Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Bệnh loét đường tiêu hóa docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.46 KB, 7 trang )

Bệnh loét đường tiêu hóa

Loét đường tiêu hóa là gì?
Loét đường tiêu hóa là sự hình thành một lỗ trên lớp niêm mạc lót bên trong dạ
dày, tá tràng hoặc thực quản. Tùy vị trí mà ta có loét dạ dày, loét tá tràng và loét thực
quản. Loét xảy ra khi lớp niêm mạc lót bên trong các cơ quan này bị mòn đi bởi dịch
tiêu hóa có tính acid do tế bào dạ dày tiết ra.
Loét đường tiêu hóa là một bệnh khá phổ biến, hàng triệu người Mỹ bị bệnh
này mỗi năm. Chi phí y tế trong điều trị loét đường tiêu hóa và các biến chứng của nó
tốn hàng triệu USD/năm. Các tiến bộ y học gần đây đã giải thích được nhiều về cơ chế
hình thành của ổ loét. Ðiều này đã mở ra nhiều chọn lựa trong việc điều trị căn bệnh
này.
Các nguyên nhân của loét đường tiêu hóa
Nhiều năm trước đây, người ta tin rằng sự tiết acid quá mức là nguyên nhân
chính gây loét. Dựa vào đó, việc điều trị được nhấn mạnh vào sự trung hòa và ngăn
chặn sự tiết acid của dạ dày. Hiện nay, các nghiên cứu cho thấy nguyên nhân hàng đầu
của bệnh loét là do dạ dày bị nhiễm một loại vi khuẩn có tên "Helicobacter pylori"
mặc dù acid vẫn được coi là yếu tố đóng vai trò trực tiếp trong sự hình thành ổ loét.
Một nguyên nhân quan trọng khác gây ra loét đó là việc sử dụng thường xuyên
các loại thuốc kháng viêm, thường là thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) như
aspirin. Hút thuốc cũng là một nguyên nhân quan trọng và dễ gây thất bại trong điều
trị.
Vi khuẩn H. pylori rất thường gặp, gây bệnh cho hơn 1 tỉ dân số thế giới. Quá
trình nhiễm bệnh thường kéo dài trong nhiều năm và 10% đến 15% số người nhiễm sẽ
dẫn đến loét. H. pylori được tìm thấy trên 80% bệnh nhân bị loét dạ dày và tá tràng.
Mặc dù cơ chế gây bệnh của H. pylori vẫn chưa được hiểu rõ, sự loại bỏ vi khuẩn này
bằng kháng sinh đã cho thấy hiệu quả cao trong việc chữa trị và ngăn ngừa loét tái
phát.
NSAID là thuốc dùng điều trị viêm khớp và các tình trạng thương tổn viêm
nhiễm khác trong cơ thể. Aspirin, ibuprofen (Motrin), naproxen (Naprosyn) và
etodolac (Lodine) là một số thuốc thuộc loại này. Prostaglandin là các chất đóng vai


