chức hoạt động giao tiếp cho trẻ hình thành tốt tính tích cực và các mối quan hệ tình cảm trong khi hoạt động có chủ đích. Vào đầu năm học khi dạy trẻ tiết thơ, truyện, trẻ hay lơ đãng, ít tập trung học tập không chú ý nghe cô. Vì vậy giáo viên nên kết hợp hình thức gây hứng thú cho trẻ bằng cách dùng một số trò chơi hoặc bài hát đan xen trong khi học. Sau đó cho trẻ quan sát đồ dùng đồ chơi hấp dẫn có tiếng kêu kết hợp với lời nói diên cảm gợi mở của cô để gây sự chú ý và tìm hiểu thế giới xung quanh trẻ. VD: Thơ” Đàn gà con” Mười quả trứng tròn Cái mỏ tí hon Mẹ gà ấp ủ Cái chân bé xíu Mười chú gà con Lông vàng mát diụ Hôm nay ra đủ Mắt đen sang ngơi Lòng trắng lòng đỏ Ơi chú gà ơi Thành mỏ thành chân Ta yêu chú lắm. Với bài thơ này tôi cho trẻ nghe tiếng kêu của con gà và cho trẻ đoán là con vật gì? Sau đó đọc bài thơ, cho trẻ đặt tên bài thơ mà cô vừa đọc.Từ đó cô giới thiệu tên bài thơ:” Đàn gà con ”. Và trong qúa trình dạy cô cho trẻ quan sát mô hình đàn gà và đàm thoại. Khi kết thúc cô và trẻ nhảy kết hợp với nền nhạc bài hát chicken dance..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Hình ảnh: Mô hình đàn gà con Tiết học chính, trẻ có thể nhận biết và nói đúng tên các nhân vật trong truyện và trẻ cũng nắm được nội dung trình tự diên biến câu chuyện. Và thông qua một số trò chơi tiết học và đặc biệt là kết hợp trong góc chơi đã giúp trẻ nhỏ nhớ lâu hơn và có thể bắt chước làm những động tác minh hoạ của từng nhân vật trong truyện. Trí tưởng tượng của trẻ được phát triển tốt thông qua các trò chơi, đặc biệt thông qua trò chơi đóng kịch. Vì khi đóng kịch trẻ phải tư duy, suy nghĩ, tưởng tượng để thể hiện được điệu bộ, dáng đi của các nhân vật trong truyện.. Hình ảnh: Trẻ đóng vai các nhân vật trong truyện Hình thức này, hầu hết trẻ nhớ lâu tên các câu chuyện và các nhân vật, trình tự, diên biến nội dung câu chuyện. 3.1.3. Giờ hoạt động ngoài trời:.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Ở hoạt động ngoài trời trẻ được cùng cô kể lại những câu chuyện đã được học, nghe cô kể những câu chuyện ngoài chương trình, được cùng nhau nhận xét, đánh giá nhân vật trong chuyện....Trẻ biết yêu - ghét nhân vật trong chuyện thông qua tính cách nhân vật. Ngoài ra còn củng cố kiến thức về nhận biết phân biệt cho trẻ. Ví dụ: Để trẻ nhận biết màu tốt hơn tôi đã cùng đi dạo vườn hoa của trường . Sau đó cho trẻ gặp nàng tiên….( kết hợp hỏi trẻ nàng tiên ….. xuất hiện trong câu chuyện nào?....) để tạo hứng thú cho trẻ. Tôi đã thu giọng nàng tiên. Trẻ đang đi chơi bỗng giọng nàng tiên vang lên:“ Từ nay bạn có tên là hồng nhung, bạn có cánh màu vàng thì gi là hồng vàng, còn bạn vẫn dữ nguyên màu trắng thì gọi là hồng bạch” Một số trẻ khác giả giọng các loại hoa, nữ thần mặt trăng, thần mặt trời..... Hình ảnh: Tham quan vườn hoa của trường Sau trẻ hào hứng tham gia, cô ôn lại kiến thức cho trẻ . Kết hợp giáo dục bảo vệ, chăm sóc cây. Các buổi hoạt động trời giúp trẻ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, hình thành trí nhớ tưởng tượng sâu đậm về các nhân vật, hiện tượng xung quanh trẻ ngày càng phong phú hơn. 3.2. Biện pháp 2: hướng dẫn trẻ cách đọc sách.