Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Ảnh hưởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến hàm lượng protein thô trong một số loại thức ăn cho gà và sức sinh trưởng của gà broiler

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 120 trang )

bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học nông nghiệp i
*********

nguyễn thị lệ hằng

tên đề tài

ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô
đến hàm lợng protein thô trong một số loại thức ăn cho gà
và sức sinh trởng của gà broiler

chuyên nghành: chăn nuôi
M số: 4.02.00

Luận văn thạc sĩ nông nghiệp

Ngời hớng dẫn: TS. nguyễn thị mai

Hà néi - 2004

1


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả trong luận văn
này là trung thực và cha đợc sử dụng để bảo vệ bất kỳ một
học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đà đợc cám ơn và các thông tin trích dẫn trong
luận văn đều đà đợc chỉ rõ nguồn gốc.



Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Lệ Hằng

2


lời cảm ơn

Trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành
luận văn, tôi luôn nhận đợc sự giúp đỡ, chỉ bảo tận
tình của cô giáo hớng dẫn Tiến sĩ Nguyễn Thị Mai.
Tôi xin bày tỏ lòng bết ơn chân thành đối với sự
quan tâm của cô giáo hớng dẫn, sự giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy giáo cô giáo bộ môn Chăn nuôi
chuyên khoa, bộ môn Thức ăn - Vi sinh - Đồng cỏ cùng
toàn thể các thầy giáo cô giáo trong khoa Chăn nuôi
- Thú y và Khoa sau Đại học trờng Đại học Nông
Nghiệp I - Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Giám đốc công
ty Thức ăn DABACO - Nguyễn Nh So, cùng toàn thể cán
bộ công nhân viên trong công ty đà giúp đỡ tạo mọi
điều kiện về cơ sở vật chất cho tôi trong quá trình
thực hiện đề tài.

Xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu nhà trờng,
Th viện, Phòng thí nghiệm Trung tâm, Trung tâm thực
nghiệm khoa Chăn nuôi thú y - Trờng Đại học Nông
Nghiệp I - Hà Nội và tất cả bạn bè, ngời thân đÃ
tạo điều kiện, động viên tôi trong suốt quá trình

thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Hà Nội,ngày

tháng 9 năm 2004

Tác giả: Nguyễn ThÞ LƯ H»ng

3


mục lục

Lời cam đoan

i

Lời cảm ơn

ii

Mục lục

iii

Những chữ viết tắt trong luận văn

v

1. mở đầu
1.1. Đặt vấn đề


1

1.2. Mục đích của đề tài

3

1.3. ý nghĩa khoa học của đề tài

3

1.4. ý nghĩa thực tiễn của đề tài

3

2. tổng quan tài liệu
2.1. Protein trong dinh dỡng gia cầm
2.2. Một số phơng pháp đánh giá chất lợng protein

4
21

2.3. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến hàm
lợng protein thô của thức ăn

26

2.4. Tình hình nghiên cứu trong và ngoµi n−íc

30


2.5. Giíi thiƯu gièng gµ CP 707

36

3. Néi dung và phơng pháp nghiên cứu
3.1. Nội dung nghiên cứu

38

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu

39

3.3. Phơng pháp nghiên cứu

39

3.4. Phơng pháp xử lý số liệu

49

4. kết quả và thảo luận
4.1. Hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô của một số loại thức ăn

54

4.2. Hàm lợng nitơ và nitơ phi protein trong một số loại thức ăn

57


4


4.3. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô của ngô

65

4.4. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô của đỗ tơng

67

4.5. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô của khô dầu đỗ tơng

69

4.6. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm

lợng

protein

thô

của


gạo



phụ

phẩm

của

gạo

71
4.7. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô trong khẩu phần ăn cho gà

73

4.8. ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
sức sinh trởng của gà thịt thơng phẩm (gà broiler)

79

5. Kết luận và đề nghị

104

tài liệu tham khảo

106


5


những chữ viết tắt trong luận văn

Chữ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt

CP

Crude protein

Protein thô

ME

Metabolizable energy

Năng lợng trao đổi

PER

Protein efficiency ratio

Tỷ lệ hữu hiệu protein


LTĂTN

-

Lợng thức ăn thu nhận

HQSDTĂ

-

Hiệu quả sử dụng thức ăn

VCK

-

Vật chất khô

N

-

Nitơ tổng số

NPP

Non Protein Nitrogen

Nitơ phi protein


TT

-

Tăng trọng



-

Thức ăn

6


1. Mở đầu

1.1. Đặt vấn đề
Theo Lê Khắc Thận (1975)[20], protein là thành phần không thể thiếu
đợc của bất cứ sinh thể nào. Trong cơ thể gia cầm, protein chiếm khoảng 1/5
khối lợng sống, 1/7 khối lợng trứng (Cuca và CS, 1982 - dẫn theo Nguyễn
Thị Mai, 2000)[11] và giữ một vai trò rất quan trọng. Protein chính là nguyên
liệu để cấu tạo nên các hoạt chất sinh học nh men, hocmon, kháng thể... của
cơ thể. Nh vậy có thể nói protein tham gia vào hầu hết các hoạt động sống
của cơ thể. Protein tham gia vào sự tiêu hoá thức ăn, sự hấp thu các chất dinh
dỡng, quá trình trao đổi chất, quá trình hô hấp và các hoạt động sinh lý của
cơ thể. Ngoài ra, protein còn tham gia bảo vệ cơ thể.
Nhu cầu về protein của gia cầm khác nhau tuỳ thuộc vào giai đoạn sinh
trởng và hớng sản xuất. Vì vậy, khi cung cấp protein cần phải đảm bảo
đúng tiêu chuẩn để đáp ứng đợc nhu cầu về protein của từng loại gia cầm ở

mức tối u. Cho nên, một vấn đề rất quan trọng trong dinh dỡng protein là
xây dựng đợc những khẩu phần ăn phù hợp với từng loại gia cầm theo lứa
tuổi cũng nh các hớng sản xuất. Việc cung cấp thừa hay thiếu protein đều
gây ảnh hởng xấu đến cơ thể gia cầm. Khi không đủ protein trong thức ăn thì
quá trình trao đổi chất bị phá hủy, sinh truởng của gia cầm chậm lại, năng suất
sản phẩm cũng nh khả năng chống chịu bệnh tật đều giảm. Ngợc lại, nếu
thức ăn thừa protein cũng không tốt đối với cơ thể gia cầm. Bởi vì khi thừa
protein trong khẩu phần thì trong cơ thể sẽ tích luỹ một lợng đáng kể các sản
phẩm độc nh amoniac, các muối amon, axit uric, urê, các amin và các chất
khác (Grigorev, 1981)[5]. Để xây dựng đợc những khẩu phần phù hợp với
từng loại gia cầm thì cần phải xác định đợc chính xác hàm lợng protein thô
(CP) có trong từng loại nguyên liệu thức ăn dùng để phối hợp khẩu phần. Từ

