Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

doc thi down ko thi thoi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.97 KB, 50 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Truyện Ngắn » Lõi Đất Tác Giả: Đinh Ngọc Font Size: Hùng. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. -Phải về lại làng. Cha tôi bảo với cả nhà. Trừ mẹ còn lại ai cũng hoang mang. Làng nào nữa? Từ khi sinh ra, ngoài đất này, chúng tôi chưa từng nghe cha mẹ nói về nó. Mẹ ngồi im lặng. - Dù mạt vận cũng phải về. Bán hết- Cha tôi nói như để dứt khoát với chính mình. Ngày đi cha đi một mình. Ngày về, sau cha là mẹ, ba chúng tôi và bốn mốt con bò. Khi đó anh Sơn tám tuổi, chị Mài bảy tuổi và tôi sáu tuổi. - Làng đấy! Cha chỉ lùm cây đen thẫm nằm thấp thoáng giữa cánh đồng xa xa. Khi đến gần đó là một cây đa đại thụ. Sự trở về của năm con người và bốn mốt con bò trở thành sự kiện của làng Gò. Người ta đổ ra xem. Vài người à lên thỏa mãn khi nhận ra cha tôi. Đêm đầu về làng, gia đình tôi cùng bốn mốt con bò nghỉ ở gò đất lớn đầu làng. Mẹ và chị Mài hạ củi bắc bếp thổi cơm. Lũ bò sau chuyến đi dài nằm ngả ngốn. Mùa tháng mười, sương xuống nhanh, chẳng mấy đã giăng khắp cánh đồng ải trắng. Tôi bị hút vào những ngôi mả vừa sang áo, tấm ván thôi và quần áo cũ vứt la liệt. Anh Sơn bá vai tôi. Không bảo tự dưng hai anh em rùng mình. Làng tôi nghèo. Đếm khắp lượt không nổi vài gia đình khá giả. Phong cảnh chẳng có gì đặc sắc. Cái duy nhất người làng hay nhắc là ngôi đền thờ bà chúa Sao Sa với tám bia đá ghi danh những người đỗ đạt. Tự dưng tám bia đá biến mất. Sau này dân làng mới biết vợ chồng Độ đã chở về nhà đập nung vôi. Cũng chẳng sao. Ông đồ nho cuối cùng của làng đã mất cách đây tám năm, trong làng còn ai đọc được. Nhìn dãy bia đá sừng sững ở cổng đền, ngó trông uy nghiêm, trạm trổ tinh xảo song cứ như nom vào bức vách. Thành thử nó tồn tại hay không cũng chẳng ảnh hưởng đến cuộc sống người làng. Sau tám bia đá, cây đa đại thụ từ thời khai lập làng- Cây đa cha chỉ cho chúng tôi dấu hiệu đầu tiên của làng khi cả gia đình về từ miền ngược- khô cành héo lá. Như mọi năm, mùa đông cây trút lá, đầu xuân lộc biếc đâm chồi, nhưng giờ tới tận hè, cũng chẳng nảy lộc nào. Cuối cùng phải đẵn bỏ, kẻo một dạo nữa cành mục, gió bão rơi vỡ ngói đền. Một hôm có đoàn khảo cổ về làng. Lúc đó mọi người mới vỡ lẽ, họ muốn khảo cứu tám văn bia cổ. Nếu đúng như văn bản gốc nhà nước sẽ cấp bằng di tích văn hóa. Thôi rồi còn đâu. Tám văn bia giờ đã thành vôi vữa. Đoàn khảo cổ sửng sốt. Họ bảo vùng này còn chứa trong lòng đất vô vàn bí ẩn. Những người già trong làng ồ lên. Thảo nào ngoài đầm sậy, mấy nhà làm ghạch đào được mộ thuyền. Vợ Độ phát điên. Chẳng biết do lấy tám tấm bia nên bị báo ứng hay điên vì người làng rủa. Khổ nhất là mấy đứa nhỏ, mẹ viện nọ viện kia, bị bỏ như đồ ba vạ. Đi xem thầy bảo: Thánh thần giáng tội. Suốt kiếp cứ lo làm trả nợ. Các thầy cao tay được đón về, bùa chú dán quanh nhà, chuông khánh cúng ma rộn rịch khắp làng. Rồi đền nọ miếu kia kêu cầu, cứ thấy bảo thiêng là tìm đến, hỏi chỉ thấy bảo sắp khỏi. Ai đời vụ cấy, gù lưng được mấy cái mạ, xâm xẩm tối lại lụi cụi nhổ lên. Người già trong làng than thở từ dạo tám bia đá mất rồi cây đa chết, đất long mạch, đất học của làng bị triệt nên không còn ai đỗ vào đại học. Ngay người ra ngoài làm rạng danh làng xóm cũng không. Dân làng cứ luẩn quẩn quanh với đất làng. Cha tôi nói con cháu hiển đạt đều do mồ mả ông bà phát. Ngày xưa đã có chuyện thù nhau, mời thầy về yểm đất. Về làng, việc đầu tiên cha tôi làm là bán tám con bò mua lại ngôi nhà cũ, mặc dù nó đổ nát và không xứng ngần ấy. Mẹ tôi xót của, cha tôi gầm lên: - Dù có phải bán cả gia tài cũng mua. Ba anh em tôi dạt ra góc vườn để tránh bất cứ thứ gì có thể phang vào đầu khi cha tôi lên cơn thịnh nộ. Việc thứ hai, ông gọi thợ mổ mổ liền lúc hai con bò mời các họ trong làng. Trong làng có họ Phùng Văn, Trần Quốc, Nguyễn Đức, tôi hỏi còn họ Đinh thì sao. Ông nhổ toẹt bãi nước bọt: - Trong mắt cái làng này cha mày chỉ là cục cứt. Giọng nói của ông có sự hằn học khiến tôi ớn lạnh. Phải mười năm sau tôi mới dám đổ lỗi cho cha về cái chết của mẹ. Lần đầu tiên ông không chửi tôi. Ông bảo, nếu tận mắt chứng kiến cái chết không theo quy luật của người thân, con.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> người ta chỉ có thể nghĩ đến việc trả thù. Tôi uất nghẹn. Vì chuyện người chết cha bỏ mặc những người đang sống. Tại sao người ta chỉ thừa nhận nỗi đau người khác gây cho mình chứ không thừa nhận nỗi đau mình gây cho người khác. Tôi không rõ sao lần lượt từng người đàn bà trong làng ngả vào vòng tay cha. Phải cha có bùa chú? Khi mẹ chết tôi nhận ra, cuộc sống là hiện tại. Tương lai có thể đến, nhưng chưa chắc. Còn quá khứ sẽ không trở lại. Mỗi khi tôi đứng trước mộ mẹ điều đó lại được khẳng định. Là anh em trai nhưng tôi trái ngược hoàn toàn anh Sơn. Anh Sơn cao, gầy, gương mặt sát lì lợm, ngược lại tôi được thừa hưởng nước da trắng trẻo, cặp môi đỏ của mẹ. Ai cũng bảo anh Sơn là đứa ương ngạnh. Tôi hoài nghi. Không biết bao lần tôi và chị Mài chứng kiến anh giơ lưng chịu đòn mà lỗi không thuộc về anh. Những lúc đó thương anh trào nước mắt, kéo anh ra bờ sông an ủi những câu ngô nghê. Nhưng sau này người dám trái cha là tôi chứ không phải anh Sơn. Tôi còn nhớ khi thấy anh Sơn lê lết xin ăn trên xe buýt liên tỉnh. Đôi bàn tay giờ là chân xỏ trong ba chiếc dép nhựa được khâu cộp lại. Tôi giằng mũ xé nát, xé cả những đồng tiền hành khách bố thí ném ra khỏi xe. - Về! Về ngay!- Tôi gằn giọng. - Mày điên rồi Lộc ạ- Anh nói, mắt nhìn tôi vô cảm. Tôi ớn lạnh giống buổi chiều tháng mười trước cánh đồng sương trắng xóa có những ngôi mả sang áo. Khi đã bình tâm lại anh nói: - Số tao nó vậy đấy. Con người sinh ra phải có số của riêng mình. Cứ sống đi rồi khắc biết. Đừng bảo tao nói điêu. ở làng anh là người đầu tiên mua được xe máy. Tiếng xe máy làm sửng sốt làng Gò không khác cái dạo gia đình tôi từ mạn ngược về cùng bốn mốt con bò. Nhưng anh gặp tai nạn thảm khốc cũng từ xe máy. Đâm vào cột mốc, thần chết chỉ lấy đôi chân cũng là phúc bảy đời. Nguyên nhân tai nạn do anh thua bạc, do vỡ nợ, do say rượu. Nguyên nhân thật khi biết cái thai trong bụng vợ không phải của mình. Dằn vặt tha thứ, không tha thứ đến nỗi đâm vào cột mốc. Khi anh phải cưa hai chân, không cần anh dằn vặt chị dâu tôi cũng bỏ đi. Thế mới biết lòng người đen bạc. ở đời , khi chưa gặp sóng gió, khi chưa thân bại danh liệt thì thói đen bạc còn chưa lộ mặt. - Sống như vậy được sao? - Tôi hỏi. - Được chứ. Tao đếch chết. Anh hằn học. - Thiếu bàn tay đàn bà, thiên chức. - Thiên chức, thiên chức. Việc ấy bọn gái điếm làm tốt nhất. Chỉ cần có tiền nhét vào ngực nó. Không hiểu sao tôi cho rằng cái thai trong bụng chị dâu là của cha tôi. Tôi ghê tởm suy nghĩ của mình nhưng không sao gạt được nó khỏi đầu. Tôi còn mường tượng lúc thằng bé ra đời đi giữa cha và anh tôi gọi bố. Trong mắt người làng, mẹ tôi chết vì bệnh. Bệnh của mẹ có căn nguyên từ những người đàn bà. Mỗi người đàn bà ngả vào vòng tay cha là đẩy mẹ gần sự chết. Con người mẹ vốn cam chịu. Nước mắt có thể chảy ra ngoài nhưng nỗi đau nuốt vào trong. Phận người nhỏ bé, nỗi đau quá lớn, nó tàn phá mẹ đến kiệt cùng. Cha tôi trả thù. Ông lôi về mớ thịt bèo nhèo, đỏ máu hì hụi xào nấu rồi bắc giữa nhà lấy rượu ngồi nhắm. Thấy tôi và anh Sơn ông gọi vào. - Thịt đấy, ăn đi. Anh Sơn ăn. Tôi cũng ăn. Ngon. Ròn. Ăn xong cha tôi bảo: - Thịt người đấy, nhau bà đẻ. Tôi và anh Sơn bưng miệng nhào ra sân nhổ phì phì. Dù móc họng cho nôn ọe nhưng chỉ nhểu ra được tí rãi rớt. Cha tôi làu bàu: - Còn chưa bằng cái nhục cha mày. Từ đó trong làng có đàn bà đẻ, cha tôi đến xin nhau thai. Cũng có người mê tín, nhưng khi cha bảo để làm thuốc chữa bệnh họ đều cho. -Ăn đi. Sau khi xào nấu cha lại gọi tôi và anh Sơn. - Vì sao, và để làm gì? - Để tao có cảm giác lũ người ở làng này đang bị ăn thịt. Rượu nói hay cha nói? Lời người hay lời quỷ? Anh Sơn dè dặt ăn. Không biết thì thôi, chứ biết rồi đời nào tôi chịu..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Lộc, mày không ăn à? Một chén rượu hất thẳng vào mặt tôi. Tôi hốt hoảng ho sặc sụa. - Cha để con ăn thay em. Anh Sơn ôm ghì tôi. Tôi gạt tay anh, vùng chạy khỏi nhà. Tại sao người ta phải ăn thịt người? Trong những bánh nhau đỏ máu kia biết đâu chẳng có cái mang dòng máu của cha. Tôi rùng mình và lộn mửa. Mẹ ôm tôi khóc thầm mỗi đêm. Vài năm sau đó mẹ qua đời. Chị Mài đem con về chơi. Thằng Hậu, thằngThủy đưa ánh mắt rụt rè nhìn ông ngoại, nhìn tôi. - Lại đây cậu cho quà. Hai thằng vẫn không nhúc nhích. ánh mắt chúng đang mang sao giống ánh mắt chị Mài ngày xưa. - Anh Thập vẫn đối xử tốt với chị chứ? Hành động của chị không ra gật cũng không ra lắc. Tôi hơi cợn trong lòng. - Giờ ở Nam. Chắc độ tết nguyên đán mới về. - Chuyện người ta đồn với người đàn bà kia có không? Chị lắc như nói với mình. - Không. Anh ấy không phải hạng người bạc bẽo. Tôi bóp hai vai chị. Lâu lắm tôi mới có cảm giác chạm vào da thịt người thân. Tôi nói với chị: - Bảo anh Thập, cha đuổi cũng phải về. Chị Mài ngoan ngoãn gầt đầu. Suốt đời tôi sẽ không quên buổi chiều sau đình. Ba thằng đàn ông, một mình chị. Chúng là công nhân thi công đoạn đường chạy cắt mặt làng tôi. Tôi điên cuồng vớ ghạch đập túi bụi. Máu tóe đỏ. Đến khi định thần lại chỉ còn tôi và chị. Tôi sững sờ. Lần đầu tiên tôi nhìn chị rõ thế bằng ánh mắt một đứa trai. Chị ơi, ai bảo chị đẹp thế thảo nào. Sự co rúm của chị trước cái nhìn của tôi làm tôi sực tỉnh. Tôi bảo chị lánh tạm vào ruộng ngô để tôi về lấy quần áo. Đêm đó và nhiều đêm nữa, khi nỗi hận đã nguôi, tôi còn mãi ám ảnh hình ảnh chị chiều đó. Cha tôi ngã người khi biết chuyện. Chưa bao giờ tôi thấy gương mặt ông đáng sợ thế. Chưa bao giờ ông đau thế. Nó có giống nỗi đau ông gây không? Mỗi khi một gia đình trong làng lục đục hoặc lôi nhau ra tòa tôi lại tin có nguyên nhân từ cha. Và tôi tự hỏi, trong ngần kia gương mặt lũ trẻ choai trong làng đứa nào cùng huyết thống với tôi. Một câu hỏi tôi không muốn câu trả lời. Cái làng này đã làm ông đau đến mức nào mà ông hận nó thế? Khi cha tôi tìm đến dãy lán của đội công nhân làm đường, ba kẻ gây chuyện đã bỏ về quê. Về sau tôi nghe nói họ đã được điều đến làm việc ở nơi khác. Lần đầu tiên cha tôi bất lực vì không có chứng cớ. Đêm đó dãy lán công nhân bốc cháy. Tôi không làm. Cha tôi không làm. Tôi tin điều đó. Từ đó tôi thề, sẽ đập nát xác bất cứ thằng con trai nào lảng vảng quanh chị Mài. Chẳng thế mà anh Thập, anh rể tôi bây giờ đã mấy lần bị tôi cho tắm sông giữa mùa đông lạnh giá. Đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao khi anh Thập xin cưới chị Mài năm lần bảy lượt cha tôi không đồng ý. Cha đi bốc mộ. Khi ông vào nhà mùi rượu sặc sụa. Âm khí từ người ông toát ra căn phòng lạnh lẽo. Tôi đã mấy lần có mặt trong những đám sang áo. Sau những lần đó, hình ảnh tấm ván thiên và chiếc đầu lâu thô lố hai hốc mắt cứ thường xuyên trở về ám ảnh. Nhất là khi cất mả cho mẹ. Nhiều năm sau, trong mơ, thỉnh thoảng tôi vẫn giật mình. Phải chăng đó là điểm đích của kiếp người? Tại sao cha lại chọn nghề bốc huyệt. Khi chưa tai nạn, anh Sơn cũng bốc huyệt. Nếu nghe lời cha, có thể giờ tôi cũng làm nghề bốc huyệt. Nghề bốc huyệt đến với cha khi có dự án mở đường chạy qua làng. Một ông thầy pháp bấm độn nói. Đất làng này cực vượng. Sắp đại lộc. Thiên thời, địa lợi có cả, chỉ còn lòng người xoay vần ra sao. Quả đúng như lời tiên đoán. Đầu năm sau, cán bộ khảo sát về đo đạc, vạch chỗ này kẻ chỗ kia và thông báo với người làng những diện tích đất thuộc vào diện quy hoạch sẽ được dự án đền bù thỏa đáng. Từ trước đến nay đất làng này có bao giờ ra gì đâu. Hoa mầu thu hoạch còi cọc, bán đổ bán tháo. Mấy chục mẫu đất chỗ con đường dự định chạy qua nứt nẻ vào mùa khô, sình lội vào mùa mưa. Điều băn khoăn con đường chạy qua mấy gò đất lớn, nơi đặt mồ mả ông bà. Thu xếp mãi cuối cùng mọi người cũng đồng ý di chuyển nghĩa địa đến nơi quy hoạch mới. Trong lúc người dân làng Gò chờ ngày chuyển mộ, một sớm cha tôi khăn gói ra sông thuê một chiếc thuyền lớn ngược lên mạn Bắc Ninh. Cha tôi đi đâu, làm gì tôi, anh Sơn, chị Mài không biết. Chỉ thấy ông dặn chiều mai ra bến sông đón thuyền về. Chiều sau cha tôi cùng một chiếc thuyền chất đầy tiểu sành cập bến. Suốt chiều hôm đó, những chiếc tiểu sành được.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> chuyển về xếp đầy cổng, đầy vườn nhà tôi. Hóa ra cha tôi lên làng gốm Phù Lãng. Ông đã tính toán đón đầu việc di dời nghĩa địa của làng. Chỉ buổi chiều hôm đó già nửa số tiểu sành đã được bán. Nhìn đống tiểu sành còn lại, anh Sơn lo lắng: - Không khéo ế mất. Cha tôi chửi: - Trước khi lấy hàng về bố mày đã bỏ ra mấy ngày trên cánh đồng để khảo rồi. Cứ cho có nhà đã tính trước mua ngoài đi thì số mồ mả bị mất dấu tích còn nằm âm dưới lòng đất sâu kia. Rồi cha bảo: - Chờ đi, cái làng Gò này sắp có chuyện để xem. Khi số tiểu sành trong vườn nhà tôi còn độ chục chiếc Chác chột chẳng biết lấy hàng ở đâu cũng đánh về một chuyến ô tô. Vợ Chác chột bế con khóc mếu từ đầu làng. - Đã bảo đầu óc ngu hơn người ta thì đừng có tham. Ông bảo cái nước này chỉ mình ông nghĩ ra nhưng ông về mà xem. Người ta ăn xong ỉa xong từ kiếp nào rồi. Chác chột ngồi phịch xuống cổng làng, mồ hôi vã ra như tắm. Suốt từ hôm đó nhà Chác chột không lúc nào ngớt tiếng cãi vã. - Mồ ma lão Trí dị thường khi chết cũng dị thường- Cha tôi nói như một sự phát hiện- Hôm nay bốc mộ lão, cầm xương cốt lão trong tay thấy thật thỏa. Gian hùng chết cũng chỉ còn nhúm xương ngâm nước. Tôi nhận rõ sự mãn nguyện ở ông. - Cha nên chuyển nghề. Ông lắc đầu. - Vì sao? Ông không đáp. Gần cuối bữa ông mới bảo: - Tao không thiếu tiền. Rồi ông mở tủ lôi ra một ống bơ đổ ra trước mặt tôi. Tôi lóa mắt. Đó là vàng khi ông bán đàn bò. -Tao muốn xem người ta khi chết còn lại gì. Người ta chết còn xương chứ còn gì? Ông lại lắc đầu. Tôi rùng mình. Ông bảo: - Mày biết không. Mỗi khi tao cầm một cái sọ lên tao lại hỏi: Ông còn nhớ tôi không? Ông còn nhớ khi sống ông đã làm những gì không? Tất nhiên là nói bằng ý nghĩ. Nhưng những cái sọ hiểu cả đấy. Cái thì kinh hãi đối mặt với sự thật. Cái nhăn nhở cười xòa như muốn xí xóa. Cái lại cúi gằm vẻ ăn năn. - Cha say rồi đấy. - Còn lâu tao mới say. Chỉ khi không có rượu tao mới say. Những lúc rượu vào tao tỉnh tuốt. Rồi ông chuyển câu chuyện sang tôi: - Mày ra đi vì con Lý phải không? Mày là thằng không ra gì. Ra đi vì một con đàn bà là đồ vứt đi. Có lẽ cha tôi đã say thật. Nhưng say cha vẫn đủ gợi lại nỗi đau trong tôi. Chị Lý là hàng xóm nhà tôi. Chị không cha. mẹ chị đi lấy chồng chị ở với bà ngoại. Khi bà ngoại chết, mẹ muốn chị về ở cùng song chị không chịu. Một mình ở lại nếp nhà của bà ngoại. Chị Lý đẹp chỉ có điều chị mắc bệnh động kinh. Chị hơn tuổi tôi, hơn tuổi chị Mài. Chị Lý để tóc dài, mái tóc của chị luôn bới lên đỉnh đầu. Nó chỉ xõa mỗi khi chị tắm hay gội đầu. ở giáp hai nhà có một cây chay ăn quả. Phía dưới cây chay là nhà tắm. Mỗi tối tôi chèo lên ngọn chay rình chị Lý tắm. Cuộc sống với người cha khắc nghiệt của tôi được xoa dịu bởi tiếng thùng chạm nhau, tiếng nước dội ào lách chách vọng ra từ đó. Và đêm đêm tôi lặng lẽ ngồi trên cây cho đến khi ánh điện nhà chị tắt. Một hôm, tôi choáng váng khi thấy một bóng đàn ông đi ra từ buồng chị. Tôi run lên khi nhận ra đó là cha tôi. Chưa bao giờ tôi ghét chị, ghét cha tôi dường vậy. Tòa lâu đài chị trong tôi xụp vỡ tan tành. Tôi những tưởng tiếng thùng chạm nhau, tiếng nước dội ào lách chách có thể xoa dịu khuyết hãm cuộc đời tôi nhưng tôi đã nhầm. Chị và cha tôi, họ là một. Tôi rời làng, tôi đi công nhân. Cuộc sống và nỗi đau đưa tôi đi hết nơi này đến nơi khác, thủy điện Hòa Bình, thủy điệnYaly, thủy điện Sơn La. Giờ tôi cũng đã lập gia đình. Chẳng hiểu sao thương cha mà chị Lý vẫn đi lấy chồng. Chị lấy chồng xa lắm. Xa đến độ người ta không còn nhớ chị đã từng sống ở làng. Qua cửa sông, bây giờ là bến cát cha tôi nán lại. Chỗ này là nơi ông xuống thuyền rời làng đi. Chưa bao giờ tôi hỏi vì sao cha tôi rời.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> làng bằng sông lại trở về từ rừng. Bến cát là nơi lần đầu tiên cha tôi thành đàn ông trước bà chủ. Có thể ông chủ phát hiện chuyện cha tôi với vợ mình nên đã tống cổ cha lên bờ. Cũng có thể vì lý do gì đó mà cha bỏ đi và gặp mẹ tôi. Một trăm phần trăm mẹ tôi là người Thái, đó là theo giấy khai sinh của ba anh em tôi. Cha tôi nói: - Đừng để lũ trẻ mất gốc. Có dịp nào đó phải cho chúng về. Có trốn cũng không khỏi cái cốt của mình đâu. Làng tôi có nhiều nhà cao tầng mọc lên giữa những lùm tre và nóc nhà ngói. Làng đang cựa mình. Cái mới đội, đẩy, cuốn theo cái cũ cùng vận động. Khác thật. Mới ngày nào làng chỉ là làng, bình lặng, khiêm nhường, nằm núp bên dòng Kinh Thầy êm đềm chảy. Giờ đây làng là một gã trai trẻ thích quậy phá, nhảy nhót, đôi khi thích cả sự mạo hiểm. Cha tôi, kẻ trí lự là thế cũng nhận một đòn choáng váng trước thời vận. Bao mưu mẹo ông tính toán xoay vần cái làng này theo ý mình thì giờ chính ông bị nó xoay lại. Ông già đi nhanh chóng, hốc hác. Người ta xì xào. Lão Nhân làm nghề bốc mả nhiễm bệnh âm. Riêng chỉ con cái ông: anh Sơn, chị Mài và tôi biết bệnh ông- Căn bệnh nan y hành hạ giai giẳng, tàn phá ông và những cuộc đời liên quan đến ông. Nhưng tôi biết ông sẽ chưa dừng lại. Mục ruỗng, nát bét, chỉ là cái vỏ. Có lẽ suốt đời tôi không thể thấu hiểu sự hằn học của ông với ngôi làng của mình, nơi ông đã đánh đổi tất cả để trở về. Anh Sơn gọi tôi đến uống rượu. Nhìn anh với chiếc xe gắn máy tự tạo chở nước bán dạo trong bến xe tự nhiên tôi thấy an lòng. - Cha nói không phải không có lý đâu. Tôi trợn mắt. Anh Sơn vẫn giữ thái độ tự tại. - Để như ngày nay, người nông dân đã phải đánh đổi nhiều thứ. Những xí nghiệp nhà máy đang làm cho cánh đồng hẹp lại. Rác thải ô nhiễm đang bốc mùi ở khắp các nguồn nước trong làng, chảy ra cửa sông. Những nơi ngày xưa anh em ta mò cua bắt hến giờ chim trời bay qua cũng rơi xuống chứ đừng nói các loài sinh vật sống được. Bệnh tật từ đó ra chứ đâu. Uống rượu vào anh Sơn nói nhiều. - Kết cấu làng xã vỡ thật rồi chú ạ. Ngay cả gia đình cũng không còn mang nguyên nghĩa nữa. Một trăm gia đình trong làng có tới sáu bảy mươi gia nhà có người đi xuất khẩu lao động, đi làm ăn xa. Nhà cửa khang trang đấy nhưng mười cái có tớigià nửa dị mọ, chỉ có vợ hoặc chồng. Ngày nay người ta coi chuyện hôn nhân đổ vỡ như trò đùa. Đây là thời của sự thực dụng, của vật chất. Có tiếng xe máy xịch đỗ ngoài sân. Một người đàn bà phốp pháp, cặp mắt sắc xách mấy túi ni nông nhỏ bước vào. Đây là người đàn bà anh Sơn đang sống cùng ư? Tôi không có cảm tình với chị bởi cái nghiệt nó hiện ngay trên mặt. Có một chút đổ vỡ trong tôi. Nhưng tôi tự an ủi. Anh Sơn tôi như thế, vả lại sự chân thật và can đảm của chị là có thật khi chị về sống với anh tôi. - Chú Lộc phải không? Anh Sơn phôn cho tôi chú tới nên tôi mua cái gấu bò cho anh em chú hàn huyên. Chị lấy đĩa lần lượt bày các thứ, ngồi uống vài chén với anh em tôi trước khi cáo đi thu hồi nợ cuối năm. - Em lo cho bố. Anh Sơn lặng lẽ uống rượu. Hồi lâu anh nói: - Mỗi người có một cuộc đời. Sống ác sống thiện cũng là sống. Đức phật đi tu để tìm đường cứu vớt chúng sinh. Ta sống trong kiếp người cũng là tìm một đường tu cho mình. ở đời sống sao cho không day dứt ân hận là được. Tự bao giờ anh Sơn trở lên triết lý nhiều như vậy. Cuộc đời dạy ta ngộ ra nhiều thứ. Có những thứ trọn kiếp người chưa chắc ngộ ra được. Truyện Ngắn » Những Lớp Phù Sa Tác Giả: Đinh Ngọc Font Size: Hùng. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Phải ở đời, mỗi người sẽ day dứt bởi điều gì ấy? Đời chị day dứt bởi sóng nước. Tiếng sóng ám ảnh ngày. Tiếng sóng ám ảnh đêm. Cả trong giấc ngủ sóng còn ám ảnh. Sông! Là từ nhỏ chị đã thấy. Và đời chị cũng gắn liền với sông. Sông tạo sóng. Sóng xô qua đời chị lớp này lớp khác. Xoáy sâu thành bờ lở? Bồi đắp phù sa? Nhưng lắng đọng ngày một đầy lên..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Tiếng xe máy đi xuống chân cầu. ánh đèn pha loang nảy lập bập trên đường gồ ghề. Đến đầu hồi tiếng xe máy và ánh đèn tắt ngấm. Thằng Thiện đã về. Nó càu nhàu chuyện bực mình vừa gặp: - Vập đầu bọn gái ăn sương, ngày mai đi chợ không tránh đâu khỏi đen đủi. Thấy chị ngồi ở hiên, nó tháo đôi sọt vứt vào xó sân, hỏi: - Nhà tôi đâu mẹ? - Nó đang rửa chum vại dưới sông- Chị đáp. - Xì! Giờ này hẵng còn sờ sịt. Mà tôi ra sông tắm đây. Nó cởi áo vắt lên vai, cắm đầu bước. Đi được một đoạn, nó nói với lại phía sau: - Mà này mẹ! Mấy người bên chợ huyện họ khen mắm nhà mình thơm lại ngấu. Họ bảo ngày mai đặt thêm mấy hũ. Cơ chừng có kịp không? - ừ! Mấy hũ mới cũng ngấu rồi đấy. Bóng thằng Thiện đã khuất dưới bờ sông. Chị trở vào trong nhà. Khắp nhà mắm đang ngấu bốc mùi thơm đặc trưng. Chị có cái tật cứ mỗi lần thấy nó về lại giật mình. Mới ngoài hai mươi mà nó đã bươn chải Bắc Nam, làm cửu vạn, lơ xe, phụ hồ rồi đi cát. Năm ngoái còn theo bạn lên tận cửa khẩu Lạng Sơn buôn lậu, sang Tuyên Quang đãi vàng. Vừa rồi bên kia cầu có mở công ty may, nó nộp đơn xin đi công nhân nhưng được ba tháng thì bỏ. Nó bảo, làm ở đó đồng lương bèo bọt lại bó buộc, chẳng ra sao. Giờ về chạy chợ, suốt ngày quần quật trên đường, mặt cháy sém vì nắng nhưng lòng thì thoải mái. Có hôm tụ tập uống bia đâu đó với bạn tối trẫm mới về lại bảo: "Ngẫm lại đời vừa muốn sống lại vừa muốn chết". Cách ăn nói của nó bỗ bã, chao chát, chỏng lỏn, đôi khi chị cũng thấy chạnh lòng. Nhưng nghĩ nó là con mình lại thôi. Để sau đó lại có lúc chạnh lòng. Xã hội quăng quật, nhào nặn, tránh sao sứt mẻ. Có tiếng con gái, tiếng đàn ông vang mặt nước. Lại vợ chồng nó tắm táp với nhau. Hôm nào chúng nó cũng chờ nhau về mới tắm. Chị thường bắt gặp chúng nó tắm truồng. Chị cũng chẳng chắc có khi nào chúng nó làm chuyện đó ngoài bờ sông. Trên cầu xe cộ vẫn rầm rập qua lại. Có những xe công ten nơ, trọng tải hàng mấy chục tấn làm cầu rung lên như sắp sập. ừ ! ở đời, bất cứ cái gì, dù là những vật tầm thường nhưng gắn với ta đều thành quan trọng. Với chị cây cầu cũng quan trọng. - Đi đi con! Đi đi! Ông nội chị không đứng dậy như mọi người, mà chỉ ngồi ở mũi thuyền phẩy tay. Con đò bành bành nổ máy rồi nhằm thẳng hướng bờ thẳng tiến. Đó là ngày chị đi làm dâu. Làng chài trên sông khuất dần. Những đám bèo trôi dạt quấn vào mạn thuyền, tiễn chị về nhà chồng. Phận người con gái làng chài cũng như dám bèo kia. Trôi nổi khắp bờ sông cuối bãi, biết dạt vào bến nào. Ông nội già quá rồi. Ngay làng chài ngày mai biết ai đi ai ở. Lên được bờ là mơ ước. "Giang", đó là cái tên ông nội đặt cho chị. Nếu bố mẹ còn sống, họ có muốn chị mang cái tên đó không? Cái tên khi mang thì nó vận vào người như nợ. Người ta bước chân lên bờ là lìa sông, đằng này chị bước chân lên bờ sông vẫn không rời. Căn nhà hai gian, chị buộc tấm màn gió xanh che cửa nách thành hai ngăn trong ngoài. Sau đêm cưới, bà mẹ chồng nằng nặc đòi cái giường đôi. Chồng chị phải kê cái chõng tre ở nhà ngoài vào thế chỗ. Dù sao chõng tre đặt trên bờ còn hơn vạn sạp thuyền. Ba lần chồng bò lên bụng chị đều cong mình như con tôm. Ngoài nhà bà mẹ chồng i ẻo hát xẩm suốt đêm. - Nào! Nào! Giữ đây cho tôi. Không, cẩn thận! Đổ mẹ nó bây giờ!. Thôi, thôi! Đã bảo không phải đùn lên dốc. Xe máy chứ có phải xe đạp đếch đâu mà đùn với đẩy. Rồi tiếng xe máy tành tành, ánh đèn pha sáng lóa khắp sân. Vài phút sau bóng tối ngập trở lại, tiếng xe máy xa dần, hòa vào tiếng động của xe cộ trên cầu. Vài ánh đèn pha loang loáng từ đầu cầu bên kia sông hắt sang, soi rõ bóng người đi lại ngoài sân. Nó là con dâu chị. - Nhài ơi! Hãy còn sớm, vào ngủ thêm một lúc nữa đi. Chị nói thế thì nói chứ chị biết nó chẳng trở vào. Nó cắp thúng đi ra làng chài lấy cá sớm về cho chị bóp mắm. Chị nhìn ra sông. ánh đèn từ nhà máy bên kia cầu hắt sáng một vùng. Những dải sóng ngoằn ngoèo bò như những con thuồng luồng. Không nằm được, chị trở dậy bóp mắm. Chị sinh con bé lớn, ba ngày bà mẹ chồng mới bước vào nhà. Vạch tã, nhìn thấy cái rãnh ở háng con bé, bà không thèm nói lời nào quay ngoắt đi. Chị hoảng hốt ôm con thật chặt. Qua tuần chị đã tự vào bếp nấu nướng, ra sông giặt đồ. Có hôm sa sẩm mặt mày, suýt đâm đầu xuống nước..