trò quan trọng trong việc giúp niêm mạc ruột chống lại sự làm mòn của acid. NSAIDs
gây loét bằng cách ức chế tác động của prostaglandin trong dạ dày.
Hút thuốc không chỉ gây loét mà còn làm gia tăng nguy cơ biến chứng của loét
như xuất huyết, tắc nghẽn dạ dày và thủng dạ dày đồng thời cũng là nguyên nhân hàng
đầu gây thất bại trong điều trị.
Trái với quan niệm thông thường, rượu, cà phê, cola, thức ăn cay và caffeine
chưa được chứng minh vai trò trong sự tạo thành loét. Tương tự, không có bằng xác
thực nào cho thấy các stress trong cuộc sống và týp người nào dễ bị các bệnh loét.
Triệu chứng của loét ?
Triệu chứng của loét rất đa dạng. Nhiều bệnh nhân chỉ cảm thấy hơi khó tiêu và
khó chịu. Một số người cảm thấy rát bỏng vùng thượng vị hoặc đau (do đói) 1 đến 3
giờ sau bữa ăn và lúc nửa đêm, ợ hơi, ợ chua. Những cơn đau này thường nhanh chóng
biến mất khi ăn hoặc uống thuốc trung hòa acid.
Cơn đau của loét liên quan rất ít đến sự hiện diện hoặc mức độ trầm trọng của
các ổ loét. Một số bệnh nhân vẫn đau kéo dài ngay cả sau khi đã được điều trị khỏi
hoàn toàn. Những bệnh nhân khác có thể không đau ngay cả khi ổ loét tái phát. Các ổ
loét có thể xuất hiện và biến mất tự nhiên mà người bệnh không hề hay biết trừ khi
một biến chứng trầm trọng xảy ra (như xuất huyết hoặc thủng).
Chẩn đoán loét bằng cách nào?
Việc chẩn đoán có thể được thực hiện bằng chụp X quang cản quang đường tiêu
hóa trên với barium hoặc nội soi đường tiêu hóa trên. Chụp X quang cản quang đường
tiêu hóa trên với barium dễ thực hiện, ít gây biến chứng và khó chịu. Barium là một
chất dạng bột trắng uống qua đường miệng. Barium dễ quan sát và cho thấy đường nét
dạ dày trên phim X quang. Tuy nhiên, chụp X quang với barium ít chính xác và 20%
trường hợp không phát hiện được loét.
Nội soi đường tiêu hóa trên chính xác hơn nhưng phụ thuộc vào sự chịu đựng
của bệnh nhân khi phải luồn một ống dẻo qua miệng vào thực quản, dạ dày và tá tràng
để quan sát. Nội soi tiên lợi hơn trong việc có thể lấy ra mẫu mô (sinh thiết) để xét
nghiệm xem có nhiễm H. pylori không. Mẩu sinh thiết cũng có thể quan sát dưới kính
hiển vi để loại trừ ung thư. Mặc dù thực tế tất cả các ổ loét tá tràng đều lành tính

nhưng loét dạ dày đôi khi có thể trở thành ung thư. Do đó sinh thiết thường được thực
hiện trong loét dạ dày để loại trừ ung thư.
Các biến chứng của loét ?
Nhìn chung bệnh nhân bị loét vẫn thực hiện các chức năng tiêu hóa tương đối
bình thường. Một số ổ loét còn có thể tự lành ngay cả khi không điều trị. Do đó các
vấn đề nghiêm trọng của loét chính là các biến chứng. Những biến chứng này bao gồm
loét xuất huyết, tắc nghẽn dạ dày và thủng dạ dày.
Bệnh nhân bị loét xuất huyết đi tiêu ra phân màu đen giống bã cà phê, suy kiệt,
cảm giác choáng váng khi đứng dậy (tụt huyết áp tư thế đứng) và ói ra máu. Ðiều trị
ban đầu là nhanh chóng bù đắp qua đường tĩnh mạch lượng dịch cơ thể bị mất. Bệnh
nhân bị chảy máu kéo dài hoặc ồ ạt có thể phải truyền máu. Thực hiện nội soi đường
tiêu hóa trên nhằm xác định vị trí chảy máu và cầm máu với dụng cụ để đốt.
Thủng loét làm thoát các thành phần chứa trong dạ dày vào khoang màng bụng
dẫn đến viêm phúc mạc cấp (sự nhiễm trùng của khoang màng bụng). Những bệnh
nhân này thường đột ngột khởi đau dữ dội ở bụng, đau tăng khi chuyển động, các cơ
bụng trở nên cứng "như gỗ", đau cảm giác như "dao đâm". Những trường hợp này phải
được phẫu thuật cấp cứu.
Bệnh nhân bị tắc nghẽn dạ dày thường đau tăng ở bụng, ói ra các thức ăn chưa
được tiêu hóa hoặc mới được tiêu hóa một phần, chán ăn và sụt cân. Sự tắc nghẽn
thường xảy ra gần hang môn vị. Hang môn vị là phần hẹp tự nhiên của dạ dày vì nó
nối với phần trên của ruột non là tá tràng. Nội soi rất có ích trong chẩn đoán và loại trừ
ung thư vì ung thư cũng có thể là nguyên nhân gây nghẽn tắc.
Ở một số bệnh nhân, tắc nghẽn dạ dày có thể chữa bằng đặt ống thông dạ dày
trong 72 giờ, kèm truyền tĩnh mạch thuốc chống loét như : cimetidine (Tagamet) và
ranitidine (Zantac). Bệnh nhân bị tắc nghẽn kéo dài đòi hỏi phải phẫu thuật.
Các phương pháp điều trị loét đường tiêu hóa?
Mục đích của điều trị loét là làm hết đau và ngăn chặn các biến chứng như xuất
huyết, tắc nghẽn và thủng. Bước đầu tiên luôn là làm giảm các yếu tố nguy cơ (NSAID
và hút thuốc). Bước kế tiếp mới là dùng thuốc điều trị.
Thuốc chống acid là trung hòa acid trong dạ dày, một số thuốc thuộc loại này