7


trớc tới nay, chúng ta thờng tính hàm lợng protein thô trong các nguyên
liệu thức ăn bằng cách lấy hàm lợng nitơ tổng số có trong thức ăn phân tích
đợc nhân với hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô chung là 6,25. Sở dĩ có
hệ số 6,25 là vì các nghiên cứu cho biết hàm lợng nitơ của protein trung bình
là 16% và 100/16 = 6,25. Song thực tế, không phải loại protein nào cũng có hệ
số chuyển đổi nitơ thành protein thô là 6,25 mà mỗi loại protein lại có hệ số
chuyển đổi khác nhau. Theo tài liệu của Mc. Donald (1995)[61], hệ số chuyển
đổi nitơ thành protein thô của hạt bông là 5,30; đỗ tơng là 5,71; sữa bột là
6,38 và thịt, trứng là 6,25. Theo tài liệu của Mossé (1990)[63], hệ số chuyển
đổi nitơ thành protein thô của ngô là 5,65; đỗ tơng là 5,52; gạo lµ 5,17 vµ lóa
mú lµ 5,33. Nh− vËy, 6,25 lµ hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô của thịt,
trứng vµ nÕu chóng ta dïng 6,25 lµm hƯ sè chung để tính hàm lợng protein
thô cho tất cả các nguyên liệu thức ăn thì sẽ dẫn đến trờng hợp có loại thức
ăn có hàm lợng protein thô cao hơn thực tế và có loại thức ăn có hàm lợng

protein thô thấp hơn thực tế. Chính điều này sẽ ảnh hởng đến hàm lợng
protein thô trong khẩu phần ăn của gia cầm và từ đó ảnh hởng đến sức sản
xuất của gia cầm.
Gần đây, nhiều nhà khoa học lại đề cập đến vấn đề này. Các tác giả cho
rằng hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô là điểm xuất phát quan trọng góp
phần xác định chính xác hàm lợng protein của các loại thức ăn. Tuy nhiên,
việc xác định đợc hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô của từng loại
protein thức ăn là một vấn đề lớn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức cũng nh
cơ sở vật chất ®Çy ®đ. ý kiÕn cđa FAO (2002)[46] cho r»ng ë các nớc đang
phát triển nên sử dụng hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô do các nớc
phát triển đa ra. Trong điều kiện hiện tại, khi cha xác định đợc hệ số
chuyển đổi nitơ thành protein thô của các loại protein trong nguyên liệu thức
ăn, chúng tôi sử dụng các hệ số này của các tác giả nớc ngoài và tiến hành đề
tài: ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến hàm

8


lợng protein thô trong một số loại thức ăn cho gà và sức sinh trởng của
gà broiler.
1.2. Mục đích của đề tài
- Xác định ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô trong một số loại nguyên liệu thức ăn cho gia cầm.
- Xác định ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
hàm lợng protein thô trong một số khẩu phần ăn cho gà.
- Xác định ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô đến
sức sinh trởng của gà broiler.
1.3. ý nghĩa khoa học của đề tài
+ Đây là nghiên cứu đầu tiên về sự ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ
thành protein thô đến hàm lợng protein thô trong các nguyên liệu thức ăn cho

gia cầm.
+ Nghiên cứu này giúp cho việc xác định đợc chính xác hàm lợng
protein thô trong các nguyên liệu thức ăn cũng nh trong khẩu phần ăn cho
gia cầm.
+ Kết quả nghiên cứu là t liệu cần thiết cho giảng dạy và nghiên cứu
ngành chăn nuôi thú y.
1.4. ý nghĩa thực tiễn của đề tài
+ Tập hợp đợc số liệu về hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô của các
tác giả nớc ngoài.
+ Xác định đợc ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô
đến hàm lợng protein thô trong một số nguyên liệu thức ăn và khẩu phần ăn
cho gà.
+ Xác định đợc ảnh hởng của hệ số chuyển đổi nitơ thành protein thô
đến sức sinh tr−ëng cđa gµ broiler.

9


2. tỉng quan tµI liƯu

2.1. Protein trong dinh d−ìng gia cầm
2.1.1. Vai trò của protein đối với cơ thể gia cầm
Cơ thể gia cầm cũng nh mọi cơ thể sinh vật khác đều là một tập hợp
của nhiều hợp chất phức tạp nh nớc, muối khoáng, các loại hydratcacbon,
các loại chất béo, các vitamin, hocmon... nhng thành phần không thể thiếu
đợc của bất cứ sinh thể nào cũng phải là protein (Lê Khắc Thận, Nguyễn Thị
Phớc Nhuận, 1974)[19]. Protein là chÊt mang sù sèng, nh− ¡ng-ghen
(1964)[1] ®· viÕt "... sù sống là phơng thức tồn tại của các thể protit, bản chất
của nó bao hàm trong hiện tợng luôn luôn tự tái tạo những cấu trúc hoá học
của những thể ấy". Trong cơ thể gia cầm, các protein có vai trò rất to lớn và đa

dạng. Protein là thành phần cấu tạo chủ yếu của mọi loại mô bào, từ mô bào
thờng đến mô bào biệt hoá, mỗi loại mô bào đều có cấu tạo protein đặc trng
riêng của mình. Phân tử ADN của tế bào sẽ cung cấp thông tin di truyền để
xác định cấu trúc chính xác của phân tử protein sẽ đợc tổng hợp. Protein
cung cấp nguyên liệu cho tế bào phát triển làm tăng trọng vật nuôi. Cơ thể
dùng protein tiếp nhận từ thức ăn để tạo ra sản phẩm thịt, trứng - là những sản
phẩm giàu protein. Protein cần thiết cho quá trình phát triển, phân chia và sự
kết hợp sinh học của những tế bào sinh dục. Tất cả những hoạt động này sẽ
không thực hiện đợc nếu thiếu protein. Protein là yếu tố quan trọng trong cơ
chế xúc tác, điều hoà sinh học bên trong cơ thể bởi vì protein không những là
thành phần chính cấu tạo nên tế bào mà còn là nguyên liệu chính để cấu tạo
nên các men, hoc mon của cơ thể. Chức năng hô hấp liên quan trực tiếp với
hoạt động sinh hoá của hai protein là hemoglobin và myoglobin. Ngoài ra còn
có một số protein khác tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào chức năng hô hấp
của cơ thể. Protein còn là nguyên liệu cung cấp năng lợng, khi oxy hoá 1g