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Để đấy, đừng có động vào. Tôi làm! Chồng chị giằng lấy chậu quần áo. Bà mẹ chồng nhổ toẹt bã trầu xuống rệ cỏ: - Chết không dễ đâu. Tao đẻ mày ngoài sông, phải tự cắt rốn, rửa ráy lấy. Có chết được đâu. Chồng chị văng tục mấy câu, vùng vằng bỏ ra sông, mặc chị với bà mẹ chồng. Điều chị thấy lạ ở bà mẹ chồng, đàn bà cũng uống rượu. Những lúc uống, bà ngồi ở cửa hiên lải nhải đủ thứ chuyện nhà nọ nhà kia rồi chửi vung lão khốn nạn này, con mụ kia. Sống mãi đâm quen, cái gì lặp lại cũng thành thói quen. Chiều chiều chị ẵm con ra sông ngóng làng chài. Ông nội chắc chưa biết mình lên chức cụ. Người làng chài đã rời đi không mấy khi trở lại khúc sông cũ. Sinh nở làm cho đàn bà lột xác. Chị thành người đàn bà có vẻ đẹp mặn mà. Nước da bánh mật con gái làng chài nhìn không chán mắt. Ngồi tu rượu dưới bụi tre tránh nắng, bà mẹ chồng buông lời mát mẻ: - Đàn bà có chồng có con, ra đó câu bọn đàn ông à? Dọc khúc sông này không thiếu đứa chửa hoang đâu. Chị hoảng hốt bế con về. Gia đình chồng chị ba đời chở đò. Chị nghe kể, đời ông chồng vốn là dân ngụ cư từ nơi khác trôi dạt đến đây. Năm đói ất Dậu ông chết còng queo ở bến đò. Bộ quần áo mặc trên người chẳng biết thằng nào lột mất. Bố chồng chị cũng chở đò cho mãi đến lúc ốm chết. Dạo trước, mẹ chồng chị khỏe như vâm, suốt ngày quần quật dưới bến bốc vác thuê: đội đá, dỡ bè, cào hến... bà có tật nghiện rượu. Ngày không có vài hớp không chịu được. Tửu lượng của bà, đàn ông có người xách váy. Sau chồng chết, bà uống rượu càng nhiều. Mỗi khi uống là bà lại hát, vừa buồn vừa nẫu. Một mùa nước lớn, ban đêm, thuyền bà vào gần bờ thì dính lựng xoáy. May mà không chết. Nhưng cánh tay trái bị mái chèo chém phải bại hẳn. Người làng bảo, chồng chị là tên giết người. Chồng chị cũng bảo: - Tôi là thằng giết người, thằng đi tù về. Đấy! Biết rồi còn dám thương không? Sau nhiều đêm đắn đo, chị gật đầu. - Nếu dám thương thì làm đám cưới. Lại gật. Chị hỏi: - Vì sao anh giết người ta? Chồng chị mắt đỏ sọc nhìn về bên sông: - Nó quỵt tiền đò. Nó chửi tôi. Chửi gì thì được chứ nó đòi đ... mẹ tôi thì không chịu được. Tiện mái chèo phang một nhát. Chỉ thấy cái cổ nó ặt xuống. Cả thân hình đổ ầm. Thằng chó! Chỉ khẽ thế đã ra ma. - Sau đấy thì sao? - Sau đấy thì đi ở tù- Chồng chị vỗ vỗ vào mạn chiếc đò sắt- Ra tù, tôi đi làm thuê, vay thêm bạn bè mua cái đò này. Năm mã lực đấy. Chạy hay ra phết. Con dâu lại nôn khan. Chị vốc cho nó nắm muối ngậm. Kinh nghiệm người làng chài. Chị bắt nó vào giường nằm. Đàn bà chửa, ngửi mùi tanh làm gì mà không lộn mửa. Nó cơ chừng mệt, nằm thiêm thiếp trên giường. Chị đặt bàn tay lên bụng con dâu khẽ ấn. Cái thai trong bụng nó cựa quậy đáp lại. Con bé này nghén rong. Mãi tháng thứ sáu rồi, thấy mùi lạ vẫn cứ nôn ọe. Lần có chửa con lớn, chị nghén không nhiều lắm, nhưng chửa lần sau nghén đến khốn khổ. Từ hôm vợ đẻ, chồng chị ngủ lại dưới đò, bảo ở nhà tiếng trẻ con khóc nhức óc không chịu được. Một đêm, vừa thiếp đi, chị có cảm giác bị đè nghẹt thở. Tỉnh dậy thấy mình trần truồng. Chị co người hất chồng rơi xuống phản. Nhưng vừa ngã xuống gã lại lồm cồm bò lên. - Đồ khốn nạn!- chị hét lên- Tôi còn chưa sạch máu sinh. Tiếng hét của chị chìm vào đêm và bị đè bẹp. Bất lực chị nằm nhìn chân chân lên mái nhà, mặc những cơn đau thốc tới. Sau đấy một dạo chị lại mang thai. Nghe chị báo tin có thai, chồng chị dửng dưng: - Chửa thì đẻ, có sao. Trước sau gì mà chẳng phải đẻ. Nhìn bụng chị, mẹ chồng phán: -Tụt thế kia, đợt này chắc chắn là thằng cu. Rồi mấy hôm sau, bà xách về một xâu thuốc bắc bảo chị sắc uống cho an thai. Đó là lần đầu tiên chị cảm thấy không ghét bà. Chồng chị hay rủ mấy người bạn về nhà tụ tập uống rượu. Con nhỏ, vợ chửa, đã không đỡ.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> đần lại bày như đống rác, chị càu nhàu. Chồng chị cầm vỏ chai vẩy ngược ra cửa, sướt qua mặt chị vỡ choang trên mặt đất, cất giọng lè nhè: - Có muốn ngoa mồm nữa thôi? Nước mắt giàn giụa, chị cắn răng tự hỏi: Đời mình còn cực hơn không? Mấy lần quẫn chí, chị vung tay đấm thùm thụp vào bụng cho cái thai phải sẩy. Cũng may chị chưa làm điều ác. Song dù chị có hối hận, đứa thứ hai cũng không ở với chị được lâu. Một lần ra sông chơi nó ngã chết đuối. Xác nó mấy ngày sau được vớt dưới bãi nghể. Đêm hôm chị sinh, ở ngoài cửa bể có một trận lốc lớn. Đài thông báo có nhiều gia đình ngư dân gặp nạn. Chẳng biết ông ra sao. Đã bao lần chị thuyết phục ông lên bờ ở cùng vợ chồng chị, ông đều lắc đầu. Sông đã ăn sâu vào máu thịt nên không xa nó được. Với lại một đời chưa bước chân lên bờ, cuối đời lại đi trên mặt đất thấy nó không quen. Đêm đó, đau suốt từ tối đến gà gáy thì chị sinh. Lần đầu tiên bà mẹ chồng không uống rượu để đón cháu. Khi lại là con gái, bà cầm chai rượu tu một hơi cạn sạch rồi nằm luôn bậc cửa ngủ, miệng không ngớt lèm bèm rủa con dâu. Thằng Thiện về giữa lúc nắng gắt, mặt đỏ dừ. Vợ nó lấy cái quạt phe phẩy, nó gạt phăng đi: - Đã bụng chửa lại còn vẽ. Tôi không cần. Gió sông mát gấp vạn quạt. Rồi nó cằn nhằn: - Lúc ngoành vào chợ quệt xe vỡ toi hũ mắm. Thật phí của trời. Một lúc sau, có vẻ đã nghĩ rất nhiều, nó nói: - Mẹ này! Ngày mai tôi thử đi chợ thiên bỏ mối một chuyến xem sao. Bên đó cũng có làng mắm, nhưng chưa chắc đã ngon bằng mắm mình. Thời buổi này làm ăn phát ngán. Nó nằm dạng chân trên phản ở hiên ngủ. Tiếng ngáy vang như sấm. Thằng Thiện càng lớn, chị càng khẳng định nó giống đặc chồng chị. Sau ngày chị sinh con gái thứ hai, chồng chị ở tịt dưới đò. Ngoài lúc trở khách còn lại tụ tập bạn bè uống rượu. Bà mẹ chồng lại hát những điệu xẩm ỉ eo não ruột. Cái Ngà, đứa con gái lớn sợ bố như sợ cọp, sợ cả tiếng hát xẩm của bà nội. Con bé Ngà tính nhút nhát, lại yếu đuối. Mỗi lần bà nội hắng giọng, nó lại nép chặt vào lòng chị. Nó không nói nhưng chị biết nó sợ. Chị chỉ biết ôm nó vào lòng vỗ về, xoa lưng, xoa đầu. Thời gian rỗi, chị lại mang lưới ra đan. Quãng đời sống dưới sông, đây là nghề chị thành thục. Mà với người làng chài, ngoài đánh cá và đan lưới cuộc sống còn gì nữa. Chị làm, đứa nhỏ buộc sau lưng, đứa lớn quấn dưới chân. Vài ba hôm lại mang những tấm lưới đan được ra chợ giao cho bà hàng xén. Con người ta sinh ra ở trên đời có phải chỉ để làm những việc lặp đi lặp lại. Chị rút ra điều ấy từ chồng và mẹ chồng, đôi khi từ chính cuộc sống quẩn quanh của mình. Chồng chị ngày càng gầy đét vì rượu. Thế nhưng để làm chuyện ấy gã dư thừa sức lực. Đêm nào gã cũng phải mò vào giường chị một lần rồi mới chịu ra sông. Lúc đầu thì một đôi lần, thôi cũng qua. Nhưng nó kéo dài dai dẳng khiến chị mệt mỏi. Nhất là đánh vật với chuyện con cái, mưu sinh, sự ham muốn của chị đã suy kiệt. Đôi lúc cứ liều nhắm mắt cho xong. Nhiều đêm chị ngủ cứ ngủ, chồng muốn làm gì cũng mặc. ở đời, rắc rối lại thường nảy sinh từ những cái đẩu đâu. Đêm đó hai đứa trẻ đã ngủ, chị cũng nằm thiêm thiếp. Chợt cánh cửa hé mở, một bóng người vào nhà, bò lên giường, đổ xuống người chị. Chị mệt mỏi chìm vào giấc ngủ. Gần sáng chị bị đánh thức bởi bàn tay vò trên ngực. Trong cơn ngái ngủ chị càu nhàu: - Người hay quỷ! Lúc tối còn chưa đủ hay sao mà giờ còn mò vào? Chồng dựng chị dậy giáng một bạt tai, gầm như hổ: - A, con đĩ. Thằng lúc tối là thằng nào? Cậy lúc ông không có nhà mày rước trai vào ngủ hả? Chị cứng họng. Thanh minh gì bâygiờ? Những trận đòn tới tấp dội xuống như đòn thù. Rồi sau đó gã dằn chị xuống thỏa mãn. Chuyện chị bị kẻ nào đó lẻn vào ngủ trộm, hôm sau đã lan khắp làng. Đi đâu chẳng dám nhìn ai cứ gằm gằm mặt. Có kẻ rủa: "Loại đàn bà ngủ với trai mà chẳng biết trai hay chồng, khác gì con chó cái". Có người đoán già đoán non: "Chắc thằng nào ấy trong đám bạn rượu, lợi dụng lúc bù khú, mò vào làm tí". Từ hôm đó chồng chị đuổi hết đám bạn rượu không bao giờ mời về nhà nữa. Chị mang thai lần ba. Cứ mỗi lần uống rượu chồng lại lôi chuyện hôm nào ra trút giận. Tỷ lệ thuận với sự lớn lên của cái thai, những trận đòn cũng tăng lên. Chồng chị nghĩ cái thai là của.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> thằng đểu kia. Gã muốn chị trụy thai. Bà mẹ chồng chẳng ra mặt bênh hay can, chỉ bóng gió vòng ngoài. Mỗi lần hai vợ chồng chị có chuyện bà lại ngồi ỉ eo hát xẩm. Những lúc đó trông bà như người điên. Dù muốn hay không cái thai trong bụng chị vẫn chào đời. Đêm chị trở dạ một nỗi sợ mơ hồ cứ ám ảnh. Khi tiếng "oa oa" dõng dạc cất lên, cùng cái mẩu chim tí tẹo thòi ra, cũng là lúc chị kiệt sức. Mắt chồng chị sáng lên rồi tối lại. Mắt bà mẹ chồng sáng lên rồi tối lại. - Đưa nó đây! Thằng con hoang. Để tôi đem ra sông dìm chết nó. Chồng chị đến bên giường gỡ đứa nhỏ khỏi tay chị. Chị nhào xuống đất, lết bằng hai gối đến trước mằt mẹ chồng. Bà quay ngoắt đi. Sức đàn bà vừa sinh không chọi lại được với sức đàn ông. Tay chị nhẹ bẫng. Chị nháo nhào vơ cuống cuồng, miệng đầy cỏ, đầy đất phù sa. Nhưng chị có cắn đầy mồm cỏ, cũng không ngăn nổi cái bóng đã nhảy xuống mép nước. - Đem thằng nhỏ lại. Chị giật thót, sống lưng lạnh toát. Đó là tiếng bà mẹ chồng. Câu nói làm chị sửng sốt. Câu nói làm người đàn ông đã bước một chân xuống nước sững lại. Khi gã định bước tiếp, giọng bà mẹ chồng lại vang lên như giọng thần linh. Cái bọc được trao lại tay chị. Chị cuống quýt ôm chặt con, mắt nhòa lệ. Bà mẹ chồng đã quay vào nhà, hai hốc mắt cũng đầy lệ. Suốt đêm đó bà ngồi uống rượu và ỉ eo hát xẩm. Lần đầu tiên chị thấy yên lòng khi nghe tiếng bà hát. Chồng chị bỏ đi. Gã sang làng bên ăn ở như vợ chồng với người đàn bà tên Bích - một người đàn bà lăng nhăng, bị chồng đuổi về. Bà mẹ chồng không đoái hoài thằng cháu trai và con dâu. Nhưng thế chị cũng không sợ bằng sự xuất hiện của chồng. Mỗi lần chồng về, chị cứ khư khư giữ con. Gã đã từng giết người, từng ở tù, từng định dìm chết con mình, thì việc gì gã không dám làm. Mấy lần chị đã mơ thấy việc đó xảy đến. Chị sống trong tâm trạng sợ hãi đó cho đến tận lúc chồng chết. Một sớm, người qua đò phát hiện chồng chị chết còng queo dưới bến. Bên cạnh là vỏ chai rượu vứt lăn lóc. Bà mẹ chồng đổ diệt chị giết chồng. Công an huyện về mổ khám nghiệm pháp y. Kết luận chết vì ngộ độc rượu và cảm hàn. Bà mẹ chồng uống rượu nhiều hơn, hai mắt lòa vì kéo màng. Những lúc say bà lại chửi con dâu, có bận sang tận làng bên tìm đến nhà Bích chửi. Đối với bà, chị hay Bích đều có liên can đến cái chết con trai bà. Chuyến chợ này, thằng Thiện đèo về thêm hơn chục cái hũ sành. Nó hỏi chị: - Ngần này đủ chưa Mủ? Chị gật đầu: - Hẵng thế đã. Nó cao hứng: - Bây giờ khách du lịch rất chuộng những đặc sản địa phương. Rồi đây, nghề làm mắm của nhà ta cũng phải mở rộng thêm ra. Có thể sẽ là cả một cơ sở sản xuất. Đến lúc đó thị trường mắm có thể mở rộng cả nước ngoài. Rồi chỉ loáng cái nó đã khuất trên đê. Sau khi chồng chết được tuần, mấy người bạn rượu ngày trước đến đòi nợ. Họ bảo chồng chị vay tiền mua con đò này. - Ngày mai bọn này sẽ đến lấy tiền- họ gia hạn. Thân đàn bà, một nách ba con, nuôi thêm bà mẹ chồng dở khùng dở điên, tiền móc đâu ra. Đúng hẹn, chúng đến. Chị ngồi bậc cửa ẵm con, chỉ xuống bến: - Tiền tôi chẳng có, chỉ có con đò, muốn lấy cứ lấy. Thế là chúng mang con đò đi. Bến đò cũng vào tay chúng. Bà mẹ chồng xuống bến chửi suốt một tuần. Chửi đến nỗi bọn kia nhục nhã quá, không chịu được, đành đem con đò bán cho một ngưòi lấy cát trên sông. Không có đò khách nhốn nháo. Chị oằn mình lôi con đò cũ nằm phơi nắng mưa trên bãi xuống nước. Một chiều, có vài chiếc thuyền chài về từ cửa bể, chị trèo thuyền ra hỏi. Họ nói, ông chị đã chết cái dạo lốc năm ngoái, xác ông cụ dạt vào một roi cát lớn. Dân làng đó không mê tín, vớt lên chôn ở bãi tha ma làng. Chị chèo thuyền về, ra chợ mua sắm vàng hương, mang ra bờ sông thắp vái vọng về phía chân trời. Người làng chài sống với sông rồi lại chết vì sông. Đời chị mang tiếng lên bờ nhưng vẫn gắn với sông như nợ. Thằng Thiện đi đến tối trẫm mới về. Nó lại vừa uống bia với bạn ở đâu đó. - Ở nhà không biết gì sao?- Nó hỏi. Vợ nó lắc đầu, chị ngạc nhiên: - Biết cái gì?.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Vừa tháo sọt, nó vừa thông báo: - Chập tối, trên cầu lại xảy ra tai nạn. Hai xe ô tô đấu đầu chỗ đoạn đường thi công ẩu sụt lún thành ổ gà. Chẳng biết có ai chết không chỉ thấy máu lênh láng. Lâu lâu trên cầu vẫn thường xảy ra tại nạn. Cái bận cầu thi công đã phải đình lại gần một năm vì rút ruột công trình. Lại chuyện cầu. Cuộc đời chị đã có quá nhiều chuyện với cây cầu này. Sau cái chết của con trai, mẹ chồng chị nằm liệt cả tháng trời. Nhúc nhắc dậy được bà lại uống rượu. Nhìn thân xác gầy khô, cặp mắt nhòa của bà, người ta không tin rằng trước đây bà vốn khỏe nhất nhì làng. Bà dọn vào ở gian buồng. Hằng đêm bà không còn ngủ, chỉ ngồi tu rượu và hát xẩm. Mấy đứa con chị sợ không dám bước chân vào buồng. Một hôm từ ngoài sông về, chị thấy mấy đứa con đứng áp ngoài hiên. Trong nhà một người đàn bà lạ hoắc đang ngồi chỗm trệ giữa giường. Thấy chị về, người đàn bà nhìn chị từ đầu đến chân bằng ánh mắt dò xét. Lúc lâu sau chị ta cất tiếng hỏi: - Cô là vợ thằng Độ đúng không? Chị rất ngạc nhiên nhưng vẫn gật đầu. Chị ta lôi bao thuốc châm lửa rít một hơi thật dài nói: - Từ nay tôi sẽ về sống ở đây. Chị ngờ ngợ, chị đã từng nghe chồng còn một người chị gái nhưng đã bỏ đi mấy năm rồi. - Nó là chị gái thằng Độ- Bà mẹ chồng nói từ trong buồng vọng ra. Bữa cơm gặp mặt hơi gượng gạo, rồi cũng xong. Một chiếc giường đơn được kê thêm vào gian buồng. Ngày trước chị có nghe chồng kể, khi gã đi ở tù, vợ và người nhà tay kia cứ một dạo lại kéo ra nhà chửi bới đập phá. Chúng còn dọa đốt nhà. Nhịn mãi, một lần bà chị gái mua đâu lọ axít hất thẳng vào mặt vợ thằng kia. May mà đứa đàn bà tránh được, chỉ bị phỏng nhẹ ở cánh tay. Từ đó họ hàng nhà kia không dám ra gây sự nữa. Sau đó một dạo, chị gái bỏ đi khỏi làng. Nghe bảo thì đi theo gã buôn đồ cổ vào Nam. Bà chị chồng suốt ngày lượn lờ. Các ngón tay ngón chân lúc nào cũng sơn đỏ chót. Làn da chị ta trắng bóc. Sau này chị mới biết là do trát phấn, khi rửa mặt những vết thâm trên da do sử dụng mĩ phẩm rẻ tiền mới lộ ra. Với chức chị chồng, chị ta chành chọe đủ điều. Nhà toàn đàn bà tất sinh lắm chuyện. Chị nhức đầu với những câu đại loại, "mợ phải thế này, mợ phải thế kia". Phải nén lòng lắm mới không xảy ra xô sát. Nhiều lúc nghĩ uất chỉ muốn lật đò. Hôm đó, về nhà, vừa bước qua ngưỡng cửa, suýt thì chị đụng phải một gã đàn ông từ trong buồng thò ra. Cái áo còn chưa kịp cài cúc. Gã hếch cằm, chẳng thèm nhìn chị, châm điếu thuốc rít rồi đi thẳng. Lần khác, về đến nhà, chị nghe tiếng đàn ông đàn bà cười nói rúc rích xen lẫn tiếng rên rỉ từ trong buồng vọng ra. Không còn bình tĩnh được chị giật phăng chiếc màn gió: - Cút! Đây không phải là nhà thổ. Tiếng động im bặt. Một lát sau, một lão già móm xều từ trong nhà thò ra, cắm đầu cút thẳng. Đây là lần thứ hai chị chứng kiến, còn những lần khác nữa. Mẹ chồng suốt ngày vạ vật ở quán xá, những lời đồn đại về con gái, bà có thể lượm được hàng thúng ở bất cứ chỗ nào, lẽ nào bà không biết. - Này mợ!- Bà chị chồng đành hanh- Cái nhà này của mợ nhưng cũng là của tôi. Gian buồng tôi ở, tôi làm gì là quyền của tôi. Hôm đó chị đã cãi nhau tay đôi với bà chị chồng. Mẹ chồng như mù như điếc ngồi lặng lẽ uống rượu. Sớm hôm sau chị chồng phá tường đầu hồi làm thành cửa ngạch. Và tuyên bố xanh rờn: - Cửa nhà ai lấy đi. Việc ai lấy làm. Những thằng đến đây đều là khách của tôi. Cấm xía vào. - Nhà mình đi đi mẹ!- Đứa con gái lớn nài nỉ chị. Đi đâu? Câu hỏi cứ lẩn khuất trong đầu chị. Căn buồng bà chị chồng ra vào đủ hạng người: từ thằng thanh niên mặt búng ra sữa đến những lão già sắp xuống lỗ, từ gã buôn trâu, nái lợn, đến mấy tay bè dọc. Đêm, mấy mẹ con ở bên này, ở bên kia vách vọng sang đủ thứ âm thanh khó chịu. Không ít lần, những âm thanh quái quỷ đó làm chị trằn chọc. Đã có đêm, chị bật đậy nhào xuống đò, trèo qua sông rồi lại trèo về. Con bé Ngà đã ý thức được những việc xảy ra xung quanh. Có lúc, chị bắt gặp mặt nó đỏ bừng như người phạm tội. Thế mà mỗi tối, tiếng hát xẩm của bà mẹ chồng vẫn cất lên ở bên đó. Chị hình dung ra cảnh, một bên bà mẹ chồng ngồi bó gối uống rượu, một bên là con gái đang bán dâm cho khách. Hồi đó cây cầu đã có dự án, thằng Thiện đã lẫm chẫm biết đi, còn.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> đứa con gái thứ hai qua năm thì ngã sông chết đuối. Chuyện thứ hai, nhắc đến cây cầu chị lại nhớ, đó là sự biến động một dạo của vùng này. ấy là khi những tay cần cẩu cao gần trăm mét thả gầu xuống lòng sông vục lên từng gầu lớn đất đá. Những chiếc búa máy đóng cọc thình thịch suốt ngày đêm. Cái nhà nhỏ của chị cũng rung lên theo từng nhịp búa máy. Lượng công nhân thi công cầu về ngày một nhiều. Những dãy nhà tạm dựng san sát hai bên bờ sông. Xe cộ tàu bè chuyên trở vật liệu rầm rập suốt ngày. Dịp làm ăn đến, bà chị chồng lợp thêm mái mở quán bia. Khách từ các nơi ra vào nườm nượp. Khách đến để uống bia, khách đến để ngủ qua đêm nữa. Nơi đâu có cầu, ở đó có cung. Mới chỉ mấy tháng, hai bên bờ sông hàng quán mọc lên như nấm. Để câu khách, quán nào cũng có vài cô tiếp viên cực mát mắt. Chao ôi! Chẳng biết con gái ở đâu mà nhiều thế. Trong những gương mặt tươi roi rói, có cả những cô gái làng. Sớm nào khách qua sông, cũng phải dẫm lên những túi, bao cao su vứt la liệt. Lũ trẻ con trong làng nhặt đem ra sông rửa, rồi phồng mồm thổi bóng bay. Con đò của chị đâm đông khách. Khách ngày, khách đêm. Có bận một đôi trai gái thuê chị chở đò dọc sông. Chị định từ chối, nhưng người con trai rút tờ hai mươi ngàn, dúi vào tay chị bảo: "Chỗ này thưởng cho chị. Tiền công tôi sẽ trả sòng phẳng sau". Số tiền này chị phải cật lực một ngày may ra mới kiếm được. Đi được một quãng, đôi trai gái miệng hôn tay sờ, rồi lột truồng quấn lấy nhau ngay trước mặt chị. Lúc đầu thì ngượng, sau thì kệ, lặng lẽ trèo. ánh mắt hướng nơi khác, nhưng có lúc phải nhìn mỗi khi đò tròng trành. Dần dà quen, rồi thấy bình thường. Có bận, một cô gái xuống đò với bốn gã đàn ông. Suốt đêm bốn người kia thay nhau làm tình với cô ta. Chị không thể ngờ, một lúc cô ta có thể tiếp ngần ấy người mà vẫn tỉnh khô cười nói. Có giỏi cô ta nhỉnh hơn con lớn nhà chị hai tuổi. Một gã hỏi chị: "Có muốn vui vẻ không?". Chị lắc đầu. Họ thôi không quan tâm đến chị nữa, còn chị cặm cụi chèo cho đến sáng. Đôi lúc chị tự hỏi, chẳng biết mình có còn là đàn bà. - Tôi đã bàn với vợ, giờ tôi bàn với mẹ. Chuyện là tôi muốn phá cái nhà này đi xây lạiThằng Thiện nói. - Xây ngay trên nền cũ à? - Chứ sao?- Thằng Thiện hơi gắt- Mẹ tưởng kiếm được mảnh đất bây giờ là dễ sao? Đất bãi thế này cũng ngót nghét chục cây đấy. Chỉ năm sau bãi rác cũng thành phố - Ừ! mới ngày nào xóm bãi này lèo tèo vài gia đình, giờ đã chật ninh ních. Ai cũng cố vươn để nhoài ra sông. Nhanh thật! Thằng Thiện lớn ào ào, chị không kịp nhận ra. Chị còn nhớ cái dạo nó đi cát trên sông hàng tháng. Lúc về nó dẫn theo một đứa con gái bảo: "Vợ tôi đấy". Con bé đẹp nhưng câm. Chị nói thong thả: - Bay lớn rồi. Chuyện làm nhà do vợ chồng bay tính toán lấy. Tao chỉ có hai chỉ cho đây. - Mẹ nói thế tức là đồng ý rồi. Cũng phải phá căn nhà rách nát này đi chứ. Ừ! Phá cho hết những ám ảnh, những quá khứ không đáng nhớ. Đời chị có hai lần phải day dứt ân hận. Lần thứ nhất, chị đã dem lòng yêu một người đàn ông không xứng đáng. Lần thứ hai, ba lần cái Ngà khóc xin chị rời đi nhưng chị đã không làm. Rốt cục, chị không giữ được nó. Nó bỏ đi. - Một thằng trong làng vừa từ Móng Cái về bảo gặp chị Ngà và lão kia- Thằng Độ nói- Họ đi buôn hàng lậu ở bên kia biên giới. Trong một lần thanh toán giữa các băng nhóm, lão bị một bọn đâm chết. Chị Ngà đi đâu đó một dạo. Sau lại thấy xuất hiện bên kia biên giới. Hóa ra đã sang Trung Quốc lấy chồng. Tự nhiên chị đâm ngẫm ngợi lung tung. Ngót một đời chị thấy, những con người trong nhà này đều chọn cách sống hờn giận với đời. Phải chăng đó là cách họ bám vào cuộc sống. Mấy ngày liền xe công nông kìn kìn chở gạch cát đỏ quanh nhà. Cánh thợ xây đang bắt đầu bỏ móng. Chiều, chị lại trèo lên dốc đê, ngóng về phía xa xăm. Chị vẫn chờ một ngày con Ngà về thăm chị. Trong vùng khối người lấy chồng Trung Quốc, rồi dẫn cả con cái về. Thấy chị lẩn thẩn, thằng Thiện càu nhàu: - Mẹ lẫn quá thể rồi. Chị không chấp nó. Ngày mai rằm, chị dặn con dâu mua ít vàng hương, hoa quả mang vào chùa thắp hương. Vợ thằng Thiện gật đầu rồi đi ra. Nhìn nó tự nhiên chị thấy an lòng. Nó mới sinh nở lần đầu. Hôm nào rảnh, chị phải dẫn nó đi chợ sắm sanh tã lót. Nếu đợt trước con bé không sẩy, thì giờ chị đã có cháu bế. Trong đám tang một người vừa chết vì tai nạn xe máy, người ta nhắc đến cái chết ngồi.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> dưới nước của mẹ chồng chị. Bước lên dốc đê chị thấy mặt mũ sa sẩm. Đó là dấu hiệu của phụ nữ tiền mãn kinh. Chị đang chuyển dần sang cái dốc bên kia cuộc đời. Mọi thù hằn, khát khao dục vọng sẽ lắng xuống theo thời gian. Cái còn lại chỉ là những lớp phù sa bồi tụ. Cũng sắp đến ngày giỗ chị chồng. Đêm qua chị mơ thấy bà ấy về, nói muốn có bộ quần áo mới. Cây cầu xây xong, chị chồng bỏ theo một ông kỹ sư về Hàn Quốc. Rồi lâm bệnh mất ở xứ người. Trước lúc chết cứ nằng nặc đòi về Việt Nam. Giờ lọ tro của bà ấy đang gửi trên chùa. Thế thôi cũng là yên phận. Cuộc đời như chiếc lá trước gió, xoay vài vòng đã tới cuối đường.. Kết Thúc (END) Truyện Ngắn » Nơi Có Những Cây Tùng Xanh Biếc Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tác Giả: Trần Thùy Font Size: Tìm Mai Ando Chie cúi xuống, nhúng ngón tay vào chậu nước. Nước ấm vừa đủ tắm. Nàng kéo màn che cửa sổ. Ngoài kia, một cây anh đào vừa nở, những nhành hoa rủ xuống trắng hồng. - Xin ngài vào tắm kẻo nước nguội. Giọng nàng nhỏ nhẹ và lễ phép. Ngoài ba mươi tuổi, Chie mạnh khỏe và bầu bĩnh trong bộ kimono giản dị màu lam. Là người giúp việc cho hoàng thân Cường Để, cô đến ở đây đã hai năm theo sự bố trí của đại tá Wanatabe. Năm ấy hoàng thân đã ngoài năm mươi tuổi, dáng vóc nho nhã nhưng khuôn mặt gầy đượm buồn. Ông chăm chú viết, những chữ Nho chân phương rất đẹp trên giấy trắng. Thấy Chie, ông ngẩng lên, vẻ mặt ngần ngừ: - Lại tắm. Ta mới tắm hôm kia... Chie mỉm cười. Ông hoàng Việt Nam này rất lười tắm gội. Người Nhật vốn rất sạch sẽ. Bao giờ cũng thế, Chie rất cương quyết với ông. Chie đến gần, đặt tay lên nút áo ông. Chiếc áo năm thân màu nguyệt bạch với rất nhiều khuy vải. Ở Nhật đã hai mươi năm, ông vẫn mặc áo Việt. Những chiếc áo ông đem theo từ Việt Nam đã cũ nát từ lâu, chiếc áo này là do Chie phỏng theo áo cũ để may cho ông, kiểu áo Việt trên nền lụa Nhật. Nhưng hôm nay, ông hoàng dường như trái tính hơn mọi ngày. Ông chùn lại, xua tay, ánh mắt đầy nghi kỵ: - Để ta yên! Từ lúc Chie mới đến đây, ông vốn đã không tin nàng. Ông không cho nàng sắp xếp thư từ giấy tờ trên bàn ông, dù chúng thường rất lộn xộn. Mỗi lần đau ốm, ông cố giấu không cho nàng săn sóc. Chie là người do quân đội Nhật cử đến. Ông nghi kỵ nàng nhưng không thể từ khước nàng. Ông khư khư không cho nàng chạm tới đống thư từ, nhưng lại quá cần nàng thu dọn giường nằm bề bộn, pha cho ấm trà buổi sáng, khâu lại áo xống, cả ánh mắt cương quyết của nàng mỗi lần bắt ông đi tắm... Nhưng hôm nay nhìn vẻ mặt ông, Chie lẳng lặng không nài ép gì nữa. Nàng quay ra một lúc rồi trở vào với khay trà. Nàng đã quen, những lúc căng thẳng thế này chỉ có một ấm trà Tàu mới có thể làm ông dịu lại. Bước qua ngạch cửa, nàng khựng lại. Kỳ ngoại hầu Cường Để, hoàng đích tôn đời thứ năm của vua Gia Long đang bưng mặt khóc. Ando Chie vội vã đặt khay xuống án thư, chạy đến đỡ lấy mái tóc chớm bạc đang rũ rượi gục về phía trước. Tấm thân gầy mỏng của người đàn ông như muốn sụp xuống trong tay nàng. - Điện hạ... hoàng tử... Chie cứ nghĩ ông sẽ đẩy nàng ra. Nhưng lần này Cường Để chỉ ngẩng lên, mắt nhìn sững vào khoảng không trước mặt. Nàng nhẹ nhàng chặm những giọt nước ứa ra quanh đôi mắt thất thần. "Có chuyện gì...?". Cường Để không kiềm chế được, khóc nấc lên: "Bác Phan mất rồi!". Tại Tokyo một buổi chiều tháng tư, Cường Để nhận được thư báo. Phan Bội Châu, người đã tìm đến ông khi ông mới hai mươi mốt tuổi, đã tôn ông làm minh chủ của phong trào Đông.