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Trẻ mẫu giáo bé rất hay tìm tòi những cái mới lạ vì vậy ở góc sách truyện tôi trang trí cho sinh động và thu hút trẻ ,khi đến lớp tôi hướng dẫn trẻ đến góc sách truyện để trẻ xem những tranh truyện mà trẻ đã hoc sau đó tôi hỏi trẻ:. Hình ảnh : Cô đọc sách giúp trẻ nhớ tên các nhân vật +Con đang xem truyện gì? +Trong truyện có những ai? +Nhận vật trong truyện như thế nào? Như vậy giúp trẻ nhớ tốt hơn cốt truyện hay nội dung của các bài thơ. 3.3. Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng sáng tạo Để hấp dẫn lôi cuốn trẻ vào tiết học tôi đã làm thêm đồ dùng sáng tạo để phục vụ các tiết học cho trẻ. Tôi sử dụng nguyên liệu rẻ tiền, sẵn có và nghiên cưú nhiều hình thức để minh hoạ cho bài thơ, câu chuyện. Ví dụ: Để minh hoạ truyện: Cô bé quang khăn đỏ ” Tôi đã dùng những tờ bìa ,màu nước để vẽ và tô màu cho câu truyên ”Cô bé quàng khăn đỏ ” thêm sinh động và đẹp hơn để thư hút trẻ hơn hoặc tôi làm những con rối được làm bằng vải vụn ,dạ. Khi kể đến đâu tôi di chuyển rối ra đến đó theo nội dung truyện. Và kết quả là trẻ rất hào hứng nghe cô kể chuyện và đàm thoại cùng cô về nội dung câu chuyện. Ví dụ: truyện “Chiếc ấm sành nở hoa ”.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hình ảnh : Diễn rối “Chiếc ấm sành nở hoa” Tôi làm các nhân vật bằng các giải giấy vụn tạo thành các nhân vật trong truyện ,khi kể tới nhân vật nào tôi di chuyển nhân vật đó đên khung cảnh đã chuẩn bị sẵn,kết quả trẻ rất hứng thú. Ví dụ: Truyện “Sự tích hoa hồng” Với truyện này tôi vẽ tranh cảnh nền bằng màu nước có khung,rèm bao quoanh. Vẽ tranh nền có mây, có cây, có những chú bướm bằng màu nước. Hoa được làm từ giấy nhún có gắn sợi chỉ để thép, sau đó tôi luồn qua khung tranh cảnh nền. Khi kể câu chuyện, kể tới đâu tôi kéo sợi thép tương ứng với cảnh và nhân vật trong chuyện đến đó và rung tay để hình ảnh được sống động. Kết quả trẻ rất chú ý và tập trung vào cô có thể làm hoa rung rinh, rối nàng tiên, vải vụn làm mặt trời, mặt trăng. Khi kể câu chuyện, kể đến đâu tôi di chuyển các nhân vật đến đó. Kết quả là trẻ rất hứng thú và nắm được nội dung chuyện một cách dê dàng. Tôi đã gắn phía sau sợi nội dung câu chuyện.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Hình ảnh : Kể đến đâu dưa nhân vật ra đến đó Ví dụ: Để minh hoạ truyện “Chú vịt xám” Cho trẻ hát bài: Đàn vịt con. Hát xong cô hỏi trẻ hôm trước cô đã kể cho các con nghe câu truyện gì có nói đến con vịt nhỉ. Cô kể lần 1 diên cảm, trẻ hứng thú ngồi nghe cô kể và trả lời các câu hỏi của cô. Với lần kể thứ 2 cô kể bằng máy chiếu, các nhân vật trong truyện đều cử động được, trẻ càng hứng thú lắng nghe nhờ đó trẻ rất dê nhớ tên truyện và tên các nhân vật trong truyện, cô hỏi trẻ trả lời lưu loát, rõ ràng, mạch lạc, trẻ bắt chước giọng nói của các nhân vật trong truyện. Lần 3 cô cùng cả lớp đóng kịch, cô chia làm 2 nhóm: nhóm 1 đóng làm vịt, nhóm đóng làm con cáo. Cô và trẻ cùng đội mũ, khăn các nhân vật, một trẻ đóng làm vịt xám, cô dẫn dắt truyện cô kể đến đâu các cháu đóng nhân vật thể hiện theo lời kể của cô. Trẻ thể hiện rất sôi