Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.42 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Một số thuốc thử hóa học thơng dụng, hướng dẫn cách thử, phương pháp để phân tích định tính và</b>
<b>định lượng...Mời quý thầy cô và các bạn tham khảo.</b>
<b>Thuốc thử Barfoed</b>: Thuốc thử này trông giống thuốc thử Benedict nhưng hơi khác một
chút . Dung dịch được chuẩn bị bằng cách hịa tan 70g Đồng acetat monohydrat với 9ml
axít acetic băng trong nước sau đó đưa vào bình định mức 1lít rồi thêm nước cho đến
vạch định mức, dung dịch có thể sử dụng trong thời hạn một năm.
Khi 1ml dung dịch thuốc thử này được đun nóng với 5 giọt chất mẫu, kết quả dương tính
đối với monosacarit là sự hình thành kết tủa đỏ gạch tồn tại trong vịng 5 phút. Cịn
disacarit nhìn chung khơng thấy phản ứng xảy ra sau 10 phút đun nóng với thuốc thử. Kết
tủa sẽ khơng đóng váng như khi thử với thuốc thử Benedict.
Với dung dịch thô tiến hành như sau: trước hết hòa tan 100g Na2CO3 và 173g Natri
Citrat dihydrat trong 850ml nước, khuấy đều và cho từ từ dung dịch của 17.3 g Đồng
sulfat trong 100ml nước. Sau đó thêm hỗn hợp vào bình định mức 1lít và thêm nước đến
vạch chỉ định, thuốc thử có thể sử dụng lâu dài.
Trong 600ml nước nóng hịa tan các chất sau:
- 200g Natri citrat (C6H5Na3O7)
- 75g Natri cabonat
- 125g Kali thiocynat
Trong 100ml nước hòa tan
- 18g CuSO4.5H2O
Khi các dung dịch đã nguội trộn chúng với nhau và khuấy đều sau đó thêm 5ml dung
dịch Kali
Khi 1ml dung dịch thuốc thử được đun nóng với 5 giọt chất mẫu trong một cốc nước, dấu
hiệu tích cực khi kiểm tra sự có mặt của đường khử là hình thành kết tủa trong 5 phút.
Khoảng biến màu từ xanh lá cho đến vàng rồi chuyển qua màu cam sau đó là màu đỏ
gạch tùy thuộc vào hàm lượng đường khử có trong chất mẫu; với một mẫu chứa 1%
glucose thì màu của kết tủa thường là đỏ gạch.
<b>Thuốc thử Bial:</b> Hòa tan 3 g orcinol (C7H8O2) trong 500 mL axít HCl đậm đặc, thêm 2,5
ml dung dịch feric clorua hexahydrat 10% và hòa tan hỗn hợp thành 1lít với nước và lúc
này HCl xấp xỉ 6M. Thuốc thử chỉ bền trong vòng vài tuần, nhưng tôi chưa thử để lâu
hơn, bạn hãy thử xem sao. Thuốc thử Bial được pha chế theo cách cổ điển được chuẩn bị
trong 1lít HCl đậm đặc khơng pha loãng với nước. Dung dịch này phản ứng nhanh hơn
(30-60 giây) nhưng kém bền so với thuốc thử pha chế bằng phương pháp nêu trên và hơi
của HCl đậm đặc là cả một vấn đề nan giải. Và bạn cũng có thể dùng HCl 4M vẫn phản
ứng tốt nhưng chậm và cho màu yếu hơn.
Khi 1ml dd thuôc thử được đun nóng với 5 giọt chất mẫu trong một cốc nước thì dấu hiệu
tích cực với pentose(phân tử đường chứa 5 cacbon) là sử đổi màu dung dịch từ xanh lá
sang xanh da trời trong chốc lát.
<b>Thuốc thử Biuret:</b> Thêm 300ml dung dịch NaOH 10% về thể tích vào 500ml dung dịch
chứa 0.3% đồng sulfat pentahydrat và 1.2% Kali Tartrat (C4H4K2O6) khuấy đều rồi pha
lỗng thành 1lít dung dịch. Sau đó để dung dịch ở chỗ tối ngay để tránh thuốc thử bị biến
tính.