10


protein cho ra 4,1 kcal năng lợng. Protein còn có thể chuyển hoá thành lipit,
gluxit nhng ngợc lại lipit và gluxit lại không thể chuyển hoá thành protein
đợc.
Protein đóng vai trò quan trọng trong miễn dịch dịch thể của cơ thể.
Trong cơ thể có tạo ra các protein bảo vệ đặc biệt hoặc là các protein miễn
dịch, ngăn ngừa tác động của các protein lạ hoặc vi sinh vật xâm nhập vào bên
trong cơ thể. Khi trong cơ thể có sự xuất hiện của kháng nguyên (có thể là
virus hoặc protein lạ) thì cơ thể bắt đầu sản xuất ra các protein bảo vệ (kháng
thể) để trung hoà độc tố. Ngời ta đà xác định đợc tiểu phần - globulin của
protein trong máu đóng vai trò chủ yếu trong quá trình miễn dịch. Các tế bào
bạch cầu lympho B và T sản xuất ra kháng thể tạo miễn dịch cho cơ thể. Bên

ngoài cơ thể, da và lông vũ (đợc cấu tạo chủ yếu từ protein), có tác dụng bảo
vệ cơ thể tránh sự xâm nhập về mặt cơ học của các thể lạ, của các chất độc hại
và các vi khuẩn gây bệnh, tránh những điều kiện nhiệt độ và thời tiết không
thuận lợi.
Khi nghiên cứu ở mức độ phân tử, ngời ta càng thấy rõ đợc tầm quan
trọng của protein đối với đời sống vật nuôi.
Từ rất nhiều nghiên cứu, ngời ta đà nhận thấy rằng protein là một
trong những thành phần quan trọng nhất cấu tạo nên màng sinh học và phần
lớn các hoạt tính sinh học của màng là do protein đảm trách.
Màng sinh học là lớp cấu trúc bao bọc bên ngoài các tế bào sinh vật
cũng nh bao bọc các khí quan bên trong nh nhân, ty lạp thể, lục lạp thể,
lizoxôm, hoặc tạo thµnh hƯ thèng khÝ quan Êy nh− l−íi néi bµo tơng, máy
golgi,.... ở cơ thể sinh vật tiến hoá cao, tế bào có nhân thực hiện hàng loạt quá
trình hoá học rất đa dạng và phức tạp với mức độ điều tiết tinh vi chính là nhờ
sự ngăn chia khu vực "chuyên môn hoá" cho từng quá trình sinh học, từng
chuỗi phản ứng hóa sinh do hệ thống màng đảm trách. Qua cấu trúc màng mà
tế bào tiếp nhận có chọn lọc các chất dinh dỡng cũng nh các thông tin cÇn

11


thiết từ môi trờng bao quanh và đa ra ngoài tế bào những chất thải tiết
(những chất cặn bà của quá trình chuyển hoá và những tín hiệu hoá học khác
để thông tin).
Nhiều quá trình cơ bản, nền tảng của sự sống đợc thực hiện ở màng.
Thí dụ nh sự vận chuyển điện tử và photon của quá trình oxi hoá khử sinh
học nhằm tạo ra nguồn năng lợng chứa vào các phân tử ATP diễn ra ở màng
trong ty lạp thể. Quá trình quang hợp cũng thực hiện trong hệ thống màng
"tila koid" của lục lạp thể. Sự truyền dẫn các xung động ở hệ thần kinh, ở cơ
cũng gắn liền với hoạt tính của màng sinh học.

Trong cấu tróc cđa mµng tÕ bµo (mµng sinh häc), protein tham gia vào
việc vận chuyển các chất không có khả năng tự do đi qua màng bằng cách kết
hợp với chất đó trên mặt màng bên này và nhả ra trên mặt màng bên kia.
Những protein đó ngời ta gọi là protein vận chuyển.
Các protein - rexeptơ có vai trò tiếp gắn đặc hiệu với các tín hiệu hoá
học từ môi trờng bên ngoài tế bào nh hocmon, các protein, hoặc một virut.
Sự tiếp gắn này là bớc khởi đầu cho việc truyền tín hiệu vào trong tế bào để
tạo ra các đáp ứng đặc hiệu và rất đa dạng.
Các protein - men thực hiện quá trình oxi hoá - khử nh dehydrogenaz,
các loại xitocrom... phân bố ở màng vi sinh vật, màng lục lạp thể, màng ty lạp
thể,... gắn liền chức năng khai thác năng lợng, chuyển hoá các độc tố.
Các "bơm ion" để chỉ các protein có cấu trúc phức tạp, tham gia vận
chuyển những ion nh : K+, Na+, Ca+2 qua màng. Những quá trình này thờng
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự trao đổi năng lợng của tế bào.
Các kênh dẫn ion, là những protein đặc thù với khả năng đóng và mở
tuỳ theo biến ®ỉi cÊu tróc bËc ba vµ bèn.
Protein tham gia vµo sự trao đổi thông tin giữa các tế bào. Quá trình
sống của tế bào luôn diễn ra trong sự tơng tác, thông tin với nhau để đảm bảo
duy trì sự sống còn và phát triển giống loài. Trong một cơ thể đa bào điều này

12


lại càng thiết yếu: phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hàng loạt quá trình
phức tạp nh sự lớn, biệt hoá, trao đổi các loại hợp chất và ion,... ở từng loại
mô bào cũng nh ở toàn bộ cơ thể. ở các quần thể tế bào nhỏ, đơn giản, thì sự
thông tin giao tiếp diễn ra qua sự tiếp xúc thẳng giữa tế bào với tế bào. Nhờ
các ống thông (đợc tạo nên từ protein có tên là coenxin) đặc biệt trên màng
tế bào tiếp giáp nhau mà các tế bào trao đổi những phần tử nhỏ để điều tiết các
đáp ứng chuyển hoá vật chất. ở những cơ thể đa bào phát triển cao, một kiểu

