Bài tập tình huống1
DIXON TICONDEROGA – NẠN NHÂN CỦA TOÀN CẦU HOÁ
Được thành lập năm 1913, D.T là một trong các công ty lâu đời và khá có tiếng ở Mỹ. Sản phẩm bút chì
màu của D.T. rất quen thuộc đối với học sinh ở Mỹ. Với doanh số hàng năm hơn 100 triệu đô la, Dixon là công ty
lớn thứ hai về sản xuất bút chì ở Hoa Kỳ. Trong lòch sử công ty hoạt động rất thành công, nhưng từ những năm 90
công ty bắt đầu gặp nhiều khó khăn mặc dù nhu cầu sản phẩm này ngày một tăng. Ước tính trong năm 2000 thò
trường tiêu thụ bút chì của Mỹ là 4.2 tỉ cây, tăng 53% so với năm 1999. Thế nhưng cùng với sự tăng trưởng về nhu
cầu trong nước, bút chì nhập khẩu từ Trung Quốc cũng tăng lên nhanh chóng.
Đầu những năm 90, bút chì rẻ tiền của Trung Quốc bắt đầu thâm nhập vào thò trường Hoa Kỳ. Đến năm
1994 bút chì nhập khẩu từ nước ngoài chiếm 16% thò phần trong nước. Những nhà sản xuất bút chì của Mỹ cho
rằng Trung Quốc bán phá giá bút chì và vận động CPbảo hộ ngành công nghiệp này. Hoa Kỳ áp dụng thuế chống
phá giá với Trung Quốøc và kết quả là lượng bút chì nhập khẩu giảm xuống nhanh chóng. Nhưng không lâu sau,
các nhà sản xuất Trung Quốc lại cắt giảm chi phí sản xuất và lại xuất khẩu mạnh vào thò trường Hoa Kỳ. Sau hai
năm áp dụng thuế chống bán phá giá, lượng nhập khẩu bút chì vào Mỹ lại tăng lên bằng với mức trước khi áp dụng
thuế chống bán phá giá. Năm 1999 các nhà sản xuất bút chì Mỹ chỉ tiêu thụ được 2,2 tỉ cây giảm so với 2,4 tỉ cây
so với năm 1991. Trong thời gian này, nhập khẩu tăng từ 16% lên 50%, trong đó Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn
nhất vào thò trường Mỹ. Lúc này các nhà sản xuất bút chì Mỹ tiếp tục vận động hành lang yêu cầu CPbảo hộ ngành
sản xuất trong nước. Giữa năm 2000 CPHoa Kỳ ấn đònh giá thuế mới đối với bút chì nhập từ Trung Quốc là 53%.
Trong lúc này, Dixon tìm mọi cách để cải tiến công nghệ, giảm giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng
cạnh tranh của mình trước các đối thủ nước ngoài. Bằng cách nhập gỗ rẻ tiền từ Indonesia, gôm từ Hàn Quốc D.T.
đã làm giảm một phần chi phí sản xuất.
Tuy nhiên, với phương thức trên công ty vẫn tiếp tục đánh mất thò trường vì giá thành vẫn còn cao. Công ty
cần phải tìm những bước đột phá mới, một trong các bước để giảm giá thành là công ty xây dựng nhà máy sản xuất
bút chí ở Mexico. Cuối năm 2000 công ty chuyển một số công đoạn sản xuất sang Mexico. Một chiến lược khác,
trong năm 2000 mua lại 1 nhà máy ở Trung Quốc chuyên sản xuất phần gỗ để phục vụ cho nhà máy ở Mexico. Chỉ
có thành phần chính của bút chì - lỏi bút carbon - được Dixon duy trì sản xuất ở Mỹ. Ngoài ra, chi nhánh của D.T.
ở Trung Quốc còn có nhiệm vụ sản xuất và phân phối bút chì ở khu vực Châu Á. Kết quả của sự thay đổi đó, trong
năm 2002 thành tích của Dixon có tiến bộ hơn, nhưng công ty cần phải tiếp tục giảm chi phí hơn nữa.
Câu hỏi thảo luận:
1. Áp dụng thuế chống bán phá giá lên bút chì nhập khẩu là cách tốt nhất để bảo vệ việc làm của Mỹ? Ai
có lợi nhiều nhất từ việc đánh thuế đó? Ai mất? Quan điểm chính sách nào mà CPcó thể lựa chọn?