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> du chống Pháp. Người đã đón ông sang Nhật để tính chuyện phục quốc lâu dài. Việc Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải đã là một đòn quá mạnh đối với ông. Từ ngày ấy, ông không thôi cảm thấy lạc lõng, hoang mang; cảm giác thối chí thỉnh thoảng lại ám ảnh ông, ông phải hết sức chống lại. Bây giờ Phan Bội Châu đã mất. Hơn ba mươi năm lưu vong trên đất Nhật, bao nhiêu ý chí, nghị lực của ông dường như được truyền từ sức mạnh tinh thần của con người này. Vậy mà giờ đây người ấy không còn nữa. Số phận đã bỏ rơi ông giữa một thế giới mênh mông xa lạ, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan. Không phải là chuyện có thể chia sẻ với Ando Chie, nhưng biết nói cùng ai ở nơi lữ thứ này. Phong trào Đông du đã tan rã, Trần Đông Phong đã tự vẫn, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Siêu đã trốn đi, chỉ còn mình ông trơ trọi giữa trời cùng đất tuyệt. Chie cố gắng an ủi ông, dù không biết người chết là ai. Nàng dìu ông vào giường, đắp chăn, buông màn cho ông. "Để mặc ta" - Cường Để nói, xua tay, quay mặt vào góc tối. Chie gật đầu, nàng ém màn vào dưới nệm, bước lùi mấy bước. "Chie, đừng đi!". Ông ta bíu lấy tay nàng. Chie cảm thấy tất cả nỗi cô đơn, hoảng loạn của người đàn ông. Nàng cúi xuống, lồng tay vào chăn, ôm lấy ông vỗ về, bất giác nàng cũng rơi nước mắt. "Thiếp thương điện hạ lắm". Chie nói, những tiếng rất giản dị, nàng biết rõ Cường Để không giỏi tiếng Nhật, và nàng cũng không biết lời an ủi nào hơn. Nhưng linh cảm dạy cho nàng biết phải làm gì: nàng ghé nằm bên ông và ấp ủ ông bằng thân thể ấm áp của mình. Đêm ấy trời mưa, khi trời sáng Chie cuốn màn, mở hé cửa sổ, nàng nhìn thấy những cành anh đào sũng nước. Nàng đặt chậu nước nóng cạnh giường, nhúng chiếc khăn bông trắng muốt rồi vắt thật ráo. Người đàn ông của nàng đã tỉnh giấc. Nàng cúi xuống, mỉm cười dịu dàng, lau mặt cho ông. Kỳ ngoại hầu nắm lấy tay nàng, vẻ mặt ông lộ vẻ biết ơn. Chốc lát, ông quên người đàn bà này là người của quân đội Nhật. Ba mươi năm lưu lạc trên đất nước này, ông đã nhiều lần được chở che. Ông Innukai và Kashiwabara đã bảo bọc ông, thuyền trưởng tàu Yayomaru đã hết lòng che chở ông thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp. Đó là chuyện hai mươi, ba mươi năm trước. Lúc đó ông còn trẻ, chí khí còn hăng hái; gần mười năm nay, từ khi Innukai bị ám sát rồi, ông quá chật vật với cuộc sống, cô đơn, mệt mỏi. Phải nhận sự bảo trợ của lục quân Nhật là bất đắc dĩ, ông không thể không dựa vào người Nhật, nhưng ông biết Nhật và Pháp có thể bắt tay với nhau bất kỳ lúc nào. Ando Chie có phải là tai mắt của quân Nhật không? Ai biết đâu được. Dù sao lúc này bên ông chỉ còn có nàng thôi. Giờ phút này nàng đang dịu dàng lau mặt ông. Cảm giác được chăm sóc làm ông bùi ngùi ứa lệ. Chie chuyển dần chiếc khăn nóng xuống cổ và ngực ông, nàng nhẹ nhàng mở khuy áo để lau vai và lưng. Bỗng Cường Để buột miệng: - Về Việt Nam! Ước gì ta được về Việt Nam! Chie khựng lại một giây, rồi nàng hiểu, nhẹ vỗ vào lưng ông như dỗ dành: - Rồi ngài sẽ về, nhất định có ngày ngài sẽ về mà. Ôâng hoàng lưu vong cảm thấy ấm lòng, ông siết chặt tay nàng như muốn cảm ơn. Trong lúc đó Chie lại thấy lòng âm thầm một nỗi buồn. Ông sẽ đi, sẽ xa nàng, chắc chắn sẽ có ngày ấy... Cuối tháng, đại tá Wanatabe gặp Ando Chie ở Bộ Tư lệnh lục quân. Như thường lệ, Chie nói với ông về tất cả những sinh hoạt của Cường Để. Wanatabe hỏi: - Cô có thấy ông ta tiếp khách khứa từ xa tới không? - Không ạ. - Ông ta có nhận thư từ, tin tức gì từ Việt Nam? - Không ạ. Chie trả lời, chắc chắn đến nỗi Wanatabe không hỏi thêm gì nữa. Ông ta nhìn Chie từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại quan hệ giữa nàng và người ngoại quốc lưu vong ấy. Chie đỏ mặt, nàng hiểu cái nhìn của đại tá. Chắc chắn là ông ta rất khuyến khích việc nàng lên giường với người đàn ông kia, điều đó rất có lợi cho công việc. Chỉ có điều, ông ta không biết hôm qua nàng đã ủ ấm cho Cường Để, không phải với tư cách một nhân viên của lục quân Nhật, mà với tất cả tấm lòng của một người đàn bà. Năm năm sau..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chiến tranh khốc liệt trên khắp đất nước hoa anh đào. Những trận bom Mỹ dội xuống. Những ngôi nhà bằng gỗ và giấy cháy phừng phừng trong các góc phố Tokyo. Đang mùa lá đỏ nhưng chẳng còn ai nghĩ đến lễ hội mùa thu... Chỉ còn những đoàn người tản cư dắt díu nhau chạy. Ando Chie gói quần áo vào hai chiếc tay nải. Vội vàng, nhưng nàng không quên những chiếc áo lụa năm thân, áo dài the, khăn xếp, và cả bộ bình trà Tàu nhỏ xíu. - Ông ơi! Chie gọi. Hoàng thân giật mình, quay ra. Hôm nay ông mặc Âu phục chỉnh tề. Trong cảnh chộn rộn của Tokyo, vẻ chỉnh tề của ông trông thật lạc lõng. "Mình đi thôi, ông ạ. Mọi người đều tản cư về quê, chiều nay là chuyến chót". Hoàng thân hốt hoảng: - Nhưng ta còn phải chờ máy bay... Biết đâu ngày mai máy bay sẽ tới. Chie nhìn ông, xót xa. Cuối tháng bảy, nội các Suzuki Kantaro đã tổ chức bữa tiệc linh đình đưa ông về nước. Sau ba mươi hai năm xa quê, cái tin được về nước làm ông bàng hoàng. Trong bữa tiệc linh đình tại khách sạn Đế Quốc, ông hân hoan từ giã hết các chính khách đã ủng hộ ông... Mãi đến lúc sắp ra sân bay Haneda, cầm gói thức ăn đi đường từ tay Chie, ông mới nhìn thấy vẻ buồn trong mắt nàng. "Đừng buồn Chie, ta về nước rồi sẽ tính chuyện đón nàng sang". Chie mỉm cười. Ở Việt Nam, ông còn có người vợ cả và hai con nay đã lớn. Người vợ mà ông đã xa cách từ năm hai lăm tuổi. Ông sắp về với người đàn bà ấy. Nàng cảm thấy buồn, nhưng nàng mừng cho ông. Ngày hôm ấy ông đi, rồi đến tối mịt lại quay về. Ông kể, trên sân bay, nhân viên Bộ Tham mưu lục quân Nhật và ký giả báo chí tề tựu để tiễn chân ông... Nhưng máy bay từ Sài Gòn không đến đón. Ông quay về, ngã vật trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn lên cao... Chie tháo giày cho ông, lau mặt cho ông. Nàng nhỏ nhẹ bảo ông: "Ông ạ, đừng buồn, chắc máy bay bị trở ngại gì đó thôi, mai lại đến ấy mà!". Từ đó hôm nào nàng cũng quấn sushi cho ông đem theo... Hôm nào ông cũng ra phi trường Haneda, hôm nào ông cũng trở về. Hơn năm hôm sau, nhân viên lục quân lẫn ký giả không còn ai đến nữa, chỉ còn ông ngày ngày một mình ngồi đợi. Lủi thủi tới, rồi lủi thủi về. Và hôm nay, ngày cuối tháng bảy, bom B29 của Mỹ đã trút xuống Tokyo, ông vẫn còn nghĩ đến chuyện đến phi trường chờ đợi. Chie bảo ông: - Mình phải đi thôi ông ạ! Phải chạy về quê, nếu không là chết. - Đúng rồi, nàng cứ đi, ta ở lại, biết đâu... Chie nắm lấy tay ông. Bàn tay ông gầy quá. Với mọi người, ông là một hoàng thân, được các cơ quan tiếp đón, các ký giả săn tin, được các nghị sĩ bảo trợ... Còn với nàng, đây là một người đàn ông tha hương, lạc lõng, túng thiếu, cô độc... Lúc này, nàng nhất định phải cứng rắn với ông, như những lúc bắt ông phải đi tắm vậy; nàng khoác tay nải lên vai ông và đẩy ông đi. Cường Để gượng lại, phản đối, nhưng khi bị đẩy đến cửa, dòng người tay xách nách mang chạy loạn đập vào mắt ông, và ông hiểu ngay điều gì đang xảy ra. Đêm đó trên chiếc xe bò lắc lư trong dòng xe qua vùng ngoại ô, ông nhìn thấy Tokyo bốc cháy, lửa rực đỏ dưới những lằn máy bay Mỹ vút ngang. Căn nhà mà lục quân Nhật cấp cho ông đã cháy rụi. Tháng tám, bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima, Nhật Bản đầu hàng. Không còn ai đủ sức nghĩ đến vị hoàng tử lưu vong. Chỉ có một người đàn bà thầm lặng mỗi ngày làm thuê cho một xưởng than ở vùng quê để nuôi một người chồng lớn tuổi. Ando Chie lúc này không còn là nhân viên của lục quân Nhật nữa. Buổi sáng, nàng thức dậy nấu nước nóng cho chồng rồi tất tả đi; nàng vẫn thế, dù làm ở xưởng than nhưng lúc nào về nhà cũng rất sạch sẽ, còn chồng nàng vẫn vậy, rất lười tắm và suốt ngày ngồi chép những trang sách chữ Hán đã cũ nhàu. Nhiều người hỏi sao ông chồng nàng chẳng làm việc gì mưu sinh, Chie chỉ cười. Ông ấy là một ông hoàng. Dù rất nghèo và chẳng hề có quyền uy. Ông chẳng làm được gì cho nàng cả, nhưng nàng yêu thương ông với tất cả sự trìu mến xót xa. Trong lúc ông thì đau đáu chỉ muốn về quê hương - nghĩa là rời xa nàng. Nhưng nếu ông không có giấc mơ hồi hương, liệu ông có còn là người đàn ông mà nàng thương yêu không? Năm năm sau. Cơ hội về nước lại đến. Ando Chie lại chuẩn bị hành lý cho Cường Để lên đường..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Nước Nhật đã trở lại thanh bình. Trước ngày Cường Để về nước, bạn bè làm tiệc tiễn đưa. Ký giả Báo Asahi cũng đến dự. Cụng ly mừng, nhà báo ngỏ ý muốn đưa tin chuyến trở về của vị hoàng thân sau gần bốn mươi năm biệt xứ. Chuyến đi lần này bằng đường biển, từ cảng Kobe đáp tàu Hải Minh đến Bangkok rồi theo đường bộ qua Campuchia về Tây Ninh. Vì sao phải về nước qua cửa khẩu Tây Ninh? Vì Việt Nam đang thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, Pháp vẫn còn đóng quân ở Nam kỳ. Nhưng Tây Ninh nằm trong lãnh địa của Giáo chủ Phạm Công Tắc. Với sự bảo trợ của Phạm Công Tắc, ông có thể lên bờ an toàn. Ký giả Asahi dặn dò: - Khi ngài tới nơi rồi, xin điện ngay cho tôi biết. Cường Để ngẫm nghĩ: - Trong nước hiện đang chiến tranh, tin tức khó gửi. Có lẽ cứ tính theo hải trình, đến trung tuần tháng bảy thì bỉ nhân đã đến quê nhà, quý ông có thể đưa tin được rồi. Ando Chie đưa ông đến bến cảng. Mùa thu, khí trời se lạnh. Tiếng quạ kêu vang sau những tàn cây lá đỏ. Ông đi rồi, Chie trở lại căn hộ hai phòng ở phố Ogikubo. Con đường bỗng dài hơn bao giờ hết. Ông hứa sẽ có ngày đón nàng sang Việt Nam. Lúc đó nàng chỉ bảo: "Bao lâu cũng được". Đến bây giờ, một mình trên con đường về nhà, nàng mới thấm thía cả khoảng trống chơ vơ trước mặt, rằng có thể nàng sẽ mãi mãi một mình trên đoạn đường còn lại... Nàng tiếp tục khâu những con búp bê vải - những con búp bê đã nuôi sống nàng và ông từ lúc về lại Tokyo. Đến tối, chủ nhà, bà Hashimoto gõ cửa hỏi thăm nàng. Bà đem vào cho nàng một gói bánh dẻo. "Trông em xanh quá. Tôi pha cho em một chén trà nóng nhé?". Chie uống chén trà từ tay bà chủ nhà tốt bụng. Trà nóng làm nàng hồi tỉnh. Nhìn hộp bánh dẻo xinh xắn, nàng nhớ đến chồng. Ông ấy vẫn thích loại bánh này. Nhưng dùng trong khi uống trà Tàu - ông vẫn không quen với trà Nhật. Bây giờ ông ấy đi đến đâu rồi nhỉ? Bà Hashimoto vuốt tóc nàng, dẫn nàng sang phòng làm việc của chồng bà, giáo sư Hashimoto Masukichi. Trên vách, giữa những tủ sách đồ sộ là tấm bản đồ châu Á. Bà chỉ cho Chie xem chỗ nào là Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam. Chie chăm chú nhìn. Chồng nàng đang ở trên vùng biển xanh xanh kia, ngoài khơi cái khối màu hồng rất lớn mà bà Hashimoto bảo là nước Trung Hoa. "Em đừng buồn, rồi ông ấy sẽ đạt chí nguyện, sẽ trở lại đón em sang, em phải gắng giữ sức khỏe nhé!" - Bà Hashimoto an ủi. Chie mỉm cười, nàng cúi đầu thật thấp tỏ lòng cảm ơn bà chủ. Chiều hôm ấy nàng đến chùa Senso, bên chiếc đỉnh lớn nghi ngút khói nhang giữa sân chùa, nàng vớt nhẹ khói hương ủ vào nơi lồng ngực. Lần trong tay áo, nàng lấy ra số tiền nhỏ, đủ cúng dường để xin một lời nguyện cầu. Vị sư già hỏi nàng cầu nguyện gì để ghi vào tấm thẻ gỗ trắng ngà. Nàng cúi đầu ngẫm nghĩ. Nàng muốn cầu nguyện những gì, chồng nàng sẽ có quyền uy, sẽ thành lãnh tụ, sẽ giàu sang, sẽ đón nàng về cùng hưởng cuộc sống cao sang? Cầu cho chồng nàng sẽ không quên nàng? Sẽ... Thực lòng nàng muốn gì? Chie ngập ngừng một lát rồi se sẽ đọc cho vị sư già chép vào thớ gỗ: - Tôi là Ando Chie... Cầu cho chồng tôi là Cường Để vượt sóng gió về đến quê nhà bình yên, sum họp với gia đình. Vị sư già ngẩng nhìn nàng. Ông đã viết giúp cho thiện nam tín nữ hàng ngàn lời nguyện. Ông nhìn Ando Chie một lát như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi lại thôi, cúi xuống cắm cúi viết. Khi trở về nhà, nàng thấy giáo sư Hashimoto đang chờ trước cổng. "Ando, có tin mừng cho cô đây". Ông đưa nàng tờ nhật báo Asahi. "Hoàng tử Việt Nam đã về đến quê nhà sau 32 năm ly hương". Chie mừng rơi nước mắt. Chiều hôm đó nàng làm món mì Nhật và sushi cá hồi, mời ông bà Hashimoto để tỏ lòng biết ơn. Ông bà về rồi, còn lại một mình Chie trong căn hộ vắng lặng. Một đoạn đời đã chấm dứt, đoạn đời mới bắt đầu, một chặng đường dài hun hút mà nàng sẽ phải đi một mình. Nàng giở tờ báo Asahi, đọc lại bài viết, rồi lật dần ra những trang sau: những mục tìm nhà, tìm việc. Cuối tháng bảy, bỗng bà Hashimoto đập cửa căn hộ của Ando Chie, hốt hoảng: - Ando, người ta vừa điện đến cho ông nhà tôi. Cô phải ra ngay cảng Yokohama!.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Chie cuống quýt, hai chân run cầm cập, lưỡi líu lại. Nhưng người phụ nữ Nhật dường như được trời phú cho một nghị lực phi thường, nàng kiềm chế thật nhanh cơn hoảng hốt, cầm lấy chiếc ô, chạy ra cửa. Bà Hashimoto tốt bụng đã kịp thuê giúp nàng một chiếc xe ngựa. Trên cảng Yokohama về chiều, có một ông già ngồi trên chiếc ghế dài, ngẩn ngơ nhìn quanh với đôi mắt vô hồn, mặc kệ bao nhiêu người qua lại. Chie chạy lại gần. Sao mới có một tháng mà chồng nàng đổi thay đến thế, y phục nhàu nát, khuôn mặt gầy tọp rám nắng, mái tóc bạc xỉn đi và bê bết bụi. - Ông ơi... Chie cầm lấy tay chồng. Bàn tay ông gầy trơ xương, nhưng vẫn là bàn tay của ông, ông đang ở đây, bên nàng. "Ông ơi, sao ông lại về được?". Chie hỏi, nhưng người đàn ông ngẩn ngơ nhìn mông lung, vẻ mặt sững sờ tuyệt vọng, dường như không còn nhận ra gì chung quanh nữa. Ông chỉ không ngớt lẩm bẩm: "Không về được! Không về được nữa! Không về nữa!". Với Chie, về là về Nhật Bản, với ông, về là về Việt Nam. Hơn một tháng Chie ra sức chăm sóc, Cường Để mới dần dần hồi tỉnh lại. Ông kể với nàng: tàu Hải Minh bị trục trặc bánh lái nên đã ghé Thượng Hải một tuần. Trong khi đó, Báo Asahi đã đưa tin, và mật vụ Pháp biết được rằng chuyến tàu phải cập cảng Bangkok, đã điện cho Bộ Ngoại giao Thái. Vì quan hệ giao thương với Pháp, Chính phủ Thái đã không cho Cường Để nhập cảnh Thái Lan, buộc lòng phải theo tàu quay về Nhật Bản. Cường Để không bao giờ còn trở lại như trước kia nữa. Tuyệt vọng, suy sụp, ông đã hoàn toàn là một ông già trái tính trái nết, đau ốm triền miên. Đôi khi, căm hận số phận, ông ném bất cứ cái gì vớ được vào vách. Chie phải cất bộ đồ trà ông đem theo từ Việt Nam thật kỹ, mỗi sáng pha trà xong nàng đứng chờ ông uống xong, đem cất ấm chén rồi mới dám dời mắt. Cuối mùa thu có hai người khách ở Việt Nam sang ghé thăm. Họ là hai chính khách đang có thế lực, hứa sẽ tìm cách đưa Cường Để về nước. Khách về rồi, Chie dọn tách chén trên bàn, định bưng đi. Chợt ông níu tay nàng: - Nàng ơi, nàng có tin ta còn về nước được không? Chie đặt khay xuống, quay lại cầm cả hai bàn tay ông, vỗ về: - Thiếp tin. - Ta cũng tin vậy. Nghe nói chẳng bao lâu nữa người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương... Chie lau những giọt mồ hôi đang ứa ra trên trán người đàn ông. Dạo này ông yếu quá, chỉ một cơn xúc động cũng đủ làm mồ hôi toát ra dầm dề. Mấy hôm sau ông bồn chồn đến mất ngủ, lúc nào khỏe lại lật giở những thư từ, sách vở đã cất giữ từ bốn mươi năm trước, cả bức Thư huyết lệ của người Việt Nam mà ông viết khi mới ngoài ba mươi tuổi. Ba mươi năm đã qua, sứ mệnh cứu nước không còn nằm trong tay thế hệ ông nữa rồi. Nhưng những bức thư cũ này sẽ mãi mãi là kỷ niệm rực rỡ nhất của đời ông. - Nàng cất kỹ những giấy tờ này cho ta. Khi ta về nước, đồng bào nhất định sẽ hỏi đến. Chie đặt chén thuốc xuống bàn rồi đỡ lấy những tờ giấy cũ vàng tên tay ông. Bây giờ ông đã tin nàng thật sự, ông giao cho nàng những tờ giấy này, đối với ông nó còn quý hơn cả bạc vàng. - Uống thuốc đi mình - Chie nhắc. Cường Để gật đầu, không đợi Chie nài ép dỗ dành như mọi lần, ông bưng chén thuốc đắng ngắt uống cạn. Gương mặt đang rạng rỡ của ông bỗng nhăn nhúm lại, một cơn đau đang âm ỉ dưới sườn non chợt nhói lên. Chie đỡ cái bát, tay kia vỗ nhẹ lên lưng chồng như muốn xoa dịu phần nào cái buốt nhói trong cơ thể ông. Tuần trước, bác sĩ Bệnh viện Nihon Ika Daigaku đã nói cho nàng biết, Cường Để đã mắc bệnh ung thư gan, ông chỉ còn sống nhiều lắm là ba tháng nữa. Chie giữ kín tin dữ không cho ai hay. Nàng biết đây là lúc nàng phải mạnh hơn bao giờ hết. Cường Để cố uống thuốc cho mau khỏi bệnh. Ông xem đi xem lại bức thư của mấy người Việt vừa ghé thăm tháng tám năm ngoái, bức thư hứa sẽ tìm cách vận động cho ông hồi hương. Mỗi lần đọc thư ông thấy khỏe hẳn lên như vừa uống một thang thuốc bổ. Nhưng đến đầu tháng tư, sau nhiều cơn đau hành hạ, Cường Để cũng nhận ra rằng mệnh của mình đã hết. Ông cố mở đôi mắt mệt mỏi, gắng nhìn thật kỹ những gì chung quanh: khung cửa sổ nhỏ,.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> những chiếc áo Việt may bằng lụa Nhật treo trên vách, chiếc chậu đồng dưới chân giường, những vật dụng thường ngày của cuộc sống lưu vong tạm bợ, giờ phút này ông nhìn chúng với ánh mắt bịn rịn vô cùng. Mắt ông dừng lại nơi khuôn mặt Chie đang nhìn xuống, vẻ thầm lặng và nhẫn nhục đầy yêu thương. Ông quờ quạng nắm lấy tay nàng: Mình ơi, mình có phải là Phật Bà Quan Âm của tôi không? Đó là lần đầu tiên ông nói lời tri ân với nàng sau bao nhiêu năm chung sống. Nhưng nàng không hiểu gì cả, vì ông không biết là mình không dùng tiếng Nhật. Như một bản năng, mấy hôm nay ông chỉ nói toàn tiếng Việt. Chie vẫn cúi nhìn, vẫn vẻ mặt âu yếm xót xa, nàng áp sát mình xuống thân thể còm cõi của ông, tay nắm lấy cả hai tay ông như muốn bảo: Đừng sợ, có thiếp đây, dù đi đến đâu ngài cũng không cô độc. Cường Để dần thiếp đi. Lúc ấy là năm giờ 5 phút sáng mồng 6 tháng 4 năm 1951. Một mình Ando Chie úp mặt khóc lặng lẽ trên thi thể ông. Ngoài cửa sổ, hoa anh đào đang nở. Hôm ấy là ngày đầu của lễ hội hoa anh đào trên đất Nhật. Cửa mở ra, hai người đàn ông theo Ando Chie bước vào căn hộ. Đập vào mắt họ là những tấm hình của Kỳ ngoại hầu Cường Để trên vách. Vị hoàng thân trẻ măng hai mươi lăm tuổi ngày mới đến Nhật. Hội chủ Hội Đông du Phục Quốc, sinh viên trường Đại học Waseda, hình chụp với Thủ tướng Innukai, hình chụp với ký giả Asahi trong bữa tiệc long trọng tại khách sạn Đế Quốc... Tất cả là những trang đời đẹp nhất của Cường Để. Còn hình ảnh buồn thảm những ngày chờ đợi trên sân bay Haneda, những ngày chạy loạn nghèo túng cơ cực, ngày về tang thương trên cảng Yokohama... Những hình ảnh ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức Chie mà thôi. Hai tay bưng bình tro, Ando Chie trao di cốt Cường Để cho hai con của ông. Nàng cúi mặt thầm nghĩ: Thế là ngài sắp về nhà, giấc mơ cả đời của ngài giờ đây mới thành tựu. Ngài lên đường bình an, lần này thiếp không phải gói sushi cho ngài mang đi nữa rồi. Người con trai cả của Cường Để đỡ lấy bình tro di cốt của cha. Mặt ông đầy nước mắt. Ông ngạc nhiên thấy người đàn bà Nhật này vẫn bình thản, nét mặt trang nghiêm dịu dàng chỉ hơi phảng phất buồn. Nhưng người con trai thứ hai đứng cách đó vài bước thấy rất rõ đôi bàn tay của Chie sau khi trao xong bình tro. Đôi bàn tay ấy bấu chặt vào nhau, những móng tay quắp vào da thịt, rồi chúng run rẩy bấu víu lấy đôi tay áo kimono, và đến lượt thớ vải giằng co như sắp bị xé rách ra. Khi hai người đàn ông đi rồi, Chie khép cửa, quỳ xuống sàn. Nàng lấy trong ống tay áo ra một mẩu xương và một nhúm tro nhỏ. Chie đã giữ lại cho mình một phần thân thể của chồng. Nàng biết mình không làm trái với ý nguyện ông. Dù chẳng hiểu ông nói gì khi sắp mất nhưng nhìn vào mắt ông nàng biết, ông rất muốn ở lại với nàng. Hình như vào giờ phút ấy ông nhận ra mình sắp đi vào một cõi xa thăm thẳm, ở nơi ấy ông sẽ gọi cả trần gian này là quê nhà. Và ở quê nhà đó, một trong những gì giản dị và thân thương nhất chính là Chie... Ando Chie mất bốn mươi năm sau, trước khi mất bà để lại di chúc muốn được chôn cùng với nắm tro tàn của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Nhưng cho đến nay lọ hài cốt của bà vẫn còn trong phòng mộ tập thể của nghĩa trang Zoshigaya, nơi có những cây tùng xanh biếc và tiếng quạ kêu man mác buồn trong những buổi sáng mùa xuân.. Kết Thúc (END) Phía Núi Bên Kia Tác Giả: Nguyễn Thiên Font Size: Ngân. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Làng nằm lọt thỏm giữa những ngọn núi. Bên kia núi là một làng khác? Một dòng sông? Hay mãi cứ một con đường không có điểm dừng? Nàng không biết. Những người đã đi qua núi đều không trở về. Cho đến ngày anh không trở về nữa, thì nàng tin bên kia núi là địa ngục. Anh đã hứa rằng chỉ khi phải chết, anh mới xa nàng. Giữa làng có một cái hồ nước lớn. Người làng sống kín đáo, ẩn dật đến đáng sợ. Những người từ phương xa đến đổi trà cứ mỗi ba tháng mới được vào làng một lần. Tất cả họ đều phải long.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> trọng thề rằng ngoài trà - sản vật trao đổi được với dân làng bằng những nhu yếu phẩm khác - họ không được mang theo bất cứ điều gì: những câu chuyện về làng, những điều hơi lạ lùng mà họ thấy. Họ cũng không được mang đến bất cứ thông tin nào từ thế giới bên kia núi. Trái lời, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị thần Hồ trừng phạt. Và quả thật, sau cái chết của một người đổi trà nào đó năm xưa, không ai dám khinh mạn thần Hồ. Anh ta chết thảm khốc sau lần dan díu với một cô gái trong làng và định đưa cô trốn đi. Trên đường dẫn cô gái chạy trốn trong đêm, anh ta ngã xuống hồ và nhanh chóng bị thần Hồ nhấn chìm trong tuyệt vọng. Khắp người mang nặng những bao trà vừa đổi trong mấy ngày trước đó, anh ta không thể nào bơi được. Xác anh ta trôi lênh đênh giữa hồ ba ngày ba đêm. Những người làng chạnh lòng thương mang thuyền ra vớt nhưng như có một bàn tay vô hình ngăn cản, không ai chạm vào anh ta được. Người già trong làng phải ra hồ cầu khấn hồi lâu, cái xác kia mới cập vào mạn thuyền. "Vì sao con muốn ra đi? Tại sao con phải trốn? Chỉ cần con nói thực là muốn từ bỏ dòng tộc, quê hương, chúng ta sẽ để cho con đi thôi mà". Trưởng làng ôn tồn nhìn sâu vào mắt cô gái đang ngây điếng ôm xác người tình, nói lời khó nhọc. Cô gái bật khóc, rồi lại rú lên cười man dại. Ít tháng sau, bụng cô dần to lên. Câu chuyện đó xảy ra cũng đã lâu rồi... Sinh anh xong, mẹ anh trẫm mình xuống hồ. Trưởng làng tự tay chèo thuyền ra giữa hồ vớt cô lên, đôi mắt đỏ kè như đang khóc. Cô được chôn cất với những mảnh lụa bạch lấy từ kho lụa táng của làng quấn quanh người, nghi thức như với bao người làng khác. Không ai bình luận về nghi thức có phần thiên vị đó, dành cho đứa con gái hư hỏng từng định bỏ làng mà đi, và giờ thì tự tử theo người tình, để lại đứa con hoang. Chỉ có điều, cặp tình nhân không được nằm cạnh nhau. Cô yên nghỉ trong nghĩa địa làng quanh năm tung bay cờ lụa trắng và ngập tràn mùi hương nhài. Còn người yêu cô, nằm chơ vơ trong nấm đất nhỏ bên con đường lớn, nơi anh ta từng vượt qua để đến được làng này. Con đường ấy dẫn về phía bên kia núi. Đứa bé trai vừa ra đời được trưởng làng mang về nhà nuôi, cho bú nhờ con gái ông, lúc này cũng vừa sinh một bé gái. Bé gái ấy là nàng. Người làng rỉ tai nhau, đó là do lương tâm ông cắn rứt, vì những lời cuối ông nói với cô gái kia hồ như đã góp phần dồn đẩy cô tìm cái chết. Những ngày thơ ấu, nàng và anh thường chạy đuổi nhau len lỏi qua những đồi trà rồi ngã phệt xuống nghỉ bên ngôi mả hoang ấy. Anh tần ngần nhổ những chân nhang cũ nhạt màu lên, nhìn thật lâu như muốn rõ điều gì. Lúc ấy, cả hai đứa trẻ đều chưa biết về người nằm dưới mộ. Nhưng sau này lớn lên, biết chuyện, nhớ lại ánh mắt anh rưng rưng khi thì thầm trò chuyện với những chân nhang, nàng hiểu được mối ràng buộc vô hình của tình máu mủ, dù họ chẳng bao giờ có cơ hội biết về nhau. Hai đứa trẻ nằm gối đầu lên mộ, cố đặt tên cho hình thù của những đám mây trên bầu trời xanh. Chán chê, nàng hỏi anh con đường này sẽ dẫn tới đâu, bên kia núi có những gì... Anh trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang thì thào: "Ngôi mộ này không phải của người làng. Bên kia núi chắc phải có một làng nào đó...". Ông ngoại nàng yêu thương anh một cách lạ lùng. Lúc nào ông cũng cao vời, đường bệ với tư thế oai nghiêm của một trưởng làng, đôi khi lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng riêng với anh, ông yêu chiều ra mặt. Anh lớn lên, thông minh đĩnh ngộ. Hầu những bữa trà sớm hay đêm trăng của ông, không chú tiểu đồng nào có thể làm ông vừa ý, ngoài anh. Đôi lúc ông cao hứng đọc thơ cho anh nghe, đôi khi lại bồn chồn tâm sự như với người tri âm, tri kỷ. Có lẽ, tất thảy sự ân hận năm nào đã chuyển thành một tình thương mến. Ông ôn tồn, dịu nhẹ, chẳng mắng anh bao giờ, kể cả khi anh gây ra tội lỗi tày đình nhất. Lừa khi ông ngủ, anh lén lấy chơi rồi làm vỡ miếng ngọc quý hộ thân mà lúc nào ông cũng đeo bên mình. Ông nhìn những mảnh vỡ đầy đau xót, thu nhặt chúng cho vào một túi lụa nhỏ rồi bỏ đi, không nói tiếng nào. Cả nhà ngơ ngác nhìn nhau, còn anh thì cởi trần quỳ giữa sân, run bần bật, nhưng một trận roi nát da nát thịt đã không xảy ra. Tuổi thơ anh trôi qua yên bình, anh chẳng hề thắc mắc vì sao mình không có cha, yên lòng với câu chuyện thô vụng mà người làng bịa ra dưới lệnh của ông. Ai đó đem trồng cạnh mộ mẹ anh một cây nguyệt quế. Ít lâu sau nó ra hoa rải trắng một vùng. Trên thảm hoa đó, không ít lần nàng thấy anh cô đơn nằm khóc, trong nỗi đau vô thức về thân phận mình. Nàng nhặt những đóa hoa tinh khôi kia cho vào túi lụa nhỏ đặt trên đầu giường anh. Đến lần thứ bao nhiêu đó thì anh bắt được. Ấy là lần đầu tiên anh hôn nàng. Năm đó, cả hai đều vừa mười sáu tuổi. Lần đầu tiên ông ngoại nàng trừng phạt anh là khi ông bắt gặp họ hôn nhau ở bụi nguyệt quế ấy. Ông sững sờ đánh rơi những hoa huệ trắng đang cầm trên tay, xềnh xệch lôi anh ra hồ. Ở đó,.