giao tiếp tinh tế hơn đợc tạo ra: đó là sự thông tin nhờ các phân tử tín hiệu
tiết ra ngoài tế bào báo tin và gửi đến tế bào mục tiêu. Bản chất hoá học của
những phân tử tín hiệu này rất đa dạng: đó là các dẫn xuất axit amin, peptit,
protein, steroit,...
Ngoài những protein có chức năng cụ thể trên, trong cơ thể còn tồn tại
một loại protein gọi là "protein dự trữ", bình thờng không đảm nhận một
chức năng gì đặc biệt nhng khi cơ thể bị nhiễm độc thì nó giúp cơ thể chống
đỡ.
Nh vậy, trong cơ thể gia cầm protein đóng một vai trò hết sức quan
trọng, nó tham gia vào tất cả các quá trình sinh lý sinh hoá của cơ thể, và có
thể nói protein quyết định sự sống của động vật nói chung và gia cầm nói
riêng.
2.1.2. Nhu cầu protein của gia cầm
2.1.2.1. Phơng pháp tính toán nhu cầu protein cho gia cầm
Theo Scott và CS (1976)[71] nhu cầu protein cho gà thịt thơng phẩm
(gà broiler) bao gồm nhu cầu protein cho duy trì, nhu cầu protein cho tăng
trọng và nhu cầu protein cho sự phát triển lông.
+ Nhu cầu protein cho duy trì:
Nhu cầu duy trì là nhu cầu giúp cho con vật không thay đổi trọng lợng
và thực hiện các hoạt động sinh lí. Kết qủa nghiên cứu của Scott (1976)[71]
cho biết lợng nitơ nội sinh hàng ngày của gà khoảng 250 mg/1kg khèi l−ỵng

13


cơ thể. Hiệu suất sử dụng protein của gà broiler là 64%. Trên cơ sở này có thể
tính toán nhu cầu protein duy trì cho gà thịt thơng phẩm (broiler) theo công
thức 2.2.8.
0,0016 x W (g)
Nhu cầu protein cho duy trì (g) = ----------------0,64


(Công thức 2.1.1)

+ Nhu cầu protein cho tăng trọng:
Khả năng tăng trọng (sinh trởng) của động vật nói chung và gia cầm
nói riêng xảy ra nhanh ở giai đoạn còn non và có sự giảm dần theo tuổi. Quá
trình sinh trởng này gắn liền với sự tích luỹ protein trong cơ thể. Vì vậy để
tính đợc nhu cầu protein cho tăng trọng thì cần dựa vào hàm lợng protein có
trong thịt gà và hiệu quả sử dụng protein trong thức ăn của loại gà đó. Theo tài
liệu của Scott và của nhiều tác giả khác cho biết trong thịt gà có hàm lợng
protein trung bình là 18%. Do đó ta tính nhu cầu protein cho tăng trọng hàng
ngày của gà theo công thức 2.2.9.
W(g) x 0,18
Nhu cầu protein cho tăng trọng(g) = ---------------0,64

(Công thức 2.1.2)

+ Nhu cầu protein cho sự phát triển lông
Thông thờng, ở ba tuần tuổi thì bộ lông của gia cầm chiếm 4% thể
trọng. Khối lợng lông tăng dần lên và đạt 7% thể trọng ở tuần tuổi thứ t, sau
đó tỷ lệ này đợc duy trì ổn định. Hàm lợng protein trong lông gà trung bình
là 82%. Do vậy, nhu cầu protein hàng ngày cho mọc lông đợc tính theo công
thức 2.2.10.
W(g) x 0,04 (hoặc 0,07) x 0,82
Nhu cầu protein cho mọc lông (g) = ------------------------------------------0,64
(C«ng thøc 2.1.3)

14



Từ các công thức thành phần, ta có công thức tổng quát để tính nhu cầu
protein cho gà thịt thơng phẩm (gà broiler) theo công thức 2.2.11.
0,0016 W + 0,18W + 0,04 (0,07)W x 0,82
CP = ----------------------------------------------------------0,64
(Công thức 2.1.4)
Trong đó:
- CP: nhu cầu protein hàng ngày cho gà (g)
- W: khối lợng cơ thể (g)
- W : tăng trọng hàng ngày (g)
2.1.2.2. Nhu cầu protein cho gia cầm
Nhu cầu protein cho gia cầm không cố định mà nó thay đổi theo sự phát
triển của trình độ khoa học và yêu cầu ngày càng cao của sản xuất và đời sống
con ngời. Có rất nhiều các cơ quan và các nhà khoa học đà quan tâm nghiên
cứu nhu cầu dinh dỡng của gia cầm, đặc biệt là nhu cầu protein cho gà.
Trong khẩu phần ăn của gà nhu cầu protein thờng đợc biểu thị bằng tỷ lệ
phần trăm protein thô trong khẩu phần (Nesheim, 1979 và North,
1972)[66][67].
izvetanov và CS (1976) - dẫn theo Nguyễn Thị Mai, 1995[10] đà làm
thí nghiệm với 3 møc protein lµ 21; 23 vµ 25 % cho giai đoạn khởi động và
18; 19,5 và 21% cho giai đoạn kết thúc, tỷ lệ giữa năng lợng và protein trong
thức ăn hỗn hợp (ME/CP) là 110; 120; 130 và 140; 150; 160. Thí nghiệm đÃ
cho thấy kết quả cao nhất về kinh tế và kỹ thuật nhận đợc ở lô sử dụng thức
ăn có hàm lợng protein là 21 và 23% ở giai đoạn khởi động; 18 và 19,5% ở
giai đoạn kết thúc.
FAO (1976)[45] đề nghị tiêu chuẩn ăn cho gà broiler 0-4 tuần tuổi dùng
cho các nớc nhiệt đới và á nhiệt đới là 24-28% protein.