như : Maalox, Mylanta và Amphojel điều trị an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, tác dụng
trung hòa của những loại thuốc này thường ngắn và đòi hỏi uống thuốc thường xuyên.
Các chất chống acid như Magie chứa trong Maalox và Mylanta có thể gây tiêu chảy,
trong khi nhôm chứa trong Amphojel có thể gây táo bón. Loét thường tái phát khi
ngưng sử dụng các loại thuốc này.
Các nghiên cứu cho thấy một loại protein trong dạ dày gọi là histamin có tác
dụng kích thích sự tiết acid dạ dày. Các thuốc kháng histamin ( thuốc kháng H2) được
tạo ra nhằm ngăn chặn tác động của histamin lên tế bào dạ dày, do đó làm giảm sự tiết
acid. Một số thuốc thuộc loại này là: cimetidine (Tagamet), ranitidine (Zantac),
nizatidine (Axid) và famotidine (Pepcid). Mặc dù thuốc kháng H2 rất hiệu quả trong
việc làm lành vết loét, chúng vẫn chỉ có vai trò rất giới hạn trong tiệt trừ H.pylori nếu
không phối hợp với kháng sinh. Do đó, loét thường tái phát khi ngưng sử dụng các
thuốc này. Nhìn chung, các loại thuốc này dễ uống và chỉ có ít tác dụng phụ ngay cả
khi sử dụng lâu dài. Chỉ một số hiếm trường hợp bệnh nhân bị nhức đầu, choáng váng,
hôn mê hoặc ảo giác. Dùng cimetidine dài ngày có thể gây liệt dương hoặc vú to. Cả
cimetidine và ranitidine đều ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát mức rượu của cơ thể.
Những bệnh nhân uống thuốc này và uống rượu có thể có nồng độ rượu trong máu cao
hơn. Những thuốc trên cũng có thể ảnh hưởng đến tác dụng của gan với các thuốc khác
như: Dilantin, Coumadin và theophylline. Liều lượng thông thường của các loại thuốc
này nên được điều chỉnh phù hợp.
Omeprazole (Prilosec) hiệu quả hơn thuốc kháng H2 trong việc ngăn chặn sự
tiết acid. Prilosec gần như làm dạ dày ngưng tiết acid hoàn toàn. Mặc dù Prilosec có
hiệu quả tương đương với thuốc kháng H2 trong điều trị loét dạ dày và tá tràng nhưng
nó có hiệu quả hơn hẳn trong điều trị loét thực quản. Loét thực quản rất nhạy cảm dù
với chỉ một lượng nhỏ acid. Do đó tác dụng ngăn chặn hoàn toàn sự tiết acid của
Prilosec rất quan trọng trong làm lành loét thực quản. Ðiều thú vị là mặc dù acid hoàn
toàn không được tiết ra nó vẫn không hề ảnh hưởng đến sự tiêu hóa và hấp thu thức ăn
của bệnh nhân. Prilosec rất dễ uống. Với liều lớn, Prilosec có thể gây những khối u
nhỏ trong ruột chuột. Tuy nhiên, chưa phát hiện được trường hợp nào xảy ra trên
người ngay cả khi dùng thuốc dài ngày. Thời gian an toàn trong điều trị Prilosec dài

ngày vẫn chưa được công bố chắc chắn.

×