nổi, hứng thú, tiết học đạt kết quả cao. Hai phần ba trẻ đã thuộc truyện ngay tại lớp. Tôi tiến hành các tiết truyện, thơ, tôi đều nghiên cứu, tìm tòi và cố gắng sử dụng các nguyên liệu rẻ tiền, sẵn có để tạo ra các nhân vật minh hoạ cho các câu chuyện bằng nhiều hình thức hấp dẫn, thu hút trẻ. Và như vậy, hầu hết các trẻ đều tập trung chú ý vào giờ học và trẻ nắm được kiến thức một cách nhẹ nhàng không gò bó, áp đặt. 3.4. Biện pháp 4 : Biện pháp tạo môi trường học tập:.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Nắm bắt được tâm lý trẻ nhà mẫu giáo bé rất thích cái đẹp, cái mới lạ. Chỉ cái mới lạ mới hấp dẫn trẻ, tôi chú trọng tạo môi trường trong lớp học chính là tạo sự hứng thú trong học tập cho trẻ.. Hình ảnh : Trang trí môi trường lớp góc sách truyện Để đưa trẻ đến với những bài thơ, câu chuyện một cách tự nhiên, hấp dẫn tôi trang trí các góc theo chủ điểm sao cho khoa học, hợp lý. Đặc biệt góc xem tranh truyện tôi luôn tìm tòi chú ý đến việc sắp xếp bố trí những bài thơ, câu chuyện bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú. Tôi đã sưu tầm các nguyên liệu khác nhau như vải vụn, xốp, hộp, bìa...tạo nên mô hình rối tay, sa bàn, rối dẹt, những nhân vật trong chuyện bằng ống nhựa nước rửa bát, vỏ trứng, những ngôi nhà, vườn hoa sinh động đẹp mắt. Trẻ xem mô hình, bức tranh có nội dung của bài thơ, câu chuyện thì rất thích nên muốn khám phá những mô hình, bức tranh ở trong bài thơ, câu chuyện nào? Từ đó thu hút trẻ hứng thú hơn với môn làm quen văn học. Ví dụ: Góc tranh truyện tôi sưu tầm hộp bìa, vẽ tranh nội dung truyện và bồi lên bìa cứng ở sau các bức tranh có gắn sẵn gai dính ở 4 góc để thuận tiện cho trẻ xem tranh, gắn tranh theo trình tự nội dung câu truyện hoặc bài thơ. Khi trẻ tự chơi với tranh trẻ thích, cô giáo có thể đến gần và trò chuyện với trẻ. Con đang làm gì?Chuyện gì đây?Tranh có những ai?..... Tôi khuyến khích trẻ trả lời những câu hỏi của cô. Điều này đã giúp trẻ được ôn lại những kiến thức đã học, để trẻ hiểu sâu hơn nội dung câu truyện, bài thơ..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Môi trường học tập chính là điều kiện cho trẻ được khám phá và cũng là cơ hội để trẻ được củng cố lại kiến thức cho trẻ về văn học. Và cô giáo chỉ là người gợi mở khéo léo để trẻ hoạt động theo yêu cầu của cô giáo. 3.5. Biện pháp 5 : Thông qua các ngày hội ngày hội, ngày lễ. Những buổi ngày hội ngày lê cũng cần cho trẻ làm quen vơi văn học ,trong đó có múa hát ,đọc thơ,kể chuyện ,đóng kịch có chuẩn bị mũ các con vật,hoa văn nghệ.....Nhận thấy trẻ rất thích đến những buổi chiều cuối tuần giống như trẻ được chơi thoải mái được nghỉ sau một tuần học ,thế nào trẻ vẫn có học ,củng cố kiến thức đã học dưới hình thức biểu diên.Cứ vài tháng tôi lại tổ chức hội thi ”Bé kể chuyện bé đọc thơ hay ”có nhận xét có quà cho những cháu đạt giải.Trong hội thi có mời đông đảo phụ huynh của lớp tham dự.Nhận thấy phụ huynh rất phấn khởi về kết quả của con mình có tác dụng rất lớn khi cho con tới lớp mẫu giáo.