Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở việt nam hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.74 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRẦN QUỐC ĐỒN

QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ CHĂM SĨC SỨC KHỎE
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP- LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - THÁNG 04 NĂM 2020


Cơng trình được hồn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN QUỐC SỬU
Phản biện 1: TS. ĐÀM BÍCH HIÊN
Phản biện 2: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phịng họp 401 Nhà A, Học viện Hành chính Quốc gia
77 Nguyễn Chí Thanh - Quận Đống Đa - TP Hà Nội


Thời gian: vào hồi 9 giờ 00, ngày 21 tháng 08 năm 2020

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ai sinh ra trên đời cũng đều có riêng cho mình những mục đích sống khác
nhau, nhưng dù là mục đích, lý tưởng gì thì chúng ta đều cần có sức khỏe thì mới
thực hiện được những mục tiêu này. Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân
cũng như của tồn xã hội. Bác Hồ kính u nói: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước
nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một
người dân yếu ớt, tức là làm cho cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe,
tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe”[16].
Có thể nói: Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, do vậy, bảo vệ và chăm
sóc sức khỏe nhân dân ln là vấn đề mà các Nhà nước trên thế giới đặc biệt quan
tâm. Từ khi tiến hành đổi mới, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam
đang tích cực xây dựng Nhà nước pháp quyền, bảo vệ nhân quyền và hội nhập
quốc tế, vấn đề bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân càng được Đảng, Nhà
nước và xã hội quan tâm. Nhận thức rõ vị trí và vai trị quan trọng của sức khỏe
của người dân trong xã hội nên ngay từ khi nước Nhà mới giành được độc lập,
các quyền của cơng dân nói chung và quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe nói
riêng ngày càng được pháp luật Việt Nam ghi nhận và khẳng định.
Sau nhiều năm thực hiện chính sách đổi mới, chất lượng dịch vụ y tế, công
tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe người dân đạt được nhiều thành tựu nhất định.
Mạng lưới cơ sở y tế được phát triển. Thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội,
tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân, những năm qua Việt Nam đã
không ngừng phát triển mạng lưới y tế hoàn chỉnh, rộng khắp từ Trung ương đến
tận các xã, thôn, bản trong cả nước, góp phần nâng cao thể trạng sức khỏe cho

người dân. Tuy nhiên, cùng với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội,
về cơ cấu dân số. Việt Nam hiện phải đối mặt với những thách thức mới về sức
khỏe. Xã hội ngày càng hiện đại kèm theo những hệ lụy như tình trạng ơ nhiễm
mơi trường, mất an tồn vệ sinh thực phẩm, áp lực cơng việc, con người ít vận
động, chế độ ăn uống khơng hợp lý đã làm ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe người
Việt Nam. Thực tế, tuổi thọ của người dân Việt Nam mặc dù đã được cải thiện
nhưng nhìn chung chất lượng sức khỏe chưa được nâng lên, trong khi đó những
nguy cơ có hại cho sức khỏe vẫn rất cao và ngày càng gia tăng. Trong đó, ơ nhiễm
mơi trường, việc sử dụng thực phẩm hàng ngày không rõ nguồn gốc, xuất xứ vẫn
tồn tại. Ở các vùng nông thôn cịn ít hiểu biết chung về sức khỏe, bệnh dịch và
1


đặc biệt là chưa quan tâm đến khám sức khỏe định kỳ, khi phát hiện bệnh thường
đã ở giai đoạn muộn. Mặc dù Nhà nước đã có chính sách khám chữa bệnh định
kỳ cho người dân, tuy nhiên ở các vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa, nhóm đối
tượng có thu nhập thấp vẫn ít được quan tâm đúng mực, chưa có chế tài xử phạt
rõ ràng đối với các hành vi làm tổn hại đến sức khỏe người khác, chưa có chỉ tiêu
cụ thể về sức khỏe để nâng cao và bắt kịp với thế giới.
Trong bối cảnh này, Việt Nam cần phải định hưởng lại hệ thống chính sách
về vấn đề chăm sóc, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân để giải quyết
những thách thức trên và thiết kế lại cách thức cung cấp dịch vụ y tế nhằm đảm
bảo các chức năng y tế công cộng thiết yếu, cũng như tái thiết lập một hệ thống
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe vững mạnh. Chính phủ cần có những chính sách và
chiến lược mạnh mẽ hơn nhằm cải thiện chất lượng bảo vệ chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân. Người dân cần được quyền tiếp cận thơng tin để có thể chủ động,
tích cực tham gia các quyết định, cũng như thiết lập các mơ hình chăm sóc sức
khỏe mới và phù hợp, đáp ứng nhu cầu của từng vùng, từng địa phương và từng
nhóm đối tượng cụ thể.
Chính vì vậy mà việc nghiên cứu về vấn đề bảo vệ và chăm sóc sức khỏe