2. Tại sao Dixon trở thành công ty đa quốc gia? Lợi ích kinh tế khi Dixon tham gia vào kinh doanh quốc tế?
3. Tại sao Dixon không đơn giản nhập khẩu sản phẩm bút chì sản xuất tại nhà máy ở Trung Quốc thay cho
sản xuất bút chì ở Mexico?
Bài tập tình huống số 2
PHONG TRÀO CHỐNG TOÀN CẦU HOÁ Ở PHÁP
Trong một đêm tháng 8 năm 1999, møi người đàn ông dẫn đầu là chủ trang trại nuôi cừu tên là Jose Bove
ở trung tâm nước Pháp đã đập phá một nhà hàng ăn nhanh McDonald’s (là biểu tượng văn hoá ngoại lai Mỹ) gây
thiệt hại ước tính 150.000 USD. Đây không chỉ là vụ phá hoại thông thường mà là một trong các vụ chống lại chính
sách thương mại không công bằng của Mỹ. Bắt đầu từ EU, khi họ cấm nhập khẩu thòt bò có dùng hormone tăng
trưởng vì cho rằng có hại cho sức khoẻ người tiêu dùng. CPMỹ kiện EU lên WTO với cáo buộc là EU vi phạm luật
thương mại quốc tế. WTO yêu cầu EU phải huỷ bỏ lệnh cấm nhập thòt bò từ Mỳ nhưng EU từ chối phán quyết của
WTO. Để trả đủa, Mỹ áp dụng mức thuế quan 100% đối với một số mặt hàng nhập từ EU, trong đó có pho mát
Roquefort làm từ sữa cừu mà Bove và các nông dân trong vùng sản xuất. Vì thuế nhập khẩu đã ảnh hưởng đến thu
nhập mà những người nông dân này quyết đònh đập phá nhà hàng McDonald’s để phản đối.
Mặc dù Bove và đồng đội của ông đã bò bắt và bồi thường thiệt hại, nhưng họ nhanh chóng trở thành biểu
tượng về phong trào chống toàn cầu hoá ở Pháp. Phong trào toàn cầu hoá ở Pháp cho rằng toàn cầu hoá làm mất
chủ quyền quốc gia, phản đối chính sách thương mại làm thiệt hại cho người tiêu dùng và sự xâm nhập các giá trò
văn hoá Mỹ vào nền văn hoá Pháp. Trong lúc chờ xét xử, Bove bay sang Seattle để phản đối Tổ chức thương mại
thế giới khi Tổ chức này họp vào tháng 12/1999. Phiên toà xét xử Bove và đồng đội đã lôi kéo hơn 40.000 người
đến trước toà án cắm trại và hô vang khẩu hiệu “thế giới không phải thứ để mua bán”.
Trong thời gian đó ở vùng Languedoc Pháp, nhà sản xuất rượi nho Robert Mondavi bang California đã
thoả thuận với chính quyền đòa phương vùng Aniane sử dụng 125 mẫu đất để trồng nho để sản xuất rượi vang chất
1
lượng cao. Nhà sản xuất rượi này có kế hoạch đầu tư 7 triệu USD vào dự án với hy vọng sản xuất rượi chất lượng
cao để tiêu thụ ở Châu u và Mỹ với giá 60USD một chai. Nhưng Robert Mondavi phải từ bỏ dự án vì phong trào
chống toàn cầu hoá cáo buộc dự án làm huỷ hoại sinh thái trong vùng. Thò trưởng người đã phê duyệt dự án cho
Robert Mondavi cũng thất bại trong cuộc bầu cử sau đó.
Dù phong trào chống lại đầu tư nước ngoài tại Pháp rất mạnh, cụ thể là vụ McDonald’s và Robert
Mondavi, nhưng đầu tư nước ngoài tại Pháp vẫn tăng nhanh chóng. McDonald’s hiện có trên 800 nhà hàng ở nước
này và càng tiếp tục tăng lên. Mức độ đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Pháp đạt kỷ lục trong năm 2000 với 563 dự án,
trong đó đầu tư từ Mỹ là 178 dự án. Các doanh nghiệp Pháp cũng đầu tư ra nước ngoài ngày càng nhiều, trong đó
công ty Pháp Vivendi sở hữu hai công ty tuyên truyền cho giá trò văn hoá Mỹ là hãng phim Universal và nhà xuất
bản Houghton Mifflin. CPPháp cũng dở bỏ các rào cản trong nước mà đã từng làm giảm khả năng cạnh tranh của
các công ty Pháp trong nền kinh tế toàn cầu.