Để phụ huynh có hướng phát huy năng khiếu của trẻ ,trong cuộc thi trẻ rất hào hứng mạnh dạn ,tự tin tham gia vào hoạt động,thích được biểu diên và say mê khi biểu diên. Trong các hội thi,ngày lê hay bàn bạc với nhà trường nên giành nhiều thời gian cho các cháu được tham gia kể chuyện ,đọc thơ,đóng kịch .Đó cũng là một hình thức tuyên truyền ngành học rất lớn ,trẻ thích tự làm và được khen giúp trẻ pháp triển về trí tuệ ,nhanh nhẹn,mạnh dạn trước mọi người và cảm nhận được cái đẹp và cái hay của văn học. Việc áp dụng một số biện pháp trong và ngoài giờ học. Lớp tôi chất lượng môn làm văn học tăng lên khá rõ,các cháu rất thích học môn này,rất mạnh giạn trong giao tiếp,thích trò chuyện với người lớn và đặc biệt rất thích tham gia vào hoạt động không chỉ có làm quen văn học. Hình ảnh : Các con tham gia đọc thơ, đóng kịch 3.6. Biện pháp 6: phối kết hợp với phụ huynh.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Phối hợp với phụ huynh cùng chăm sóc giáo dục trẻ để phụ huynh hiểu và quan tâm đến con hơn, động viên con mình đi học đúng giờ và chuyên cần. Hình ảnh: Cô giáo đón trẻ và trao đổi với phụ huynh Tôi thấy con nhiều phụ huynh còn chưa quan tâm đến con đến việc thu nhận kiến thức của các con em mình. Họ gửi con thất thường, không chuyên cần, không đúng giờ giấc như: Khi có cỗ vui, buồn hoặc đi chơi là họ cho con nghỉ hoặc thường xuyên gửi trẻ đến lớp khi đã học xong hoạt động chung . Mà các môn đều có tác dụng phát triển ngôn ngữ và rèn kỹ năng nói nhiều cho trẻ. Ngoài giờ trên lớp trẻ về nhà trẻ hát hoặc kể lại chuyện cho gia đình nghe về 2 môn đã học. Vậy mà bố mẹ vẫn không quan tâm, hay cho trẻ nghỉ học, đến lớp muộn, đón sớm nên trẻ rất thiệt thòi về việc thu nhận kiến thức của trẻ. Ở mỗi chủ điểm khác nhau trẻ đều thu nhận được trong đó là sự logic về kiến thức, trẻ nhận thức được từ dê đến khó, từ đơn giản đến phúc tạp để phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của các môn học đặc biệt là làm quen với văn học. Muốn làm tốt nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục trẻ thì việc trao đổi thường xuyên với phụ huynh cũng rất quan trọng, giúp phụ huynh hiểu được nhiệm vụ của cô giáo hàng ngày. Ngoài chăm sóc trẻ cô còn cho trẻ làm quen với nhiều môn học và các hoạt động khác trong ngày. Tôi tuyên truyền về ngành học cũng như việc cho trẻ” làm quen với văn học” nói riêng để phụ huynh thấy rõ tầm.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> quan trọng của việc cho trẻ được làm quen với văn học thường xuyên giúp hình thành và phát triển nhân cách, phát triển ngôn ngữ. Tôi đã làm một số đồ dùng, đồ chơi đơn giản, những bài thơ, câu truyện theo chủ điểm. Tôi trưng bày ở góc tuyên truyền, trao đổi với phụ huynh theo dõi hàng ngày phần “ Cha mẹ cần biết”. Từ đó cha mẹ biết được ngày hôm nay con mình được học những gì để cha mẹ về nhà kiểm tra lại kiến thức, uốn nắn trẻ thêm, nhất là rèn trẻ nói ngọng, nói chưa đủ câu. Là giáo viên tôi luôn động viên phụ huynh nên dành nhiều thời gian kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích, truyện tranh dân gian, các câu hát đồng giao về sự vật hiện tượng xung quanh trẻ để giúp trẻ hiểu và thích môn “ làm quen văn học”. Thường xuyên lấy ý kiến phụ huynh xem ở nhà các cháu có thuộc các bài thơ, câu chuyện mà cô đã dạy ở lớp học để đọc cho ông bà, cha mẹ nghe không? Các cháu đã tiến bộ trong việc sửa ngọng, nói đã đầy đủ câu văn chưa....