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> ông nhấn nước anh thừa sống thiếu chết, cùng với những cái tát túi bụi vào mặt. Phải đến khi gần như cả làng kéo ra can ngăn, ông mới buông anh, đã tơi tả như một miếng giẻ rách nát te tua ra, ném vào anh cái nhìn phẫn nộ rồi phừng phừng bỏ đi. Họ bị cách ly gắt gao, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng. Trong mắt làng tộc, hai đứa cháu đáng yêu bỗng trở nên lì lợm, bất trị. Không được đến gần nhau, nhưng ánh mắt đắm đuối chúng dành cho nhau như thách thức mọi lời cấm đoán. Không biết bao đêm mẹ nàng đã khóc lóc, chỉ thiếu điều van xin con gái. Tình yêu ấy quá tội lỗi. Con và nó đã lớn lên cùng nhau, bú chung bầu sữa, có chung một gia đình. Làm sao con có thể yêu chính anh trai mình?! Lần thứ hai, ông bắt gặp anh ôm nàng giữa gian phòng thơm ngát những khay trà vừa sấy. Ông tuốt cây kiếm treo bên tủ thờ kề ngay cổ anh, mắt vằn lên những tia máu: "Tao nhắc lại lần nữa, tránh xa nhau ra, nếu không tao giết hết!". Ông bất chợt vung kiếm, chém bay một bím tóc của nàng, run giọng: "Mày... mày nghĩ mày có thể quyết định cuộc đời mày sao? Với thằng con hoang này?!!". Bóng kiếm sắc lạnh soi rõ niềm đau đớn trong mắt anh. Nàng không sợ chết. Nhưng nàng hốt hoảng nhận ra vòng tay ôm của anh đã dần lơi đi. Ít lâu sau đó, anh bỏ đi khỏi làng. Anh trốn theo đoàn người đổi trà, men theo con đường qua ngôi mả cũ dẫn đến phía bên kia núi. Nơi đó, anh tin có một ngôi làng khác... Đọc bức thư anh để lại, trưởng làng ngồi ôm đầu ở bậc cửa, không nói một lời. Rồi ông đứng dậy, rút cây kiếm sắc đâm một nhát thật lực vào bục gỗ gần tấm phản, chỗ anh hay quỳ để hầu trà... Nhiều năm sau, cây kiếm vẫn còn cắm nguyên ở đó. Còn nàng, tự giam mình trong nhiều ngày, khóc đến kiệt sức. Không khí trong gia đình nặng như đá. Người làng có chuyện để xầm xì. Khi nỗi đau kia tưởng đã dần nguôi, tóc nàng đã dài trở lại, thương nhớ trong nàng dường đã chai đá thì anh đột ngột trở về. Đứng lẫn trong toán người đổi trà đang long trọng tuyên thệ trước thần Hồ, không ai nhận ra anh. Nhưng nàng, dù bộ râu quai nón kia xa lạ đến mức nào, dù nước da anh đã xạm đen đến đâu, dù anh đã cao lớn rắn rỏi ra sao, nàng làm sao quên nổi đôi mắt u buồn kia. Đôi mắt đã ám ảnh trái tim nàng từ hồi thơ dại. Nàng đánh rơi nong trà. Anh giật mình quay đi, khuất sau những dải lụa màu chấp chới. Nàng len lén nấp sau những dải cờ lụa trắng ngoài nghĩa trang, lặng lẽ khóc khi thấy dáng anh quen thuộc bên cây nguyệt quế cạnh mộ mẹ. Rồi không thể nào chịu nổi, nàng vùng chạy đến ôm chầm lấy anh. Tấm lưng anh giờ đã rộng, đã vững chãi lắm rồi. Nàng nghe thấy mùi mồ hôi ấm áp, quen thuộc lẫn với mùi gió, mùi núi sông sau lần vải áo thô kệch. Anh lập cập quay lại ôm chặt nàng, mắt đẫm nước. Chiếc cằm đầy râu mấp máy, run run không nói nên lời. Nàng chùi nước mắt vào ngực anh, nói câu đầu tiên sau bốn năm chia cách. - Đưa em đi! - Đi đâu? - anh thảng thốt. - Sang bên kia núi. Đêm hôm đó, trong trí nhớ của ông, trời tối đen giống hệt năm nào chàng trai đổi trà định dẫn cô gái làng bỏ trốn. Ông đứng đợi bên hồ, tay cầm cây kiếm đã từng kề cổ anh, đã thô bạo cắt đứt bím tóc nàng và cô đơn cắm trên bệ gỗ với những nỗi niềm suốt từng ấy năm anh lưu lạc. Nó tưởng ông không nhận ra nó sao? Dáng người ấy, đôi mắt ấy, cung cách cam chịu ấy... Nó đã lớn lên trong tầm mắt ông, từng ngày, và trong cả trái tim ông nữa. Đôi trai gái dắt díu nhau đi trong bóng tối. Họ lạc ra phía hồ. Anh nắm tay nàng rất chặt, và nàng biết anh đang vã mồ hôi vì sợ. Luật làng từ thời ông trưởng làng đầu tiên, là ông cố nàng đề ra, từ bé anh đã thuộc lòng. Lời thề với thần Hồ và cái chết truyền kỳ của anh chàng đổi trà năm xưa ám ảnh tâm trí anh. Anh chỉ định trở về để nhìn thấy nàng một lần. Vả lại, ngày đi anh chưa kịp ra mộ mẹ... - Đứng lại! - giọng ông khản đặc. Ánh kiếm lóe lên như vệt trăng mờ xám lạnh. Hai đứa quỳ sụp xuống. Nàng khóc òa: - Ông để bọn con đi. Ông thẫn thờ ném cây kiếm xuống đất khi nghe tiếng khóc của đứa cháu gái xinh đẹp. Nó đang van xin ông hãy cho nó được hạnh phúc. Ông quỳ phệt xuống trước hai đứa. Mơ hồ, ông nghe tiếng hai đứa ngày nào thơ bé, ca hát rộn ràng. Âm thanh nao nức, vui tươi như vọng về từ ngày tháng xa xưa... Xen vào đó là hình ảnh chập chờn, kinh hãi của một quãng đời ông không bao giờ ông muốn nhớ... Năm ấy, cha ông hận người vợ bội bạc nên dắt ông - lúc đó mới ba tuổi - bỏ đi. Cùng một số dân nghèo không có đất, ông vượt núi đến vùng này lập làng. Cha ông trở thành trưởng làng, đề.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> ra bao quy ước quái lạ, vin vào lời nguyền của thần Hồ. Ai muốn bỏ vùng này ra đi phải tuyên hứa giũ bỏ quê hương, máu mủ và dứt khoát không được trở về. Không ngờ, chính ông - con trai trưởng làng - lại là người đầu tiên rời bỏ đất. Ông say sưa với thế giới rộng lớn bên ngoài, yêu và được yêu, nhưng rồi đến phiên ông cũng bị người đàn bà ấy phụ bạc. Ẵm đứa con gái khóc ngằn ngặt vì khát sữa, ông chẳng biết đi đâu. Rồi cuối cùng ông quyết trở về làng. Cha ông thương đứa con trai nông nổi, đã dựng nên một câu chuyện để có thể đón ông trở về. Không lâu sau đó, cha cưới cho ông một cô gái làng nhu mì, hiếu thuận. Còn đứa bé gái được gửi cho một bà góa nuôi, giấu biệt tung tích. Ông chỉ có thể đứng xa nhìn nó từ lúc lẫm chẫm theo bà góa đi hái trà cho đến khi biết nhảy chân sáo và chơi trốn tìm giữa những đồi trà xanh biếc. Ông đau đớn tột cùng khi nhận ra, càng ngày nó càng xinh đẹp giống hệt người mẹ bội bạc của mình. Chưa bao giờ ông được ở gần con gái như cái ngày chèo thuyền ra giữa hồ để bế bồng thi thể nó lên. Lúc ông chạm vào thi thể cóng lạnh ấy, khóe miệng nó ứa đầy máu tươi. Ông đã lén chùi sạch vết máu ấy trước khi đưa nó lên bờ, tránh ánh mắt dò xét của người làng. Con gái ông, đứa con gái không được thừa nhận, rồi cũng đến phiên nó muốn theo người lạ rời làng, mà không biết đằng sau ngọn núi kia là bao gian dối... Anh buông tay nàng ra. Đêm đó, cả ba linh hồn đều gục chết sau lời sám hối của ông và những bí mật kinh khủng được tiết lộ. Chàng buôn lụa có đôi mắt buồn rời làng một mình vào lúc rạng đông. Ngang ngôi mả hoang bên đường dẫn qua núi, anh quỳ xuống, rút mấy chân nhang cũ, dập đầu lặng lẽ khóc. Rồi, anh đứng lên đi tiếp chặng đường qua phía núi bên kia. Không ai thấy cảnh ấy. Làng đang có đại tang. Sáng hôm đó người ta thấy thi thể vị trưởng làng nổi lềnh bềnh trên hồ. Thần Hồ lại lấy đi một mạng người. Cô cháu gái xinh đẹp của ông ngồi câm nín bên bờ hồ, tóc đẫm sương đêm. Không ai đọc được trong đôi mắt ngây dại của nàng hằn in chỉ một khoảnh khắc: anh vụt đứng dậy chạy điên cuồng trong bóng đêm, và nàng không còn thấy gì nữa. Chỉ còn lại nàng và ông. Ông cúi xuống vỗ về nàng, nói khẽ lời hối lỗi ngàn lần rồi từ từ bước về phía hồ thăm thẳm kia, với một vẻ cương quyết và thanh thản lạ lùng mà nàng biết. Không phép lạ nào trên đời này có thể níu giữ bước chân ông lại.... Kết Thúc (END) Cuối Thu Font Size:. Tác Giả: Nguyễn Hồng Chí. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Có những mùa lặng lẽ đến rồi đi, thành vòng xoay bất tận có từ ngàn xưa. Người đời thường chỉ đong đếm mùa đi, mặc nhiên xem trong thinh lặng là những ngày dài tháng rộng đo độ dài của một kiếp tồn sinh. Nhưng đôi khi có một mùa thu thoảng qua trong khóe mắt buồn xa lắc, nỗi bơ vơ xao xuyến ẩn hiện trong nụ cười thinh không. Vốn sợ mất đi một mùa đang đến cùng khoảng bình lặng trong tâm hồn nên ta nhốt khắc chiều thu muộn trong đôi bàn tay gầy guộc lẻ loi vốn không che nổi nắng mưa cuộc đời. Một vạt nắng rựng màu vàng ươm còn sống trong phố chiều náo nhiệt len lỏi ẩn vào đôi mắt buồn hay nhìn về những hướng xa xăm. Ta giam giữ thời gian trong gian phòng cô quạnh. Lốc lịch dày cui chẳng màng xé bỏ để cho tháng ngày đừng bẽ bàng trôi đi mất biệt. Cái đồng hồ bị tháo pin nên dừng lại ở khoảng vô chừng thế cuộc, nhắc nhở mình những giây phút bình yên mà chẳng khi nào còn có được. Người hỏi ta có bao giờ dừng được thời gian, ta lúng túng với câu trả lời ngơ ngẩn, vì chẳng khi nào mình cảm nhận rõ được những hao gầy của tháng năm. Ta chỉ biết mình là kẻ sân si, tựa thể một loài ký sinh bám víu vào hoài niệm thu xưa khi bất lực cảm nhận thời gian không thể nào dừng lại được. Thật ra, mùa đang thì thầm lướt đi bên trong gian phòng cô tịch. Ta biết thu Cần Thơ chưa bao giờ rõ nét ngọt ngào thanh thao. Thu Cần Thơ không sắc sảo vàng hoa cúc, không nhuộm đỏ u buồn màu hoa gạo, lại không rực rỡ lá vàng rơi xạc xào của hàng bạch dương xa lạ. Chỉ có những trái phượng cong oằn thời mùa hạ nắng nóng như thiêu.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> bây giờ đen đủi treo lửng lơ như những dấu chấm than đặc dầy khung trời ảm đạm, thở than bông tàn cuối hè đã chớm bạc tàn úa lòng nhuộm đầy nỗi phôi pha. Lá bàng đo đỏ, miên man rơi về nơi nguồn cội, tự hỏi lòng đến kiếp nào mới được tái sinh. Cây cỏ Cần Thơ không tỏ vẻ điệu đàng, không trau chuốt mình làm dáng, chỉ thuần một nét ban sơ, trụi trần mà tinh tế khoe duyên. Thiên nhiên nhẹ nhàng biến chuyển cho lữ khách nhận ra rằng hình như có một mùa lặng lẽ trôi qua bên ngoài nhà trọ bằng tiếng thở dài nhẹ nhè buồn tênh của em gái phòng bên khi thơ thẩn đếm một vài bông bằng lăng lẻ tẻ nở muộn tim tím tinh khôi. Lẽ tuần hoàn đất trời khiến thế nhân già thêm đôi chút, để hiện tại hóa thành hư vô, vậy mà tấm lòng của em gái vẫn nhớ nhớ thương thương những ngày yên lặng cho kiếp mình được những ngày tháng bình an. Mưa thu đô thành kỳ lạ, lúc dạt dào nước từ muôn miền thăm thẳm xa xôi, luồn đi lòng vòng trong lòng phố thị, khi lắc rắc vài giọt đủ để sẻ chia ngọt bùi cùng thế tục, đủ ướt một bên mặt đường, hanh hanh hoang hoải phía bờ kia cho kẻ giang hồ thèm được trốn mình trong những tàn cây dầu vĩ đại, ẩn mình bình yên nghe tiếng mưa chiều dội vang biết bao nghĩa tào khang mà người xưa đành bỏ lại. Khách đan tròn ngón tay nắm níu mùa thu, cho kỷ niệm ngọt ngào thành thực tại êm đềm, mộng cõi hư vô sẽ về theo giọt nước lạnh lùng nhưng ấm áp những ngày hò hẹn tháng tám mùa qua. Thoảng hư không lại hóa thành giây khắc thanh bình. Bản năng đợi chờ bỗng khao khát được lùng kiếm tình yêu, chăm bẵm vạch tìm nhớ thương trong màn mưa phố thị. Ta rất bình yên ngửa mặt thách thức cơn mưa chiều bàng bạc, nhưng chạnh lòng chợt nhớ người xa ta biền biệt đã mấy độ thu rồi. Ta thôi đành bình yên chờ trong nỗi nhớ chẳng bình yên. Thu Cần Thơ chưa bao giờ lồ lộ nét sầu tư. Lúc mùa thu sắp tới tuổi già nua úa tàn là khi mùa đông chớm dậy thì bên ngõ. Hoa cúc dại dọc bờ lối xưa vẫn bình yên nở vội những nụ hàm tiếu li ti. Dẫu vô duyên giữa chốn phù hoa đô hội mà những cụ già khi nhớ khi quên cứ chực chờ nhổ bỏ chúng đi như một loài cỏ lạ, nhưng loài hoa này vẫn ngây thơ chứng thực một mùa đã đến và đang đi, là nhân chứng cho vòng quay của cuộc ta bà náo nhiệt. Ta ơ hờ ngửa mặt nhấp từng giọt ráng vàng lành lạnh chiều hôm, se lòng đợi mùa gió chướng về bên kia sông Hậu, cầu mong mùa nước rong đừng dữ dằn ngập lụt phố xa, cho người đi nhè nhẹ và nâng niu từng phút giây mắt cười trong mắt, tay trong tay chở che gian khổ trong suốt chặng đường dài. Chứ bây giờ kỷ niệm ngày xưa cùng đi trên chiếc xe đạp cà rịch cà tang đã như thể đợt triều cường miền hạ lưu rồi cũng trôi về hướng đông xa lắc. Người đành quên ta, ta nỡ quên người, nên cuộc đời đầy ắp nỗi bơ vơ. Thu Cần Thơ thơm ngọt nao lòng kẻ lữ thứ đang dừng bước chân phiêu bồng. Mùi bông xoài đầu mùa trong sân bảo tàng e thẹn trổ vàng ua úa giữa lòng phố thị, ngọt nồng nàn lúc ban hôm mà sớm mai chợt tan chợt biến giữa cái náo nhiệt trần gian làm cho ai nhớ xuyến xao tuổi ấu thơ từ miệt vườn miệt ruộng. Có một dòng kinh nho nhỏ đi từ vàm sông Hậu bỗng một hôm ngon ngọt mùi đường thùng, say nồng nàn mùi hương rượu gạo làm cho ta say cả lối về thành đô. Những cánh đồng Ba Láng ngai ngái mùi khói đốt đồng, mùi rơm rạ âm ẩm mốc meo nằm xẹp mình trong dòng nước lũ còn ứ xanh rêu bên trong bờ đập, lẩn khuất bóng hình ai chống xuồng hái bông điên điển mùa nước lên, nổi trôi một kiếp phiêu bồng muôn một. Đâu đâu Cần Thơ cũng có mùi thoang thoảng, khi thì mùi thơm của bông dầu đường 3/2 nưng nức lòng u uẩn tình duyên lúc chiều hôm nắng nhạt, khi thì mùi bắp rang pha quyện hương cà phê ở các quán cóc lề đường cứ như ngây như dại đôi bóng tao nhân hòa quyện mà câu thơ không sao thành vần thành điệu. Ta hầu như chẳng nhận ra tiếng thu cho đến khi nghe gió chướng thổi rạt rào sông cái lớn, thấy se se lạnh cuối tháng mười cho những khách đi đường chợt thấy đôi mắt cay cay. Khi người ta có thể cảm nhận đang sở hữu một mùa, ấy là lúc họ đang mất đi một mùa đã trôi vào vô thức. Khi ta có thể cảm nhận một mùa, rất có khi bên ta không còn có ai ngồi nói chuyện thu phong, không còn nghe tiếng thở dài đồng cảm. Mùa thu không có trái tim để ngồi chia sẻ, chỉ hiện mình thành dạt nắng vàng vô tư liếm hết khoảng sân trải đầy bông thiên lý, vô tình cho loài người biết được rằng một ngày sắp qua đi. Bông không thơm lúc buổi chiều nắng nhạt mà lại đượm một mùi chia ly biền biệt như tên bông thiên lý dặm trường thuở ban khuya. Mùa thu sẽ ra đi. Và chỉ có những ai không ngủ, miên man đi đi lại lại quanh sân nhà để xua đuổi những kỷ niệm xưa ra khỏi giấc mộng chập chờn mới có thể trầm mình cảm nhận hết hương thơm ngọt ngào nhưng nhoi nhói lòng với lẽ đời được mất sân si. Ấy là khi ta chợt giật mình biết mùa thu đã len vào giấc ngủ. Thu Cần Thơ không nhuốm đầy màu sắc mùa thu vì xứ đồng bằng này chưa bao giờ có bốn mùa rõ rệt mà quanh năm chỉ hai mùa mưa nắng. Hiếm khi ta nhận ra những mùa đang hàm tiếu, liêu xiêu đi vào từng góc nhỏ trong lòng đô thị, nhưng cũng lắm khi ta một mình nhận thấy mùa đang lướt qua khi kỷ niệm quay về đau quay quắt con tim. Ta nhiều lần hỏi những mùa đang đến,.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> liệu thu xưa đã đi mất thật rồi sao. Chắc gì thu còn nhớ bước phong trần bao lần đợi chờ ước mơ quay trở lại, nhớ những ngày qua, thành kỷ niệm đong đầy một vốc mưa xa. Có một sớm mai ta thức dậy và nghe gió bấc non thổi xạc xào lành lạnh ngoài hiên mới biết mùa thu đã về phương nam. Mùa thu lại tiếp tục bước tang bồng đi về muôn miền xa lắc rồi lại sẽ trở về trong một ngày năm sau. Nhưng chắc có người trông chờ một mùa thu đến, bất diệt và nằm chết ơ hờ bên cửa cho những khắc giây giao mùa đừng bao giờ chia biệt, đừng bao giờ để một buổi mai lành lạnh ngồi co ro cạnh nhau và chợt thấy tóc ai điểm vài sợi bạc, mắt thêm buồn một vài vết chân chim mà đôi tấm lòng đã chớm nghĩ đến chia xa.. Kết Thúc (END) Tự Sự Của Con Chim Câu Gãy Cánh Tác Giả: Dương Thùy Font Size: Dương. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Lớp 3. Vào năm 198 mấy, tôi biết về những giao xúc yêu đương của người lớn. Phòng ngủ của mẹ tôi không có cửa vì phòng ngủ của những người lớn lúc bấy giờ đều như thế, không có cửa. Một tấm rèm nhựa màu xanh lấp lánh như phòng ngủ của mẹ đã thuộc hạng sang. Và sau những khoảng trống song song của những chuỗi màu xanh ấy, tôi thấy mẹ và T ôm nhau, quấn riết và áp môi vào nhau. Tôi đã hất tung những chuỗi màu xanh, cái âm thanh lạc lõng ấy, đến bây giờ vẫn còn là sự ám ảnh. Tôi trào lên sự giận dữ đau khổ, tôi biết căm ghét, hận thù từ đó, tôi căm ghét T, căm ghét những bức mành màu xanh lấp lánh. Tôi oà khóc, đứa trẻ bị phản bội chỉ có thể chống cự bằng nước mắt. Tôi khóc rũ rượi trên cái giường một con con của bà ngoại. Em tôi, đứa bé lớp 1 không hiểu chuyện gì, cũng oà khóc theo. Mẹ cũng khóc, nước mắt đắng. T bỏ đi, sau khi đốt một điếu thuốc có phần ăn năn. Bố! Ở nơi cách xa 430 km có biết là cả 3 mẹ con đang khóc? Mẹ luôn tay vỗ vỗ vào lưng tôi, nghẹn ngào "đừng nói cho bố con biết, bố sẽ đánh mẹ mất thôi" và "lớn lên rồi con sẽ hiểu". Tôi không rõ, mẹ không xin lỗi. Nếu là tôi phạm lỗi, câu đầu tiên mà tôi phải nói là "con xin lỗi bố mẹ, con hứa lần sau…" nhưng mẹ thì không. Mẹ không bao giờ mắc lỗi cả, người lớn luôn đúng và không bao giờ nói câu xin lỗi với trẻ con. Người lớn cũng thế, sợ bị đánh đòn như trẻ con và những điều thắc mắc luôn được trả lời là "lớn lên sẽ hiểu". Tôi không rõ đến lúc nào tôi sẽ hiểu hành động hôm nay của mẹ và T, tôi biết đó là một cái gì đó thật ghê tởm, tôi thương bố. Mẹ chăm sóc tôi kỹ hơn. Tôi biết. Mỗi khi có lỗi, tôi đều cố gắng bù lại bằng những hành động tốt. Mẹ nấu cho chị em tôi món chè đậu xanh loãng thơm mùi dầu chuối và mua những ổ mì to bự rỗng ruột màu nâu. Tôi cũng dần cảm thấy ổn hơn. T không xuất hiện ở nhà tôi nữa hoặc là có xuất hiện khi tôi đi vắng thì tôi không rõ. Thi thoảng tôi vẫn gặp T. Ở cái thị xã bé tẹo này người ta không thể lẩn trốn nhau lâu dài được. Mỗi khi không thể tránh hoặc tảng lờ, tôi đành phải nhìn T và không bao giờ chào. Những người lớn nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi là một đứa trẻ ngoan. Một đứa trẻ ngoan luôn phải chào hỏi lễ phép và vâng dạ với người lớn. Nhưng tôi không thể chào một kẻ mà tôi căm ghét, một người lớn mà tâm hồn rỗng như ổ mì màu nâu mẹ thường mua. Tôi vì vậy đã là một đứa trẻ hư rồi. Nhưng hắn, T vẫn là một người lớn đàng hoàng. Mùa hè lớp 3. Bố tôi trở về, mập hơn và thấp hơn trước một tẹo. Bố ôm cả hai chị em vào lòng. Đứa em cứ cọ cọ vào đám râu lởm chởm ở cằm của bố, còn tôi thì nhìn đăm đắm vào gương mặt bố. Mẹ ở bên, nín lặng căng thẳng. Tôi không biết phải bắt đầu từ đâu. Tôi oà khóc. Bố vỗ về, cười. Bố không biết được, tôi là một tội đồ, một kẻ đồng loã. Tôi không thể nói. Trong những bộ phim trên tivi mỗi buổi tối mà tôi thường chỉ xem được một phần hai, khi bố mẹ giận nhau thì một đứa con sẽ theo bố và đứa còn lại theo mẹ. Cả gia đình cùng khóc. Tôi không muốn. Dù không còn yêu mẹ như trước nữa nhưng tôi không muốn xa mẹ và đặc biệt là em của tôi. Hai chị em mang khoe với bố tấm bằng khen có in dấu đỏ hình tròn. Cả hai chúng tôi như biết bao những đứa trẻ khác luôn phải cố làm hết chồng bài tập trong sách giáo khoa và sách tham khảo, học ra rả cho kì thuộc những trang sách để được điểm 9 và 10 và được bằng khen có dấu hình tròn màu đỏ. Có được nó, mẹ sẽ mua cho quần áo mới và bố sẽ cho về quê nội chơi. Còn đám bài kiểm tra thì sẽ cho vào lò đun bếp và chồng sách giáo khoa thì cho các em ở quê, chúng lại sẽ làm những bài kiểm tra và đọc ra rả những trang sách như chị em tôi như một trò chơi nhàm chán. Lớp 5. Một học sinh giỏi văn là tôi bị điểm 6 môn văn. Tôi đã viết những câu đại loại như thế.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> này: “Những đám mây trôi lững lờ trên bầu trời ảm đạm”. Cô giáo có cặp tóc màu trắng mất 3 hạt nhựa lấp lánh nói với tôi rằng không nên đặt những câu văn buồn thảm như thế, những từ ngữ đó không phù hợp với học sinh lớp 5. Một câu đúng phải là "những đám mây trôi chậm trên bầu trời trong xanh" hay là "những đám mây trắng xốp như bông đang đùa chơi trên bầu trời xanh ngắt", đại loại thế. Đúng vậy. Con mèo phải luôn có đôi mắt xanh như hai viên bi hay xanh như đá cẩm thạch dù tôi chẳng biết đá cẩm thạch là gì và xem ra mắt mèo cũng chẳng giống hai viên bi lắm. Tả cây mít thì phải thân màu gì, có to bằng vòng tay người ôm không, lá của nó mặt trước và mặt sau như thế nào, mùa đông có rụng lá và mùa hè có quả không? Vân vân và vân vân. Cô giáo luôn có một chồng sách trong đầu và chỉ cần tuôn ra cho chúng tôi chép vào vở, chúng tôi hăm hở ghi lại cố nhớ và chép lại trong bài kiểm tra đúng y xì như thế. Tôi đã sai vì tôi không theo ý của cô giáo. Mẹ tôi cũng bảo tôi sai, văn của trẻ con phải trong sáng. Tôi lúc đó cũng nghĩ là mình sai rồi vì cô giáo và mẹ luôn luôn đúng nhưng mà thực sự là trời lúc đó không xanh… Tôi đã ghen tị biết bao với con Ki, con chó cưng của chị em tôi. Nó luôn luôn thảnh thơi và chẳng phải làm bài tập. Còn tôi, thật là bận rộn. Sáng đi học, chiều chỉ được chơi đúng hai tiếng và phải làm bài tập. Tối xem bài trước, soạn sách vở và ngủ gục khi bộ phim mới chiếu có một nửa. Tôi chỉ thích đúng ngày thứ 5. Thứ 5 hàng tuần tôi phải học cả ngày. Buổi sáng học chính khoá và từ 2 giờ chiều tôi học ca thứ 2, bồi dưỡng văn. Tôi rất thích những giờ học này vì chẳng phải học theo một quyển sách giáo khoa nào cả. Và đặc biệt là thầy P thầy giáo già có cặp kính quấn dây bên trái luôn cho chúng tôi thoải mái viết, không theo một khuôn mẫu nào cả. Và chỉ cần trong bài văn của chúng tôi có một hai câu hay, ý tưởng lạ là nghiễm nhiên được đọc trước lớp, được điểm 10. Tôi rất tự hào vì là một trong những đứa được điểm 10 nhiều nhất. Sau buổi học cuối cùng, thầy P bảo tôi: - Em cần một tuổi thơ đẹp hơn. - Thưa thầy… - Văn của em già trước tuổi, nhưng không phải lỗi của em. Ngày hôm đó, một ngày mưa buồn. Tôi nhớ lại lớp 3 của tôi. Thầy nói đúng nhưng mà chưa đủ, tôi không phải là một đứa trẻ ngây thơ. Tôi là một đứa trẻ yêu trường học. Không phải vì quá say mê với những môn học mà vì trường học là một môi trường khác. Ở đó, tôi có bạn bè, những trò chơi, những bài kiểm tra khiến tôi có lúc như sống khác. Ở nhà tôi luôn có cảm giác nghẹt thở. Tôi đã từ lâu không còn sôi nổi khi nói chuyện với mẹ nữa, tôi đã từ lâu không tâm sự những buồn vui với mẹ nữa, tôi, đã từ lâu xem nhà của mình là một nơi đau khổ. Trường học cho tôi một nơi giải thoát. Nhưng cũng có lúc tôi căm ghét trường học. Đó là khoảng thời gian học cấp 2. Vào mùa nắng, trời nóng bức. Tôi chỉ thèm được ăn một que kem mát lạnh hay uống nước mát nhưng trường cấm chúng tôi đến những hàng quà trước cổng vì lý do mất vệ sinh. Mỗi sáng thứ hai thầy phụ trách đều dóng dả ở micro là hàng quà rất mất vệ sinh, ăn vào đau bụng. Và nếu như chúng tôi mua quà ở đấy thì cờ đỏ sẽ ghi tên và nêu vào sáng thứ hai. Mẹ tôi cũng cấm. Mẹ chuẩn bị cho chị em tôi mỗi đứa một biđông đựng nước màu xanh nắp trắng. Tôi phải đeo cặp lên vai và xách kè kè bịch nước mỗi buổi học. Nó thường vơi đi một phần ba khi tôi đến trường và sau giờ ra chơi thì hết nhẵn. Suốt giờ còn lại, có khát cũng chịu. Cảm giác của tôi thời cấp 3 là triền miên khát, khát cháy cổ không làm gì được. Có mấy đứa bạn của tôi lén ra bờ rào mua nước. Ở đó có một lỗ hổng và mấy bà bán hàng thường chìa bịch nước ra bán, có cả mía lạnh và sữa chua. Nhưng tôi không có đồng quà nào để mua cả. Mẹ tôi luôn sợ tôi ăn hàng ăn quán sẽ bị đau bụng. Tôi lúc đó giận mẹ tôi ghê gớm. Trẻ con có lúc nào bị đau bụng khi ăn kem đâu, chỉ có người lớn là giàu trí tưởng tượng. Nhưng nếu chỉ là những cơn khát triền miên thì tôi đã không căm ghét trường học nhiều như thế. Tôi căm ghét tận độ vì một lý do khác, là nhà vệ sinh. Mỗi buổi học tôi luôn phải đi vệ sinh ít nhất một lần. Đó là một cực hình mà đến bây giờ khi nghĩ lại tôi vẫn thấy sởn cả gai ốc. Nhà vệ sinh bé tẹo và không có nước. Mỗi khi chuẩn bị bước vào đó tôi luôn phải hít căng thu vào 2 lá phổi luồng không khí trong lành và bước nhưng bước hùng dũng mau lẹ vào cái căn phòng ẩm thấp tối tăm ấy. Tôi phải cố bước những bước khéo léo để không dẫm lên những đám nước nhầy nhụa thối bẩn trên nền xi măng và cố hoàn tất thật nhanh để chạy ào ra ngoài để hít căng luồng không khí trong lành. Mỗi ngày đều như thế, tôi không làm sao thoát ra khỏi cái vòng đau khổ ấy được. Tôi sợ mỗi buổi đến trường, cái nhà vệ sinh màu vàng ẩm thấp ấy. Giờ mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn thấy mình can.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> đảm, một đứa trẻ can đảm như bao đứa trẻ khác lúc bấy giờ. Tôi ngưỡng mộ chị P và chị Q. Chị P hơn tôi 5 tuổi và chị Q hơn tôi 3 tuổi. Cả hai chị đều xinh xắn, ngoan ngoãn, học giỏi và có bố đi nước ngoài. Bà ngoại tôi bảo đi nước ngoài thì giàu lắm. Mà đúng là 2 chị ấy có 2 con búp bê to gần bằng người, tóc màu nâu, đôi mắt có thể nhắm mở, như vậy thì đúng là giàu nhất trong xóm rồi. Chúng tôi chẳng ai có những con búp bê đẹp như thế. Mỗi tối thứ 7, chị em tôi thường sang nhà chị P và Q chơi. Vì tối đó chúng tôi được nghỉ, không phải làm bài. Tivi thì ngoại xem cải lương. Chúng tôi chẳng được xem phim gì cả, mà ở nhà cũng sợ cái tiếng ca cải lương mùi mẫn ấy. 4 chị em chúng tôi thường bày đủ các trò, cút bắt, đánh chuyền cả thi hát và diễn kịch cũng có. Nhưng rồi cũng nhanh chán. Chị P bày cho lũ chúng tôi một trò mới. Lần đầu tiên, em tôi không được tham gia, chị P bảo nó bé quá, lại hay mách lẻo nên nó phải đứng ở ngoài, canh phòng. Nhìn nó mếu mếu tôi cũng thương nhưng mà sức hấp dẫn của trò chơi mới khiến tôi quên ngay. Tôi theo chị P và Q ra sau nhà, một khoảng sân tối. Sau một hồi căn vặn tôi là không được nói với ai, 2 chị mới cho tôi tham gia trò chơi mới này. Trò chơi có tên là vợ chồng. Tôi không rõ. Chị P và Q chơi trước, hai người ôm riết lấy nhau, thì thào những câu nói không rõ lời, tôi nghe cũng buồn cười nhưng không dám cười. Chị P bắt đầu sờ nắn khắp người chị Q và lẩm nhẩm khen ngợi, chị Q thì buồn buồn bắt đầu cười rúc rích, tôi cũng thấy buồn cười, nhưng không dám. Đến lượt mình, tôi cũng sờ nắn khắp người chị P. Tôi nhận ra sự khác biệt mà lâu nay không biết, ngực chị P to hơn ngực tôi, hai vú cưng cứng. Chị P cũng làm tương tự, tôi thấy ghê ghê. Chị áp môi vào môi tôi, một cảm giác mới lạ nhưng buồn nôn. Trò chơi kết thúc, chúng tôi phải thề thốt giao hẹn không được nói cho ai cả. Tôi thấy rỗng. Chị Q buột miệng nói cho tôi rằng một lần hai chị ấy thấy mẹ của hai chị với một ông H nào đó làm chuyện ấy, nên học theo, cũng thú lắm. Tôi từ ngạc nhiên đến chua chát. Ra là thế, giống nhau cả, tội nghiệp bố. Tôi lặng lẽ ra về. Em tôi cứ hỏi mãi là trò chơi gì thế, thú không? Tôi chỉ muốn khóc. Nhưng mà không. Thầy một lần nữa lại đúng. Tôi là một đứa trẻ không có tuổi thơ, tôi không thể trong sáng. Giá mà tôi khóc được. Em tôi là một con chim nhỏ ngây thơ. Em đừng biết thì hơn.. Kết Thúc (END) Biên Giới Font Size:. Tác Giả: Lê Anh Dũng. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Chiếc phi cơ từ từ rời bãi đậu và chầm chậm chạy ra đường băng chính để chuẩn bị cất cánh. Tiếng động cơ nhè nhẹ, tiếng người nữ tiếp viên thông báo những điều cần thiết về trường hợp cấp cứu, người nam tiếp viên làm mẫu những động tác để hành khách có thể thực hành lúc cấp bách, tiếng lách tách của những khóa nịt lưng... Lương cúi người ngắm chiếc máy điện thoại trước mặt ẩn sau lưng hàng ghế trước, mỉm cười bâng quơ. Chàng vói tay lấy tập san quảng cáo trong chiếc ngăn phía dưới điện thoại. Anh lật nhanh và đang dán mắt vào trang báo với hình ảnh quần đảo Hạ Uy di... chưa kịp đọc thì Trâm thỏ thẻ bên tai: - Kìa mình! Máy bay vừa rời khỏi phi trường. Sao em thấy có cái gì làm em hồi hộp quá! Có điềm chẳng lành chăng? Lương quay qua nhìn Trâm ngạc nhiên: - Em thấy thế nào? Có lẽ vì máy bay qua mây lắc lư một tí làm cho em sợ! Em thì hay đoán già đoán non... Chưa bỏ được những gì khủng khiếp, kinh hoàng ở quê nhà và trên tàu vượt biên hay sao? Bao nhiêu năm rồi mà em vẫn còn bị ám ảnh... Trâm nghiêng đầu trên vai chồng, nhắm mắt: - Không phải thế đâu anh! Em cảm nhận hình như có cái gì đó không ổn. Giác quan thứ sáu của em rất nhạy! Anh còn nhớ năm 1992, lúc chúng mình đang còn học ở Berkeley; hôm đó anh lái xe về rủ em đi ăn sáng, em từ chối. Anh giận hỏi tại sao. Em giải thích là hồi tối em nằm mơ thấy anh bị tai nạn... Anh không nghe, lái xe đi cùng mấy người bạn. Quả thật một giờ sau anh tông vào xe người ta. Lương chưa kịp nói gì với vợ thì anh thấy mấy hành khách ngồi ghế trước đồng loạt đứng dậy. Họ toàn là những người trẻ, vẻ mặt khác thường. Lúc ấy máy bay vừa rời phi đạo chừng năm phút. Con tàu vừa vòng qua thành phố Boston đầy ánh sáng ban mai... Có tiếng hô lớn bằng tiếng Anh, giọng Trung Đông phía sau:.