15



Theo Feed Facts (1977)[48] nhu cầu protein cho gà ở giai đoạn khởi
động là 23% còn ở giai đoạn sinh trởng là 20%. Nhu cầu này cũng phù hợp
với nhu cầu mà Ernesto đề ra năm 1980.
Kocis và CS (1979) - dẫn theo Nguyễn Thị Mai, 1995[10] đà thấy rằng
hiệu quả kinh tế đạt cao nhất khi cho gà broiler ăn thức ăn hỗn hợp có 24% CP
ở giai đoạn 0 - 2 tuần tuổi; 21% CP ở giai đoạn 3 - 4 tuần tuổi và 19% CP ở
giai đoạn trên 4 tuần tuổi
Năm 1984, Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Mỹ (NRC, 1984)[64] đà đề
nghị tiêu chuẩn protein cho gà hớng trứng giai đoạn 0- 6 tuần tuổi là 18-20%
protein thô; từ 7-14 tuần tuổi là 16-18%; từ 15-20 tuần tuổi là 14-16%. Cũng
theo NRC, 1981 thì nhu cầu protein cho gà hớng thịt là 20-22% ở giai đoạn
0-5 tuần tuổi, và 18-20% ở giai đoạn 6-9 tuần tuổi.
Maynard và CS (1981) - dẫn theo Nguyễn Thị Mai (1995)[10] cho biết
mức protein là 27 và 28% đà cho tốc độ sinh trởng và hiệu quả sử dụng thức
ăn tốt nhất khi nuôi gà ở giai đoạn 0- 42 ngày tuổi.
Theo John và CS (1988)[56] ở các nớc nhiệt đới nhu cầu về protein
cho gà thịt từ 0- 4 tuần tuổi là 25-23%; Gà 5-8 tuần tuổi là 22-20%.
Trại euribrid (Hà Lan),1992 - dẫn theo Lê Hồng Sơn (2001)[16], đÃ
đa ra tiêu chuẩn về protein và năng lợng cho gà broiler ở giai đoạn khởi
động là 23% CP và 3200 kcal ME, ở giai đoạn kết thúc là 21% CP và 3200
kcal ME.
Theo hÃng Degussa (Cộng hoà Liên bang Đức), 1996 - dÉn theo
Ngun Phóc H−ng (2003)[6], nhu cÇu protein của gà broiler 1 - 3 tuần tuổi là
21%, 4 -7 tuần tuổi là 20% và giai đoạn trên 7 tuần tuổi là 18%.
Theo tiêu chuẩn của Liên hiệp các xí nghiệp gia cầm Việt nam năm
1993 - dẫn theo Nguyễn Thị Mai (2000)[11], qui định mức protein trong khẩu
phần ăn của một số loại gà nh sau: gà thay thế giống thịt giai đoạn 0-2 tuần
tuổi là 23%, 3-6 tuần tuổi là 20%, 7-18 tuần tuổi là 16%; gà broiler giai đoạn

16



từ 0-2 tuần tuổi là 23-25%, từ 3-5 tuần tuổi là 20-22% và giai đoạn trên 5 tuần
tuổi là 19-20%.
Nguyễn Thị Mai (1995)[10] khi nghiên cứu trên gà Hybro đà đa ra kết
luận: vào mùa hè nên sử dụng khẩu phần có 25% protein ở giai đoạn 0-5 tuần
tuổi, vào mùa đông sử dụng khẩu phần có 25% protein ở giai đoạn 0-2 tuần
tuổi và 23% ở giai đoạn 3-5 tuần tuổi, sẽ là thích hợp nhất cho gà Hybro 0-5
tuần tuổi.
LÃ Văn Kính (1995)[7], cũng đa ra kết luận: khi cha cân bằng axit
amin tốt nhất nên nuôi gà thịt Hybro bằng khẩu phần ăn có chứa 24% protein
thô ở giai đoạn 0-4 tuần tuổi và 20 % protein thô ở giai đoạn 5-8 tuần tuổi.
Bùi Thị Oanh (1996)[15] cũng khuyến cáo rằng với khẩu phần cha cân
đối các axit amin thì tỷ lệ protein trong thức ăn hỗn hợp của gà boiler ở giai
đoạn 0-3 tuần tuổi là 24%, 4-6 tuần tuổi là 22%, và 7 tuần tuổi là 20%.
Cũng theo Nguyễn Thị Mai (2000)[11] thì nhu cầu protein thô thích
hợp trong khẩu phần ăn của gà broiler nuôi ở vụ hè là 25% ở giai đoạn 0-5
tuần tuổi và 23% ở giai đoạn 6-7 tuần tuổi. Còn ở vụ đông tỷ lệ này là 25% ở
giai đoạn 0-2 tuần tuổi, 23% ở giai đoạn 2-5 tuần tuổi và 21% trong giai đoạn
6-7 tuần tuổi.
Lê Hồng Sơn (2001)[16] đà đa ra nhu cầu protein cho gà Tam Hoàng
dòng 882 nuôi thịt là 21, 19, 17% tơng ứng với 3 giai đoạn nuôi là 0-4 tuần
tuổi, 5-8 tuần tuổi và 9-12 tuần tuổi.
Nh vậy, việc xây dựng những khẩu phần ăn đủ cả về số lợng và chất
lợng protein cho gia cầm là vấn đề đang đợc rất nhiều nhà dinh dỡng quan
tâm nghiên cứu. Việc cung cấp protein thừa hay thiếu đều ảnh hởng xấu đến
sức khoẻ cũng nh sức sản xuất của gia cầm.
Thiếu protein, làm tăng sự tích luỹ chất béo ở cơ vì gà không có khả
năng sử dụng năng lợng cho sinh trởng, phát triển (vì khẩu phần thiếu


17


protein và axit amin). Vì vậy, gia cầm phải biến đổi năng lợng thừa thành mỡ
(Scott và CS, 1982)[73].
Ngoài ra, khi thiếu protein cũng làm cho quá trình trao đổi chất bị phá
huỷ, gà chậm lớn, giảm sản lợng, sức đề kháng của con vật giảm sút
(Grigorev,1981)[5]. Thiếu lizin gây mất màu lông cánh ở gà lông màu (Klain
và CS, 1957)[57]. Grau (1945)[50] thông báo là phát hiện thấy sự phát triển dị
thờng ở lỡi gà khi chúng ăn khẩu phần thiếu lơxin, izolơxin, phenylalanin.
Nhiều tác giả nghiên cứu và chøng minh vai trß cđa metionin trong héi chøng
mì gan. Thiếu metionin gà dễ bị hội chứng mỡ gan vì metionin cã vai trß
quan träng trong viƯc cung cÊp nhãm metyl (CH3) để tạo thành carnitin
(carnitin là chất mang axit bÐo qua mµng ty thĨ). NÕu thiÕu metionin (hay
cholin), sù tổng hợp carnitin bị hạn chế, axit béo không qua màng để vào ty
thể, sẽ tích luỹ ở gan gây hội chứng này (Dẫn theo LÃ Văn Kính, 1995)[7].
Thậm chí khi nuôi gà bằng những khẩu phần ăn thiếu protein trong thời gian
dài thì sẽ dẫn đến chết.
Ngợc lại, việc cung cÊp thõa protein so víi nhu cÇu cđa gia cầm thì
cũng không tốt. Bởi vì, thừa protein không những gây lÃng phí protein, ảnh
hởng đến hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi mà còn ảnh hởng đến sức khoẻ
của gia cầm. Protein thừa sẽ đợc phân huỷ tạo ra các sản phẩm độc và tích
trữ lại ở trong cơ thể (Grigorev, 1981)[5].
Thừa protein gây Stress nhiệt do tăng sinh tuyến thợng thận, tăng sản
sinh ra hocmon adrenocorticosteroit (Scott và CS, 1982)[73].
March và CS (1950) - dẫn theo Đỗ Thị Tính (1996)[22] đà chỉ ra rằng:
không chỉ sự thiếu mà cả sự thừa protein cũng có hại cho gà con, axit amin d
thừa không đợc sử dụng cho tổng hợp protein sẽ bị phân giải, giải phóng nitơ
và cacbon. Nitơ sẽ đợc kết hợp thành axit uric. Gốc cacbon có thể dùng tổng
hợp glucoz, chuyển thành mỡ hoặc dị hoá thành CO2 + H2O + năng lợng. Sự