để cô giáo còn kịp thời khen ngợi, khích lệ trẻ đúng lúc. Tôi tuyên truyền để phụ huynh ủng hộ nguyên vật liệu để làm đồ dùng, đồ chơi học tập cho trẻ như sách báo cũ có hình ảnh đẹp, bìa cứng, giấy... 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm 4.1. Kết quả Sau khi thực hiện các biện pháp và áp dụng các cách làm trên, tôi thấy có những tiến bộ rõ rệt về kết quả môn” Làm quen văn học”. Cụ thể kết quả như sau: 4.1.1 Đối với trẻ: - Trẻ hứng thú đi học, yêu quý trường lớp. - Nâng tỷ số trẻ tích cực trong hoạt động. - Trẻ có sự tích lũy trong tư duy, trong học tập. - Trẻ hứng thú khi được tham gia đọc thơ, kể chuyện cùng cô. * Kết quả khảo sát thực tế: Tổng số 24 trẻ Trước khi áp dụng: 24 trẻ Sau khi áp dụng: 24 trẻ Nội dung Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Kỹ năng 14 10 19 5 58,3% 41,7% 79,2% 20,8% nghe Kỹ năng 13 11 17 7 54,2% 45,8% 70,8% 29,2% nói Kỹ năng 12 12 16 8 50% 50% 66,7% 33,3% đọc 4.1.2. Đối với lớp:.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Luôn được ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao trong việc tạo môi trường lớp, trẻ được hoạt động tích cực. Trong hội thi trang trí môi trường lớp đầu năm được giải nhất. - Được nhà trường đánh giá lớp sắp xếp khoa học, ngọn ngàng 4.1.3. Đối với giáo viên - Về phía bản thân tôi được trau dồi kiến thức và kinh nghiệm gây hứng thú cho trẻ về môn văn học ,tôi được phụ huynh và các đồng nghiệp tin tưởng và quý mến. - Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện biện pháp gây hứng thú với trẻ làm quen môn văn học được tăng rõ dệt đó là điều làm tôi phấn khởi , yêu nghề, yêu trẻ càng nhiều hơn nữa .Giúp tôi có nghị lực trong công tác ,lớp tôi đạt được nhiều kết quả. 4.1.4.Về phía phụ huynh Rất nhiều phụ huynh đã có những chuyển biến rõ dệt như việc cho con đi học đúng giờ hơn, không đón con quá sớm và ngày càng quan tâm hơn nữa đến việc tiếp thu kiến thức của con mình hơn. Phụ huynh nhiệt tình quyên góp, ủng hộ giấy, bìa, các con rối cũ, những quyển truyện, sách báo .....để trang trí cho góc “ văn học”. 4.2. Bài học kinh nghiệm Kinh nghiệm cho tôi thấy làm việc gì mà có sự đầu tư thích đáng thì mới mang lại kết quả tốt đẹp. Tục ngữ có câu : “Có công mài sắt, có ngày nên kim” Vì thế đề tài này đã giúp tôi thấu hiểu hơn bao giờ hết sự cần thiết của lòng nhân ái, của tình người trong cuộc sống của chúng ta. Qua quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ đặc biệt là các giờ cho trẻ “ Làm quen với văn học” tôi tự rút ra một số kinh nghiệm sau: Để đạt được kết quả tốt nhất, cô giáo cần nghiên cứu, tìm tòi, sử dụng những nguyên liệu có sẵn để tạo ra đồ dùng, những hình thức minh họa cho câu chuyện khác nhau để hấp dẫn và thu hút trẻ. Ngoài ra cô còn cần có giọng kể truyền cảm, phù hợp với tính cách của từng nhân vật . Là giáo viên cần tranh thủ học hỏi các đồng nghiệp kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu tài liệu để có hình thức, nghệ thuật vào bài hấp dẫn và sử dụng phương pháp tích hợp nội dung trong tiết dạy, tạo thói quen yêu thích môn văn học, củng cố kiến thức mọi nơi, mọi lúc cho trẻ. Và một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công là phải có sự kết hợp với cha mẹ của gia đình trẻ. Có như vậy chúng ta mới có thể yên tâm về chất lượng với những trẻ tiếp thu chậm..