nhân dân trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy mạnh phát huy những mặt tốt, những
thành tựu đã đạt được, đồng thời tìm ra những khó khăn, vưởng mắc khi thực
hiện những cơng việc này trên thực tế, từ đó đề xuất những giải pháp để nâng cao
hiệu quả điều chỉnh của chính sách, của pháp luật với vấn đề bảo vệ chăm sóc
sức khỏe nhân dân trong giai đoạn tới là rất cần thiết.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả chọn đề tài “Quyền được
bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay
khơng cịn là vấn đề mới mẻ. Ở những phương diện và mức độ khác nhau đã có
một số cơng trình, bài báo đề cập đến vấn đề này. Dựa vào nguồn tư liệu bao quát
được, và trong phạm vi quan tâm của đề tài, nổi bật lên một số cơng trình sau:
Tác giả Lê Thị Hoàng Liễu với đề tài luận án tiến sĩ xă hội học “Tiếp cận
chăm sóc sức khỏe ban đầu của người dân nông thôn tại y tế cơ sở” năm 2014
Luận án gồm 138 trang với 4 chương với có nội dung: Đánh giá thực trạng kiến
thức của người dân biết về chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu. Mức độ tiếp
cận các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu tại hệ thống y tế công địa
phương, Đánh giá của người dân về cung cách thái độ phục vụ của viên chức y tế
2


địa phương và quan tâm của người dân đối với hệ thống y tế công tại địa phương.
Tác giả Đặng Bích Thủy với đề tài luận án tiến sĩ “Thực hiện quyền chăm
sóc sức khỏe trẻ em ở Việt Nam” năm 2017. Luận án gồm 144 trang với 4 chương
có nội dung: đánh giá thực trạng việc thực hiện quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em
trong bối cảnh hội nhập kinh tế của Việt Nam, từ đó đưa ra những khuyến nghị
nhằm thực hiện tốt hơn quyền chăm sóc sức khỏe trẻ em ở Việt Nam.
Tác giả Vương Vân Huyền với đề tài luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật
bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay” năm 2014. Luận án gồm 88 trang với
2 chương có nội dung: phân tích thực trạng quy định pháp luật về bảo vệ quyền

của phụ nữ ở Việt Nam, Luận văn hướng tới xây dựng các giải pháp pháp lý để
góp phần hồn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Tác giả Trần Quốc Bảo với luận văn thạc sĩ xã hội học đề tài “Chăm sóc sức
khỏe cho người cao tuổi tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An” năm 2019. Luận văn
gồm 3 chương với nội dung: Tìm hiểu tình hình chăm sóc sức khỏe và các yếu tố
ảnh hưởng đến chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi ở huyện Đức Huệ, qua đó
đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi trên
địa bản huyện Đức Huê tỉnh Long An.
Tác giả Trần Hằng với bài viết “Đảm bảo mọi người dân đều có quyền được
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe” đăng trên báo điện tử Vietnamnet online ngày
29/11/2019 nêu vấn đề trăn trở trong nhiều năm qua của ngành y tế là đến năm
2020 phải giải quyết căn bản tình trạng quá tải khám, chữa bệnh tại một số bệnh
viện tuyến cuối.
Các nghiên cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích. Tuy nhiên, các
nghiên cứu trên chỉ mới đề cập đến vấn đề về sức khỏe cộng đồng riêng lẻ, chưa
có đề tài nào nghiên cứu về tình hình thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo
vệ chăm sóc sức khỏe con người trong thời kỳ mới, và đưa ra những giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quá điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích tổng quảt: Làm rõ thêm lý luận khoa học các quan điểm về sức
khỏe và quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Đánh giá được tương đối thực trạng về thực hiện quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để từ đó, có thể đề ra một số
giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
trong thời gian tới.
3