Câu hỏi thảo luận:
Phân tích các quan điểm phản đối toàn cầu hoá ở pháp và các quan điểm đó có đúng không? Tại sao?
Bài tập tình huống 3
Ghana và Hàn Quốc
Mức thu nhập của người dân ở hai quốc gia Ghana và Korea là tương đương nhau khi so sánh vào thời
điểm năm 1970. Trong thời điểm này, thu nhập bình quân trên đầu người ở Ghana là 250$ thì ở Hàn Quốc là 260$.
Đến năm 1998, vò thế hai quốc gia rất khác nhau, trong khi ở Hàn Quốc thu nhập bình quân đầu người là 8600$
đứng thứ 12 trong nền kinh tế thế giới, thì ở Ghana thu nhập bình quân trên đầu người chỉ 390$ và đứng thứ 96
trong nền kinh tế thế giới. Sự khác nhau trên là do sự khác biệt rất lớn trong tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ở hai quốc
gia từ năm 1970. Giai đoạn 1968 - 1998 tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm của Ghana nhỏ hơn 1,5%, trong
khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc trung bình hàng năm hơn 8%.
Năm 1957 Ghana là quốc gia đầu tiên ở Châu Phi giành được độc lập từ Anh Quốc. Tổng thống đầu tiên là
Kwame Nkruma và lý thuyết “Pan-African socialism” của ông có ảnh hưởng rất lớn đến các châu lục khác. Với
chính sách bảo hộ mậu dòch cao nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước, thay thế nhập khẩu và không khuyến
khích xuất khẩu đã biến Ghana thành một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới ngày nay. Trong khi không thể
có câu trả lời hoàn hảo cho sự khác biệt về tỉ lệ tăng trưởng kinh tế ở hai quốc gia trên, thì sự khác biệt về quan
điểm hướng tới tự do hóa thương mại quốc tế của hai quốc gia có thể trả lời câu hỏi trên. Nghiên cứu của ngân
hàng thế giới cho thấy, trong khi CPHàn Quốc thực hiện chính sách khuyến khích các công ty của mình tham gia
vào thương mại quốc tế, thì ngược lại CPGhana hạn chế doanh nghiệp của họ tham gia vào thương mại quốc tế.
Kết quả, trong năm 1980 tỉ lệ thương mại quốc tế trên GDP của Ghana là 18%, trong khi tỉ lệ đó ở Hàn quốc là
74%.
Ghana là quốc gia có điều kiện rất tốt nhất để trồng và xuất khẩu Cocoa: khí hậu ấm áp; đất đai phì nhiêu;
giao thông thuận lợi …. Vào cuối những năm 50, Ghana là nhà sản xuất và xuất khẩu Cocoa lớn nhất thế giới. Thế
nhưng vì can thiệp quá sâu của CPvào thương mại Cocoa mà ngành công nghiệp này không phát triển. Sau khi
dành độc lập, CPthành lập Bộ “Cocoa Marketing Board” để quản lý Cocoa. Bộ có quyền ấn đònh giá mua Cocoa
và là đơn vò duy nhất thu mua Cocoa ở Ghana. Trong khi Bộ mua Cocoa của nông dân với giá thấp thì họ lại bán
giá rất cao trên thò trường thế giới. Bộ mua cocoa từ nông dân với giá 25 cent/ pound và bán trên thò trường thế giới
với giá 50 cent/pound. Số tiền chênh lệch từ xuất khẩu cocoa được chuyển về tài khoản của quốc gia và được dùng
vào quá trình quốc hữu hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn 1963-1979, giá Cocoa Bộ trả cho nông dân
chỉ tăng lên 6 lần, trong khi giá Cocoa trên thò trường thế giới tăng lên 36 lần. Càng ngày Bộ trả cho người nông
dân càng ít hơn. Kết quả là người dân Ghana bỏ sản xuất cocoa để trồng các loại thực phẩm khác cần cho sự sống
còn của họ, do đó sản xuất và xuất khẩu cocoa giảm hơn 1/3 trong vòng 7 năm. Trong thời gian này chính quyền
Ghana cần một lượng vốn lớn để đầu tư xây dựng cơ sở công nghiệp, nhưng thu nhập từ xuất khẩu cocoa giảm
xuống nên không có khả năng chi trả cho nhập khẩu và đất nước lâm vào khủng hoảng.