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Tạo cho trẻ tự tin, không nên gò bó, luôn cho trẻ tự khám phá để trẻ hứng thú trong các giờ học. Luôn củng cố, ôn các kiến thức cho trẻ mọi lúc, mọi nơi, luôn gây tò mò, mới lạ và hứng thú ham học, quan tâm động viên, uốn nắn giọng của các nhân vật để giúp trẻ tiến bộ. Thường xuyên nghiên cứu nắm chắc chuyên môn, làm đồ dùng, đồ chơi và sáng tạo trong giảng dạy. Phối kết hợp cùng với phụ huynh trẻ cùng quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ. Kể chuyện để trẻ biết được cái tốt, cái xấu, biết giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn. Tất cả kinh nghiệm trên cho thấy, bất kì một việc gì mà chúng ta kiên trì nghiên cứu, tìm tòi, suy nghĩ, sáng tạo thì sẽ thành công. Với lòng yêu nghề mến trẻ, tôi đã quyết tâm nghiên cứu, tìm tòi mọi biên pháp để đạt kết quả tốt nhất. Là người ham học hỏi, tôi tham khảo nhiều đồng nghiệp trong và ngoài huyện cùng với phát huy năng lực sáng kiến của bản thân đúc rút, tích lũy lại sẽ thành một kinh nghiệm đạt kết quả tốt. Nếu chúng ta chỉ nghĩ trong phạm vi hẹp, tự cho rằng kiến thức có sẵn có của mình là đủ không cần sự trợ giúp, cộng tác của nhiều phía, lại không linh hoạt sáng tạo thì cô và trẻ sẽ dậm chân tại chỗ hoặc có thể tụt hậu so với xã hội. Trên đây là một số biện pháp gây hứng thú cho trẻ 3- 4 tuổi làm quen với văn học. Tôi hy vọng rằng trong những năm tiếp theo, trường tôi áp dụng những những biện pháp này và được phát huy hơn nữa. Chắc chắn môn “Làm quen văn học” sẽ đạt kết quả cao hơn nữa..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Lứa tuổi mầm non, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo bé là tuổi “ học ăn - học nói”. Vì vậy, môn “ Làm quen với văn học” góp phần hình thành và giáo dục trẻ một cách toàn diện, nhằm làm cho ngôn ngữ của trẻ em phát triển một cách trong sáng và tốt đẹp. Thông qua những bài thơ, câu chuyện trẻ được tiếp xúc với những lời hay ý đẹp, sẽ được giáo dục về mặt tình cảm, đạo đức xã hội đồng thời phát triển năng khiếu thẩm mỹ. Cô phải luôn luôn tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra các hình thức hoạt động mới giúp trẻ phát triển, nắm vững cốt truyện để đạt hiệu quả cao. Hơn nữa, cô luôn gương mẫu cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi việc làm, cử chỉ, lời nói và hành động, luôn quan tâm, động viên, uốn nắn giống các nhân vật để giúp trẻ tiến bộ. Làm quen văn học đối với trẻ mẫu giáo bé là vấn đề thiết thực. Chúng ta biết rằng văn học là kho nghiệm quý báu về nhiều phương diện khác nhau, nó nơi lưu trữ truyền thống dân tộc. Trẻ em làm quen với văn học ngay từ bài hát ru đầu tiên mà trẻ em ghi nhận qua lời ơi của me. Rồi trẻ được làm quen với bài thơ, câu đố những câu chuyện lôi cuốn trẻ hoạt động tập thể, hoạt động nhận thức, từ đó mà