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> - Tất cả ngồi yên tại chỗ, các bạn sẽ được an toàn trở về phi trường, bằng không chúng tôi sẽ cho bom nổ...! - Anh ơi! Đúng là phi cơ bị cướp rồi! Trời ơi, em biết trước mà! Trời ơi! Trâm hét lên bên tai Lương, chàng không biết làm gì hơn, há hốc miệng nhìn quang cảnh rùng rợn đang xảy ra trước mắt. Thân hình anh hình như không còn cử động được nữa. Một luồng cảm giác lạnh ngắt chạy rần dọc theo sống lưng, thần trí và phản ứng trong người đều ngưng hết mọi hoạt động. Lương ngồi chết trân nhìn. Tất cả hành khách đều la to và thất thanh trong tiếng khóc, tiếng cầu kinh... Năm tên không tặc cầm con dao nhỏ khống chế hết nhân viên phi hành và mọi người. Chiếc phi cơ lảo đảo, nghiêng qua một chút khi một tên không tặc cắt cổ được một nhân viên phi hành để vào phòng lái. Lương nghe tiếng thét thất thanh từ trong phòng lái. Chiếc máy bay như bị rơi xuống, nghiêng qua một bên. Có tiếng khóc của cô tiếp viên phi hành. Mấy tên không tặc ra ngoài phòng lái hét lên bằng tiếng Trung Đông với nhau... Âm thanh hỗn loạn và những tiếng thét thất thanh kêu cứu vô vọng, tiếng động cơ như to hơn. Chiếc phi cơ nghiêng hẳn qua bên trái. Trong phòng lái có tiếng hét và sau đó chiếc phi cơ đâm nhào xuống giống như rơi vào khoảng không gian vô cùng sâu thẳm. Tất cả mọi người như bị rời khỏi mặt ghế, chiếc nịt bụng thắt chặt lại níu kéo thân hình từng hành khách chới với, hỗn loạn. Xách tay, đồ đạt bay tứ tung trong lúc chiếc máy bay cứ thế chao đảo và lao thẳng... Người ta không còn biết mình đang ở đâu, chỉ còn nghe tiếng la và tiếng hét... Trong lúc đó bọn cướp phi cơ một tay bám vào thành ghế, tay kia cầm dao hét lên những tiếng Á Rập nghe vô cùng man rợ! Phi cơ cứ lao đi... và cuối cùng người ta bị tung lên về phía trước cùng với tiếng nổ kinh khủng. Phi cơ hình như đang chui vào địa ngục của lửa và tiếng xào xạc man man trong thế giới hư vô... Lương cảm thấy mình bị nóng lên, bị tung lên, bị ngất đi trong cảm giác lâng lâng sinh tử. Anh cố mở mắt tìm vợ, không thấy Trâm đâu nữa, anh quờ quạng tìm kiếm. Hai mắt như bị nhắm nghiền không sao mở ra và tay chân như nhẹ tưng trong không gian mịt mù khói và tiếng nổ. Mọi vật đếu mơ hồ không thể nào định được anh đang ngồi hay đứng, đang nằm hay quì gối. Lương cố mở mắt nhìn, anh đưa tay dụi mắt và cuối cùng thấy vợ anh đang bay trong không gian, những hành khách cùng đều đang bay. Anh lạ lùng nhìn lại mình đang bay trong khói mù, trong tiếng nổ và trong tiếng la thất thanh kinh hoàng của những người đang chạy dưới mặt đất. Anh ngạc nhiên vì dễ dàng bay đến cạnh vợ mình, trong lúc Trâm cũng vừa nhìn anh hãi hùng bay vòng theo cột khói và lửa. Trâm bay đến nắm lấy tay anh, hai người ôm nhau và cùng la lên: - Anh ơi! Hình như mình đã chết rồi! - Em ơi! Mình bay được có nghĩa là mình đã chết phải không? Phải không? Rồi họ ôm lấy nhau khóc trong không gian hỗn độn, trong bầu trời đầy khói mịt mù cùng tiếng nổ. Họ nhìn hai tòa nhà chọc trời đang bốc cháy đầy khói và đang từ từ sụm xuống giống như hai thân xác người bị đốn ngã chìm xuống đại dương, từ từ và thong thả với khói và lửa... Phía bên kia bờ vịnh, Tượng Nữ Thần Tự Do vẫn bình thản giơ cao ngọn đuốc thắp sáng lòng người... - Anh ơi! Đây là hai tòa nhà chọc trời trong thành phố New York bị cháy và bị sập. Nhưng tại sao chúng ta mới lên phi cơ, rời Boston chưa đầy mấy mươi phút mà lại bay trên không gian như thế nầy? Anh sờ em thử xem... Ôi! Em có cảm giác là em không còn ôm anh được trong vòng tay, sao anh mềm như không khí, sao anh không thể ôm em được như trước phải không? Trời ơi! Có thể chúng mình đã chết thật rồi... Trời ơi! Lương cố bình tĩnh và đang tìm lời trấn an vợ. Chàng khiếp đảm không dám nói ra những ý nghĩ của mình. Hình như Trâm nói đúng, có thể chiếc phi cơ đã đâm vào tòa nhà chọc trời và thân xác của mọi người, của chàng và Trâm đã cháy thành tro. Giờ đây chàng và Trâm chỉ còn là hai linh hồn không thân xác đang bay... đang bay... Ôi! Như thế là thật ư! Như thế là vợ chồng chàng không còn trên cỏi đời nầy nữa ư? Làm thế nào đây! Lương nhìn xuống phía dưới đất, người ta đang, kẻ chạy ra, người chạy vào la lên những tiếng thất thanh, tìm nhau và gọi nhau! Hàng đoàn xe chữa lửa, hàng đoàn người mặc đồ cứu hỏa đang tất bậc gọi nhau cứu cấp... Chàng nắm lấy tay Trâm: - Chúng ta chưa biết như thế nào, Em hãy bình tĩnh! Mình thử xuống đó xem sao! Trâm vừa khóc vừa làm theo lời chồng, nhưng hình như có cái gì đó không ổn, Lương và Trâm nhìn nhau cùng khóc. Họ đã ý thức được rằng họ đã chết, thân xác họ đã tiêu thành tro bụi với chiếc phi cơ chui vào tòa cao ốc. Bàn tay hai người cầm lấy nhau mà vẫn thấy được không gian phía sau bàn tay, họ nhìn nhau mà có thể nhìn xuyên suốt phía sau lưng họ những gì đang xảy ra. Thế có nghĩa là họ không còn có thân xác bình thường. Thế có nghĩa là họ chỉ còn là những linh hồn đang chơi vơi trong không khí... Bằng chứng có thể để họ tin chắc mình đã rời xa sự.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> sống là họ có thể bay được. Họ có thể dễ dàng di chuyễn từ chỗ này đến chỗ khác một cách thoải mái bằng một cử chỉ nhẹ. Nhún vai và khẽ nhảy một phát là thân hình họ có thể bay cao, bay ngang, bay sà sà mặt đất. Có một điều làm cho đôi vợ chồng Lương càng tủi thân là những người dân bình thường đang tất bật trên đường phố New York đều chẳng có ai thấy họ, mặc dù họ đứng chặn đường, cố hét vào tai, cố ra dấu cho người ta là họ đang đứng trước mặt... Trâm đi bên chồng mà lòng trăm nổi nhớ con, nhớ nhà. Phải chi không có vụ cướp máy bay của những thằng khốn nạn thì giờ nầy nàng đang ôm thằng Lân vào lòng, tặng cho nó món quà vừa mua ở Boston hôm chúa nhật. Ôi! con ơi! mẹ sẽ chẳng bao giờ sờ được con nữa, nâng niu con được nữa!... Căn nhà của vợ chồng nàng mới vừa chắc chiu mua được cũng sẽ chẳng bao giờ đón nàng cùng Lương ấp ủ nhau từ phòng khách đến phòng ngủ đầy giấc mơ hạnh phúc...! Nghĩ tới đó nàng khóc bên cạnh chồng. Lương cũng đang nhìn nàng với hai dòng lệ! Lương và Trâm đi trên con đường đầy những gạch đá, kim khí, tường vôi đổ và bụi khói ngất trời. Đàng xa là một nhóm người đang tụ tập vừa xỉa xói vừa la hét vào mười tên Trung Đông cướp phi cơ. Vợ chồng Lương chen vào giữa để nhìn rõ bọn sát nhân đang bị hàng ngàn người cầm đủ thứ cây gỗ hay xà beng trên tay, vừa đánh vừa chửi mắng... Mười tên không tặc vừa hét, đánh trả bằng những con dao từng cầm theo trên phi cơ. Một tên nói bằn tiếng Anh: - Chúng tao đưa các người đến gặp Thánh Alad. Tiêu diệt được Đế Quốc Mỹ là chúng tao lên thiên đường ngồi chung với các Thánh! Tụi tao đã làm tròn nhiệm vụ do Thủ Lãnh Osama Bin Laden huấn luyện và kêu gọi. Những người chết trong hai chiếc phi cơ và hàng ngàn người tử vong trong hai tòa nhà cao ốc sẽ được Thánh Alad của chúng tao làm phép cho lên Thiên Đàng...! Chúng tao đang chờ Thánh Alad đến rước đây! Đáp lại những lời đầy cuồng tín và độc ác là những trận tấn công của nhóm người đủ mọi sắc tộc vào mười tên ác ôn. Hàng ngàn người đã hét to và cùng lúc đè mười tên không tặc ra xẻo từng miếng thịt, lóc từng gân máu để thỏa mãn nỗi đớn đau. Họ đã chết dưới bàn tay ác quỉ, họ đã vô cùng phẫn uất vì giờ nầy họ bỗng nhiên trở thành người không thân xác, làm ma oan. Mười tên cướp phi cơ sẽ chẳng bao giờ thấy được Thánh Alad đến đón vì chúng đã bị xé thành nhiều mảnh, tuy chúng cũng là những linh hồn đã thành cát bụi phú du, vì cuồng tín nên đã nghe theo bọn đầu cơ chính trị đội lớp tôn giáo! Trâm và Lương cũng tìm cho mình mỗi người một cục đá, đến gần mấy tên không tặc, nhắm thẳng vào mặt chúng mà đấm, mà đá, mà khóc, mà than... Nhưng hỡi ơi! Chúng cũng đã thành ma như mình, thân xác của chúng cũng đã cháy thành tro bụi! Chúng đang đền tội ngay khi những người chết oan trong hai chiếc phi cơ và những nạn nhân trong hai tòa cao ốc lôi chúng ra xử án. Trâm vừa khóc vừa nói với chồng: - Mình ơi! Anh ơi! Chúng mình đã phải trốn khỏi quê hương để lánh bọn người khủng bố ở quê nhà; tưởng rằng đã thoát gông cùm xiềng xích, tìm được bên bờ hạnh phúc tự do. Nào ngờ cơ sự thế nầy... Anh ơi! Con của em, thằng Lân đang ở nhà với ngoại. Trời ơi, con tôi! Anh ơi! Hãy đưa em về bằng bất cứ giá nào... Lương nhìn vợ đầy uất ức đau thương và phẫn hận, thương nàng và cũng thương mình. Với tuổi ba mươi, hai vợ chồng đang đà thành công trên đường nghề nghiệp. Hai người cùng là Bác Sĩ, làm việc cho cho một nhà thương lớn ở Thung Lũng Hoa Vàng. Giấc mơ của hai người tưởng chừng như đang đơm hoa kết trái... Thế mà giờ đây họ trở thành người thiên cổ, linh hồn họ vất vưởng nương bóng cây, lướt nhẹ trên mây trên gió! Nghĩ đến đó Lương cũng khóc òa theo vợ. Chàng lặng lẽ cầm tay nàng rời khỏi đám oan hồn. Hàng ngàn oan hồn đang la hét, khóc lóc, van xin, cầu kinh... sau khi xé xác mười tên không tặc! Vừa thoát khỏi đám đông oan hồn, Lương và Trâm gặp phải một đám nhân viên chữa lửa và cảnh sát. Họ cũng đã trở thành ma, thân xác họ đã vùi chôn trong đống gạch và kim loại vụn vỡ của hai tòa cao ốc World Trade Center. Họ đang đứng vây quanh vị chỉ huy, vị chỉ huy cũng đã chết theo họ trong lúc đang làm nhiệm vụ cứu người... Họ đứng bất động như để cầu nguyện, như đang lắng nghe tiếng cầu kinh của những người còn sống dành cho họ! Họ cũng cố gắng gạt nước mắt khi nhìn bên kia đường phố, vợ con và thân nhân đang réo gọi tên của họ trong thất thanh đau thương vô vọng! Ôi! Có bút giấy nào tả được quang cảnh tiêu điều đầy máu, đầy thảm cảnh và nước mắt giữa những linh hồn người đã chết và những thân nhân, bạn bè, vợ con đang tìm gọi tên nhau! Trên đường trở về nhà, Lương và Trâm đã chứng kiến không biết bao nhiêu là linh hồn bị chôn sống trong bốn chiếc phi cơ bị cướp và những bóng ma chết ngạt, chết vì bị hỏa thiêu trong hai tòa cao ốc cũng như ở Ngũ Giác Đài. Chào nhau, hỏi thăm nhau, khóc với nhau, cầu nguyện cho.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> linh hồn nhau... Khuyên nhau an phận, chờ đợi và hy vọng Thượng Đế sẽ cho họ được đầu thai kiếp khác hay lên Thiên Đàng! Họ cũng hẹn cùng nhau phò trợ cho đất nước Hoa Kỳ sớm trả thù cho họ và cho thế giới thấy được hiểm họa của nạn khủng bố quốc tế là kinh khủng như thế nào! Họ lắng tai nghe những lời cầu kinh của người còn sống, đủ mọi thứ tiếng. Nhưng Lương và Trâm nghe rõ nhất là những tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông chùa từ các cộng đồng người Việt Nam tị nạn Cộng Sản đang hướng về họ. Họ cũng chứng kiến cảnh người Việt Nam sắp hàng hiến máu, hiến tiền của cho Hội Hồng Thập Tự Hòa Kỳ... Cả nước Mỹ đã bừng tỉnh, để phẫn uất, để nắm tay nhau, để hát bài quốc ca và hướng về phía trước! Những người còn sống đã hứa sẽ tìm ra thủ phạm và sẽ trả thù! Lương và Trâm đến Tòa Bạch Ốc, gặp Tổng Thống George W. Bush và những người trong nội các để cho họ biết tin tức ai là thủ phạm. Chính bọn khủng bố, khi bị những linh hồn chết oan lôi ra tùng xẻo hành hình đã khai rằng Bin Laden là thủ phạm. Thế mà khi Lương cùng Trâm vào Tòa Bạch Ốc, qua các cổng gác vô cùng cẩn mật mà chẳng một người nào hay. Khi ngồi sát bên cạnh Tổng Thống và các bộ trưởng đang họp mật, cũng chẳng ai phát hiện ra vợ chồng chàng. Lương và Trâm cố hết sức hét vào tai từng người, nhất là Tổng Thống Bush, thế mà Ngài vẫn chẳng nghe được tiếng của hai người. Lương và Trâm biết mình đã là ma nên không còn ai có thể thấy, không còn ai có thể nghe, không còn ai có thể phát giác ra sự có mặt của họ trong tòa nhà Hành Pháp giữ một cuộc họp mật như thế nầy! Ôi! Đớn đau thay sự cách biệt giữa người sống và kẻ chết, ngồi bên nhau mà chẳng thể nào thấy nhau... Trong lúc đang phẫn uất và đau khổ trước sự thật không thể chối cải được bởi lằn ranh ngăn cách giữa sự sống và sự chết thì Trâm và Lương nghe như có tiếng nhạc bên tai. Có một mùi thơm kỳ diệu lan tỏa khi một người mặt mày đầy râu xuất hiện đến bên hai người. Trâm la lên ngạc nhiên: - Tổng Thống Lincoln! Trời ơi! tôi mơ hay tỉnh! Xin kính chào Tổng Thống! Lương cũng vừa ngạc nhiên vừa sợ: - Chào Tổng Thống... Người đó không ai khác hơn là Tổng Thống Lincoln. Người hiền từ đứng đó nhìn hai vợ chồng trẻ, vuốt mái tóc Trâm, quay qua Lương với giọng ôn tồn: - Ta rất lấy làm đau xót khi thấy các con bị oan ức. Ta cũng biết hàng ngàn người vô tội đã không còn nữa vì những thù hận khôn nguôi, vì những định kiến ngông cuồng và chủ nghĩa cực đoan... Nước Mỹ sẽ đứng thẳng dậy và sẽ trả thù cho các con, cho những linh hồn mạng vong tức tưởi trong ngày 11 tháng 9! Ta cũng đã bị chết oan, linh hồn ta thường xuyên bay khắp nơi để phù trợ loài người. Nhưng giữa người và linh hồn không thể nào thấy được nhau, chỉ cảm nhận và cầu nguyện...! Chúc các con tìm được cho mình sự bình an ngay cả trong kiếp oan hồn! Nói xong, Người quay lưng ra cửa chính của văn phòng hình bầu dục trong lúc Tổng Thống Bush và nội các đang bàn cải về những biện pháp cấp thời đối phó với tình hình. Chẳng ai hay biết gì cuộc đối thoại giữa vợ chồng Lương và vị Tổng Thống đã bị ám sát cách đây bao nhiêu năm mà linh hồn vẫn theo dõi sự tồn vong của đất nước... Khi vị Tổng Thống quá cố vừa bước ra, cửa chính tự nhiên mở rộng. Lương và Trâm thấy bên ngoài đám đông linh hồn đủ mọi thời trong mấy trăm năm từ khi nước Mỹ lập quốc đều có mặt. Họ trang phục theo mỗi thời đại của họ, có người mang gươm, có người còn đội chiếc nón thời chiến tranh Nam Bắc, những con ngựa chiến được dắt theo phía sau... Vị Tổng Thống quá cố quay lại nhìn hai người mỉm cười. - Các con hãy cố gắng để vượt lên sự hèn nhát và sợ hãi! Hãy nhìn kìa, bao nhiêu thế hệ linh hồn chết oan trong trận mạc đủ mọi thời đại đều có mặt ở đây. Các con hãy nhìn phía trái ta, đó là nhũng chiến sĩ Việt Nam trong thời chiến tranh đang cùng 58,000 linh hồn chiến sĩ Hoa Kỳ cũng có mặt để phù trợ thế giới tiêu diệt khủng bố. Chúng ta sẽ phù trợ cho Việt Nam sớm thoát ách bạo ngược và sớm được tự do... Tiếng nhạc lại cất lên bài hùng ca quân đội và bài quốc ca Hoa Kỳ. Những linh hồn chiến binh và tướng tá nhãy lên lưng ngựa tung kiếm về phía trước. Tiếng ngựa hí vang, tiếng vó câu rần rật theo bóng cờ bay trong gió... Thế mà vệ binh quốc gia canh giữ trong ngoài tòa Bạch Ốc, Nội Các và Tổng Thống Bush đều chẳng có ai phát giác điều gì khác lạ đang xảy ra. Lương kéo Trâm ra ngoài và cùng chạy theo một đoạn đường giữa tiếng quân ca hùng tráng. Bóng vó câu mất hút trong bụi mù... Lương vả Trâm bay về đến căn nhà của hai người đã quá nửa đêm. San Jose đèn sáng choang như một tấm thảm đầy sao trên vùng trời mơ ước. Hai vợ chồng bay theo đường phố chính mà lòng ngổn ngang trăm nỗi đoạn trường. Đâu đây họ nghe có tiếng kinh cầu cho linh hồn.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> những người đã bị chôn vùi trong hai tòa cao ốc WTC và bốn phi cơ dân sự bị bọn khủng bố cướp biến thành bom tấn công nước Mỹ. Đâu đây họ cũng nghe tiếng khóc than từ những căn nhà có thân nhân vừa bị chết... Lương và Trâm thấm thía cái cảnh người sống và kẻ đã lìa đời. Giờ đây họ là những bóng quế hồn oan lẩn quất trong cõi vô thường. Căn nhà của hai người đầy ánh sáng và những người thân đang quần tụ tại phòng khách. Họ đang khóc than, họ đang kể lể, họ đang trách móc đủ mọi vấn đề vì được tin vợ chồng Lương đi trên chuyến bay định mệnh. Trâm và Lương xuyên qua cửa sổ bước vào nhà mà không một ai thấy, không ai hay là họ đã trở về! Mà làm sao trách được khi hai người giờ đây đã là người thiên cổ. Trâm vừa khóc vừa hét: - Má ơi! Con về đây rồi, con đây mà! Má có thấy con không? Má ơi, má ơi! Nàng chạy lại bên mẹ già đang vật vã kể lể trong nước mắt ràn rụa. Bà gọi tên nàng, bà van xin trời phật cho nàng được thoát nạn cùng chồng. Thảm thương thay tre già khóc măng non trong một khung cảnh xa xứ xa quê. Bà chẳng còn ai, chẳng còn ai trong cõi đời nầy nếu nàng vĩnh viễn xa bà. Xứ lạ quê người làm thế nào bà có thể sống được trong cảnh cô đơn như thế nầy. Nàng quì xuống ôm mẹ, lấy hai tay chùi nước mắt cho mẹ. Nhưng tay nàng chạm vào người mẹ mà bà chẳng hế hay biết. Nàng nức nở la to bên tai mẹ: - Má ơi! Má ơi! Con đây mà má ơi! Lương đứng chết trân nhìn mọi người. Ngoài mẹ Trâm còn có các em chàng từ Nam Cali nghe tin dữ đã lái xe suốt ngày đến nhà chàng. Biết là mình có la to, có cào cấu, có chạy đến ôm từng người thì cũng vô ích vì chàng đã vĩnh viễn là ma! Trời ơi! Chỉ một thoáng là mình đã trở thành hư ảo, chỉ một giây là mình đã ra tro bụi phù du... Ôi cuộc đời sao như thế, số phận mình sao phải thế...? Chàng bỗng nhớ đứa con độc nhất mới vừa lên ba. Ôi Thằng Lân đâu rồi, con của ba đâu rồi? Chàng chạy vào phòng ngủ, Lân đang trong giấc ngủ ngon lành trên chiếc giường bé nhỏ. Ôi giấc ngủ thiên thần vô tư. Chàng lấy tay sờ trên trán con, trên má con. Chàng cuối xuống ôm nó vào lòng, khóc vùi trên ngực nó. Thế mà nó vẫn nằm im ngủ say, nó vẫn mỉm cười giấc ngủ trẻ thơ. Trâm đến bên Lương nhìn con trong vòng tay chồng mà lòng quặn thắt đớn đau, nàng dành lấy con, nàng hôn xối xả vaò mặt vào người thằng Lân. Hai người ôm lấy nó, khóc than bên tai nó, nâng niu âu yếm nó, nhưng nó vẫn ngủ say. Trâm quay lại nhìn chồng phẫn uất: - Làm thế nào đây! làm thế nào đây hỡi Trời! Chúng tôi có tội tình gì mà phải gánh lấy thảm cảnh nầy... Trời ơi! Đêm vẫn đầy sao, đèn vẫn sáng, gió khuya lành lạnh... Tất cả như vô tình, tất cả như chẳng hề hay biết có hai linh hồn chết oan đang ôm con trong tay. Thằng Lân vẫn ngủ, nó cũng chẳng thể nào biết rằng ba má nó đang quì bên giường nó khóc ngất giữa biên giới dương thế âm cảnh...!. Kết Thúc (END) Bạch Hồng Font Size:. Tác Giả: Đức Nguyễn. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Sáu Nhỏ nhìn trong gương, sửa lại mái tóc và khép nhẹ cửa phòng. Ra khỏi nhà nhìn đồng hồ, đã hơn chín giờ sáng, bầu trời chớm mây, ánh dương e thẹn nép sau hàng cây maples cao ngất, Sáu Nhỏ kéo cao cổ áo, bước vội đến trạm xe bus ở góc đường. Rút một điếu thuốc lá, tay kia thọc vào túi quần, móc ra chiếc quẹt máy Zippo màu bạc, ngón tay cái hất mạnh bản quẹt, click, đưa chiếc quẹt lên đầu điếu thuốc, Sáu Nhỏ hít một hơi thật dài. Chiếc xe bus ngừng trước mặt, Sáu Nhỏ đưa tay gạt điếu thuốc vừa đốt xuống mặt đường, lấy chân dập tắt tàn thuốc và vội bước lên bậc xe. Gật đầu chào bác tài xe bus, trả tiền, anh chọn một chiếc ghế trống cạnh cửa. Hôm nay xe bus không đông khách như thường lệ. Đến trạm thứ ba xe bus ngừng, Sáu Nhỏ chào bác tài quen thuộc, bước xuống xe, nhìn đồng hồ một lần nữa và bước về hướng một tiệm cà phê gần đó. - Chào chú Sáu. Cô bán cà phê trẻ gật đầu cười chào Sáu Nhỏ, cô bước qua máy cà phê bên cạnh, đẩy tách cà phê dưới vòi máy, kéo nhẹ cần máy, nước cà phê lọc nóng lấp đầy tách. Hương cà phê tỏa đầy trong không khí. Cô bỏ hai thẻ đường vuôn vào tách, để chiếc muỗng nhỏ vào dĩa, cạnh đấy một tách nước ấm và đưa cho Sáu Nhỏ. Trả tiền xong Sáu Nhỏ, mang tách cà phê ra ngồi lan can,.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> vén tay áo, nhìn lại chiếc đồng hồ Seiko, nói thầm: - Quái lạ, thằng này 10 giờ mà bây giờ chưa đến, nó đúng hẹn lắm mà. Sáu Nhỏ đốt điếu thuốc thứ hai, hớp cạn chút cà phê còn sót lại trong tách, đẩy chiếc ghế về phía sau và đứng dậy định ra về thì bổng nghe tiếng điện thoại cầm tay kẹp bên hông rung lên. - Xin lỗi Tony, chưa có, khó kiếm, sẽ gọi lại sau. Hôm nay thiếu người phải đi làm, không đến được. Bên kia đầy dây là Raul. Tony thay thế tên cúng cơm Dũng, Sáu Nhỏ tự đặt cho mình khi làm saladman cho một nhà hàng lúc chân ước chân ráo đến El Monte. Tên này Sáu Nhỏ thấy trên hộp bánh pizza trong phòng ăn nhà hàng ngày đầu đi làm. Tên Dũng không bỏ dấu bạn bè trong nhà hàng nói khó nghe. Cũng nơi này Sáu Nhỏ quen Raul, second chef chuyên về trang trí trình bày món ăn tại nhà hàng. Raul có một thời đi lính đóng đô ở Đà Nẵng, rất khoái ăn phở và uống cà phê pha sữa đặc có đường. Gặp Sáu Nhỏ, Raul cứ kể những chuyện củ ở Biên Hòa và Đà Nẳng. Raul thường đến quán cả phê này với Sáu Nhỏ những hôm không đi làm. Sáu Nhỏ vẫn liên lạc thường xuyên với Raul sau khi có việc làm khác - Nhớ, đừng quên, Raul. Tôi chờ. Sáu Nhỏ tản bộ đến một siêu thị gần đó, mua vài ký thịt bò, rau cải, trả tiền, trở lại bến xe bus về nhà. Sáu Nhỏ và Hồng thuê một căn nhà nhỏ hai phòng của cặp vợ chồng cùng quê tình cờ gặp lại ở Little Sài Gòn. Chủ nhà mở một tiệm bán bánh mì nguội ở phố Bolsa. Vợ chồng chủ nhà mua căn nhà có miếng đất rộng phía sau, xây thêm ba căn nhà nhỏ để cho thuê. Sáu Nhỏ và Hồng, mướn căn cuối, có miếng đất trống cạnh hiên nhà. Sáu Nhỏ dọn dẹp cỏ, mua phân đất trồng rau cải. Phía trước nhà, vách chung với người hàng xóm, Sáu Nhỏ trồng một dãy hoa cúc vàng. Sáu Nhỏ sỏ chiếc dép cao su mới làm bên Trung Quốc vào chân, bước ra khỏi hẻm và đến quán nhậu ở góc phố Nguyễn Thiện Thuật. Trời cuối tháng Sáu, đã xế chiều nhưng hơi nóng vẫn còn sót lại của một ngày như còn luyến tiếc cái hẻm nhỏ hẹp này. Sáu Nhỏ kéo chiếc đẫu, ngồi xuống và gọi một chai bia. Mấy người bạn nhậu bây giờ chưa ra. Mấy đêm hôm trước Sáu Nhỏ thấy có một cô đẩy một chiếc xe bốn bánh nhỏ, dừng lại quán nhậu, cô vào trong nói với chủ quán một lúc rồi đẩy xe đi. Mấy ngày hôm sau, ban chiều ra quán, Sáu Nhỏ đã thấy chiếc xe cuả cô đã ở cạnh góc quán cạnh anh. Sáu Nhỏ uống đến chai thứ hai, mà mấy người bạn nhậu vẫn chưa ra. Sáu Nhỏ nhìn quanh quất tìm kiếm, và chợt bắt gặp đôi mắt của cô bán hàng xe đẩy dưới chiếc nón lá đội nghiên. Sáu Nhỏ gật đầu chào, cô bán hàn sửa vành nón và gật đầu chào lại. - Hôm nay cô có món nào đặc biệt? - Dạ, tai heo ướp sì dầu, với dưa chua. - Cô cho tôi một dĩa. - Dạ. Lần này Sáu Nhỏ mới để ý đến giọng nói nhỏ nhẹ của cô bán hàng. - Tôi thứ Sáu, lúc còn bé hơi đẹt, nên má tôi goị là Sáu Nhỏ, xin cô cho biết cô tên chi? - Dạ, em tên Bạch Hồng. - Cô có lẽ vào nghề này không lâu? - Dạ phải, em mới bắt đầu bán xe đẩy này hơn hai tháng. Lúc trước em bán ở góc đường NTMK, quán đổi chủ, chủ mới bán thức ăn và đồ nhậu nên em phải dọn đi. - Và cô chọn nơi này phải không? - Dạ, cũng may bà chủ ở đây hiền, thông cảm hoàn cảnh của em, nên cho em bán cạnh quán này. Uống hết chai thì bạn nhậu ngồi bàn, Sáu Nhò ngừng câu chuyện với Bạch Hồng. - Sao đến trễ vậy? - Mấy thằng chủ Đại Hàn nó bắt làm thêm giờ, mệt thấy mẹ. Trò chuyện một hồi, Saú Nhỏ đứng dậy nói: - Anh Hai, em đi về, mai phải đi cầy sớm. - Ờ, thôi về đi, chiều mai gặp lại. Sáu Nhỏ, đứng dậy, liếc nhìn cô bán hàng rồi đi về, ghé ở đầu hẻm, móc túi và đưa tiền cho bà Ba Hóm. - Dì cho cháu một bịch ba số 5. Hẻm vào, xa xa ánh đèn của tiệm Internet nhấp nhánh trên những vũng nước đọng còn sót lại của trận mưa sớm đầu mùa vài ngày qua. Pharmacy của chị Năm Sóc Trăng vẫn còn mở cửa. Đi.