Ngược lại, chính sách thương mại mà CPHàn Quốc áp dụng trong giai đoạn này là hướng ra bên ngoài
(strongly outward-oriented). Không giống như Ghana, chính sách thương mại của CPHàn Quốc nhấn mạnh tới
giảm hàng rào thương mại hàng công nghiệp (nhưng không phải hàng nông nghiệp) và khuyến khích các công ty
tham gia vào xuất khẩu. Bắt đầu cuối những năm 50, CPHàn Quốc tích cực giảm thuế nhập khẩu từ 60% xuống
còn 20% đến giữa những năm 80, trong đó phần lớn thuế nhập khẩu hàng công nghiệp giảm xuống tới zero và hạn
ngạch giảm xuống từ hơn 90% số lượng hàng hoá trong cuối những năm 50 tới zero trong đầu những năm 80.
Trong cùng giai đoạn, Hàn Quốc tích cực giảm trợ cấp cho xuất khẩu từ 80% giá bán trong cuối những năm 50 tới
20% giá bán năm 1965 và tới zero trong năm 1984. Tóm lại, ngoại lệ đối với hàng nông sản (kiểm soát chặt chẽ
đối với hàng nhập khẩu) Hàn Quốc tích cực hướng tới tự do hoá thương mại.
2
Chính sách thương mại hướng ra ngoài làm cho nền kinh tế Hàn Quốc thay đổi ấn tượng. Lúc đầu các
nguồn lực ở Hàn Quốc dòch chuyển từ lónh vực nông nghiệp sang ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động (dệt,
may mặc và giày dép…). Lực lượng lao động dồi dào, rẻ và được đào tạo đã giúp cho Hàn Quốc có lợi thế so sánh
trong ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Gần đây khi chi phí lao động tăng lên, ngành công nghiệp sử
dụng nhiều vốn lại tăng lên (động cơ ô tô, bán dẫn, điện dân dụng ...). Trong cuối những năm 50, tỉ lệ lao động
trong lónh vực nông nghiệp là 77%, ngày nay tỉ lệ đó giảm xuống còn 20%. Trong cùng thời kỳ, tỉ lệ hàng công
nghiệp trong GDP tăng từ 10% lên hơn 30% và tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm lớn hơn 9%.
Câu hỏi thảo luận:
1. Dùng lý thuyết lợi thế so sánh để giải tại sao chính sách thương mại được áp dụng bởi hai CPGhana và
Hàn Quốc làm ảnh hưởng đến nền kinh tế của hai quốc gia này?
2. Chính sách thương mại và quan hệ thương mại nào mà CPGhana có thể áp dụng để nền kinh tế tăng
trưởng nhanh hơn?
3. Chính sách thương mại nào CPHàn Quốc đã áp dụng?
Bài tập tình huống số 4
VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA CÁC DN MỸ ĐỐI VỚI HÀNG THUỶ SẢN VIỆT NAM
Trong hai năm 1999-2000 lượng cá Tra và cá Basa Việt Nam xuất sang Mỹ tăng khá nhanh chóng làm cho
các nhà nuôi cá Nheo Mỹ lo ngại. Hiệp hội chủ trang trại Mỹ – CFA quyết tâm đẩy cá da trơn Việt Nam ra khỏi
thò trường Mỹ bằng vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá sản phẩm phi lê cá Tra và cá Basa vào thò
trường Mỹ. Ngày 28/2/2002 CFA và 8 doanh nghiệp chế biến thực phẩm Mỹ uỷ nhiệm cho công ty luật Akimgam
kiện lên Uỷ ban thương mại quốc tế (ITC) và bộ thương mại Hoa Kỳ về việc Việt Nam bán phá giá cá Tra và cá
Basa vào thò trường Mỹ.