Nhiệm vụ nghiên cứu:
Xây dựng cơ sở lý luận bao gồm làm rõ các khái niệm chính liên quan đến
để tài: quyền bảo vệ, quyền chăm sóc sức khỏe con người, các lý thuyết, cách
tiếp cận có thể áp dụng cho việc tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện quyền bảo
vệ chăm sóc sức khỏe con người trong lĩnh vực y tế ở Việt Nam hiện nay.
Tim hiểu cơ sở thực tiễn của việc thực hiện quyển bảo vệ chăm sóc sức khỏe
và xác định những vấn để cần tập trung phân tích.
Xây dựng khung phân tích và sử dụng các dữ liệu, thông tin thu thập được
để phản tích, đánh giá việc thực hiện quyển bảo vệ chăm sóc sức khỏe và các yếu
tố tác động trong bối cảnh hội nhập kinh tế ở Việt Nam theo phạm vi nghiên cứu
của đề tài.
Đề xuất các gải pháp nhằm thực hiện tốt hơn quyển bảo vệ chăm sóc sức
khỏe ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Cơ sở lý luận và thực tiễn về sức khỏe và quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe
ở Việt Nam.
Thực trạng quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay.
Một số giải pháp nâng cao thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về khơng gian: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là trên toàn quốc.
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá quyền bảo vệ chăm
sóc sức khỏe ở Việt Nam, các số liệu chủ yếu trong 5 năm thực hiện kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 2016-2020.
"Bảo vệ chăm sóc sức khỏe" là một khái niệm rộng lớn. Do đó, nội dung của
quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe cũng rất rộng, bao phủ ở hầu hết các lĩnh vực
trong xã hội. Tuy nhiên, để phù hợp với quy mô của một Luận văn Thạc sĩ, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe trong lĩnh vực Y tế liên
quan trực tiếp đến bảo vệ sức khỏe và chăm sóc sức khỏe con người.
Những vấn để khác liên quan đến quyền sức khỏe như: Bạo hành, xâm phạm

tính mạng, thân thể, tại nạn thương tích, bn bán người… và các vấn đề liên
quan đến sức khỏe trong các lĩnh vực khác như: Hình sự, Dân sự, Lao động, Tư
pháp… sẽ khơng thuộc phạm vi nghiên cứu của để tài này,
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền
4


tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như:
a) Phương pháp tổng quan tài liệu có sẵn, bao gồm các cơng trình nghiên
cứu trong nước và quốc tế, các văn bản luật pháp, chính sách, chương trình liên
quan đến thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam, Các văn bản
chính sách liên quan trong lĩnh vực y tế trong quá trình hội nhập kinh tế ở Việt Nam
có những ảnh hướng đến thực hiện quyển bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người.
b) Phân tích số liệu thứ cấp và sơ cấp các đề tài nghiên cứu có liên quan để
tổng hợp và phân tích, lý giải các vấn để mà mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã
đặt ra để tìm hiểu thực trạng thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người
trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý huận, luận văn đã góp phần hồn thiện lý luận về nghiên cứu quyền
bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người khi vận dụng lý thuyết về quyền con người,
lý thuyết cấu trúc- chức năng, lý thuyết sinh thái học xã hội trong lĩnh vực Y tế
và cách tiếp cận dựa trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa chủ thể mang quyền
(con người) và các bên liên quan chịu trách nhiệm thực hiện quyền về sức khỏe.
Sự xem xét mối quan hệ này cũng được đặt trong bối cảnh Việt Nam đang có
nhiều biến đổi về kinh tế - xã hội dưới tác động của quá trình hiện nay khi mà
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập Quốc tế, đặc biệt là sự điều chinh các
chính sách kinh tế vĩ mơ. Việc vận dụng các lý thuyết và cách tiếp cận nêu trên
trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế- xã hội của Việt Nam khơng chỉ cho phép

tìm hiểu được bản chất của quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe mà cịn cho phép
tim hiểu và lý giải những tác động của chính sách, pháp luật Nhà nước đối với
việc thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe từ bối cảnh kinh tế- xã hội tới
các yếu tố liên quan đến các bên chịu trách nhiệm thực hiện quyển này.
Về mặt thực tiễn, luận văn chi ra những hạn chế và những khó khăn trong
q trình thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người của các bên chịu
trách nhiệm thực hiện đó là Nhà nước, các tổ chức xã hội, cộng đồng và gia đình.
Dựa trên những phát hiện này luận văn cũng đã đưa ra những giải pháp cụ thể để
việc thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người ở Việt Nam được hoàn
thiện hơn. Những phát hiện và giải pháp của luận văn là nguồn tham khảo cho
các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu và những cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm trong thực hiện quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe con người nói riêng
và quyền con người nói chung.
5