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> khỏi tiệm mì Quảng của cô Tư Nho thì đến nhà Sáu Nhỏ. Nhà Sáu Nhỏ nằm ở cuối hẻm, nhà ông Sáu Tranh, cửa vẫn còn mở, cạnh cửa sổ, bóng thằng Bờm cặm cuị trên bàn học. Sáu Nhỏ mở cửa bước vào nhà, ánh đèn chong trên bàn thờ phủ tỏa một màu đõ dịu khắp giang phòng khách. Nhà có ba giang, phía trước, bên trái cửa ra vào, một bàn thờ nhỏ, trên bàn thờ mấy tấm hình cũ của Ông bà, và người anh và mấy người chị, một gói nhang chưa mở, nằm bên cạnh lư hương. Sáu Nhỏ không dùng nhang, chỉ trừ vào dịp Tết hay cúng giỗ. Cây nhang là một cây đèn điện nhỏ bóng đõ. Sáu Nhỏ đến bàn thờ, hai tay chấp lại trước ngực, đầu nhìn thẳng, nhắm đôi mắt lại. Mỗi cử động không chậm và cũng không nhanh, Vài phút sau, Sáu Nhỏ, vào phòng, thay quần áo, ra phía sau, súc răng và đi nủu. Sáu Nhỏ quê ở xóm Cồn, nhà chồ, dọc theo bờ sông Phan Thiết. Ba mẹ chết hồi còn nhỏ, sống với anh, hai bà chị còn lại và bà ngoại gốc người xứ Quảng. Bà mỗi buổi sáng chèo chiếc ghe nhỏ, xuống bến cồn Chà bán mì Quảng, khoảng xế trưa chèo ghe về nhà. Hai bà chị đi làm công chức. Người anh cả đi lính, ra trường, đổi xuống Bền Tre và tử thương ngay trận đụng độ đầu tiên. Sáu Nhỏ đi học trường nhỏ, tuổi trẻ chơi với bạn bè chài lưới, chăn trâu nhiều hơn là bạn bè sống ở phố. Sáu Nhỏ học hành cho qua lệ, chơi với bạn trai nhiều. Năm học lớp Đệ Tứ, có một cô không đậu kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp học lại. Cô ngối phía trước, đôi tóc dài xõa ngang vai. Lần đầu tiên Sáu Nhỏ biết mộng mơ. Mỗi lần đi đến đường phố chính, gần tới cửa tiệm nơi nàng giúp cha những ngày cuối tuần, chỉ mong nàng ngó mong, mỉm cười chào, ôi đôi má hai nắm đồng tiền nho nhỏ, chiếc cổ dài trong chiếc áo bà ba trắng ngắn, một ngày đối với Sáu Nhỏ thật tuyệt vời. Vài tháng nàng bỏ học, lấy chồng đi quân đội quê tận xứ Quảng Đà, không một lời từ biệt, làm mấy bạn trong lớp, có cả Sáu Nhỏ, lòng ngẩn ngơ. Kỳ thi Trung Học Đệ Nhị Cấp, mấy cây si thầm lặng trợt vỏ chuối, luôn cả Sáu Nhỏ. Bài thi dịch hôm đó là “Chỉ tại con gà”, bài thi đó phải là “Chỉ tại nàng vu qui’’. May mắn thay, năm đó, lên đệ Tam, không cần phải đậu, nên cả bọn nhóc trồng cây si lộn đất đều lên lớp. Bạn bè chọn ban A, B, Sáu Nhỏ chọn môn văn chương vì sợ mấy công thức toán và ghét đi đếm “vỏ cây” trong giờ Vạn Vật. Học môn văn chương để trở thành một Cao Bá Quát. Năm sau thi Trung Học lại, đậu, chọn môn chính Pháp văn. Sáu Nhỏ đi thi để đi thi. Ngày đậu thi viết Tú Tài một, Sáu Nhỏ ra đi xe lửa ra Nha Trang vào vấn đáp. Ba thằng cùng chữ D thấy tên mình trong danh sách vào vấn đáp, mừng húm. Ba đứa mướn một phòng khách sạn Khôi gần bờ biển, đóng cửa ôn bài. Phòng gần mặt lộ, đôi khi ngó qua song cửa, thấy mấy cô gái Nha Trang đi ngang qua, thấy mà mong có một người yêu. Vào Sài Gòn, học vài năm đại học, đi lính và ở tù tận một miền xứ Bắc. Ngày trở về hai người chị mất, căn nhà chồ cũng theo nước trôi đi. Hôm giã từ xứ Bắc, người anh kết nghĩa trong tù dặn dò: - Cậu về nhớ lời anh dặn, số gian truân đấy. “Anh hùng gãy gánh nụ cười giai nhân.” Sáu Nhỏ mỉm cười chào cám ơn. Sáu Nhỏ sống ở cái hẻm nhỏ NTT gần ba năm. Đi làm, thăm vài bạn cũ và thù tạc vài chai bia buổi chiều. Quán nhậu góc đường là nơi tụ họp của những ngưòi độc thân như Sáu Nhỏ. Anh Hai Cần Đước, người Thượng Sỉ già, lớn tuổi hơn nhất, vợ chết, mấy người con ở nước ngoài nài nỉ bảo anh qua, nhưng anh không muốn xa miền đất này. Con mỗi tháng gởi chút tiền về, một tháng đôi lần quê thăm bà con và thắp vài cây nhang cho ngưòi vợ đã bỏ anh ra đi sớm. Hai bạn nhậu khác, Bảo Long An còn độc thân, Tư Xóm chiếu, ở tù về, vợ bỏ lấy anh cán bộ tập kết về. Ba ngưòi cùng ở xóm ngõ cụt với Sáu Nhỏ, gặp nhau những buổi chiều ở quán bà Ba Cần Giuột. Bà ở một mình, chồng theo kháng chiến bị Tây bắn ở Quán Tre, hai cô gái lớn lấy chồng xa. -oOoSáu Nhỏ, sau buổi cơm chiều, lững thững dạo bước ra hướng quán bà Ba. Quán Internet bắt đầu đông khách, chị Năm Pharmacy ngồi trước cửa ngó mong. - Anh Sáu, sao hôm nay đi nhậu sớm vậy? - Chiều nay hết việc, chủ cho về sớm. Sáu Nhỏ chào chị Năm. - Còn chị, ngồi đây chờ ai đấy? - Chờ người mua thuốc. Đến quán bà Ba, Sáu Nhỏ không thấy chiếc xe của Bạch Hồng. Uống hết nửa chai bia thì ba người bạn nhậu cũng vừa đến. - Nhớ ai mà cậu đến sớm vậy, anh Hai Cần Đước hỏi. - Nó nhớ cô bán thịt heo luộc đó, Tư Xóm Chiếu xía trả lời..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> - Ảnh nhớ đôi mắt đa tình của cô Bạch Hồng đó, hai đại ca, Bảo Long An chen vào. Sáu Nhỏ mỉm cười, cầm ly bia, uống thêm một hớp. Trời về tối, quán lên đèn, đông khách thêm, sau lưng Sáu Nhỏ, nơi Bạch Hồng đậu xe vẫn trống không. Sáu Nhỏ trở về nhà, quán Internet vẫn đông khách trẻ, Pharmacy của chị Năm đóng cửa sớm, hôm nay vắng bóng bà Ba Hóm bán thuốc lá. Sáu Nhỏ, mở hộp thuốc lá nói thầm: - Còn hơn mười điếu đủ cho ngày mai. Sáu Nhỏ vào nhà, đến bàn thờ, cuối đầu, nhắm mắt lại. Năm phút sau vào nhà sau, súc miệng, thay quần áo và đi ngủ. Đã mười phút qua, Sáu Nhỏ vẫn chưa chợp mắt. Sáu Nhỏ nhìn lên nóc mùng, trong ánh đèn lờ mờ, Sáu Nhỏ bỗng thấy, lần đầu tiên, một khoảng đen nhỏ trong nóc mùng. Hèn gì bấy lâu nay, Sáu Nhỏ cứ thắc mắc không biết mấy con muỗi ở đâu chui vào đánh thức Sáu Nhỏ trong giấc ngủ say. Sáu Nhỏ vội lò mò ngồi đậy, tìm cây kim sợi chỉ vá lại khoảng trống không. Nhưng khoảng trống không của một góc nhỏ ở quán bà Ba cứ theo đuổi trong giấc ngủ muộn của Sáu Nhỏ đến khuya. Một tuần trôi qua, khoảng trống của chiếc xe đẩy phiá sau Sáu Nhỏ vẫn thiếu bóng dáng của cô bán hàng. Sáu Nhỏ và ba người bạn vẫn ngốì uống vài chai bia cuối ngày. Thấy Sáu Nhỏ tư lự, Anh Hai Cần Đước buột miệng: - Thôi nhớ cặp mắt cô nàng làm chi. - Nếu nàng nhớ Anh thì cũng nói cho anh vài lời, Bảo chêm vào. - Thôi nhậu đi, bị vợ bỏ như tôi, tôi vẫn còn sống đây nè, Tư Xóm Chiếu chen vào. Chiều cuối tuần, Sáu Nhỏ lại ra quán bà Ba. Hôm nay trời đẹp, nắng dịu. Mấy ngày qua ban đêm thật nóng, Sáu Nhỏ để quạt máy suốt đêm. Đi ngang qua nhà chị Năm, Sáu nhỏ gật đầu chào. - Hôm nay buôn bán được chứ? - Cũng khá, chị Năm Pharmacie đáp lại. Quán Internet, trời mát, đông người trong chatroom. Bác Bảy không còn cầm cây quạt giấy phe phẩy như những đêm hôm trước. Sáu Nhỏ ghé kệ thuốc lá bà Ba Hóm mua một gói ba số năm. Ra đầu ngõ, nhìn về quán bà Ba, Sáu Nhỏ đã thấy chiếc xe của Bạch Hồng. Sáu Nhỏ vội bước nhanh. - Chào cô Bạch Hồng. - Chào Anh Sáu. - Tôi tưởng cô đã tìm được chỗ khác. - Dạ không phải. Em có chuyện gia đình nên về Cần Thơ đôi ngày. Sáu Nhỏ không hỏi thêm, tìm một góc ghế gần đó và gọi một chai bia và món đồ nhậu. Vài phút sau anh Hai Cần Đước, Tư Xóm Chiếu và Bảo Long nhập bọn. - Trông cậu hôm nay như người sống lại. Anh Hai Cần Đước nhìn Sáu Nhỏ. - Phải rồi anh Hai, em biết mà. Bảo Long vừa cười vừa nói. - Sáu, có lạ không? Giấy tờ đi đến đâu rồi, Tư Xóm Chiếu hỏi, Sáu Nhỏ. - Thẩm vấn xong rồi, chắc không lâu đâu, Sáu Nhỏ đáp lại. - Qua bên đó nhớ đừng quên Anh Hai, anh Tư và em nhe. Bạch Hồng, ngồi gần đó vội hỏi Sáu Nhỏ. - Anh đi đâu đó? - Tôi đã được chấp thuận đi định cư ở Mỹ. - Chừng nào anh đi vậy? - Chắc không lâu đâu. - Mấy năm trước, em cũng dự định đi mấy lần, nhưng đều hỏng hết. Những món đồ nhậu trong dỉa, mấy ngày qua nhiều hơn thường lệ, Bạch Hồng có vẻ cởi mở hơn. Chiều nay Bạch Hồng mặc chiếc áo bà ba trắng, và hình như có một thoáng hồng trên đôi má. Sáu Nhỏ cảm thấy có một chút gì khi Bạch Hồng nhìn. Sáu Nhỏ bỗng bật cười một mình. - Anh cười gì đó? - Hôm nay Bạch Hồng đặc biệt quá. - Tuần rồi, em tình cờ tìm thấy cái áo này trong đống quần áo cũ. Em mới mua, chưa mặc, tưởng đã mất rối, không dè nó nằm trước mặt mà không biết. - Chắc mấy hộp phấn hồng cũng mới tìm được phải không? Bạch Hồng mỉm cười, vội lấy đôi đũa trở mấy miếng thịt nướng trên lò. Ánh lửa hồng càng tăng thêm vẻ yêu kiều của cô bán hàng. - Nói đùa cho vui, cô Hồng đừng giận nhé..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Em đâu dám, khách buồn thì làm sao em bán mấy món nhậu này. - Chị Hồng đừng lo, anh Sáu sẻ bao thầu hết, Bảo chen vào. Góc phố của bà Ba Cần Giuột thêm một người hàng huyên cho bốn người độc thân. - Ngày mai mấy giờ anh ra phi trường? - Máy bay cất cánh mười hai giờ trưa, Sáu Nhỏ đáp. Sáu Nhỏ và Bạch Hồng ngối trên băng vắng bên bờ sông. Hai người không nói Sáu Nhỏ nắm bàn tay Bạch Hồng. - Khi qua bên đó, anh sẽ thu xếp cho em qua mau. - Em sẽ chờ anh. - Anh qua bên đó tháng này chắc lạnh lắm, em có mua cho anh một cái áo len, anh nhớ giữ ấm người. - Cám ơn em. - Anh cẩn thận, bên đó một mình, anh để ý dùm sức khỏe. - Anh đã ở tù mấy năm xứ Bắc, hồi nhỏ lại sống ở nhà chồ, gió khuya lạnh hơn nhiều. - Đã đành, Bạch Hồng xiết chặt bàn tay của Sáu Nhỏ. - Thôi khuya rồi, để anh đưa em về nhà. Bạch Hồng lên ngồi phía sau xe, đầu dựa vào lưng và ôm chặt Sáu Nhỏ. - Sao thời gian bay nhanh thế hở anh? Bạch Hồng thì thầm qua đôi vai của Sáu Nhỏ. Sáu Nhỏ nổ máy xe, sửa lại đôi kiếng và từ từ lái chiếc xe về hướng phía Thủ Thiêm. Xe vừa chạy qua cầu bỗng Bạch Hồng nói: - Em sợ, em không muốn về nhà một mình đêm nay. - Thôi cho em ở tạm nhà anh một đêm. - Em không sợ muỗi nhà anh nó đốt em à? Bạch Hồng véo mạnh vào hông Sáu Nhỏ. - Tối nay Anh, em và mấy con muỗi uống cho say. - Phải, mình say, muỗi nó đốt mình, nó cũng say luôn. Cả hai cùng cười. Gió mát trên cầu thổi những ngọn tóc dài của Bạch Hồng bám chặt vào đôi vai của Sàu Nhỏ. -oOoSáu Nhò, đốt điếu thuốc lá, kéo chiếc ghế, ngồi xuống và chờ Bạch Hồng về nhà ăn cơm chiều. Bạch Hồng làm cho một tiệm Nail mất khoảng 45 phút xe. Mùa Đông đã về lại thành phố. Sáu Nhỏ dọn đến căn nhà này hơn một năm thì Bạch Hồng qua. Chủ nhân căn nhà kế tên Hùng, trẻ và ở một mình. Hùng hoạt bát, lanh lợi nói chuyện rất hay, đôi khi Sáu Nhỏ thù tạc với Hùng lúc Bạch Hồng còn ở Thủ Thiêm. Bạch Hồng ở nhà, đi học nghề và hơn một năm sau thì có việc làm. Khoảng thời gian này, Sáu Nhỏ đi làm thêm đến khuya mới về. Bạch Hồng ngủ một mình. Hùng dọn nhà đi nơi khác vài tháng nay. Căn nhà chưa có chủ mới. Chuông điện thoại cầm tay rung lên. - Anh, tối nay em về trễ, đông khách nên em làm thêm, anh đừng chờ cơm. - Em đừng làm nhiều quá. Cái mùi nail remover hít nhiều có hại sức khỏe lắm. - Em biết. Thôi chào anh. Một tuần đôi lần Bạch Hồng về trễ. Sáu Nhỏ ăn cơm một mình. Dạo này, Bạch Hồng cũng thường đi làm thêm thứ bảy. Bạch Hồng nói làm thêm để kiếm chút tiền về thăm nhà. Những hôm Bạch Hồng đi làm thêm ngày thứ bảy, Sáu Nhỏ, không lái xe, thích cuốc bộ ra bến xe bus, đến quán cà phê gần đó uống cà phê và tán gẫu với vài đôi bạn ghiền cà phê sáng. Cà phê nơi này đậm và đắng. Ly cà phê để trong chén nước ấm khiến Sàu Nhỏ nhớ đến những ngày đi học, cùng vài đôi bạn đến một hẻm nhỏ Công Lý. Vừa vào quán Sáu Nhỏ bỗng nghe tiếng gọi phía xa. - Anh Sáu, em ở đây nè. - Phía xa, Sáu Nhỏ nhận ra bóng Ngoc. Ngọc lúc trước có một thời ở gần apartment với Sáu Nhỏ. Sau khi lập gia đình, Ngọc dọn ra nơi khác. Sáu Nhỏ bưng ly cả phê và đến bàn của Ngọc. - Sao dạo này mày ít đến đây? - Bị mụ vợ cẩm chưn phải không? - Không có. - À, anh Sáu, dạo nay em thấy chị Hồng thường đi ăn với anh Hủng ăn ở nhà Hàng TV. Em đi với bà xã, không thấy anh nên không có đến đến chào hỏi..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Trông chị Hồng càng ngày càng đẹp, anh thật có phước. - Mấy bữa đó tao bận, nên không đi được, Sáu Nhỏ trầm ngâm trả lời. - Thứ bẩy rồi mày có gặp không? - Dạ có, Ngọc đáp. - Mày có rảnh không? Đi ăn trưa với tao. - Dạ, 100 phần trăm. Vợ em tuần này đi shopping vói bạn bè, tối mới về. - Hay là trưa nay đến nhà hàng đó đi? - Cũng tiện. Chỗ đó menue Tây ngon lắm. - Mày có vẻ rành quá. - Đâu có. Tiệm này người bạn Mỹ giới thiệu. Quán ít khách Việt, khung cảnh ấm cúng, vợ em mê chỗ này lắm, chê em khô như khúc gỗ chỉ biết có rượu chát đỏ ở đây mà thôi. - Nói thực với anh, em thương bả lắm. Chắc anh cũng vậy. Hai năm đầu qua bên này, Sáu Nhỏ làm thêm phụ trội chờ Bạch Hồng. Ngọc đậu xe ở parking phía sau nhà hàng và vào ngã bên hông. Nhà hàng đã bắt đầu đông khách. Ngọc chọn một góc bàn kề ngã bên hông, gần cửa sổ ngó ra đường. - Hai ông dùng chi? Cô tiếp viên trẻ trong bộ đồng phục màu xanh hỏi. - Cô cho tôi hai cái Chateaubriand. - Anh Sáu, rare hay medium. - Medium. - Cô cho hai cái medium và một chai Beaujolais. Sáu Nhỏ, nhìn chung quanh, nhà hàng trang trí ấm cúng tương tự như cái dinner room của khách sạn anh đã làm lúc mới qua. Khăn bàn màu trắng, điểm ở giữa đóa hoa cúc vàng, âm hưởng của bản nhạc Hayden tỏa nhẹ cả gian phòng. - Hèn gì vợ mày thích lại đây, Sáu Nhỏ buột miệng nói. Cô tiếp viên mang đến hai dỉa thịt, đặt trên một dĩa gỗ, mùi thịt bay tỏa ra thật thơm. Sáu Nhỏ chưa kịp dùng dao cắt miếng thịt đầu tiên chợt nghe Ngọc nói: - Anh Sáu. Sáu Nhỏ, ngửng đầu lên, Bạch Hồng và Hùng bước vào phòng âu yếm như đôi tình nhân mặn nồng. Bạch Hồng với chiếc áo đầm đỏ nhạt, nàng mặc đi làm sáng nay. Sáu Nhỏ vụt đứng dậy thò tay vào túi quần như tìm kiếm một cái gì. - Anh Sáu làm gì đó? Ngọc vội kéo tay Sáu Nhỏ. - Tao nhờ mầy kêu cô tiếp viên tính tiền. - Thôi, để em lo cho. Sáu Nhỏ và Ngọc rời nhà hàng bên cửa hông. Ngồi trong xe, Ngọc nói: - Xin lỗi anh Sáu. Em cứ tưởng chị Hồng bàn chuyện làm ăn. - Mày đâu có lỗi gì đâu. Tại tao, có ngọc trong tay mà không biết giữ. Sáu Nhỏ đến nhà Ngọc khuya mới về. Nhìn Bạch Hồng đang ngủ, Sáu Nhỏ định đánh thức nàng, nhưng lại thôi. Trong ánh đèn nightlight, Sáu Nhỏ, không có thấy khoảng trống trên trần như căn nhà có mùng khi xưa. Bên cạnh Sáu Nhỏ, Bạch Hồng ngủ thật say, đã hơn ba năm vẫn giống như cô bán hàng dạo nào. Sáu Nhỏ chờ cơm, Bạch Hồng gọi sẽ về trễ. - Ngọc có ở nhà không em? - Anh Sáu, Dạ Ảnh đi phố chưa. Anh có nhắn gì không? Vợ Ngọc trả lời bên đầu dây. - Cám ơn em, nếu Ngọc về, bảo ra quán rượu gặp anh. - Dạ. Sáu Nhỏ đi xe bus đến quán rượu. Đã mấy giờ qua Ngọc vẫn chưa đến. Sáu Nhỏ không biết mình đã gọi bao nhiêu ly rượu. - Thưa Ông, đến gìờ bar đóng cửa rồi. Trời đã khuya, Sáu Nhỏ chập chễnh bước ra khỏi bar, bóng nhỏ nối đuôi chảy dài trên con đường đến bến xe bus bên kia phố. Đèn traffic hình như mới vừa đổi xanh trong đôi mắt dập dờn của Sáu Nhỏ. Sáu Nhỏ bước qua đường. Một ánh sáng lóa lên trong ánh mắt, Sáu Nhỏ không thấy gì cả. Hình như có một tiếng còi từ xa càng lúc càng lớn dần. Sáu Nhỏ nghe tiếng bánh xe chan chát kéo dài trên mặt lộ. Sáu Nhỏ bỗng cảm thấy mình bay bổng lên không gian đi và biến đi vào một thế giới nào xa xôi nào đó. Trên đường từ Rose Hills Memorial về Hùng hỏi Bạch Hồng:.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> - Em đã nói với anh Sáu Nhỏ về chuyện chúng mình phải không? - Đâu có. Em chưa nói thì bây giờ ảnh đã ra đi rồi. - Vậy mà anh cứ tưởng. - Anh à, tối nay em không dám ngủ nhà môt mình, em sợ lắm. Hôm sau, Hùng đi làm, Bạch Hồng về nhà. Trong thùng thơ, lẫn lộn trong mấy junkmails và bills nợ, Bạch Hồng thấy một phong bì đề tên Tony Tran. Bạch Hồng xé phong bì, trong phong bì có một hộp nhỏ gói giấy hoa và một miếng giấy viết vội với mấy dòng chữ viết bằng tiếng Anh. “Tony, sáng nay tao gọi mày nhiều lần, mày không trả lời. Mày nói cần món quà cho vợ mày trước ngày anniversary thứ tư, họ mới giao cho tao sáng nay, ngày mai tao đi du lịch một tuần, tao phải bỏ món quà này vào hộp thơ, kẻo trễ. Gặp mày sau. Raul”. Trong hộp là một necklace vàng lóng lánh, khắc chữ La Mã nghiêng B.H. Bạch Hồng nhìn thật lâu, cầm tấm nacklace ép vào lòng ngực, ngó về phía trước sân. Đám cúc vàng Sáu Nhỏ thường chăm sóc hằng ngày, bông thiếu nước rũ lá cả tuần qua. - Xin lỗi anh, đáng lẽ em không nên gặp anh. -oOoQuán nhậu NTT chiều cuối năm, vài hôm nữa Tết trở về, Bảo Long đến quán sớm hơn thường lệ. Ngày mai Bảo sẽ từ giã thành phố. Quán nhậu chiều thưa khách, Bảo kêu chai bia thì anh Hai Cần Đước và anh Tư Xóm Chiếu cũng vừa đến. - Hai anh, em báo tin cho hai anh biết hôm nay là ngày cuối cùng anh em mình gặp nhau. Mai này em về quê cưới vợ và có lẽ không còn lên đây nữa. Em mời hai anh đến dự lễ đám cưới của em. - Bây giờ mày mới hé môi, như thằng Sáu Nhỏ. Tao và thằng Tư chúc mày hạnh phúc. Tụi tao sẽ xuống đó. Anh Hai Cần Đước, quay lại nhìn góc quán Sáu Nhỏ thường ngồi, hình như nói cho chính mình: - Thấy nó thiệt tình thương con Bạch Hồng, con Bạch Hồng lúc đó cũng lo làm ăn nên tao không nỡ nói cho nói biết, sợ nó buồn. - Tại sao vậy anh Hai? Tư Xóm Chiếu hỏi. - Bạch Hồng lúc trước là người đẹp nổi tiếng một thời ở mấy quán bia ôm đường NCT. Đã có nhiều cuộc đẫm máu xảy ra vì cô nàng nơi này. Phải chi…. Anh Hai Cần Đước ngừng nói, hít một hơi thuốc, từ từ nhả một làn khói thật dài trong không gian. - À, anh Hai, tuần rồi em gặp một người bạn cũ của Sáu Nhỏ. Anh Thân nói nhân dịp ra Mũi Né cuối tuần tình cờ gặp Bạch Hồng với em bé khoảng ba bốn tuổi tại một nhà hàng ở Phan Thiết. Bạch Hồng nói đã sang lại nhà hàng hơn sáu tháng và sẽ không qua lại bên đó nữa. Chị ấy nói sau khi anh Sáu mất vì bị xe đụng, chị mới biết chị ấy có mang. Anh Thân nói thằng nhỏ giống như Sáu Nhỏ như đúc. Chị Hồng cũng nhờ anh Thân gởi lời thăm Anh, Bảo và em. Khi nào có dịp ra Phan Thiết nhớ ghé thăm. - Quê Bạch Hồng ở Cần Thơ phải không? Anh Hai Cần Đước hỏi.. Kết Thúc (END) Biển Xưa Chiều Kỷ Niệm Tác Giả: Thiên Font Size: Minh. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Có lẽ, qua hai ngày đi chơi vẫn chưa đủ để Tony giới thiệu hết những thắng cảnh ở đây cùng Cindy, nhất là về thành phố nơi “him” đang cư ngụ. Ngày đầu tiên họ đến ăn trưa tại khu China Town, ở một nhà hàng có khung cảnh thanh-lịch ấm cúng, cùng nhiều món điểm-tâm ngon miệng. Sau đó họ cùng dạo bước về khu vực Darling Harbour nổi tiếng để hòa nhập vào dòng người du khách đến tham quan. Họ đã dừng chân lại nhiều lần để chụp hình và để nghe Tony giới thiệu đôi điều về cảnh vật ở đây, nhất là về mùa giáng sinh đang gần đến. Nhìn gương mặt rạng rỡ hồn nhiên của Cindy, đã làm Tony cảm thấy vui theo. Sau đó họ tiếp tục lang thang trên những con.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> đường với nhiều shopping có đông người qua lại. Họ rẽ qua công viên Hyde Park rộng lớn rồi tiếp tục hướng về khu vực nhà Con Sò (tức là Hí viện Opera House), kế bên là cây cầu Harbour hùng vĩ. Ðây chính là hai biểu tượng nổi tiếng của nước Úc nói chung, hay đúng hơn là của thành phố Sydney (nói riêng), nơi mà du khách từ khắp nơi đến rất thường xuyên để mà chiêm ngưỡng. Hàng năm vào đêm 31 tháng 12 tại những nơi này đều có hàng 5-7 trăm ngàn người tụ họp để xem đốt pháo bông, và để “count down” đón mừng năm mới. Ngay buổi chiều ngày hôm đó họ còn đi vào công viên Botany Gardens để tiếp tục dạo chơi, chụp thêm hình và thấy nhiều hoa tươi, cũng như được nghe chim hót líu lo trên các cành cây… rất là rộn rã. Chính những phong cảnh “hữu tình” trong công viên rộng lớn này, đã làm họ quên hẳn thời gian. Bởi vì mãi đến khi màn đêm sắp sửa buông xuống cũng là lúc mọi người cảm thấy đói và họ vội vả ra xe để tìm về một khu phố Việt Nam cho bữa cơm chiều ngày hôm đó. -oOoÐến ngày hôm sau họ lại tiếp tục đi chơi, nhưng lần này là những bờ biển mênh mông, cách xa trung tâm thành phố Sydney khoảng chừng 20 cây số. Ðầu tiên là vùng Manly ở phía Bắc Sydney, bờ biển này có nhiều tàng cây và bóng mát, nơi thu hút rất nhiều du khách đến tham quan. Ở đây trong lúc lang thang dọc theo bờ biển, để nhìn sóng nước bao la, họ còn thấy nhiều du khách đang nằm phơi mình (đó đây) trên bờ cát mịn. Sau lúc ăn trưa Cindy không quên dành lại những miếng “chip” (khoai lang tây chiên) để tặng cho bầy chim lúc nào cũng “friendly” đến gần du khách. Nhìn chúng thân thiện làm cho mọi người cảm thấy hân hoan thích thú, nhưng lại không biết tên gọi của chúng là chi? Có người gọi chúng là bồ-câu, nhưng cũng có người gọi chúng là chim hải-âu thường thấy tập trung dọc theo những vùng bờ biển du lịch. Tony cười và nói thêm: - Chúng là… loài “Hải âu phi xứ” đó!? Lúc này Cindy đang sánh bước bên cạnh Tony nên hỏi rằng: - Có phải đó là tên một tác phẩm của Quỳnh Dao không? Tony gật đầu và hỏi lại: - Vâng, đúng thế! Chắc là Cindy đã đọc qua rồi chứ? Thế là họ có đề tài để trao đổi cùng nhau. Cindy cho biết là nàng thường mang theo truyện để đọc, nhất là mỗi khi dừng chân ở những thành phố lạ. Ðối với nàng, đọc sách đã trở thành một thú tiêu khiển. Ðặc biệt là sau những chuyến bay đến các thành phố như Singapore, Tokyo, Seoul, Taipei, Auckland, Melbourne… hay là Sydney này chẳng hạn. Là một người “air hostess” (chiêu đãi viên hàng không) Cindy ít khi đi ra ngoài cùng chúng bạn, thường thì nàng ở lại hotel để nghỉ ngơi và đọc sách. Nhân nói đến Quỳnh Dao, Tony đã kể cho Cindy nghe một tác phẩm khác của nữ sĩ này, có tên là “Song Ngoại”. Ðây là chuyện tình về một cô học trò tên Giang Nhạn Dung yêu người thầy là Khang Nam lớn tuổi hơn cô. Tác phẩm đã được dựng thành phim trước đây, và được nhiều người xem ưa thích. Mối tình chênh lệch tuổi tác này về sau không trọn vẹn, vì những khắc khe của xã hội thời đó, nhưng đã để lại trong lòng người xem một niềm thương cảm. Vì không lấy được người yêu, nên Giang Nhạn Dung đã chọn con đường quyên sinh để nói lên tình yêu bất diệt của nàng. Trong lá thư tuyệt mệnh gởi lại cho Khang Nam, Giang Nhạn Dung đã viết: “… Anh đã mang đến cho em niềm vui cũng như sự đau khổ. Cũng như anh đã mang đến cho em lòng hy vọng cùng lúc với nỗi tuyệt vọng. Giờ em mang theo tất cả những gì anh đã cho em… Anh còn nhớ chăng? Có lần anh bảo với em kiếp này vô duyên đối mặt, lo gì kiếp sau chẳng.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> gặp nhau! Em cũng mong thế và sẽ chờ đợi anh. Chỉ xin anh đừng đến muộn hai mươi năm như hiện tại. Xin vĩnh biệt Thầy! Hãy cho tôi nói lời cuối cùng: Em yêu Anh!”. Vừa đi, Tony vừa kể tiếp câu chuyện cho Cindy nghe, cuối cùng Tony mỉm cười và nói tiếp…. May mắn thay, là Giang Nhạn Dung được cứu sống và lập gia đình sau đó, dĩ nhiên là với một người khác rồi. Nhưng trong lòng thì vẫn nhớ đến Khang Nam. Riêng Khang Nam thì tiếp tục dạy học và xin đổi đi thật xa, mà trong lòng thì vẫn mang theo một mối tình vô vọng. Chàng tìm quên bằng rượu chè và thuốc lá để cuối cùng thì cuộc đời… “tuột dốc” một cách thảm thương. Hình ảnh của Khang Nam (5 năm sau) thật là thê thảm. Ðó là ngày Giang Nhạn Dung vì không tìm được hạnh phúc bên chồng và luôn nhớ về mối tình đầu dang dở. Nên nàng đã quyết định tìm đến thăm (nơi chàng đang dạy học). Nhưng cuối cùng thì nàng cũng không có can đảm bỏ chồng để trở lại với Khang Nam: “Tay xách valise, Dung bước về phía cổng trường, chiếc valise càng lúc càng nặng thêm. Dung chậm rãi bước đi, đầu óc hôn mê rỗng tuếch. Dung bỗng giựt mình, tia nhìn của nàng như bị thu hút bởi hình ảnh một người đang bước đến - Trời! Khang Nam đó chăng? Một người đàn ông tóc bạc rối bù, tay ôm chồng vở học sinh, đang lom khom đi đến. Gần đến chỗ Dung bỗng ông ta đứng lại. Dung tưởng Nam đã nhận ra nàng, nhưng tuyệt vọng thay không thế, Nam không nhìn về phía Dung, chàng để chồng vở qua một bên, một tay cho vào túi lục lạo, và lấy ra một nùi giấy nhầu nát và một điếu thuốc gãy. Dung thấy Nam vui sướng hẳn, chàng lại cho vào túi tìm hộp diêm, đôi tay run run đang cố gắng quẹt diêm, điếu thuốc vừa quẹt xong, thì chồng vở lại rơi xuống đất, Nam cố gắng chụp lấy, điếu thuốc lại rơi ra, chàng khom người xuống tìm thuốc, tiếng ho hún hắng vang lên. Sau cùng Nam đứng dậy, lặng lẽ bước đi trong cơn ho… Cuối cùng nàng vội bước nhanh ra cổng tựa lưng vào tường. Anh Nam ơi, anh Nam. Nước mắt đổ xuống, anh đã đi rồi hở Nam? Chàng Khang Nam chung tình ngày nào đã đi đâu? Không lẽ mình đang nằm mơ thật sao? Không lẽ sự thật phù du như vậy sao? Trời ơi, sự thật sao ghê tởm như vậy? Phải chi ta đừng đến, đừng gặp Nam, để mãi ghi hình bóng Khang Nam trong mộng ngày nào thì đẹp biết bao? Xe đò dừng lại, nàng bước lên. Xe đã bắt đầu chạy, đám bụi mù cũng vừa che khuất ở đằng sau…” Cindy đi bên cạnh lắng nghe những lời Tony vừa kể. Hình như trong tâm trí của hai người, họ cũng đang suy nghĩ về một điều gì đó mơ hồ, và cũng rất đỗi… “xa xăm”… Rồi như để đáp lại, Cindy cũng chia xẻ cùng Tony tác phẩm “The Da Vinci Code” (mật mã Da Vinci) của Dan Brown mà nàng vừa mới đọc xong. Trong đó có một mối tình khá lãng mạng giữa một vị giáo sư đại học là Robert Langdon và nhân viên giải mã Sophie Neveu. Mối tình này nảy sinh sau khi họ cùng trải qua một thời gian điều tra căng thẳng và… đặc biệt là họ đã “sát cánh” bên nhau. Ðêm cuối cùng sắp sửa chia tay tác giả Dan Brown đã viết: “Ðêm trở nên lạnh hơn, một làn gió khô lạnh cuộn lên từ mặt đất. Langdon nhìn sang Sophie. Ðôi mắt cô nhắm lại, đôi môi thư thái nở một nụ cười mãn nguyện. Langdon cảm thấy mắt mình nặng trĩu. Miễn cưỡng ông bóp mạnh tay cô: “Sophie?”. Cô từ từ mở mắt và quay sang ông. Dưới ánh trăng, mặt cô thật đẹp. Cô mỉm cười với ông… và cuối cùng Sophie ngả người ra trước và hôn lại ông, lần này lên môi. Thân thể họ hòa nhau, đầu tiên là nhẹ nhàng, rồi sau đó là trọn vẹn. Khi buông ra, đôi mắt cô như tràn đầy lời hứa hẹn với ông…” Cả Cindy và Tony đều đồng ý là những tác phẩm ngoại quốc được dịch sang Việt ngữ thì đa số là rất hay và rất là… tình cảm. Cuối cùng Cindy nhìn Tony mỉm cười và dí dỏm thốt lên: - Theo Cindy nhận thấy thì hình như những ai yêu văn học, và thích đọc truyện tình cảm lãng mạng thì đa số họ đều là những người… lương thiện, có phải vậy hay không? Tony nhìn nàng mỉm cười và gật đầu đồng ý. Trong lòng, “him” cảm thấy vui và có vẻ cảm kích “cô bé” này, vì những suy nghĩ rất “đặc biệt” của cô. Nhất là cái tính trẻ con dí dỏm, nhưng có đôi lúc lại thông minh và tỏ ra hiểu biết nữa. Chẳng hạn như khi đề cập đến một thằng cháu của Tony.