- Thuốc thử có thể dùng trong phân tích định tính và định lượng. Trong một phản ứng
tiêu biểu một phần thể tích của mẫu được trộn với 2 phần thể tích của thuốc thử; tỉ số tối
giản phụ thuộc vào nồng độ tối đa của protein mà bạn muốn phát hiện. Sự xuất hiện của
protein sẽ cho ra màu tìm với bước sóng hấp thụ khoảng 550-555nm, chúng tôi thường
<b>Thuốc thử Bradford:</b> Hòa tan 100mg Coomassie Blue G-250 (C41H44N3NaO6S2) trong
Thuốc thử cần được lọc ít nhất một lần, nếu thấy chưa hài lịng bạn có thể lọc 2 đến 3 lần
khi thấy kết tủa xuất hiện trong duc dịch. Thuốc thử Bradford có bán trên thị trường với
cấu trúc tương đối bền. Tôi nghe một số người nói rằng cơng thức của Sigma dùng 40ml
metanol 4% và 120ml photphoric axít 10%. Tơi đã thử nhưng khơng thấy gì tốt hơn
phương pháp cổ điển cả. Người ta nói dung dịch này kém bền nhưng tơi đã dùng cả năm
nay khơng thấy vấn đề gì.
- Để định lượng protein hãy trộn 0.25ml mẫu với 2.5 ml thuốc thử Bradford. Sau 5 phút
đo phổ hấp thụ ở 595nm. Một điểm bất lợi của thuốc thử này là nó cho ra một khoảng
trắng dài làm ảnh hưởng đến kết quả đọc phổ bởi vì một số thuốc thử dính chặt với cuvét.
Một điểm bất lợi khác nữa là thuốc thử này rất nhạy với dung dịch tẩy rửa nếu như dụng
cụ thủy tinh không được rửa lại sạch thì có nghĩa là bạn đang nghiên cứu về khả năng hòa
tan của màng protien trong chất tẩy rửa.
<b>Thuốc thử DNSA:</b> Thuốc thử này dùng để phát hiện nhóm khử cuối mạch của hydrocarbon
và nó rất hữu dụng trong nhiều thí nghiệm. Thành phần của nó là 1% của
3,5-dinitrosalicylic Axít (DNSA), 30% Natri Kali Tartrat và 0.4M NaOH. Thuốc thử này rất
bền và sau vài năm cất trữ có một vài vẫn đen xuất hiện trong dung dịch, mặc dù cũ
nhưng vẫn sử dụng tốt.
Trong một phản ứng tiêu biểu, cùng một thể tích của mẫu và thuốc thử được đun nóng
trong cốc nước sơi khoảng 10 phút. Sau đó để nguội và đó pha lỗng với 10 phần thể tích
nước đo phổ hấp thụ thu được bước sóng 540nm. Tơi thường dùng khoảng 0.4 ml mẫu và
DNSA và sau khi đun nóng hịa tan với 4ml nước, thu được một hỗn hợp vừa đủ để chạy
phổ hấp thụ. Khi khơng có nhóm khử nào xuất hiện thì màu thu được là màu vàng và
<b>Thuốc thử Lowry:</b>
hai thuốc thử A và B bền trong một thời gian tương đối dài nhưng tôi thấy thuốc thử B
xuất hiện kết tủa có nghĩa là nó nhắc tơi cho thêm một ít NaOH.
- Thuốc thử 2: Hòa tan thuốc thử Folin-Ciocalteu phenol thương mại với một lượng
nước bằng về thể tích , thuốc thử sẽ bền trong vài tuần.
Để định lượng protein trộn 0.25ml dung dịch chứa protein với 2.5 ml thuốc thử Lowry.
Sau 10 phút thêm 0.25ml thuốc thử Lowry 2 và lắc đều. Sau 30 phút đo phổ hấp thụ ở
750nm.(Nếu bạn dùng Spectronic 20 với một ống photo thông thường thì 750nm là quá
dài, nhưng ở 600nm cho kết quả hấp thụ thấp hơn nhưng vẫn còn chấp nhận được.)
<b>Thc thử Seliwanoff:</b> Hịa tan 1g resorcinol (C7H8O2) trong 300ml HCl đậm đặc sau đó
pha lỗng thành 1lít (lúc này HCl xấp xỉ 4M). Thuốc thử này có thể cất được hơn một
năm.
- Khi 1ml thuốc thử được đun nóng với 5 giọt chất mẫu trong một cốc nước đang sơi, một
dấu hiệu tích cực đối với monosacarit có chứa nhóm ceton là sự chuyển màu của dung
dịch từ vàng cam sang đỏ trong vòng 5 phút. Trong một số tài liệu khác thì nói rằng màu
quả mơ là kết quả âm tính. Màu sắc của thí nghiệm kết quả phụ thuộc vào nồng độ của
chất mẫu, và một vài loại đường như glucose thì khơng biến màu thậm chí sau mười phút
trong thuốc thử.