Một trong các bước điều tra là xác đònh tính chất thò trường của nền kinh tế Việt Nam. Các cơ quan CPvà
doanh nghiệp Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với phía Mỹ trong quá trình điều tra, cung cấp cơ sở pháp lý chứng
minh ngành sản xuất và kinh doanh thuỷ sản Việt Nam vận hành theo cơ chế thò trường. Nhiều doanh nghiệp nước
ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Mỹ cũng công nhận là giá bán cạnh tranh cá tra và cá basa là do doanh
nghiệp Việt Nam tận dụng lợi thế và điều kiện tự nhiên ưu đãi.
Tuy nhiên, DOC một mặt thừa nhận là CPViệt Nam đã có các bước tiến quan trọng trong việc thực hiện
cải cách về mặt pháp lý cho sự vận hành đồng bộ của cơ chế thò trường, nhưng chưa thừa nhận Việt Nam là “nền
kinh tế thò trường”. Việc xác đònh giá ở “nền kinh tế phi thò trường” là không thể, do vậy để tính giá cá tra và basa
của Việt Nam, toà án Mỹ đã chỉ đònh dựa vào giá cá trê trắng cuả n Độ làm cơ sở. Kết quả DOC quyết đònh đánh
thuế chống bán phá giá lên cá tra và cá Basa phi lê đông lạnh từ Việt Nam từ 34,66% lên đến 63,88%. Với quyết
đònh trên người nông dân đồng bằng sông cửu Long bò thiệt hại nhiều nhất vì có hơn 400 hộ gia đình nuôi cá basa
và 1/3 sản phẩm này xuất sang thò trường Mỹ.
Tiếp theo ngày 31/12/2003 Hiệp hội Tôm miền Nam của Mỹ lại nộp đơn kiện và yêu cầu CPđánh thuế
chống bán phá giá lên tôm nhập khẩu từ 6 nước: Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Brazil, n Độ và Ecuador. Và
lần này thuế bán phá giá đối với tôm Việt Nam thấp hơn nhiều so với sự đoán là từ 5% đến 35%.
Câu hỏi thảo luận:
1. Vì sao Mỹ lại đánh thuế chống bán phá giá đối với cá Tra và Basa xuất khẩu của Việt Nam?
2. CPvà doanh nghiệp Việt Nam cần có những hành động gì để chuẩn bò cho các vụ kiện trong tương lai?
Bài tập tình huống số 5
NGÀNH SẢN XUẤT ÔTÔ VIỆT NAM
Để đưa Việt Nam trở thành một quốc gia công nghiệp, từ đầu những năm 90 CPViệt Nam xây dựng chiến lược
phát triển hai ngành công nghiệp sản xuất ôtô và điện tử trở thành hai ngành công nghiệp mũi nhọn. Sau khi ban bố
luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nay, các tập đoàn sản xuất ô tô và điện tử hàng đầu thế giới đã có mặt tại Việt
Nam. Riêng trong lónh vực sản xuất ô tô đã có 11 liên doanh với các tập đoàn nước ngoài và 40 công ty sản xuất trong
nước chuyên lắp ráp ô tô tiêu thụ tại thò trường trong nước.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong các ngành trên phát triển và cạnh tranh với các đối thủ cạnh
tranh từ nước ngoài, CPxây dựng hàng rào bảo hộ mậu dòch bằng thuế quan rất cao. Thuế nhập khẩu đối với ôtô
nguyên chiếc dao động từ 60-150% và đối với thiết bò điện tử nguyên chiếc là 50% trước năm 2003 và 20% trong
những năm sau đó. CPhy vọng là trong thời gian được bảo hộ, các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh
tranh và hạ giá thành sản phẩm bằng cách nâng cao tỉ lệ nội đòa hoá sản phẩm. Thế nhưng lợi dụng hàng rào thuế quan
3
cao đối với ô tô nhập khẩu nguyên chiếc, các doanh nghiệp chỉ nhập khẩu các linh kiện từ nước ngoài về để lắp ráp và
tiêu thụ tại thò trường nội đòa. Mặc dù chỉ hoạt động với công suất từ 30-35%, nhưng các doanh nghiệp sản xuất ôtô ở
Việt Nam vẫn có lãi, thậm chí với lợi nhuận rất cao (trong khi để có lợi nhuận, một nhà máy sản xuất ô tô ở Châu u
phải hoạt động với công suất hơn 60%). Đặc biệt là Hiệp hội ô tô và máy công nghiệp Việt Nam (VAMA) liên kết với
nhau phân chia thò trường và đònh giá cao cho sản phẩm. Kết quả là tỉ lệ nội đòa hoá ngành ô tô chưa vượt quá 10%
(thậm chí có doanh nghiệp chưa đến 1%), ngành công nghiệp điện tử chưa vượt quá 15%. Các chi tiết nội đòa hoá đều
là các chi tiết đơn giản, giá trò gia tăng thấp (các doanh nghiệp phụ trợ Việt Nam chỉ mới cung cấp được những loại
dây dẫn điện đơn giản, một số chi tiết nhựa, tấm lót cho ngành công nghiệp ô tô, các cấu kiện nhựa đối với công
nghiệp điện như vỏ ti vi, tủ lạnh, máy giặt … đều là những chi tiết cấu thành nên giá trò sản phẩm thấp, giá trò chủ yếu
của nó nằm ở giá trò nguyên vật liệu – những thứ mà VN gần như nhập khẩu hoàn toàn).