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> rất “có duyên” trong chuyện… tán gái, thì Cindy đã ví von rằng: - Nói chuyện như thế thì cua ở trong hang còn phải bò ra, chứ đừng nói chi là… con gái! Trước khi rời khỏi Manly họ không quên chạy một vòng lên đỉnh cao của vùng North Head, nơi có thể nhìn thấy thành phố Sydney, mặc dù từ xa nhưng mà rất đẹp. Rồi trên đường trở xuống họ không quên ghé vào nhà thờ Manly Roman Catholic, nơi mà cách đây không bao lâu diễn viên màn bạc Nicole Kidman đã kết hôn (lần thứ 2) cùng anh chàng ca sĩ nhạc đồng quê (Keith Urban) rất là long trọng. Tại đây Tony đã chụp hình cho Cindy cùng các bạn để làm kỷ niệm, cũng như tấm hình hai người chụp chung (tựa lưng nhau) trông rất là… “tương đắc”. Tony còn nói thêm, là mai mốt… “cưới vợ” thì nhất định “him” cũng sẽ đến nhà thờ này bấm vài bô hình làm kỷ niệm. Nghe thế Cindy mỉm cười và dí dỏm hỏi lại Tony: - Thật à…. chừng nào và có thiệt vậy hay không? Tony cũng không chịu thua, nên nhìn lại Cindy rồi với dáng điệu tinh nghịch và nói tỉnh queo: - Sao lại không, dĩ nhiên rồi, chừng nào có ai chịu…“chụp chung” thì ngu gì mà… “không thiệt” chớ !? -oOoBuổi chiều hôm đó họ còn tiếp tục chạy xe dọc theo bờ biển để đến Harbord rồi North Curl Curl, nơi có một bờ cát dài rất nên thơ và lãng mạng, nhất là qua hình ảnh của vài đôi nhân tình đang dìu bước bên nhau. Còn phía ngoài khơi là những cơn sóng to tiếp theo nhau… uốn lượn, nên lúc nào cũng có nhiều người trượt sóng. Họ đang đón chờ những màn ngoạn mục với sóng nước bao la. Cindy thích thú tháo giầy (đi chân không) và chạy dọc theo bờ cát vàng nô đùa với sóng nước. Tony vừa đi, vừa nhìn theo và không quên chụp cho nàng thêm vài ba bô hình nữa... Cuối cùng thì Tony cũng không quên đưa nàng và các bạn đến vùng Dee Why gần đó. Nơi đây là một bờ biển du lịch nổi tiếng được nhiều người biết tới. Tony đã từng sống ở vùng bờ biển này rất nhiều năm, nên không biết bao nhiêu là kỷ niệm gợi nhớ trong đầu. Nhớ lại ngày xưa vào những dịp cuối tuần Tony thường cùng các bạn đi bộ ra đây để tắm biển, hoặc để ngồi hóng gió vào những ngày hè oi bức. Hoặc là những đêm buồn, nhớ nhà Tony có thói quen hay lái xe ra đây nằm nghe sóng biển vỗ vào bờ đá. Bởi vậy có nhiều đêm Tony đã ngủ quên trên xe, mãi đến khi giựt mình tỉnh giấc, thì cũng là lúc bình minh của ngày hôm sau đang từ từ ló dạng…. Lần này trở lại vùng bờ biển đã từng gắn bó với Tony một thời gian dài, nên “him” cảm thấy vừa nôn nao, vừa vui mừng hãnh diện. Trước mắt là những cánh chim hải âu đang thả đàn theo từng nhóm. Chúng được tự do và đang bay lượn giữa bầu trời cao mênh mông, bên dưới là bờ cát vàng, với biển rộng, cùng trời nước bao la có nhiều sóng vổ… Nhìn chúng, đầu óc Tony chợt nhớ đến câu chuyện “Hải âu phi xứ” vừa rồi, và cả chuyện tình lãng mạn của cô học trò Giang Nhạn Dung và người thầy Khang Nam mà Quỳnh Dao đã viết. Bất chợt Tony quay sang Cindy đang đi bên cạnh, mỉm cười rồi hỏi nhỏ ở bên tai: - Hình như mẹ Cindy ngày xưa là… “cô nuôi dạy trẻ”? - Dạ vâng… không những mẹ của Cindy mà cả hai Dì cũng đều là cô giáo… như mong ước của họ từ rất lâu! Cindy ngẩng lên nhìn Tony và trả lời từ tốn, trong lúc họ đi chậm lại… gần nhau. Lúc này trời đã tối dần, và những cơn gió biển thổi vào bờ cũng bắt đầu se lạnh. Tony choàng áo khoác cho Cindy, nàng đứng lại không nói gì thêm. Trên trời, đàn hải âu đang quấn quít bên nhau để cùng quay lượn vào bờ. Chắc là chúng cũng muốn tìm một nơi nào ấm êm để dừng cánh…?!.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Kết Thúc (END) Trận Địa Pháo Font Size:. Tác Giả: Đinh Lâm Thanh. Tìm Kiếm bằng Tựa Đề: Tìm. Sau nhiều lần trì hoãn, cuối cùng Hòa phải trình diện lên đường nhập ngũ theo lệnh tổng động viên Khóa 24 sĩ quan trừ bị Thủ đức, khóa tập trung đa số thanh niên còn sót lại từ nhiều đợt trước với những lý do khác nhau. Ngày ra trường, các tân chuẩn úy trúng tuyển được gọi tên chọn đơn vị. Trên nguyên tắc, những ai trúng tuyển với số điểm cao sẽ được chọn theo các ngành không tác chiến như quân nhu, quân cụ, truyền tin. Nhưng thực tế tổng số chọn không đáng bao nhiêu hơn nữa, những chỗ tốt nầy đã dành riêng cho những gia đình tân sĩ quan đặt cọc từ trước. Ngày chọn đơn vị, Hòa không buồn đi xem, đậu được chuẩn úy đã là may mắn lắm. Hòa xuống khu gia binh nhậu với các hạ sĩ quan huấn luyện viên cho đến chiều mới quay lên hội trường. Bài vở thi ra trường Hoà đạt được điểm rất cao, từ lý thuyết đến thực hành, kể cả môn bắn súng. Nhưng chắc chắn Hòa sẽ đội sổ trong kỳ thi mãn khóa với mười sáu ngày phạt trọng cấm đối với một sinh viên sĩ quan. Đây là một trường hợp động trời, chưa bao giờ xảy ra tại trường Thủ Đức. Đúng như dự đoán, tên của Hòa bị xếp vào cuối danh sách không có gì lạ. Khi lên chọn đơn vị, nhìn từ trên xuống chỉ thấy các sư đoàn bộ binh đang sẵn sàng chào đón. Nghĩ đi đâu cũng vậy, chức vụ trung đội trưởng tác chiến đã dành sẵn cho các tân sĩ quan mới ra trường, Hòa không ngần ngại điền tên mình vào sư đoàn 23 bộ binh đóng tại Buôn mê thuột, dù sao từ đây về Nha Trang cũng gần hơn so với nơi đồn trú của các sư đoàn khác. Tám ngày trọng cấm đầu tiên bị phạt vì tội trễ phép một tuần. Thực ra không phải trễ, chính Hoà muốn ở lại Sàigòn chơi với bạn bè. Trong thời gian vắng mặt bất hợp pháp, Hoà điện thoại về Liên đoàn sinh viên thông báo rằng, Hòa ở lại Sàigòn cho đến chiều Chủ nhật sau sẽ về trình diện. Lần thứ hai, trong dịp thực tập hành quân chung quanh vùng Thủ Đức, khi đoàn quân vừa xuất phát, Hòa đã tách khỏi đại đội, mang theo súng và balô rẽ vào nhà người quen chè cháo, uống rượu say rồi ngủ quên. Kiểm điểm quân số trước khi lên xe sĩ quan trung đội trưởng mới khám phá sự vắng mặt của Hòa, cả đại đội náo động lên chia nhau đi tìm kiếm lục soát đến khuya. Lúc khám phá ra, Hòa chưa tỉnh rượu. Cầm sự vụ lệnh lên trình diện trung đoàn 45 đóng tại cây số 5 gần thị xã Buôn mê thuột, vùng cao nguyên đất đỏ, tuy còn xa lạ nhưng trong lòng Hòa vẫn thấy bình thản. Vừa xuống xe đò Hòa vào ngay ban 1. Làm xong thủ tục, đại úy trưởng ban nhân viên dẫn Hòa lên trình điện trung tá Cẩn trung đoàn trưởng. Trung tá Cẩn nhìn từ đầu xuống chân: - Xem lý lịch, khả năng trình độ học vấn của anh khá lắm nhưng tại sao các ngành nghề chuyên môn không dùng anh mà đẩy lên đây? - Thưa trung tá, dạ con bà phước! Nhìn lại Hòa một lần nữa, trung tá trung đoàn trưởng hỏi lại Hòa: - Chắc trong quân trường anh ‘ba gai’ phải không? Hòa líu ríu: - Dạ, không có thưa trung tá. Đại úy ban nhân viên đứng bên cạnh trình: - Trình Trung tá, bị phạt mười sáu ngày trọng cấm. Trung tá Cẩn ngồi ngửa ra sau, dựa lưng vào ghế gật gật đầu: - Tôi cũng đoán như vậy! Vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào quân bạ. Hòa sợ trung tá đọc hết chi tiết nên vội thưa vắn tắt: - Dạ trễ phép và ngủ…quên. Trung tá Cẩn cho lệnh đại úy ban nhân viên lui ra xong nói với Hòa: - Hiện giờ Trung đoàn đang thiếu một sĩ quan chính huấn, mặc dù anh chưa học qua khóa chiến tranh chính trị, nhưng tạm thời tôi bổ nhiệm anh vào chức vụ nầy. Trình diện đại úy Túy, trưởng ban 5, ông ta sẽ hướng dẫn công việc của một sĩ quan chính huấn. Hòa đứng nghiêm chào trước khi lui ra: - Dạ, cám ơn Trung tá. Tưởng sẽ xách balô xuống tiểu đoàn, không ngờ may mắn được ở lại bộ chỉ huy trung đoàn..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Hòa được cấp một phòng danh riêng cho sĩ quan độc thân trong phạm vi doanh trại, nằm sát mấy phòng của các em nữ quân nhân, như vậy cũng an ủi được phần nào! Nghe đại úy Túy thuyết một hồi, Hòa hiểu đại khái nhiệm vụ của một sĩ quan chính huấn là huấn luyện chính trị cho binh sĩ và hạ sĩ quan của Trung đoàn. Thú thực chẳng biết gì để lên lớp, Hòa mượn mấy quyển sách của cục chính huấn về đọc qua loa vài chương. Trung đoàn 45 tọa lạc tại một khu đất rộng cách trung tâm thành phố Buôn mê thuột 5 cây số trên quốc lộ 21 đường đi Ninh hòa. Sau lưng bộ chỉ huy còn có trung tâm huấn luyện bổ túc và trường huấn luyện võ thuật. Khu vực nầy thường hứng đạn súng cối do Việt cộng câu đến với tầm súng 81 ly. Sân bắn thường được dùng để tổ chức lớp học chung những lúc các tiểu đoàn về dưỡng quân. Khi nào tổ chức lớp học cho từng đơn vị một, Hòa xử dụng sân cờ của từng tiểu đoàn cơ hữu. Ngày đầu tiên Hòa lên lớp với quân số của ba tiểu đoàn gom lại, lớp học tổ chức ngay trên sân bắn trung tâm huấn luyện. Vào bài, Hòa cố ra vẻ trịnh trọng nghiêm trang của một huấn luyện viên chính trị, trước mặt, anh em hạ sĩ quan binh sĩ tuy đang nghiêm chỉnh nhưng ai nấy đều ngủ ngồi một cách ngon lành. Trên bục Hòa thao thao bất tuyệt, dưới đất tất cả đều nhắm mắt bất động. Bổn phận Hòa vẫn phải nói nhưng thông cảm cho những người lính trận, suốt tuần suốt tháng lặn lội trong rừng, về hậu cứ nghỉ được vài ngày thì phải học chính trị. Nếu không ngủ gật, đầu óc cũng đang hướng về vợ con, một bữa cơm nóng hay một vài ngày phép thường niên. Để chấm dứt buổi học và đánh thức anh em dậy ra về, Hòa kết thúc bằng những chuyện tiếu lâm. Nghe đến chuyện tiếu lâm anh em tỉnh táo ngay và đứng dậy vỗ tay hoan hô nồng nhiệt dành cho một buổi học chính trị thành công mỹ mãn. Vào dịp lễ Giáng sinh Trung tá trung đoàn trưởng tổ chức buổi tiệc tại trung đoàn, quan khách quan trọng gồm Tướng tư lệnh sư đoàn, Đức giám mục địa phận, Đại tá tỉnh trưởng tỉnh…. Hòa được kêu lên văn phòng trung tá trung đoàn trưởng: - Tôi giao trách nhiệm cho anh tổ chức tiếp tân, công việc nhà bếp và phục vụ ẩm thực cho quan khách. - Thưa trung tá tôi sợ không đủ khả năng. - Anh là một sĩ quan chiến tranh chính trị ! hơn nữa trước khi vào lính đã có kinh nghiệm về ngoại giao, tiếp tân tổ chức tiệc tùng, tôi thấy anh có thể đảm trách được. - Thưa trung tá, kinh nghiệm chẳng có gì nhưng tôi sẽ cố sức làm tròn nhiệm vụ. - Được, anh tính toán xem cần những gì để tổ chức một bữa tiệc với các món ăn theo phong tục tây phương. Tôi lưu ý anh tiệc mời gần 60 người, trong đó có Tướng tư lệnh sư đoàn, Đức giám mục, Đại tá Tỉnh trưởng, Ông Chánh án… Anh phải làm thế nào khỏi mất mặt trung đoàn. Hòa biết đây là lệnh của thượng cấp, chưa biết phải tính toán thế nào nhưng cũng đứng nghiêm: - Tuân lệnh. - Anh cần gì cứ trực tiếp gặp tôi. - Tuân lệnh. Hòa phát họa các món ăn chính gồm ngỗng, trừu và tôm hùm. Phần rượu gồm chát trắng và đỏ dùng riêng với từng loại tôm thịt khác nhau. Champagne uống với bánh sinh nhật. Scotch để sẵn để vị nào muốn dùng trước tạo ngon miệng hay sau cùng để giúp tiêu hóa dễ dàng các món ăn. Sau khi trung đoàn trưởng vui vẻ thông qua các món ăn đến lượt Hòa vắt chân lên cổ để kiếm mua ngỗng đúng tuổi. Non thì hôi ngỗng, già thì dai thịt. Phần rượu phải vào tận Sàigòn tìm đúng loại chính gốc nhập qua từ Châu âu. Hòa chuẩn bị trước gần hai tuần cho ngày đãi khách. Mượn tạm ba anh quân dịch ở tiểu đoàn tác chiến, gốc người Hoa trước kia nấu bếp tại chợ lớn để tăng cường bếp chính. Hướng dẫn cách phục vụ, bưng dĩa, rót rượu cho các nữ quân nhân. Riêng bàn danh dự, chính Hòa phải đảm trách. Một điều quan trọng, ngày nào Hòa cũng nhắc ông thượng sĩ thường vụ và đầu bếp chánh, trong đám ngỗng mua về, chỉ có một con ở độ tuổi ngon nhất, khi làm thịt phải canh chừng đừng để lẫn lộn với thịt dai của các con khác. Nhưng sự việc xảy ra ngoài ý muốn của tất cả mọi người. Các cô nữ quân nhân đã bưng lầm lên bàn danh dự những dĩa thức ăn làm bằng thịt các con ngỗng quá tuổi. Đức giám mục dùng dao cắt miếng thịt đến ba lần, ngài quay qua nói đùa: - Anh Cẩn, con ngỗng nầy học thái cực đạo đã mấy năm rồi? Ông Tướng tư lệnh còn phang thêm một câu: - Nó mang đai đen mấy đẳng anh Cẩn!.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Phía quan khách được dịp cười rần lên. Trung tá trung đoàn trưởng đỏ mặt nhìn Hòa. Hòa chỉ còn trân người chịu đựng chẳng biết làm gì được bây giờ. Mất tinh thần vì các món thịt ngỗng, Hòa hơi run tay khi mở các chai champagne biểu diễn trước mắt quan khách. Mặc dù rượu chính Hòa tự tay lựa chọn từ các cửa hàng trên đường Tự do Sàigòn, nhưng vẫn thiếu bình tĩnh khi nắm nghiêng chai rượu vặn ngược khóa giây kẽm và dùng ngón cái đẩy nhẹ nút chai. May mắn, một tiếng nổ dòn, nút chai bay lên trần nhà và làn hơi khói bay ra… Hòa thở ra nhẹ nhỏm, đúng là rượu thật, người vui nhất có lẽ là trung tá trung đoàn trưởng. Cha Tâm, tuyên úy sư đoàn vớt vác cho Hòa sau vụ trục trặc thịt ngỗng: - Chuẩn úy, hôm nào rảnh tôi phải theo anh học khóa mở rượu champagne mới được. Ngay sáng hôm sau, Hòa được kêu lên trình diện: - Tôi không muốn nói với anh một câu gì nữa. Anh về chuẩn bị, xuống ban nhân viên lấy sứ vụ lệnh lên trình diện tiểu đoàn 1 trên Quảng Đức. Hòa cũng không còn gì trình bày trong lúc nầy, Hòa đứng nghiêm chào: - Tuân lệnh trung tá. Hòa vừa quay gót, vị trung tá gọi lại: - Không ai gởi gắm anh cho tôi khi anh đến đây. Thấy anh có khả năng muốn giữ anh lại trung đoàn nhưng tối hôm qua anh đã làm tôi thất vọng. - Xin lỗi trung tá chuyện xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Chuyến bay C123 hai ngày sau đó đưa Hòa và một số quân nhân đi Quảng đức. Ngọn đồi thấp và ngắn ở đầu tỉnh lỵ do công binh san bằng làm phi trường, máy bay phải thắng gấp khi các bánh xe vừa chạm đất, nếu không phi cơ sẽ đâm đầu xuống thành phố. Mang danh tỉnh lỵ chứ thật sự chỉ là thị trấn quá nhỏ, đứng trên cao có thể nhìn thấy toàn diện thị trấn với con đường độc nhất chạy từ phi trường đến cổng ra vào tiểu khu. Vài chục tiệm ăn, cửa hàng tạp hóa xen kẽ với các cơ quan hành chính tỉnh tập trung chung quanh khu chợ. Thị trấn hẻo lánh của lính và của những bộ lạc Thượng ở rải rác chung quanh. Mỗi tháng một chuyến mở đường tiếp tế đến từ Buôn mê thuột, do địa phương quân tiểu khu đảm trách từ quận Đức lập trở lên. Quốc lộ 19 từ quận trở về Buôn mê thuột trách nhiệm bởi các lực lượng của Sư đoàn. Về trình diện tiểu đoàn 1 do đại úy Tình chỉ huy. Vị đại úy nổi tiếng khắt khe nhất của trung đoàn 45 từ trước đến nay. Một sĩ quan cùng chung chuyến máy bay cho Hòa biết: - Anh sẽ bị đại úy Tình đày cho biết thân. - Tôi có làm gì đâu và cũng chẳng có liên hệ gì, tại sao? - Ông ta có thói quen, trung đoàn đã đày về thì ông sẽ làm tới không nương tay. - Thì cũng trung đội trưởng tác chiến là cùng, còn chỗ nào hơn nữa ! - Rồi anh xem. Khi vào trình diện, gặp lúc tiểu đoàn đang họp, các đại đội trưởng và ban tham mưu có mặt đông đủ. Đại úy Tình nhìn Hòa: - Thêm một thằng bị đày lên đây. Cầm chai bia uống một hơi xong quay qua hỏi Hòa: - Sao bị đưa lên đây vậy? - Thưa đại úy tôi nghĩ không phải bị đày. Trường bộ binh Thủ đức đào tạo ra để làm trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở Buôn mê thuột, Quảng đức hay ở bất cứ nơi nào cũng vậy. Một trung úy ngồi cạnh chen vào: - Nói đúng, không sao đâu, lên đây lội rừng bắt vắt với chúng tôi cho vui. Đại úy Tình hỏi: - Nghe nói đang giữ chức vụ sĩ quan chính huấn của trung đoàn sao hôm nay balô khăn gói lên đây? - Không phải nghề của tôi, thưa đại úy. Một trung úy còn trẻ thưa: - Đại úy cho tôi xin chuẩn úy này, đại đội tôi còn thiếu một sĩ quan. - Nếu anh muốn. Hòa theo xe về đại đội đang đóng trên phi trường. Vừa bước xuống Trung úy trẻ cho biết: - Tôi tên Điệp, để gọi anh em ra giới thiệu với anh. Một thiếu úy hai chuẩn úy và một thượng sĩ người Thượng bước vào lều: - Tôi vừa xin chuẩn úy Hòa về với chúng ta. Như vậy đại đội đủ sĩ quan theo cấp số..

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Quay qua thượng sĩ người Thượng: - Chuẩn úy Hòa sẽ thay anh trên nguyên tắc, nhưng tôi yêu cầu anh giúp đỡ anh Hòa, cứ chỉ huy trung đội 3 như thường lệ. - Dạ, tuân lệnh. Hòa lên tiếng: - Trước hết cám ơn trung úy đã xin tôi về đây, sau cám ơn thượng sĩ đã nhận lời giúp tôi trong thời gian đầu và cuối cùng xin chào các anh. Xong mấy chai bia, tất cả lui ra, trung úy Điệp nhắc Hòa: - Thượng sĩ Y Kloc rất giỏi, tôi muốn ông ta tiếp tục giúp anh trong lúc đầu. Hành quân anh sẽ đi sát với ban chỉ huy, có gì còn có tôi. - Không sao đâu, trường dạy sao thì làm vậy. Xin cám ơn trung úy. Trung úy Điệp xuất thân khóa 18 Võ bị Đà lạt, ra trường đã chọn sư đoàn 23 bộ binh. Sau một năm làm trung đội trưởng, ngày lên trung úy nhận ngay chức vụ đại đội trưởng đại đội này. Trung úy Điệp là sĩ quan xuất sắc và có tài, đại úy Tình trọng nể nhất trong số đại đội trưởng khác của tiểu đoàn. Chính điểm nầy, đại đội của trung úy Điệp thường đảm trách nhiệm vụ nặng nề hơn những đại đội khác. Tiếp theo đó, thượng sĩ Y Kloc đã tập họp anh em binh sĩ thuộc trung đội 3 để ra mắt Hòa. Hai trung sĩ, hai hạ sĩ và hai mươi hai binh sĩ nghiêm chỉnh chào Hòa trước cửa văn phòng đại đội. Hòa đã dành nhiều thời gian hỏi han vui đùa với các anh em: - Mặc dù tôi là trung đội trưởng, nhưng thượng sĩ Kloc vẫn giúp tôi chỉ huy các anh trong một thời gian ngắn. Tôi sung sướng về trung đội 3 với các anh, khổ cực sống chết cùng có nhau. Nhìn đám anh em sẽ cùng sanh ra tử với mình, Hòa sót xa nhìn từng người, tất cả còn trẻ nhưng nỗi khắc khổ hiện rõ nét trên khuôn mặt. Hoàn cảnh họ cũng như Hòa, từ giã cha mẹ vợ con lên đường thi hành nhiệm vụ. Nhà cửa giờ đây là đồi núi, gia đình không ai hơn ngoài anh em đồng đội và tài sản chỉ vỏn vẹn chiếc balô. Hôm nay vui cười nhưng chưa biết ngày mai, sau cuộc hành quân trở về, sẽ rên rỉ trên chiếc băng ca hay nằm yên trong quan tài bằng gỗ. Thượng sĩ Y Kloc trình diện Hòa một binh sĩ trẻ: - Binh nhì Xí tình nguyện theo giúp chuẩn úy. Hòa nhìn người bạn mới, tuổi chừng hai chục, khỏe mạnh đẹp trai. - Anh đẹp trai sao lại mang tên Xí? Xí cười đưa hàm răng trắng: - Hồi nhỏ khó nuôi, mẹ em phải đổi tên… - À, tôi biết. Chốc nữa nói chuyện nhiều. Hướng về phía thượng sĩ Kloc, Hòa tiếp: - Cho tan hàng, tôi sẽ ở chung với anh em trung đội. Xí theo Hòa vào căn nhà sát văn phòng đại đội, nơi dành riêng cho các sĩ quan trung đội trưởng, Xí hỏi: - Sao chuẩn úy không ăn ngủ chung với các sĩ quan kia? - Tôi muốn ăn ở chung với anh em. Xí kê chiếc giường xếp một góc trong phòng, cũng là nơi ăn uống nghỉ ngơi của trung đội, rồi hỏi Hòa: - Đồ đạc chỉ có chiếc balô? - Ừ chỉ có vậy, tôi muốn từ nay ăn chung với anh em và chiều nay mình xuống quán mua cái gì về tất cả nhậu chung. - Đây chẳng có gì nhiều như ở Buôn mê thuột. - Thì mua vài chục chai bia, vài ký thịt bò xào củ hành. - Dạ, như vậy cũng nhất rồi chuẩn úy. Trong buổi cơm tối, Hòa có dịp vui chơi với từng anh em một. Thượng sĩ Y Kloc là lính chuyên nghiệp, vợ bốn con ở tại quận Buôn Hô gần Buôn mê thuột. Chỉ biết đọc và viết nhưng có nhiều kinh nghiệm về trận mạc rừng rú. Tính tình ngay thẳng được lòng tất cả anh em. Trung sĩ nhất Vàng xuất thân trường Hạ sĩ quan Đồng đế, lanh lợi và gan dạ, có vợ hai con đang ở trong trại gia binh tiểu đoàn. Thượng sĩ Kloc nói nhỏ cho Hòa biết khi giới thiệu tiểu đội trưởng tiểu đội 3, trung sĩ Tâm, người ba gai nhất trung đội, nhất là sau khi vào vài chai rồi thì xem trời trăng chẳng ra gì nữa. Nhưng lại là một hạ sĩ quan gan dạ chuyên đi đầu mở đường rất giỏi. Tâm thường gọi mấy sĩ quan vừa ra trường là ‘chuẩn úy sữa’ mà phách lối, tuân hành mệnh lệnh nhưng không bao giờ chịu phục tùng ai..

<span class='text_page_counter'>(42)</span> Hòa trấn an: - Nhưng là một hạ sĩ quan giỏi, sẽ làm được nhiều việc. - Nó đang bất mãn về vụ đi phép của nó. - Được để tôi xem lại. Vừa ăn xong có lệnh sáng mai lên đường sớm. Đối với anh em trung đội không có gì lạ, chuyện hành quân như cơm bữa, có thể lên đường ngay tức khắc không có gì thắc mắc. Nhưng Xí vừa vội vã lo cho mình vừa lo cho Hòa: - Đồ đạc để em mang. - Không được, anh mang đồ của anh, tôi phải mang theo đồ dùng của tôi. Nếu anh vui lòng thì nấu ăn giùm cho tôi trong thời gian hành quân vì tôi không có nhiều thời giờ. - Bổn phận của em mà. - Không phải bổn phận của một người lính mà tình cảm cá nhân với nhau. Tôi tự lo cho tôi những gì có thể làm được. Vừa nói, Hòa vừa sắp balô cho mình, chiếc võng, cái mền, mấy gói cơm sấy, ký cá khô. Thấy còn rộng chỗ, Hòa bảo Xí, - Anh đưa hết mì gói của hai anh em mình qua cho tôi mang. Nhẹ mà. - Để em mang. - Anh còn cái soong và mấy lon guigoz nữa. Đừng để tôi nói nhiều ! Tâm vừa để khẩu súng lục vào balô vừa giải thích với Xí: - Thứ nầy để làm kiểng cho vui, đụng trận chẳng có ich gì. Anh lấy thêm một cấp số đạn carabin cho tôi. Vừa sáu giờ sáng đại đội đã tập họp lên đường. Tất cả anh em trong đại đội ngạc nhiên khi thấy Hòa vai balô, súng carabin M2 cầm tay, trên người còn thêm hai trái lựu đạn, bi đông nước và hai cấp số đạn như một binh sĩ ra trận. Trung sĩ Tâm hỏi Hòa: - Thằng Xí đâu mà chuẩn úy tay xách vai vác? - Tôi cũng có tay có sức như các anh vậy. Trung sĩ Tâm đứng thẳng người lên đưa tay kính cẩn chào Hòa. Nhìn người lính bộ binh hành quân một tuần với năm bảy chục cây số rừng rậm núi cao, trên vai không dưới hai chục ký lô… nào súng với hai cấp số đạn cá nhân, một thùng đạn liên phụ trội, lương khô thực phẩm, võng mền, chén đũa, Hòa không thể nhẫn tâm nhờ một người nào mang gì thêm, tự mình lo liệu với khả năng. Nghe anh em kể lại bây giờ Hòa mới thấy những gì thượng sĩ Kloc vừa nói về Xí. Vừa đi vừa nấu cơm, mì hoặc nấu canh, thậm chí còn làm gà trong lúc di chuyển dưới mưa. Bí quyết chỉ cần một nón sắt, móc giây kẽm xuyên qua khúc cây làm đòn cho hai người gánh, nấu nước sôi trong lon guigoz treo tòn teng phía trên nón. Một tô mì, nồi canh chỉ cần mười phút, nồi cơm mười lăm phút và nửa tiếng có thể nhậu bộ lòng gà. Chưa nhậu xong bộ lòng đã có ngay thịt gà bóp tiêu muối hay kho mặn. Những lúc dừng chân ngủ đêm, nằm sát bên nhau Xí có lần tâm sự: - Gia đình em chỉ có mẹ già và hai anh em, đứa em còn nhỏ. Em rớt tú tài 1 liên tiếp hai năm, phải trình diện đi quân dịch. - Học đến đệ nhị, sao em không theo học khóa hạ sĩ quan? - Em không muốn ở lâu trong quân đội, bỏ mẹ già một mình đơn chiếc không ai ngày đêm chăm sóc. Em hy vọng xong thời hạn quân dịch ra về sống với gia đình. - Sao không nghĩ đến chuyện lập gia đình để bà cụ có người bên cạnh trong lúc vui buồn? Xí cười: - Ai thèm lấy lính, nói đúng hơn con gái bây giờ sợ góa chồng quá sớm. Hòa thầm nghĩ tội nghiệp cho tuổi trẻ cũng như tội nghiệp cho chính mình, thời buổi chiến tranh càng ngày càng ác liệt, biết đến bao giờ có thể áp dụng đứng đắn thời hạn thi hành quân dịch: - Hoàn cảnh của em sao không xin phục vụ gần nhà? - Khó lắm chuẩn úy, làm lính kiểng phải chạy chọt một số tiền lớn, không được lãnh lương mà còn phải đóng thêm hụi chết hàng tháng. Xin vào tiểu khu làm những công việc vớ vẩn để được gần nhà thì không đủ tiền để mua một chỗ. Xí hỏi ngược lại Hòa: - Còn chuẩn úy, sao lại lên đây? - Học ra Thủ đức để làm trung đội trưởng tác chiến, phục vụ ở đâu cũng vậy. Sống chết đều có.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> số mạng. - Thế chuẩn úy có gia đình chưa? - Mới cưới cách đây gần một tháng ! - Cô quê người gốc đâu? - Sàigòn và hiện đang ở tại cư xá sĩ quan trung đoàn. Không nghe hỏi tiếp, Hòa chỉ nghe tiếng thở nhè nhẹ của Xí và tiếng mưa rơi đều xuống tấm poncho. Tỉnh Quảng đức thuộc khu 23 chiến thuật do sư đoàn 23 bộ binh trách nhiệm. Trong tình hình lãnh thổ khu chiến thuật không sôi động, sư đoàn thường tăng phái lên đây một tiểu đoàn bộ binh với nhiệm vụ hành quân lục soát và giữ gìn an ninh vùng rừng núi hiểm trở bao quanh tiểu khu. Tiểu đoàn 1 do đại úy Tình chỉ huy đang tăng phái đến, nhưng những cuộc hàng quân lục soát thường tổ chức ở cấp đại đội. Trong thời gian Hòa phục vụ tại đây, chưa lần nào đụng độ lớn với địch, chỉ gặp từng nhóm nhỏ vài ba tên thường đặt mìn quấy phá chung quanh các trục lộ hoặc câu đạn cối vào thị trấn và bộ chỉ huy tiểu khu. Bộ chỉ huy tiểu đoàn lên tăng phái tiểu khu xem như đi dưỡng sức trong lúc các đại đội phải trèo núi băng rừng lội suối. Cứ sáu ngày hành quân được một ngày nghỉ. Đặc biệt chưa có thứ bảy chủ nhật nào được nghỉ ngơi, lý do đơn giản là những ngày địch thường pháo kích vào tiểu khu trong lúc các quan chức tổ chức đánh bạc nhảy đầm và ăn nhậu. Ba khu vực hành quân chung quanh thị trấn do kế hoạch của phòng 3 tiểu khu phối hợp với tiểu đoàn nghiên cứu. Các đại đội phải tiến quân theo hướng đã định, chiếm các ngọn đồi và lục soát những tọa độ đã được chấm sẵn, Rừng già chằng chịt tre và mây rừng, những toán tiền phong phải khó khăn để mở đường cho các trung đội theo sau. Băng rừng lội suối chiếm mục tiêu nầy qua mục tiêu khác và nhất là phải chiếm những ngọn đồi nghỉ qua đêm. Hình như địch không lập căn cứ lớn hay chuyển quân ngang qua các khu rừng núi quanh khu vực Quảng đức. Những cuộc hành quân lục soát thường nhắm vào những toán nhỏ giao liên hậu cần, quấy phá bằng súng cối, chận các trục giao thông, đặt mìm trên các trục lộ và chận xe đò thu thuế. Sáu ngày trong tuần cơm sấy cá khô, vật lộn với đồi núi mây rừng tre hoang, muỗi sốt rét và vắt rừng, một loại đỉa rừng nhỏ con nhưng hút máu còn độc hơn đỉa sông. Anh em binh sĩ thường mong đụng trận lớn, sau đó còn được nghỉ xả hơi vài ngày còn hơn tuần nầy tháng nọ lặn lội lùng bắt mấy tên Việt Cộng quấy rối. Chúng đợi quân ta đi qua, chui ra bắn vài ba tràng tiểu liên rồi vác súng chạy… Thị trấn không có gì vui ngoài vài quán nhậu. Năm ba chai bia vài tô phở làm nguồn vui độc nhất của anh em binh sĩ mỗi khi được về nghỉ một ngày trong tuần. Thị trấn nhỏ bé của lính, làm sao tránh khỏi ồn ào mỗi khi bia rượu đón tiếp người về từ các cuộc hành quân. Tiểu khu thường than phiền với đại úy Tình rằng lính của tiểu đoàn gây ồn ào náo loại thị trấn. Cuối cùng tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng đưa cho đại úy Tình cây gậy để tự đập mình bằng cáchbổ nhiệm đại úy Tình làm quân trấn trưởng thị trấn Quảng đức! Chức vụ nầy không có gì quan trọng hơn ngoài việc chỉ huy quân cảnh tiểu khu, tuần tiễu bắt lính gây ồ ào say sưa làm mất trật tự ngoài đường. Đại úy Tình họp anh em sĩ quan chửi một trận: - Các anh không biết giáo dục binh sĩ để chúng ăn uống say sưa ngoài đường, bây giờ tiểu khu đưa cho cây gậy để tự đập mình… Trung úy Điệp trình bày: - Suốt tuần trong rừng, về nghỉ được một ngày cũng nên nhắm mắt để anh em vui chơi một chút. Đại úy Tình chưởi thề: - Đ…m… chúng nó đưa gậy để anh em mình đập nhau. Hòa đứng lên xin phép: - Xin phép đại úy cho tôi có ý kiến. - Nói đi Hòa. - Thì mình dùng gậy đập chúng nó trước. Tất cả sĩ quan đồng ý: - Hay đó, nói đi Hòa. - Đề nghị ‘tân quân trấn trưởng‘ ra một nhật lệnh phổ biến rằng, để duy trì quân phong quân kỷ, quân trấn sẽ áp dụng hình phạt tại chỗ đối với tất cả quân nhân các cấp về tội say sưa gây rối loạn, ăn mặc thiếu tác phong, tóc tai hớt không đúng tiêu chuẩn….