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cẩu gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe.
Chương 2. Pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe và thực tiễn
thi hành ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Giải pháp, kiến nghị tăng cường bảo đảm quyền được bảo vệ
chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ CHĂM SÓC
SỨC KHỎE
1.1. Lý luận về quyền được chăm sóc sức khỏe
1.1.1. Khái niệm chung về sức khỏe
Sức khỏe, lâu nay vẫn được xem như là tình trạng khơng có bệnh tật, đau
yếu. Tuy nhiên, theo định nghĩa của tổ chức Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Sức

khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần và xã hội,
chứ không phải chỉ là khơng có bệnh tật hay tàn phế”. Như vậy chúng ta có thể
hiểu sức khỏe gồm ba mặt: sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe
xã hội.
1.1.2. Khái niệm chung về bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Bảo vệ sức khỏe:
Là các hoạt động nhằm ngăn chăn các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức
khỏe của một người và dẫn đến các tình trạng chấn thương, đau yếu và bệnh tật.
Ở đâu thì con người cũng đều phơi nhiễm với rất nhiều yếu tố nguy cơ sức khỏe
trong cuộc sống. Một số hoàn cảnh dẫn tới các nguy cơ gồm: suy dinh dưỡng,
béo phì, huyết áp cao, sử dụng thuốc lá, sử dụng các loại nước uống có cồn,
nguồn nước khơng sạch, khơng đảm bảo vệ sinh và chất thải… Các hoạt động
bảo vệ sức khỏe sẽ làm giảm các nguy cơ tác động tiêu cực đến sức khỏe của cá
nhân và cộng đồng như các bệnh truyền nhiễm. Có mơt số nguy cơ như tiền sử
gia đình, sự kiểm sốt của mỗi cá thể, và các yếu tố khác như phong cách sống,
môi trường xã hội và hạ tầng, có thể được cảnh báo để tăng duy trì và tăng
cường sức khỏe. Ngành y tế đóng vai trị quan trọng trong việc kiểm sốt các
nguy cơ này.

6


1.1.3. Khái niệm chung về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe là khái niệm khoa học pháp lí dùng
để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện trong lĩnh vực
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe đối với mỗi cá nhân, để theo đó cá nhân được
hưởng, được làm, được đòi hỏi đối với sức khỏe của bản thân mà không ai được
ngăn cản, hạn chế. Theo các quy định và trên tinh thần của pháp luật, nội dung
của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe đó là: Mọi người đều có quyền được
hưởng một tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể

được. Nhà nước cần thi hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, trong
đó bao gồm những biện pháp cần thiết nhằm giảm bớt tỷ lệ tử vong của trẻ sơ
sinh và trẻ em, cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh công nghiệp,
ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh
khác, và tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm sóc y tế khi đau yếu.
1.2. Lý luận pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Khái niệm pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe:
Tùy góc độ tiếp cận mà có thể có khái niệm không giống nhau đối với pháp
luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, ở bình diện chung, xét
từ góc độ lý luận về Nhà nước và Pháp luật, lý luận về quyền con người và bảo vệ
quyền con người, trong đó có quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe, có thể đưa ra khái
niệm đối với pháp luật về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam như sau:
Pháp luật về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe là tổng thể những nguyên tắc,
quy phạm do Nhà nước Việt Nam ban hành hoặc thừa nhận để quy định về các
quyền lợi của mọi người dân trong lĩnh vực bảo vệ chăm sóc sức khỏe, và hệ
thống các biện pháp pháp tổ chức của Nhà nước, của xã hội để bảo vệ, bảo đảm
quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe được thực thi trên thực tế.
1.2.2. Vị trí, vai trị của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Sau khi nghiên cứu các quy định của pháp luật về sức khỏe có thể nhận thấy
vai trị của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe như sau:
Thứ nhất, bảo vệ chăm sóc sức khỏe là một quyền con người cơ bản, không
thể thiếu để thực hiện các quyền khác. Mọi người có quyền được hưởng tiêu
chuẩn chăm súc sức khỏe cao nhất có thể đạt được để sống một cuộc sống có
nhân phẩm. Hiện thực hóa quyền được chăm súc sức khỏe có thể được thực hiện
thông qua nhiều cách tiếp cận bổ trợ nhau, chẳng hạn như xây dựng chính sách y
tế, hoặc thực hiện các chương trình y tế do Nhà nước triển khai, hoặc ban hành
7