phân giải một số axit amin xảy ra thờng xuyên và sự phân giải này tăng lên

18


khi mức protein của khẩu phần tăng lên. Đây cũng là một nguyên nhân khiến
việc sử dụng protein không thể đạt hiệu quả 100%. Mỗi một axit amin có một
con đờng phân giải riêng, nhng các con đờng phân giải này nói chung là
thích ứng với hàm lợng axit amin trong khÈu phÇn. Khi møc axit amin trong
khÈu phÇn thÊp thì enzim phân giải nó hiện diện ở mức thấp. Mức axit amin
trong khẩu phần cao sẽ tăng cờng hoạt động của enzim phân giải axit amin
này. Sự thích nghi với hàm lợng protein ăn vào giúp cơ thể bảo vệ đợc axit
amin khi chúng đợc cung cấp với mức thấp (Scott và CS, 1982)[73]. ở gia
cầm, đa số sự phân giải axit amin xảy ra ở gan, thận, nhng lơxin, izolơxin và
valin lại bị phân giải chủ yếu ở trong cơ.
Trong khẩu phần chỉ cần thừa một lợng nhỏ lizin có thể gây tăng rõ rệt
hoạt động của acgininaz và tăng phân giải acginin. Điều này gây nên sự đối
kháng giữa lizin và acginin. Ngoài ra, thừa các axit amin khác nh: histidin,
izolơxin, tyrozin và ornithin, cũng làm tăng hoạt động của acgininaz ở thận và
do đó làm tăng nhu cầu về acginin (Scott và CS, 1982)[73].
Thừa protein có thể dẫn đến tình trạng bệnh lý. Vì thừa protein gây tăng
hàm lợng axit uric trong máu, mà axit uric lại không tan, khi mức axit uric
trong máu tăng cao nó có thể lắng đọng ở khớp, dới da, trong thận gây bệnh
"Gut" - bệnh đóng cục, bớu. Khi thiếu vitamin A, bệnh lại càng nghiêm
trọng hơn bởi vì thiếu vitamin A gây phá huỷ thận, cản trở bài tiết uric nên sự
lắng đọng axit uric càng nhiều - urat tích trong thận làm bít ống dẫn niệu, kết
quả là làm cho hàm lợng axit uric có thể tăng lên gấp 30 - 40 lần, con vật bị
ngộ độc và chết (Dơng Thanh Liêm, 1994) - dẫn theo LÃ Văn Kính
(1995)[7].
Khi protein cung cấp vợt quá nhu cầu, cơ thể sẽ sử dụng protein nh

một nguồn cung cấp năng lợng, gây lÃng phí. Hơn nữa, quá trình phân giải
protein cho năng lợng đà sinh ra một lợng lớn NH3 , axit uric,... các chất này
tích tụ lại gây ngộ độc cho cơ thể. Mặt khác, một lợng protein thừa sẽ theo

19


xuống manh tràng, ở đây nó bị vi sinh vật lên men thối gây viêm sng ruột và
tiêu chảy.
2.1.3. Những yếu tố ảnh hởng đến nhu cầu protein của gia cầm
Nhu cầu protein của gia cầm bị chi phối bởi nhiỊu u tè kh¸c nhau,
nh−ng u tè quan träng nhÊt chính là lợng thức ăn thu nhận (Duke, 1984;
Scott và CS, 1976)[43][71].
Một điều rõ ràng là, gia cầm không thể thu nhận riêng rẽ protein theo
nhu cầu mà bắt buộc phải thu nhận cùng với thức ăn ăn vào hàng ngày theo
một tỷ lệ nhất định. Vì vậy, những yếu tố ảnh hởng đến lợng thức ăn thu
nhận thì cũng ảnh hởng đến nhu cầu protein của gia cầm. Nếu ta coi các yếu
tố thuộc qui trình kỹ thuật đợc thực hiện nghiêm ngặt thì lợng thức ăn thu
nhận và nhu cầu protein phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố nh : giống, giới
tính, lứa tuổi, nhiệt độ môi trờng, ảnh hởng của các chất có hoạt tính sinh
học và các nguyên tố khoáng, mức năng lợng trong khẩu phần và sự cân
bằng axit amin trong khẩu phần (Campell, 1983; Hopf, 1973; Scott,
1980)[40][55][72].
+ Giống, mỗi giống gia cầm có một kiểu di truyền riêng, quyết định
tầm vóc cơ thể, tốc độ sinh trởng và sức sản xuất khác nhau. Vì vậy nhu cầu
về các chất dinh dỡng nói chung và nhu cầu về protein nói riêng cũng khác
nhau giữa các giống, thậm chí giữa các cá thể.
Bằng các thí nghiệm của mình tại Israel, Shalev B. A và Bornstein S.
(1989)[74] ®· kÕt ln r»ng víi cïng møc dinh d−ìng nh nhau, giống gà
Cobb 500 có tăng trọng cao hơn và tiêu tốn thức ăn lúc 49 ngày tuổi thấp hơn

giống gà Anak 180. Nguyên nhân của sự khác nhau này là do có sự khác nhau
về đặc điểm trao ®ỉi chÊt (Baker, 1993; NRC, 1984; Moran vµ CS,
1990)[35][62][64]. Trong các giống gà thì những giống gà nặng cân tiêu thụ
thức ăn nhiều hơn so với giống gà nhẹ cân. Trong cùng một giống thì những
con có khối lợng lớn tiêu thụ thức ăn nhiều hơn so với những con cã khèi