Tham vọng xây dựng hai ngành công nghiệp quan trọng bậc nhất (để đo lường và đánh giá một nước công
nghiệp) cho đến nay có thể khẳng đònh đã thất bại. CPđã không thể tìm ra hoặc không kòp thực hiện các biện pháp cần
thiết để củng cố và phát triển hai ngành công nghiệp này. Tăng thuế nhập khẩu cao đã làm các doanh nghiệp có cảm
giác được ưu ái, không kòp đổi mới. CPkhông có hướng đi rõ ràng khi hoạch đònh chiến lược phát triển cho các ngành
này, không tìm ra một hướng đi thích hợp mà để cho các doanh nghiệp mặc nhiên tận thu những ưu đãi thuế quan mà
CPđưa ra. CPchỉ sử dụng thuế quan như là công cụ duy nhất để bảo hộ ngành này trước các sóng gió từ bên ngoài mà
không nhận ra cần phải có những chiến lược hỗ trợ cho ngành này phát triển như: đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng ngành
công nghiệp phụ trợ, mở rộng thò trường …. Trong khi các nước trong khu vực như Thái Lan nhận thấy hướng đi này
thất bại đã chuyển hướng sang phát triển ngành công nghiệp ô tô theo hướng trở thành trung tâm sản xuất quy mô lớn
cho các tập đoàn sản xuất ô tô. Ngày nay Thái Lan trở thành nước sản xuất ôtô lớn thứ 7 trên thế giới ( 1 triệu xe/năm).
Câu hỏi:
1. Trình bày lý thuyết cạnh tranh quốc gia của Michael Porter (mô hình viên kim cương Porter – Porter’s
diamond)?
2. Dựa vào mô hình của viên kim cương Porter để phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam?
3. Theo Anh (Chò), CPcần phải làm gì để ngành công nghiệp sản xuất ô tô Việt Nam đã có thể phát triển đúng
hướng và cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh thế giới?.
Bài tập tình huống số 6:
CÔNG NGHIỆP PHẦN MỀM CỦA ẤN ĐỘ
Là quốc gia tương đối nghèo nhưng Ấn Độ đã thành công trong việc xây dựng và phát triển ngành công
nghiệp phần mềm. Chỉ trong gần hai thập kỷ, ngành công nghiệp phần mềm từ chỗ có nhiều hoài nghi đã có một
chỗ đứng vững chắc trong ngành công nghiệp phần mềm toàn cầu. Trong giai đoạn 1991-2002, doanh số của các
công ty phần mềm Ấn Độ tăng trung bình hàng năm hơn 50%. Nếu giai đoạn 1991-1992 tổng doanh số bán của
ngành công nghiệp này là 388 tr. USD, thì năm 2002 doanh số đã hơn 8 tỉ USD. Đầu năm 2000, hơn 900 công ty
phần mềm Ấn Độ thu hút khoảng 200.000 kỹ sư, đứng thứ ba trên thế giới về lực lượng lao động cao cấp trong lónh
vực này.