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Đại úy Tình hỏi: - Rồi sao? - Đợi chiều chủ nhật tuần nầy, đại úy chuyển nhật lệnh qua tiểu khu thông báo, để không ai kịp chuẩn bị đề phòng. Thứ hai anh em chúng ta đang lúc còn ở trong rừng, trước giờ chào cờ, đại úy chỉ huy đám quân cảnh đứng tại cổng ra vào tiểu khu cũng như giữa phố, chận tất cả sĩ quan tiểu khu, dùng tondeur xớt ngay một đường từ trước ra sau, theo lệnh của quân trấn trưởng vừa ban hành hôm qua. Nhật lệnh cần nhấn mạnh, tất cả quân nhân các cấp sĩ quan trong quân trấn phải làm gương trước cho anh em binh sĩ, tóc tai gọn gàng đúng tiêu chuẩn quân phong quân kỷ... Một thiếu úy thêm vào: - Đám sĩ quan tiểu khu tên nào tóc cũng dài xuống tận vai, chỉ cần xớt một đường là đủ ăn tiền! Tiếng vỗ tay hoan hô của các sĩ quan cổ võ thối thúc đại úy Tình phấn khởi, ông ra lệnh Hòa thảo ngay một nhật lệnh, mỗi đại đội cho trình diện tiểu đoàn năm người với dao kéo và tondeur hớt tóc. Kết quả sau đó một tuần tiểu đoàn được lệnh rút về lại Buôn mê thuột! Về hậu cứ, tiểu đoàn tạm thời đảm trách an ninh chung quanh Buôn mê thuột theo chương trình yểm trợ bình định nông thôn. Các đại đội chia ra đóng quân ở ba khu vực dọc theo quốc lộ 14 nối liền Buôn mê thuột với Pleiku. Đại đội Hòa lãnh nhiệm vụ vùng Quảng nhiêu, thuộc quận Buôn Hô, cách thị xã chừng 30 cây số về hướng tây bắc. Vùng đất xôi đậu nầy là địa bàn hoạt động của địch, vừa thu hoạch nông sản phẩm, hoạt động du kích và quấy phá quốc lộ 14 huyết mạch vùng cao nguyên. Đại đội trưởng gọi Hòa căn dặn: - Anh là sĩ quan tôi tin tưởng, tôi giao trung đội anh vào đóng trong xã Quảng nhiêu, vùng xôi đậu chứa chấp, bao che địch nằm vùng như anh đã biết. Phải cẩn thận và khôn khéo trong việc tiếp xúc với dân. - Tôi sẽ kiểm soát và không để anh em tiếp xúc trực tiếp với dân. Xã Quảng nhiêu đếm chừng vài trăm nóc nhà, dân từ xứ Quảng lên đây lập nghiệp. Dưới thời Tổng thống Ngô đình Diệm đây là một ấp chiếc lược kiên cố, tổ chức chặt chẽ, nhưng từ lúc chương trình này bị hủy bỏ nơi đây trở thành địa bàn hoạt động nằm vùng. Bên đêm địch về thu gom lúa gạo, tổ chức tuyên truyền học tập. Sư đoàn và tiểu khu đã tổ chức nhiều cuộc hành quân truy lùng nhưng không kết quả. Nhà nào tại đây cũng có chồng, con hoặc anh em theo địch, ban ngày phân tán rút vào rừng ban đêm trở về với gia đình. Hiệp định Genève chia cắt Việt nam làm đôi ở vĩ tuyến 17, Việt cộng đã ngon ngọt dụ dỗ và bắt cóc hàng chục ngàn người đưa ra bắc. Một kế hoạch thâm độc dùng tình thân ruột thịt để trấn áp những gia đình còn lại trong Nam. Những người bị bắt đưa đi, khi huấn luyện xong, miền Bắc đưa trở lại vô Nam, buộc gia đình phải bao che, hợp tác với địch. Mẹ không thể tố giác con, vợ không thể phản bội chồng, anh em tình máu mủ phải đùm bọc lấy nhau. cộng sản biến những người nầy với gia đình họ thành những thành phần nằm vùng nòng cốt ở miền Nam. Những địa bàn nổi tiếng xôi đậu miền trung, từ Quảng Nam Quảng Ngãi, đến miền nam như Củ Chi Bến Tre đã gây khó khăn và hao tổn cho quân đội miền Nam. Thủ đoạn dùng máu mủ tình thân giữa cha mẹ vợ chồng con cái anh em là một hành động tàn bạo vô nhân đạo đã đem lại những khổ đau tận cùng đến hàng chục ngàn gia đình sống giữa gọng kìm của hai chế độ. cộng sản lợi dụng liên hệ gia đình thao túng, buộc thân nhân phải phục tùng, làm địch vận, đóng thuế, nuôi dưỡng chứa chấp cán bộ nằm vùng. Phía niềm Nam nghi kỵ, kiểm soát cô lập và xếp loại những gia đình này thuộc thành phần tay sai của cộng sản niềm Bắc. Rất nhiều trường hợp trớ trêu và đau lòng, trong gia đình nhiều cha con, anh em ruột thịt ở hai chiến tuyến gặp lại nhau trong đắng cay chua chát, đôi lúc còn thẳng tay bắn giết lẫn nhau nơi trận địa ! Hòa cho trung đội đóng tại bìa rừng, bên hông chợ. Dân trong xã không có thiện cảm khi thấy quân đội vào trú đóng tại đây. Chợ tan sớm, dân chúng rút vào nhà, ngoài sân không thấy bóng trẻ con. Đến chiều, cùng đi với Xí và anh truyền tin Hòa vào xóm tìm gặp trưởng làng thăm hỏi xã giao đồng thời cho họ biết việc đóng quân chỉ tạm thời với mục đích để giữ gìn an ninh cho xã. Nhưng dân chúng đậy cửa đóng then cài, không muốn tiếp xúc với những người lạ mặt. Nhiệm vụ của trung đội nằm ngoài phạm vi xã, ban ngày tuần tiểu tảo thanh khu vực chung quanh, ban đêm tổ chức nhiều tổ kích đón bắt những tên nằm vùng thường lén lút về nhà. Những.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> tổ kích ban đêm luôn di động và thay đổi vị trí liên tục nhưng vẫn không tóm được tên du kích nằm vùng nào. Có nhiều đêm nghe tiếng chó sủa mừng người quen, Hòa biết chúng đang có mặt bên trong xã, nhưng không phải nhiệm vụ của trung đội. Hòa cho anh em bám sát những căn nhà nghi ngờ, nhưng chúng đã thoát một cách an toàn và bí mật. Hơn ba tuần lễ sau đại đội được hoán chuyển về giữ an ninh trên trục lộ 21, yểm trợ các trợ toán bình định nông thôn đang hoạt động trong phạm vi quận Phước an. Thoải mái và sung sướng nhất trong thời gian làm trung đội trưởng tác chiến của Hòa là lúc đóng chốt nằm tại đồi Chukuc, có nhiệm vụ giữ an ninh khu vực chung quanh đồi và khoảng 10 cây số trên quốc lộ 21. Chung quanh Chukuc, một vùng đất đỏ phì nhiêu với những khu rừng thưa, nhiều buôn của người thượng tập trung tại đây. Địch quân không thể len lỏi ẩn núp trong buôn, chúng đến đây mục đích lấy nông sản phẩm. Người thượng không theo Việt cộng, họ thẳng thắng nói rõ như vậy và thường cho Hòa biết tin tức mỗi khi chúng xuất hiện tại đây. Hòa và anh em trong trung đội thường vào buôn an toàn, uống rượu mua bán trao đổi với dân ở đây. Trước khi đến, Hòa đã xin người bạn dược sĩ trong tiểu đoàn quây y một số thuốc cảm, nhức đầu đau bụng đồng thời gởi tiền xuống Nha Trang nhờ mua mấy tạ muối làm quà trao đổi gà vịt rau cải với các buôn. Người thượng rất sòng phẳng, họ không nhận của cho mà thích trao đổi. Nhờ vậy trong thời gian đóng ở khu vực này anh em trong trung đội được ăn uống đầy đủ. Hòa rất khắt khe và nghiêm cấm nhiều vấn đề với anh em trung đội trong việc tiếp xúc mua bán đổi chác với dân trong buôn. Hòa được dân trong buôn xem như người bạn và ông thầy thuốc giỏi, vì bệnh gì thầy thuốc cũng đều chữa khỏi với vài viên aspirine. Ban ngày trung đội rải quân dài và tuần tiễu dọc theo quốc lộ, ban đêm chia thành ba tổ kích, nhưng may mắn trong thời gian đóng quân ở đây không xảy ra đụng độ nhỏ nào. Một đêm Hòa kiểm soát một tổ kích, khám phá hạ sĩ An và binh nhất Thái vắng mặt. Vừa hỏi xong Hòa nghe anh em cười ồ lên - Chút nữa chuẩn úy sẽ biết ! Hòa chất vấn trung sĩ tiểu đội trưởng: - Cho tôi biết hai người nầy đi đâu? - Dạ vào rừng một chút, chúng nó sẽ về ngay. - Ban đêm vào rừng làm gì? - Quanh quẩn gần đâu đây không đi xa đâu chuẩn úy. - Tôi đang ở với tiểu đội Trung sĩ Tâm, nếu hai anh Thái và An về, cho qua trình diện tôi. - Dạ chuẩn úy. Trung sĩ Vàng vừa dứt câu, Thái và An đã về đến, gặp Hòa, hai người đứng nghiêm đưa tay lên chào: Hòa hỏi ngay: - Đêm hôm các anh bỏ đơn vị đi đâu đến giờ? Thái ấp úng: - Chúng em đi… - Đi đâu? An gải đầu: - Dạ đi ‘bắt cái nước’. Thái tiếp: - Dạ bắt cái nước với hai em thượng ở bụi cây gần phía sau. Hòa nghiêm giọng: - Bỏ đơn vị trong lúc thi hành phận sự, các anh biết có lỗi không? - Dạ - Hơn nữa, lỡ có bầu tội nghiệp cho người ta, tôi làm sao ăn nói với tộc trưởng trong buôn? Thái năn nỉ Hòa ngồi xuống đám cỏ, giải thích: - Chuẩn úy đừng lo chuyện đó, các em đã hay và tính toán cũng giỏi, không mang bầu đâu. Chuẩn úy có nghe bao giờ gái thượng lén lút và có bầu với trai kinh bao giờ chưa. Đến giờ trung sĩ Vàng lên tiếng: - Thượng theo chế độ mẫu hệ, con gái tự động tìm trai và khoái ‘bắt cái nước’ với người kinh. An hớn hở: - Các em khoái ‘bắt cái nước’ với trai kinh vì có ‘cái đi cái về’ thích hơn với trai thượng. Chính các em hẹn hò và tìm đến đây với em..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Trung sĩ Vàng hỏi: - Tại sao không làm ban ngày? - Các em không chịu làm ban ngày vì sợ ông Trời nhìn thấy ! Hòa ngắt ngang: - Thôi đủ rồi. Hạ sĩ Hậu ngồi kế bên đùa với Hòa: - Chuẩn úy đẹp trai dễ thương, các em trong mấy buôn đã chấm rồi, coi chừng sáng ngủ dậy sẽ thấy vài cô đứng trước lều dắt theo trâu bò xin cưới chuẩn úy… hi.. hi.. Sung sướng nhất của Hòa tại đây, hằng ngày rỗi rảnh, vai mang M16 cùng Xí và anh truyền tin ghé vào các buôn uống rượu chuyện trò với các trưởng tộc. Đối với người thượng những ai thực tình đều được quý mến, nhất là những người ăn cùng mâm uống cùng cần với những người trong buôn mà không lộ vẻ miễn cưỡng. Hòa uống rượu không bao giờ chùi cần hút trước khi ngậm vào miệng cũng như ăn một cách ngon lành những món thịt cá còn sống đựng trên miếng lá chuối… Trong vùng có nhiều bộ tộc Thái trắng, con gái ở đây trắng và đẹp hơn gái kinh rất nhiều. Một tộc trưởng thương mến Hòa, ông nhiều lần ngỏ ý muốn cho Hòa con gái đầu của ông. Ông nói nếu Hòa muốn, ông cho con gái đi hỏi cưới Hòa ngay. Hòa vừa được lên thiếu úy và có lệnh về trình diện phòng 1 bộ tư lệnh sư đoàn. Chưa biết tương lai về đâu nhưng trước mắt phải từ giã hai mươi mấy anh em, những người đã cùng nhau chia sớt buồn vui cực khổ trong thời gian qua, Hòa thấy lòng mình thắt lại. Cầm sứ vụ lệnh trong tay Hòa tìm thượng sĩ Y Kloc: - Anh cầm số tiền nầy mua vài lít rượu, ít gà vịt và vài ký thịt bò, anh em mình nhậu chơi một bữa. Cầm số tiền thượng sĩ Y Kloc ngần ngại: - Sao nhiều vậy, mua hết hay sao thiếu úy? - Ừ mua hết, tôi vừa lãnh lương xong. Buổi khao anh em và cũng là bữa cơm chia tay đối anh em trong trung đội. Ăn xong, Hòa báo tin Hòa sẽ rời anh em về trình diện sư đoàn nhận nhiệm vụ mới. Tất cả bỗng dưng im bặt không một ai nói được câu gì trước một mất mát lớn lao và bất ngờ đối với họ. Một hồi lâu Hạ sĩ An bật khóc: - Như vậy ông thầy bỏ tụi em rồi. Buồn nhất là Xí, người đã theo sát Hòa như hình với bóng từ ngày Hòa vừa lên Quảng đức. Xí lấy trong túi áo cái hộp quẹt Zippo và tháo chiếc đồng hồ đang đeo tay trả lại cho Hòa, Hòa an ủi: - Em giữ lại làm kỷ niệm để nhớ anh mỗi khi nấu cơm và xem giờ. Xa em anh thấy buồn… - Nếu làm việc tại bộ tư lệnh, ông thầy nhớ ghé thăm em. - Chưa biết đi đâu, làm gì, nhưng nếu ở gần sẽ đến thăm các anh em. Xin hứa. Về trình diện bộ tư lệnh, Trung tá trưởng phòng 1 cho Hòa biết Hòa được chọn về tiểu đoàn 23 tiếp vận, một đơn vị mới đang được thành lập. Danh sách sĩ quan do bộ tư lệnh tuyển chọn mới có hai người, Thiếu tá Trương làm tiểu đoàn trưởng và Hòa phụ trách ban 4, ngày đầu tiên về tiểu đoàn chỉ có hai sĩ quan. Sau nầy Hòa được biết, do đề cử của Trung tá Tiến trưởng phòng 4, đại tá Cẩn, lúc nầy là tư lệnh phó sư đoàn đã chấp thuận khi thấy tên Hòa trên danh sách đề nghị. Để đáp ứng với tình hình chiến thuật mới, các tiểu đoàn tiếp vận được thành lập bên cạnh các sư đoàn. Đơn vị mới nầy kết hợp các đơn vị trực thuộc trước kia, ngoài hai đại đội quân nhu quân cụ làm nòng cốt, còn thêm một trung đội vận tải cơ hữu, một trung đội chung sự chuyên về hậu sự lo an táng chôn cất các chiến sĩ bỏ mình vì tổ quốc, một trung đội sửa chữa truyền tin và một trại nông mục nuôi heo, bò gà… Tiểu đoàn tiếp vận xem như một đơn vị trực thuộc và nằm bên cạnh sư đoàn để yểm trợ hữu hiệu và đắc lực từ hậu cứ đến tiền phương. Sau khi trình diện thiếu tá Trương, Hòa phóng xe xuống hậu cứ tiểu đoàn 1 báo tin vui cho anh em cũ, nhưng họ đã lên đường hành quân ngay trong đêm đó. Gần ba năm sau, khoảng đầu hè 1971 chiến trường Buôn mê thuột trở nên sôi động. Trung đoàn 45 thường đụng độ lớn với địch trong các cuộc hành quân chung quanh các khu rừng giữa hai quận Buôn Hô và Thuấn Mẫn. Các tiểu đoàn bộ binh bị tổn thất nặng trong những lần giao tranh với địch tại vùng nầy. Địch quân không nhiều, chừng vài tiểu đoàn bộ binh với sự yểm trợ của nhiều đơn vị pháo, vừa cầm chân vừa làm tiêu hao lực lượng trung đoàn 45 tại Buôn mê thuột bằng chiến thuật khiêu khích dụ quân ta vào trận địa đã dàn sẵn. Trong giai đoạn đầu địch dùng thế thượng mộc hạ thổ. Toán địch quan sát và chỉ huy trận địa ẩn núp trên các cây cao. Dưới đất vài toán bộ đội xuất hiện chạm súng lẻ tẻ mục đích dụ quân ta đổi hướng truy kích. Khi.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> các cách quân ta đã vào đúng ổ mai phục và tầm pháo, đạn cối 81 của chúng rót xuống như mưa, vừa sát hại vừa áp đảo tinh thần. Lúc dứt pháo, địch từ trong các hố chui lên đánh cận chiến. Sau trận nầy trung đoàn đổi chiến thuật, địch quân quay qua xử dụng chiến thuật ‘trận địa pháo’. Với chiến thuật mới, địch quân chỉ tấn công quân ta bằng đạn pháo. Rừng rậm, chúng hóa trang ẩn kín trên cây, theo dõi hướng tiến quân và điều chỉnh tầm pháo. Khi đoàn quân đã vào trọn trong mục tiêu, hàng chục họng súng nhả đạn rót xối xả xuống đầu. Đến chừng pháo binh ta bắn trả chấm đứt được các họng súng địch thì tổn thất quân ta đã khá nặng nề. Vào một chiều chủ nhật Hòa đang ngồi trong quán café ‘Tím’ trên đường Nơ Trang Long, trung úy Linh phụ tá của Hòa cùng thiếu úy Phan dừng xe trước cửa chạy vào: - Kiếm anh từ trưa đến giờ. - Chuyện khẩn cấp? Phan tiếp lời: - Anh quen thân các chủ trại mộc, tôi nhờ anh làm gấp một số hòm, chỉ cần cưa bốn miếng ván lớn, hai miếng nhỏ cho hai đầu. Gấp quá không cần phải bào láng. - Hôm qua anh đã lấy hết hòm tại các nhà cung cấp chưa đủ? - Không thấm vào đâu, vì một số lớn xác của anh em tiểu đoàn 1 vừa được trực thăng đưa về. Vừa nghe đến tên tiểu đoàn 1 Hòa giật thót mình, đơn vị chiến đấu Hòa đã cùng đồng đội sát cánh chiến đấu hơn một năm trời. Hòa trả lời vội Phan: - Được tôi sẽ lo chuyện anh trong chiều nay, bây giờ chạy gấp xuống trung đoàn. Xác đem về ở đâu, đi với tôi để khỏi mất thời giờ. Hòa để xe mình tại chỗ, lên chung với Phan chạy về hướng cây số 5. Khi ngang qua phi trường L19, Hòa thấy vẫn còn ba chiếc trực thăng đang lên xuống tải thương và tử thi. Mấy chiếc hồng thập tự của tiểu đoàn quây y và quân y viện Buôn mê thuột nối đuôi nhau liên tiếp chạy ra. Linh tính Hòa báo trước chuyện chẳng lành đã với những đồng đội cũ, với lối chiến thuật ác liệt nầy, khó ai giữ được tính mạng từ trận nầy qua trận khác. Xe chạy thẳng vào nhà xác tiểu đoàn nhưng chỉ tìm được đây hơn một chục tử thi, chỉ huy hậu cứ cho dọn một phòng lớn nằm kế văn phòng ban chỉ huy tiểu đoàn để chứa thêm gần bốn chục xác khác. Hòa bật khóc thành tiếng và chạy đến ôm lấy các xác chết những đồng đội cũ của mình. Xí đang nằm yên mặt nhợt nhạt đầy vết máu, một mảnh đạn súng cối xuyên qua ngực trên tay vẫn còn mang chiếc đồng hồ Seiko. Vàng không còn nguyên vẹn thân thể, trên áo vẫn còn bảng tên với cấp bậc trung sĩ nhất. Kloc bị ngay một mảnh đạn ngang đầu. Tâm thân mình chỉ còn một nửa nằm cạnh những anh em khác: Nghĩa, Báu, Hùng…như vậy trung đội thân yêu ngày trước của Hòa đã hoàn toàn tan rã. Trung úy Linh bước đến ôm Hòa kéo ra vỗ về: - Đằng nào anh em đã chết rồi, anh khóc họ cũng không sống lại được. Bây giờ tôi đưa anh lên bệnh viện để tìm những người bị thương xem có thể giúp gì được không. Trong quân y viện những người bị thương đang nằm la liệt trên giường, trên băng ca, dưới đất. Không còn chỗ cho những anh em vừa đến. Hòa chạy thẳng vào phòng cấp cứu thấy Chín, Hoan đang được truyền máu. Ba binh sĩ Sâm, Trọng, Bá còn tỉnh, đã được băng tạm đang ngồi dựa vách tường. - Trung úy ! Nghe tiếng gọi Hòa quay lại, Đậu đang được chuyển vào phòng cấp cứu, còn tỉnh và nhận ra Hòa. Hòa vội hỏi: - Trung đội của mình…? - Dạ tiêu tùng hết, chúng nó pháo tới tấp trên đầu không cách nào chống đỡ. Em được đưa về đây bằng trực thăng, không biết những người còn lại ra sao. Nắm tay anh em một hồi, Hòa phải ra khỏi cấp cứu theo yêu cầu của y sĩ trưởng. Trước lúc lui ra Hòa đến cạnh bác sĩ Hoạt bạn học ngày trước, nói như van xin: - Lính cũ của tôi, anh lo liệu giùm. Bắt tay Hòa, bác sĩ Hoạt gật đầu: - Không sao, bổn phận của tôi, anh đừng nóng ruột. Từ giã quân y viện Hòa đến thẳng hai trại mộc, yêu cầu làm gấp năm chục hòm đơn giản để tẩm liệm vào sáng mai. Hôm sau Hòa có mặt trọn buổi sáng trong lúc trung đội chung sự tắm rửa, thay áo và liệm các.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> binh sĩ cũ của mình. Linh cữu được sắp thành từng hàng dài trong một căn nhà dài để chờ thân nhân. Đứng từ xa đã nghe tiếng than van khóc lóc não nùng của những bà mẹ mất con, những người vợ mất chồng... Hòa nước mắt đỏ hoe, bước nhẹ đến sau lưng mẹ của Xí, vợ Vàng, vợ Tâm, vợ con Kloc… ôm các bà vào lòng vỗ về sót xa như đang ôm những người thân yêu nhất trên đời. Không ai nói được tiếng nào, chỉ có nước mắt và những tiếng nấc nghẹn ngào giữa mùi khói hương nồng nặc, tiếng chuông mõ hòa lẫn tiếng cầu kinh. Suốt ngày hôm đó cho đến sáng hôm sau, Hòa ở lại bên cạnh các quan tài với thân nhân, Hòa không can tâm quay về đơn vị. Sáng hôm sau Hòa nhờ trung úy Linh lấy một số tiền riêng và một bộ đồ dân sự. Tiền Hòa nhờ Linh đưa lại cho thân nhân từng gia đình để mua hương hoa và góp thêm lộ phí đưa linh cữu về nguyên quán. Hòa thay bộ áo dân sự, lên xe ngồi chung xe chở linh cữu Xí đến tận đồi Chukuc, nơi đã ghi dấu nhiều kỷ niệm, để tiễn đưa một người lính, người bạn, người em một đoạn đường. Trung úy Linh nói với Hòa: - Anh cần tôi chạy theo anh, hay tôi bảo tài xế đón anh. - Cám ơn Linh, tôi sẽ trở lại bằng xe đò. Đường không an ninh, anh đừng cho jeep chạy theo. Trên đường trở lại Buôn mê thuột, quá mệt mỏi nhưng không thể chợp mắt, hình ảnh của những người lính cũ chết không toàn thây, của các bà mẹ bà vợ nằm lăn bên hòm than khóc thảm thiết cứ ám ảnh trên suốt đoạn đường. Chia ly, đau khổ, tàn phế, chết chóc và mất mát là định luật của chiến tranh mà phần thiệt thòi lúc nào cũng giáng xuống đầu những gia đình nghèo khó, những binh sĩ vô tội đáng thương dù ở dưới chế độ nào cũng vậy, họ không đủ tiền để mua một chỗ núp bóng che thân. Họ đã nằm xuống hàng trăm hàng ngàn người ngoài mặt trận cho sự an toàn của một vài quan quyền trong bàn giấy. Những chiến sĩ đáng thương nầy đã thực sự hy sinh cho tự do và toàn vẹn của lãnh thổ nhưng được gì ngoài vài chục ngàn tiền tử với chiếc hòm sáu miếng ván? Xác chưa kịp chôn, vành tang chưa quấn chặt, nước mắt cha mẹ vợ con đang chảy… trong lúc các tướng tá hãnh diện nhận thêm sao thêm hoa trên cổ, thêm huy chương xanh đỏ trước ngực. Hãy nhìn kỹ đằng sau những chéo vải xanh đỏ này, không gì hơn ngoài nước mắt đau thương của những người còn lại, máu và những xác chết của những anh em thuộc cấp đã hiến thân mình cho tổ quốc cũng như hàng ngàn trẻ con, thanh niên đáng thương vô tội phía bên kia chiến tuyến, đã hy sinh cho mưu đồ tham vọng xâm chiếm miền Nam của cộng sản. Vùng rừng núi Pleiku-Kontum, vị trí chiến lược quan trọng, địch cần khống chế để làm bàn đạp thôn tính miền Nam. Ranh giới Việt-Miên-Lào là vùng lý tưởng để ẩn náu, dưỡng quân của bộ đội miền Bắc, nơi lập kho hậu cần lương thực vũ khí đạn dược để chuyển tiếp vào Nam xuyên qua đường mòn Hồ chí Minh. Làm chủ được vùng này miền Bắc có thể cắt đôi miền Nam thành hai, đẩy ranh giới từ Bến hải vào tận Quy nhơn. Mùa hè 1972 miền Bắc đã tập trung trên hai sư đoàn chính quy với sự hỗ trợ của những trung đoàn xe tăng và trọng pháo hạng nặng. Quân đoàn 2 đóng tại Pleiku tiên liệu trước khả năng địch, điều động sư đoàn 23 bộ binh từ Buôn mê thuột lên làm đơn vị cơ bản, phối hợp với sư đoàn 22 đóng tại Quy Nhơn, các lữ đoàn trọng pháo, thiết giáp cùng với nhiều liên đoàn nhảy dù và biệt động quân tăng phái. Bộ chỉ huy tiền phương của chiến dịch đóng quân trên ngọn đồi về hướng tây cách thị xã chừng dưới mười cây số. Một cách quân được chỉ định đóng ở bìa rừng để bảo vệ thành phố Buôn mê thuột. Tiểu đoàn 23 tiếp vận do thiếu tá Nhất chỉ huy, đang theo sát bộ tư lệnh, trung úy Linh tháp tùng ban chỉ huy, Hòa liên lạc đi về giữa tiền phương tại Kontum, Pleiku và hậu cứ tại Buôn mê thuộc. Chiến thuật đánh thành phố của địch, chúng thường dùng pháo trấn áp trước, chiếm lấy dân để cản đường phản công của quân ta. Sau một đêm địch pháo kích như điên vào thị xã, vùng cát trắng Kontum nhuộm thành đỏ bởi máu của dân lành vô tội. Thành phố trở thành đống gạch, người và gia súc chết nằm ngổn ngang trong nhà ra đến đường. Vừa dứt pháo, địch từ nhiều hướng ồ ạt vào chiếm các điểm trọng yếu nhưng đã gặp phản công kịp thời của quân ta chúng buộc phải rút lui sau vài giờ giao tranh. Kế hoạch đánh chiếm thị xã Kontum hoàn toàn thất bại, địch đã để lại một thành phố hoan tàn đổ nát và tang thương. Đánh bạt địch ra khỏi thành phố Kontum, bộ tư lệnh tiền phương quân đoàn 2 chia lực lượng thành nhiều mũi tiến quân thẳng vào cơ sở hậu cần và sào huyệt của chúng, chận đường tiếp.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> viện vào từ miền bắc, giải vây các tiền đồn đang bị chúng cô lập. Bộ tư lệnh tiền phương đã san bằng sào huyệt các cơ sở hậu cần dễ dàng và mau chóng. Chỉ tiếc một hai tiền đồn đã lọt vào tay địch sau những loạt tấn công biển người, một thủ đoạn thí quân không vô nhân đạo của Cộng sản. Chiến lợi phẩm do trung đoàn 45 tịch thu đuợc ngoài vũ khí trang bị cá nhân đều xuất xứ từ Liên sô và Trung cộng còn mấy chục tấn gạo ẩm ướt lên mốc, muối hột và cá khô các loại. Bên trái bãi đất trống nằm sát bộ chỉ huy tiền phương trung đoàn, các chiến lợi phẩm đã được phân ra từng loại, bên phải vẫn còn chất đống bừa bãi. Trong lúc tiểu đoàn làm thủ tục tiếp nhận, Hòa tách riêng đi về hướng các tù binh, trên trăm người đang bị bịt mắt ngồi thành từng hàng dưới bóng cây. Họ còn quá trẻ chừng 16 đến 18 tuổi là cùng, nhiều khuôn mặt còn búng ra sữa, trên người chỉ chiếc áo rách và cái quần cụt. Hòa nhìn họ bỗng thấy xót xa trong lòng. Đám tù binh trẻ nầy chào đời trong chiến tranh, áo không đủ mặc, ăn không đủ no, chữ nghĩa chỉ vài ba chữ. Đời chưa bao giờ biết đến miếng cá miếng thịt là gì ngoài những món ăn trường kỳ ngô khoai và rau cải. Đến lúc vừa đủ sức vác cây súng, chục quả súng cối và vài ký lương thực thì bị lùa vào miền Nam, lần lượt bỏ thây vì bệnh tật và bom đạn sau khi vượt qua vĩ tuyến 17. Cấp chỉ huy lúc nào cũng hồ hởi báo cáo, vận động dân chúng rằng chúng ta đã tiến mạnh tiến nhanh.. Hòa tiến đến bên cạnh một tù binh trẻ: - Tôi mời anh điếu thuốc. Anh tù binh không trả lời, quay mặt qua hướng khác. Châm xong điếu thuốc Hòa ôn tồn: - Tôi không ở trong đơn vị đã bắt anh và cũng không phải sĩ quan an ninh điều tra đến thẩm vấn. Anh tù binh trẻ quay lại nhưng vẫn không có thái độ nào. - Anh hút điếu thuốc cho ấm. Tôi biếu anh vì tình cảm riêng của tôi. Đến đây anh tù binh gật đầu, Hòa cúi xuống gắn điếu thuốc vào hai môi, anh ngập ngừng vài giây rồi hút tiếp những hơi dài. Những tấm vải bịt mắt không cho phép Hòa thấy được phản ứng trên gương mặt các anh em tù binh nhưng Hòa cũng nhận biết tất cả đều muốn được một điếu thuốc. Vừa châm thuốc cho từng người Hòa vừa nói: - Các anh may mắn được chúng tôi bắt về đây, dĩ nhiên sẽ bị giam giữ một thời gian, được săn sóc chữa bệnh và nuôi ăn. Sau nầy các anh sẽ được trả về lại miền Bắc trong chương trình trao đổi tù binh. Không ai giết hại, móc mắt mổ bụng để ăn thịt như các anh đã bị tuyên truyền. Đừng sợ ! Nghe đến đây các tù binh đổi ngay thế ngồi, quay hẳn về hướng Hòa đang đứng, ngước mặt lên nghe ngóng. Chưa dứt câu, Hòa nghe tiếng người quen sau lưng: - Hòa qua đây hồi nào. Làm sĩ quan chiến tranh chính trị hay lắm, nhưng không nên. Mấy ông sĩ quan ban 2 sẽ báo cáo bậy lên trung đoàn càng thêm lắm chuyện. Lui vào trong làm ly café nói chuyện hay hơn. Đại úy Điệp, tiều đoàn trưởng tiểu đoàn 1 choàng tay qua vai kéo Hòa vào trong lều bên cạnh bộ chỉ huy. - Có thường lên đây không Hòa? - Dạ thường nhưng ở ngoài thị xã, hôm nay có dịp đi theo vào kiếm thăm anh em cũ. - Báo Hòa tin buồn, trong đại đội chỉ còn một mình tôi, các anh em trung đội truởng khác cùng thời với Hòa đã ra đi. Hòa ngồi yên một lúc hỏi lại: - Sao em không hay biết gì? - Xác đưa thẳng về hậu cứ, lúc nầy anh thường có mặt ở Pleiku-Kontum? - Dạ lâu lâu cũng về Buôn mê thuột, nhưng quá bận rộn không liên lạc thường xuyên với hậu cứ tiểu đoàn. Anh em uống xong tách café, đại úy Điệp bắt tay đứng dậy: - Tôi phải về tiểu đoàn bây giờ. Hòa nước mắt lưng tròng: - Bảo trọng nghe anh. Đại úy Điệp gượng cười: - Cám ơn, số mạng do Trời định làm sao biết được Hòa..

<span class='text_page_counter'>(50)</span> Trực thăng vừa ra khỏi thị xã Kontum, đạn từ dưới bắn lên tới tấp, hai xạ thủ đại liên vừa bắn trả xuống vừa trấn an: - Chúng nó bắn bằng AK không sao đâu, sẽ bay lên trên tầm đạn. Hai tay nắm chặt vào thành ghế Hoà nhìn ra ngoài, những viên đạn lửa chỉnh hướng bay ngang trước mặt, máy bay phải bốc ngược lên vượt qua tầm bắn. Lúc trực thăng vào hẳn trong đám mây, xạ thủ đại liên ngồi ở cánh cửa nói vào tai Hòa: - Chỉ ngại khi chúng nó bắn bằng hỏa tiễn hay súng phòng không, đạn AK nếu không trúng thùng xăng thì không sao. Hai lần suýt chết vì máy bay nhưng Hòa không lo lắng mỗi khi bước lên trực thăng. Hòa nghĩ rằng Trời chưa kêu đến tên mình mặc dù đã hai lần lọt ngay vào ổ phục kích trên đèo Chư Pao, giữa quốc lộ 14 nối liền Kontum và Pleiku. Bạn bè đồng đội và anh em dưới quyền đã vĩnh viễn ra đi để lại những nỗi buồn thương tiếc trong lòng người ở lại. Hòa tự nghĩ, không biết bao giờ sẽ đến lượt mình, bom đạn vô tình đâu biết phân biệt được ai, kẻ hứng chịu trước nhất là những người lính đáng thương, những cấp sĩ quan nhỏ bé như Hòa. Năm 1954 ngưng chiến và chia đôi đất nước để hai miền nam bắc sống yên lành trong hòa bình hạnh phúc, nhưng chính đây là cơ hội để miền Bắc dưỡng quân, huấn luyện binh sĩ, trang bị vũ khí tối tân để vượt ranh giới, xâm lược gây thương đau chết chóc cho miền Nam. Ủy ban quốc tế kiểm soát đình chiến đâu? Pháp, Mỹ, Anh… đâu? Chính các người đã nhân danh hòa bình công lý và đạo đức, dựa vào sức mạnh súng đạn để buộc dân tôi ký vào hiệp định Genève. Ngày nay địch quân đã đạp lên chữ ký của các người, kéo hàng vạn binh lính vượt biên giới vào Nam gây tang thương cho hàng triệu người vô tội. Miền Nam không có người lính nào gọi là quân giải phóng. Danh từ mặt trận nghe thật vĩ đại nhưng thực chất là những tên trí thức tay sai của miền Bắc nằm vùng phá hoại, núp bóng giật giây. Địch quân có mặt tại miền Nam chính là hàng chục sư đoàn chính quy hùng hậu của miền Bắc, đã vượt qua biên giới với những dụng cụ giết người tối tân trang bị từ Liên sô và Trung cộng ! Dân hai miền Nam Bắc đều là người Việt nhưng hoàn toàn sống trong hai quốc gia riêng biệt và dưới hai chế độ hoàn toàn trái nghịch nhau. Các ông đừng ngây thơ và cũng đừng đánh lừa dư luận cho rằng chiến tranh Việt nam đơn thuần là một nội chiến tại miền Nam, mà thực sự là cuộc xâm lược vĩ đại của cộng sản miền Bắc, đã vi phạm trắng trợn các nguyên tắc căn bản giữa hai quốc gia độc lập và có chủ quyền. Các người nghĩ thế nào khi cùng nhau đặt bút ký kết các điều khoản kiểm soát đình chiến và bảo đảm tự do hòa bình cho hai quốc gia độc lập theo công pháp quốc tế? Hãy can đảm nhận lấy trách nhiệm để thực thi các điều khoản do chính các người đẻ ra, đừng để lịch sử phê phán và chính con cháu các người ngày sau sẽ lên án buộc tội.. Kết Thúc (END).

<span class='text_page_counter'>(51)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×