những văn bản pháp luật cụ thể để điều chỉnh.
Thứ hai, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe liên quan mật thiết với và
phụ thuộc vào việc hiện thực hoá các quyền con người khác, bao gồm các quyền
sống, quyền về lương thực, nhà ở, việc làm, giáo dục, nhân phẩm, bình đẳng,
khơng phân biệt đối xử, cấm tra tấn, bảo vệ đời tư, tiếp cận thông tin, và các
quyền tự do lập hội, hội họp, đi lại. Những quyền và tự do này là những yếu tố
hợp thành của quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe.
Thứ ba, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe khơng chỉ được hiểu như là
một quyền được khỏe mạnh mà bao gồm các tự do và quyền khác, ví dụ như tự
do trong việc làm chủ về sức khỏe và thân thể, kể cả về tình dục và sinh sản, tự
do không bị can thiệp, chẳng hạn không bị tra tấn, điều trị và thí nghiệm y tế mà
khơng được sự đồng ý, quyền bình đẳng về cơ hội trong việc chăm sóc sức khỏe...
Thứ tư, thuật ngữ “tiêu chuẩn sức khỏe cao nhất có thể đạt được” đề cập đến
những tiền đề sinh học và kinh tế-xã hội của từng cá nhân và nguồn lực sẵn có
của Nhà nước. Có rất nhiều khía cạnh khơng thể được giải quyết chỉ trong phạm
vi mối quan hệ giữa Nhà nước với cá nhân. Đó là những yếu tố như gien di
truyền, tính nhạy cảm của cá nhân với tình hình sức khỏe của bản thân, lối sống
và điều kiện sống đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của mỗi cá nhân. Vì
vậy, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe được hiểu là quyền được thụ hưởng
những cơ sở vật chất, hàng hóa, dịch vụ và điều kiện cần thiết để đạt được tiêu
chuẩn sức khỏe cao nhất có thể.
Thứ năm, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe phụ thuộc vào những yếu
tố cơ bản là: Khả năng sẵn có về cơ sở chăm sóc sức khỏe và y tế cơng, các loại
hàng hố và dịch vụ, cũng như các chương trình chăm sóc sức khỏe của Nhà
nước. Khả năng có thể tiếp cận của mọi người với các cơ sở chăm sóc sức khỏe,
hàng hố và dịch vụ y tế .
Thứ sáu, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe, giống như tất cả các quyền
con người khác, đặt ra ba cấp độ nghĩa vụ đối với Nhà nước đó là: nghĩa vụ tơn
trọng, bảo vệ và thực hiện.
1.3. Bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe

1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Bình đẳng và khơng phân biệt đối xử
Ngun tắc không phân biệt đối xử bảo đảm rằng quyền con người được
thực thi mà không phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào dựa trên chủng tộc,
màu da, giới tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính trị hoặc ý kiến khác, nguồn gốc xuất
8


thân hoặc địa vị xã hội, tài sản, hoặc tình trạng khác chẳng hạn như khuyết tật,
tuổi tác, hôn nhân và gia đình, khuynh hướng tình dục và tình trạng sức khỏe, nơi
cư trú, tình hình kinh tế và xã hội.
Khả năng sẵn có
Liên quan tới nhu cầu cấp thiết phải có đủ số lượng cho hoạt động của các
cơ sở y tế cơng cộng và chăm sóc sức khỏe, hàng hóa và dịch vụ, cũng như các
chương trình y tế cho tất cả mọi người.
Tính sẵn có có thể được đo lường thơng qua phân tích dữ liệu phân tách
thành các phân tầng khác nhau và đa dạng bao gồm căn cứ theo độ tuổi, giới tính,
nơi cư trú và tình trạng về kinh tế, xã hội thơng qua khảo sát định tính để nắm được
mức độ bao phủ về bảo hiểm và lực lượng nguồn nhân lực trong ngành y tế.
Phổ quát, không thể chia cắt và phụ thuộc, quan hệ lẫn nhau
Đặc tính cơ bản và quan trọng của quyền con người là mang giá trị phổ quát
và không thể tước đoạt. Các quyền được áp dụng bình đẳng như nhau và cho tất
cả mọi người, ở mọi nơi, không phân biệt.
Các tiêu chuẩn quyền con người đối với thực phẩm, sức khỏe, giáo dục,
không bị tra tấn, đối xử vô nhân đạo hay hạ thấp con người… đều có liên quan
đến nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó sự cải thiện, nâng cao hưởng thụ một quyền
nào đó sẽ tạo điều kiện cho sự tiến bộ, hưởng thụ các quyền khác của con người.
Tương tự như vậy, việc tước đi một quyền cũng sẽ ảnh hưởng xấu đến những
quyền khác.
Khả năng tiếp cận