Xuất khẩu sản phẩm này cũng đạt được những thành tựu đáng kể. Nếu năm 1985 doanh số xuất khẩu phần
mềm chưa tới 10tr. USD, thì đến năm 1997 doanh số xuất khẩu đã là 1,8 tỉ USD và đạt kỷ lục 6,2 tỉ USD vào năm
2002 với 2/3 doanh số xuất khẩu sang Mỹ. Trong tương lai ngành công nghiệp này sẽ phát mạnh hơn nữa, theo dự
đoán của Hiệp hội phần mền quốc gia thì doanh số xuất khẩu phần mềm của Ấn Độ vào năm 2008 là 21 tỉ USD.
Nhiều công ty phần mềm nước ngoài đã đầu tư tích cực vào ngành công nghiệp phần mềm ở Ấn Độ như :
Microsoft; IBM; Oracle…. Theo thống kê, cứ 5 công ty đa quốc gia thì có 2 công ty sử dụng dòch vụ phần mềm từ
Ấn Độ.
Phần lớn sự tăng trưởng công nghiệp phần mềm hiện tại là nhờ hoạt động gia công cho các đối tác nước
ngoài. Nhiều công ty phần mềm Ấn Độ tham gia vào các dự án quan trọng với các khách hàng nước ngoài. Ví dụ
TCS - công ty phần mềm lớn nhất của Ấn Độ liên minh với Ernst & Young, theo đó TCS phát triển và duy trì phần
mềm cho các khách hàng toàn cầu của Ernst & Young. Ngoài ra, TCS còn liên minh chiến lược với Microsoft. Các
công ty của Ấn Độ cũng tích cực tham gia vào các dự án thương mại điện tử, nếu năm 1997 hoạt động này chưa có
gì, thì hiện nay các công ty n Độ chiếm gần 10% tất cả dự án phát triển phần mềm thương mại điện tử ở Ấn Độ.
Ngành công nghiệp phần mềm Ấn Độ nổi lên bất chấp sự nghèo nàng cơ sơ hạ tầng thông tin. Năm 2000, ở
Ấn Độ cứ 1000 người dân chỉ có 5 máy tính cá nhân (588 máy ở Hoa Kỳ), 32 điện thoại (700 ở Hoa Kỳ) và người
4
sử dụng Internet 5 tr. (100 tr. ở Hoa Kỳ). Tuy nhiên, nhu cầu máy tính cá nhân bắt đầu tăng mạnh và điện thoại di
động cũng tăng lên rất nhanh để bù đắp cho sự thiếu hụt điện thoại cố đònh.
Giải thích cho sự thành công của ngành công nghiệp phần mềm có một số nhân tố. Dù nền giáo dục của
Ấn Độ nói chung phát triển ở mức thấp, nhưng tầng lớp trung lưu được đào tạo rất tốt, nhiều trường đại học của Ấn
Độ ngang tầm thế giới. Một nhân tố quan trọng nữa là ngôn ngữ quốc tế được sử dụng khá phổ biến ở Ấn Độ (tầng
lớp trung lưu sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ làm việc). Sau nữa là vấn đề tiền lương, lương của các kỹ sư phần
mềm ở Mỹ tăng lên rất nhanh, trong khi một lập trình viên ở Mỹ lương trung bình hàng năm là 90.000$, thì lương
của một đồng nghiệp ở Ấn Độ chỉ 5,800$. Lương của các lập trình viên ở Ấn Độ cũng tăng lên rất nhanh trong
những năm gần đây và song song với đó là năng suất cũng tăng lên. Trong năm 2002 các phần mềm phát triển ở
Ấn Độ có chi phí trung bình từ 25$ đến 35$/1giờ, trong khi phần mềm tương tự phát triển ở Mỹ có chi phí là từ 75$
đến 100 $/1giờ.
Một yếu tố khác giúp cho Ấn Độ có lợi thế là nhờ đặc điểm của sản phẩm phần mền, sản phẩm này có thể
sản xuất ra ở bất kỳ đâu trên thế giới và vận chuyển chúng rất nhanh với chi phí rất rẻ. Vò trí đòa lý của Ấn Độ nằm
giữa Châu Âu và Mỹ nên nó có lợi thế về múi giờ. Các công ty phần mền Ấn Độ khai thác và mở rộng rất nhanh
thò trường quốc tế bằng cung cấp các dòch vụ phần mềm cho các công ty của Mỹ và Tây Âu. Các kỹ sư Ấn Độ có
thể sửa chữa các lỗi của chương trình phần mềm, hoàn thiện chất lượng sản phẩm, nhập số liệu … trong đêm khi
mà các đồng nghiệp của họ ở Châu Âu đang ngủ.