20


lợng nhỏ. Sở dĩ nh vậy vì gà có khối lợng lớn thì nhu cầu protein cho duy
trì sẽ cao hơn (Scott và CS, 1976)[71]. Gà có tốc độ sinh trởng càng cao thì
nhu cầu về protein càng lớn vì protein là nguyên liệu chính để tổng hợp nên
thịt của gia cầm.
+ Giới tính, giới tính cũng ảnh hởng đến nhu cầu protein của gia cầm.
Theo Lamoureux và CS (1961)[59] nhu cầu dinh dỡng của gà mái thấp hơn
gà trống. Sở dĩ nh vậy là vì gà trống luôn có tốc độ sinh trởng cao hơn gà
mái cùng lứa tuổi nên nhu cầu về axit amin và protein ở gà trống luôn cao hơn
để đáp ứng cho quá trình tổng hợp protein của cơ thể.
Edwin, Movan (1974) - dẫn theo Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng và CS
(1993)[12] cho biết: từ 0 - 2 tuần tuổi không thấy có sự khác biệt về tốc độ
tăng khối lợng cơ thể và hiệu quả sử dụng thức ăn, nhng sau hai tuần tuổi có
sự khác nhau rất lớn giữa hai giới (con mái sử dụng thức ăn kém và thịt tích
nhiều mỡ hơn). Các tác giả còn nhận thấy, đối với gà trống khẩu phần phải
chứa lớn hơn hoặc bằng 20% CP với 3220 Kcal năng lợng trao đổi (ME), còn
gà mái chỉ cần 16% CP.
Lê Hồng Mận, Bùi Đức Lũng và CS (1993)[12] đà khẳng định nhu cầu
protein cho gà trống broiler giai đoạn 0 - 4 tuần tuổi là 24%, còn gà mái
broiler là 22%.
+ Lứa tuổi, bằng các kết quả nghiên cứu của mình một số tác giả nh
Grigorev, 1981[5]; Scott vµ CS, 1976[71]; Kocis, 1979 - dÉn theo Nguyễn Thị

Mai (1995)[10] đà ghi nhận rằng nhu cầu về protein và axit amin của gà thịt
cao nhất qua 2 tuần đầu nuôi dỡng sau đó giảm dần theo tuổi. Sở dĩ có hiện
tợng này đó là do có sự thay đổi về cấu trúc cơ thể, gà càng lớn thì nhu cầu
protein cho tăng trọng càng giảm.
+ Nhiệt độ môi trờng: Nhiệt độ môi trờng có ảnh hởng đến lợng
thức ăn thu nhận vì thế nó ảnh hởng trực tiếp đến nhu cầu protein (Hopf,
1973)[55]. Nhiệt độ môi trờng cao có ảnh hởng xấu tới kết quả phát triển

21


của gà thịt trong giai đoạn cuối do giảm lợng thức ăn ăn vào và giảm tốc độ
sinh trởng (Cerniglia và CS, 1983) [41]. Nhiệt độ môi trờng ảnh hởng tới
nhu cầu năng lợng và thức ăn ăn vào. Theo Shimada (1984) - dẫn theo
Nguyễn Thị Mai (2000)[11] nhiệt độ môi trờng 32 - 350C sẽ làm giảm lợng
thức ăn thu nhận 4,5%. Còn ở nhiệt độ 400C, thì hầu nh gà không thu nhận
thức ăn; Theo NRC (1994)[65] nhiệt độ càng cao gà càng giảm ăn và cứ tăng
lên 10C gà giảm ăn 1,5%. Ngợc lại, nhiệt độ lạnh làm tăng lợng thức ăn ăn
vào. So sánh với vùng khí hậu nóng, gà nuôi ở vùng khí hậu lạnh ăn khẩu phần
thiếu dinh dỡng cho kết quả tốt hơn vì ăn nhiều hơn.
Ernesto (1980) - dẫn theo Nguyễn Thị Mai (2000)[11] thí nghiệm trên
gà Lơgho cho biết với thức ăn hỗn hợp có giá trị năng lợng là 3000 Kcal
ME/1kg thức ăn, gà thu nhận 110g/con/ngày trong những tháng mùa đông.
Cũng loại thức ăn này vào những tháng mùa hè gà chỉ thu nhận 90g/con/ngày.
Do đó để đảm bảo cho gà thu nhận đợc đủ hàm lợng protein theo nhu cầu
thì cần phải thay đổi hàm lợng protein trong khẩu phần theo mùa vụ khác
nhau. Nghĩa là vào mùa hè thì nồng độ các chất dinh dỡng (đặc biệt là nồng
độ protein) trong thức ăn cần phải tăng cao hơn mùa đông, khi đó mới đáp ứng
đợc nhu cầu về các chất dinh dỡng của gia cầm.
+ ảnh hởng của các chất có hoạt tính sinh học,các nguyên tố khoáng:

nhu cầu về protein của gia cầm còn bị ảnh hởng bởi các chất có hoạt tính
sinh học cao nh vitamin và một số nguyên tố vi lợng.
Gene (1982) - dẫn theo Là Văn Kính (1995)[7] đà cho biết: mối quan
hệ giữa metionin và cholin. Metionin là nguồn cung cấp nhóm metyl cho việc
tổng hợp cholin. Ngợc lại, cholin cũng cung cấp nhóm metyl cho việc tổng
hợp metionin trong cơ thể gia cầm. Đây chính là mối quan hệ chuyển hoá giữa
metionin và cholin. Chính vì vậy trong khẩu phần thiếu cholin sẽ làm tăng nhu
cầu về metionin.

22


Axit nicotinic (vitamin PP) đợc tổng hợp từ triptophan, cứ 50 - 60
phân tử triptophan sẽ tạo ra đợc 1 phân tử axit nicotinic.
Vitamin A ảnh hởng đến trạng thái chức năng của màng nhày ruột.
Khi thiếu vitamin này, sự tạo ra các glycoprotein bị phá huỷ do sự phân cách
các quá trình trao đổi các hợp chất có chứa lu huỳnh, mà trong đó bao gồm
các sunfomucopolysaccarit và các este sunfat của các steroit. Do đó tính thẩm
thấu của màng nhày ruột và cờng độ hấp thu axit amin bị thay đổi. Từ đó giả
thiết rằng vitamin A liên quan đến sự trao đổi của các axit amin có chøa l−u
huúnh ë gia cÇm (Bukaviaxkene, 1968 - dÉn theo LÃ Văn Kính, 1995)[7].
Có ý nghĩa đặc biệt quan trọng ®èi víi sù trao ®ỉi protein vµ axit amin
lµ pyridoxin (vitamin B6), mà dạng đà đợc photphoril hoá của nó đóng vai
trò to lớn trong các quá trình transamin hoá và khử cacboxyl hoá của các axit
amin (Grigorev, 1981)[5].
Mối quan hệ giữa triptophan và axit nicotinic cũng đợc chú ý. Nếu
trong khẩu phần thiếu axit nicotinic sẽ làm tăng nhu cầu về triptophan. Sở dĩ
nh vậy là cơ thể gia cầm có thể tổng hợp axit nicotinic từ triptophan. Để tổng
hợp đợc axit nicotinic phải cần có nhiều triptophan, cứ 50 - 60 phân tử
triptophan mới tổng hợp đợc một phân tử axit nicotinic.