chất lượng lớp tôi tang lên đáng kể. Tôi rất tự hào và phấn khởi không những cháu học thuộc những bài thơ, đồng dao, câu chuyện mà còn rất hôn nhiên và mạnh dạn mê say biểu diên trẻ mạnh dạn giáo tiếp những câu nói của trẻ đã khác đi rất nhiều, trẻ biết nói trọn đủ câu, biết dùng từ ngoài tưởng tượng. Đây là một số kinh nghiệm của tôi về việc gây hứng thú cho trẻ 3- 4 tuổi “ làm quen với văn học” qua hoạt động dạy thơ - truyện. Những kinh nghiệm ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc chăm sóc giáo dục, cụ thể là gây hứng thú cho trẻ 3-4 tuổi “ làm quen văn học “. Song để đạt được kết quả, tôi nghĩ rằng bản thân cô giáo phải là người yêu nghề yêu trẻ, có trách nhiệm và nắm vững kiến thức, kỹ năng. Cô giáo cần yêu thương trẻ, tạo cho trẻ một tâm thế thoải mái, hứng thú với giờ học. Hãy dành cho trẻ những gì yêu thương nhất. Trẻ em giai đoạn này chịu sự ảnh hưởng rất lớn từ sự chăm sóc giáo dục của người lớn nên bất kỳ sai sót nhỏ nào trong phương pháp chăm sóc giáo dục đều có ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Những kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc nuôi dạy trẻ còn hạn chế, rất mong được sự chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của chị em đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 2. Kiến nghị Mong sở GD – ĐT Hà Nội quan tâm đầu tư trường lớp khang trang để giáo viên và học sinh có điều kiên học và giảng dạy đạt kết quả cao nhất. Để trẻ tiếp thu văn học ngày càng tốt hơn, hứng thú hơn. Rất mong lãnh đạo cấp trên quan tâm nhiều hơn nữa trong việc bổ sung thiết bị ,đồ dùng cho môn văn học nói riêng để trẻ có thêm nhiều đồ dùng để phục cho tiết dạy . Bản thân tôi sẽ luôn cố gắng và cố gắng hơn nữa làm thêm đồ dùng đồ chơi đẹp, sáng tạo, tạo mọi điều kiện để trẻ tiếp thu được tốt hơn. Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ làm quen văn học mà tôi đã nghiên cứu và đề xuất .Tuy vậy, do điều kiện còn hạn chế nên đề tài còn nhiều thiếu sót ,tôi rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, của ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp để tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin trân thành cảm ơn! Gia lâm, ngày 10 tháng 03 năm 2019. MỤC LỤC.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Nội dung đề mục. Trang số. I :ĐẶT VẤN ĐỀ. 1. II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 3. 1. Cơ sở lý luận. 3. 2. Cơ sở thực tiễn:. 3. 2.1. Những thuận lợi:. 4. 2.2. Những khó khăn:. 5. 3. Biện pháp thực hiện. 5. 3.1. Biện pháp 1: Đối với trẻ. 5. 3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn trẻ cách đọc sách. 10. 3.3. Biện pháp 3: Sử dụng đồ dùng sáng tạo. 10. 3.4. Biện pháp 4: Biện pháp tạo môi trường học tập. 13. 3.5. Biện pháp 5: Thông qua các ngày hội ngày hội, ngày lễ.. 14. 3.6.Biện pháp 6: phối kết hợp với phụ huynh. 15. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm. 16. 4.1. Kết quả. 17. 4.2. Bài học kinh nghiệm. 17. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 19. 1. Kết luận. 19. 2. kiến nghị. 20.

<span class='text_page_counter'>(23)</span>

<span class='text_page_counter'>(24)</span>

×