Để duy trì lợi thế cạnh tranh của mình, các công ty phần mềm Ấn độ hiện giờ đầu tư rất mạnh vào hoạt
động đào tạo và nâng cao kỹ năng lập trình. Họ còn tích cực hướng tới đạt các chuẩn chất lượng quốc tế như chứng
nhận ISO 9000. Các công ty Ấn Độ bắt đầu thâm nhập vào sản xuất phần mềm ứng dụng kinh doanh, lúc đầu họ
hướng tới thò trường nội đòa nhưng sau đó sẽ mở rộng ra thò trường quốc tế. Trong tương lại các công ty này có thể
cạnh tranh với nhiều công ty lớn như Microsoft, Oracle, PeopleSoft, và SAP trong lónh vực ứng dụng kinh doanh.
Câu hỏi thảo luận:
1) Có thể sử dụng lý thuyết lợi thế so sánh để giải thích sự tăng trưởng của công nghiệp phần mềm Ấn Độ?
2) Có thể sử dụng lý thuyết Heckcher-Ohlin để giải thích hiện tượng trên?
3) Sử dụng viên kim cương của Michael Porter’s để phân tích sự tăng trưởng của công nghiệp phần
mềm Ấn Độ. Phân tích trên có thể giải thích hiện tượng trên hay không?
4) Các lý thuyết: lợi thế so sanh, Heckscher-Orlin và Porter’s – lý thuyết nào giải thích tốt nhất cho
hiện tượng trên?
Bài tập tình huống số 7
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP TOYOTA TẠI PHÁP
Trong những năm 60-70, CPPháp theo quan điểm cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế Pháp. Do đó CPPháp tập trung phát triển các doanh nghiệp nội đòa và kiểm soát chặt các hoạt động
kinh tế thông qua việc hoạch đònh các chính sách và can thiệp sâu vào hoạt động của nhiều ngành công nghiệp.
Quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Pháp bắt đầu thay đổi từ thập niên 80 của thế kỷ trước. Các rào
cản đối với đầu tư nước ngoài được dở bỏ cùng với nhận thức hơn về tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với nền kinh tế. Kết quả dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Pháp tăng trung bình 13 tỉ USD/1năm trong
giai đoạn 1988-1993 lên 21,9 tỉ USD vào năm 1996 và 39,1 tỉ USD vào năm 1999. Các công ty đa quốc gia hàng
đầu thế giới đều đầu tư mạnh vào Pháp như Toyota, IBM, Motorola và Federal Espress Corp….
Tháng 12/1997, Toyota quyết đònh đầu tư 656,8 triệu USD để xây dựng nhà máy sản xuất ô tô có công suất
150.000 chiếc/năm tại Pháp nhằm cung cấp cho thò trường EU. Trước đó Toyota đã có nhà máy ở Anh, cho dù
CPAnh ra sức vận động Toyota mở rộng nhà máy hiện có, công ty vẫn quyết đònh chọn Pháp. Công ty hy vọng
tăng thò phần của mình ở thò trường Pháp từ 1,1% trong năm 1997 lên 5%. Khoản đầu tư mới cho thấy Toyota theo
đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu ô tô từ Nhật bằng cách sản xuất ngay tại EU để tránh rào cản thuế quan đánh
vào hàng nhập khẩu từ Nhật. Nhà máy mới có kế hoạch sử dụng tỉ lệ linh kiện sản xuất tại EU là 60% để được xếp
vào loại hàng Châu u và tránh bò đánh thuế nhập khẩu. Đến năm 2001 nhà máy đã tiếp nhận hơn 2000 nhân viên
và tạo thêm hơn 2000 việc làm khác từ các nhà cung ứng.
CPPháp hứa tài trợ cho Toyota như miễn thuế, miễn một số khoản đóng góp an ninh xã hội và hỗ trợ tài
chính cho vấn đề đào tạo nhân công. Chính quyền thành phố Valenciennnes, nơi Toyota đặt trụ sở cũng miễm
hoặc giảm thuế đất hàng năm. Tổng các khoản tài trợ ước tính bằng khoảng 10% giá trò đầu tư.
Câu hỏi thảo luận:
1. Quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của CPPháp thay đổi thế nào?
5