Nhiều nghiên cứu đà thấy rằng: axit folic có quan hệ trực tiếp đến sự
tổng hợp các axit nucleic - tham gia trong sự tổng hợp phân tử protein.
Mối tơng quan giữa trao đổi axit amin với trao đổi khoáng đà đợc
nhiều tác giả nghiên cứu. Nielsen và CS (1966, 1967) - dẫn theo LÃ Văn
Kính,(1995)[7] thông báo về mối tơng quan giữa dinh dỡng axit amin víi
héi chøng thiÕu kÏm ë gµ con. Kiselev vµ CS (1967) - dẫn theo LÃ Văn Kính
(1995)[7] nhận thấy rằng đặc điểm của sự trao đổi photpho trong cơ thể gà
con phụ thuộc vào mức metionin trong khẩu phần của chúng. Scott (1976)[71]
tìm thấy mối tơng quan nhất định của selen, vitamin E và các axit amin chứa
lu huỳnh với sự xuất hiện và sự phòng ngừa loạn dỡng cơ ë gµ con.

23


+ Mức năng lợng của khẩu phần: Mức năng lợng trong khẩu phần là
yếu tố rất quan trọng để gia cầm thu nhận đủ các chất dinh dỡng hàng ngày
nói chung và nhu cầu protein nói riêng (Shimada, 1984 và Ernesto, 1980 - dÉn
theo Ngun ThÞ Mai (2000); Campell, 1983; Hopf, 1973; Scott và CS, 1976)
[11][40][55][71]. Bởi vì, gia cầm thu nhận thức ăn trớc hết là để thoả mÃn
nhu cầu về năng lợng, khi nhu cầu về năng lợng đà đợc thoả mÃn thì con
vật sẽ không thu nhận thêm thức ăn nữa mặc dù nhu cầu về các chất dinh
dỡng khác cha đủ.
Với tỷ lệ protein nh nhau, khẩu phần có mức năng lợng thấp sẽ đợc
gia cầm ăn nhiều hơn so với khẩu phần có mức năng lợng cao. Trong trờng
hợp thứ nhất, con vật nhận đợc axit amin trong một ngày nhiều hơn trờng
hợp thứ hai. Vì vậy, cùng với sự tăng năng lợng của khẩu phần cần phải tăng
một cách tơng ứng hàm lợng axit amin (FAO, 1976)[45]. Có nh vậy thì
mới đáp ứng đợc đầy đủ nhu cầu về các chất dinh dỡng cho vật nuôi. Theo
Combs, 1969 - dẫn theo LÃ Văn Kính (1995)[7] hiệu quả sử dụng thức ăn chỉ
cao khi cân bằng đợc tỷ lệ protein và axit amin với năng lợng của khẩu

phần.
Trong khẩu phần ăn của gia cầm, protein đợc biểu thị bằng tỷ lệ phần
trăm protein thô trong thức ăn (Cuca và CS, 1982 - dẫn theo Nguyễn Thị Mai,
2000; Nesheim, 1979 và North, 1972)[11][66][67], nhu cầu năng lợng
thờng đợc tính bằng Kcal năng lợng trao đổi trong thức ăn hỗn hợp (Hill
và Anderson, 1958)[53]. Vì vậy để đánh giá mức cân bằng giữa năng lợng và
protein ngời ta sử dụng tỷ lệ giữa năng lợng trao đổi với 1% protein thô của
khẩu phần (ME/CP) (Nguyễn Chí Bảo, 1978; Scott và CS, 1976)[2][71], tỷ lệ
này đợc biểu thị b»ng c«ng thøc:
Kcal ME
ME/ %CP = ---------------1% CP

24


Trong đó:
- ME/ %CP: tỷ lệ giữa năng lợng và protein trong thức ăn
- ME: giá trị năng lợng trao đổi của thức ăn (Kcal)
- CP: giá trị protein thô của thức ăn (%)
Có rất nhiều tác giả đà nghiên cứu về mối quan hệ giữa năng lợng trao
đổi với protein thô trong khẩu phần ăn của gà và đà đa ra đợc những tỷ lệ
năng lợng/protein thích hợp.
Theo Ernesto (1980) - dẫn theo Nguyễn Thị Mai, 2000[11] mức cân
bằng giữa năng lợng và protein cho gà thịt giai đoạn 0-5 tuần tuổi là 132143, gà thay thế giống thịt 0-8 tuần tuổi là 139-145.
Lê Hồng Mận và CS (1981)[12] cho biÕt trong mïa hÌ nÕu sư dơng
khÈu phÇn cã tỷ lệ năng lợng và protein là 124 cho gà broiler giai đoạn 0-4
tuần tuổi thì khối lợng cơ thể ở 4 tuần tuổi cao hơn 1,1% so với sử dụng khẩu
phần có tỷ lệ năng lợng và protein là 137 và tiêu tốn thức ăn cho 1 kg tăng
trọng lại giảm đợc 14%. Gà đợc nuôi bằng khẩu phần có tỷ lệ năng lợng
và protein là 124 thì có lợng mỡ bụng thấp hơn 5% so với gà đợc nuôi bằng

khẩu phần có tỷ lệ năng lợng và protein là 137.
Farell (1983)[47] cũng đề nghị tỷ lệ năng lợng và protein cho gà con
0-8 tuần tuổi là 135, gà sinh trởng 8-20 tuần tuổi là 140, gà đẻ trứng (> 20
tuần tuổi) là 155; gà broiler giai đoạn 0-6 tuần tuổi là 135, còn giai đoạn > 6
tuần tuổi là 155.
Theo NRC (1984, 1994)[64][65] tỷ lệ năng lợng và protein cho gà
broiler giai đoạn 1 là 140 và giai đoạn 2 là 160 - 180.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng ta thấy mức năng lợng trong
thức ăn có ảnh hởng đến nhu cầu protein của gia cầm. Do đó để gia cầm sử
dụng thức ăn đợc tốt thì khi xây dựng khẩu phần ăn cho gia cầm cần phải
chú ý đến tỷ lệ giữa mức năng lợng với hàm lợng protein thô của khẩu
phần.

25


×