Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Dan toc Dao o Son La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.08 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>DÂN TỘC DAO Một số hình ảnh về dân tộc Dao ở Sơn La. Thiếu nữ đồng bào Dao. Người Dao thu hoạch hoa quả.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Một số nét văn hoá tiêu biểu của người Dao. Dân tộc Dao ở Sơn La quần cư chủ yếu ở các huyện Phù Yên, Mộc Châu, Yên Châu, Bắc Yên. Dân tộc Dao ở Sơn La chiếm 2,5% dân số. Ngôn ngữ thuộc nhóm Mông- Dao, các nhóm Dao đều thờ tổ tiên là họ Bàn Hồ. Đồng bào Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và ruộng nước. Nông cụ sản xuất thô sơ, nhưng canh tác có nhiều tiến bộ. Một số nghề thủ công phát triển như: Dệt vải, rèn, mộc, ép dầu. Đàn ông Dao để tóc dài, búi sau gáy, hoặc để chỏm trên đỉnh đầu, nay hầu hết đã cắt tóc ngắn. Y phục thường gồm quần và áo dài, áo ngắn. Trang phục phụ nữ phong phú hơn, giữ nhiều nét trang trí hoa văn truyền thống. Phụ nữ Dao để tóc dài. Cô dâu ngày cưới đội mũ. Dưới chế độ cũ, lễ cưới gồm nhiều nghi thức phức tạp.Dân tộc Dao có nền văn hoá và lịch sử lâu đời. Mặc dù điều kiện, cơ sở kinh tế thấp kém, nhưng đời sống văn hóa dân gian rất phong phú, đặc biệt là y phục dân tộc cổ truyền. Đồng bào Dao không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá gọi là chữ Nàm Dao. Người Dao có quan hệ họ hàng chặt chẽ và thông qua tên đệm để xác định dòng họ, vai vế của người đó trong quan hệ họ hàng.. ĐIỀU MỚI CÓ TRONG VĂN TỰ NGƯỜI DAO. Ngày xưa, rừng núi bạt ngàn, người Dao thường sống trên các đầu nguồn, ngọn suối, mặc sức phá rừng làm nương, trọc lỗ tra hạt, đến khi đất đó bạc màu, ớt, gừng không còn cay, làm lụng chắt chiu không đủ ăn, lại rủ nhau du canh, du cư tìm miền đất mới để tiếp.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> tục lại phá rừng, kiếm kế sinh nhai. Cái vòng lẩn quẩn ấy, được ông cha ghi thành văn tự như một lời nguyền, để rồi truyền tụng vào trong thi ca, cúng lễ, tễ thần... với những mong thế hệ con cháu mai sau không quên cái quy luật đó. Trường ca có đoạn (tạm dịch): ...”Cây đứng yên chào núi rừng; bóng dáng xa, thày đến gần; Núi Mẫu Sơn nhìn thấy rồi; Người Dao mình đọc sách; sách quý đấy, hãy giữ lấy; Ðã bao đời tổ tiên lưu truyền; Người Dao mình thuộc từng trang; Sách quý đấy, hãy giữ lấy; Ta lớn khôn từ trang sách này, sách quý ơi; Từ Mẫu Sơn, núi xanh thẫm; Mẹ ru lời ngọt ngào...” Cứ thế, người Dao trước đây nghe lời truyền tụng, cứ chặt phá rừng, cứ du canh du cư mà cuộc sống vẫn không hề đổi khác. Ngày nay, nhờ có Ðảng, có Bác Hồ dẫn đường chỉ lối, đồng bào Dao đã định canh, định cư, đưa các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao vào phát triển sản xuất, thu nhập ổn định, đời sống bà con từng ngày khởi sắc. Cứ mỗi lần nghe lại:.. “Sách nó nói, chặt phá rừng...” là thế hệ con cháu người Dao hôm nay lại cảm thấy trạnh lòng. Ðể rồi, chính họ đã lên tiếng phản bác lời truyền tụng và bổ sung bằng những lời khuyên răn:...” Ai lên nương, vấn vương cây rừng; xin hãy đừng nghe sách nó nói; Rừng yêu mình, như mẹ hiền cho con bú; chặt phá rừng như bầy quỷ, phá tương lai; Ðảng cho sách vàng, định hướng tới tương lai; không du cư, người Dao mình hạnh phúc, cuộc sống tốt lành...!” Tất cả ý thơ đó đã được nhạc sỹ Phạm Tịnh thổi nốt nhạc thành bài hát nổi tiếng, mang âm hưởng của thần núi, thần sông, thôi thúc những tâm hồn, sức trẻ cường tráng của những chàng trai, cô gái người Dao miền sơn cước hôm nay hãy cùng nhau giữ lấy rừng, cho tương lai cuộc sống sinh sôi. Ngày xuân, quây quần bên bếp lửa hồng, bập bùng theo tiếng nhạc và điệu múa chuông khoẻ khắn, lắc lư cùng những chum rượu đầy, nghe lại những lời cải biên đổi mới trong văn tự người Dao, ai ai cũng cảm thấy tự hào, tin tưởng trước một tương lai tươi sáng..

<span class='text_page_counter'>(4)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×