Yêu cầu các cơ sở y tế, hàng hóa và dịch vụ cơng phải bảo đảm rằng người
dân có thể dễ dàng tiếp cập được. Khả năng tiếp cập có bốn khía cạnh liên quan
như sau: Không phân biệt đối xử, Khả năng tiếp cận thể chất, Khả năng tiếp cận
kinh tế (khả năng chi trả), Khả năng tiếp cận thông tin.
Sự tham gia
Việc tham gia đòi hỏi phải đảm bảo rằng Nhà nước, tổ chức và cơng dân có
quyền sở hữu và kiểm sốt các q trình xây dựng chương trình, chính sách phát
triển y tế, sức khỏe trong tất cả các giai đoạn từ lập chương trình, kế hoạch, phân
tích, thực hiện, giám sát và đánh giá chính sách về sức khỏe cộng đồng.
Khả năng chấp nhận được
Liên quan đến vấn đề tôn trọng đạo đức ngành y, phù hợp với yếu tố văn
hóa. Khả năng chấp nhận được địi hỏi các cơ sở y tế, hàng hóa, dịch vụ và chương
trình bảo vệ, chăm sóc sức khỏe phải lấy con người làm trung tâm và phục vụ
9


cho nhu cầu cụ thể của các nhóm dân cư khác nhau và phù hợp với các tiêu chuẩn
quốc tế về y đức để vì niềm tin và sự hài lòng của người bệnh. Khi Nhà nước xây
dựng, thực hiện chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe phải ln tính đến khả
năng chi trả chi phí các dịch vụ này. Phải chắc chắn rằng toàn bộ người dân đều
có khả năng chi trả cho việc bảo vệ chăm sóc sức khỏe của cá nhân mình. Nhà
nước ln có chính sách hỗ trợ một phần hoặc tồn phần cho các đối tượng yếu
thế trong xã hội như: Người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn, dân tộc thiểu
số, Người già, trẻ em, người khuyết tật…
Chất lượng
Các cơ sở chăm sóc sức khỏe, hàng hóa và dịch vụ về sức khỏe phải được
kiểm soát, được cơ quan Nhà nước phê duyệt một cách khoa học dựa trên các
tiêu chuẩn về y tế. Chất lượng là một thành phần chính của tiêu chuẩn y tế, gồm
cả về kinh nghiệm cũng như nhận thức về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Dịch vụ y
tế chất lượng phải gồm các tiêu chuẩn sau đây:

An tồn: tránh gây thương tích cho những người cần được sự chăm sóc
sức khỏe;
Hiệu quả: cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe dựa trên bằng chứng cho
những người có nhu cầu;
Lấy người dân làm trung tâm: cung cấp dịch vụ chăm sóc đáp ứng sở thích,
nhu cầu và giá trị cá nhân;
Kịp thời: Các dịch vụ về sức khỏe phải được tiến hành nhanh chóng, khi có
nhu cầu chăm sóc sức khỏe, người dân được đáp ứng kịp thời, giảm thời gian chờ
đợi và đôi khi sự đáp ứng chậm trễ có thể gây hại cho sức khỏe thậm chí tính
mạng của người.
Cơng bằng: cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khơng thay đổi về chất
lượng dựa trên giới tính, dân tộc, vị trí địa lý và tình trạng kinh tế, xã hội của
người bệnh; đảm bảo người có tiền và người nghèo, người có địa vị trong xã hội
và người yếu thế cùng được hưởng các chế độ như nhau trong lĩnh vực bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe
Tích hợp: cung cấp dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe tích hợp với các dịch
vụ liên quan như: phịng chống dịch bệnh, mơi trường trong lành, thực phẩm an
tồn…bảo đảm có sẵn đầy đủ trong suốt cuộc đời con người;
Tiết kiệm: tối đa hóa lợi ích của các nguồn lực có sẵn và tránh lãng phí.
1.3.2. Các biện pháp bảo đảm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Các biện pháp bảo đảm bằng pháp luật
10


Các biện pháp áp dụng hình phạt của Nhà nước
Xử lý theo pháp luật dân sự:
Xử lý theo pháp luật hình sự:
Ngồi các hình phạt trên người vi phạm cịn có thể bị áp dụng các hình phạt
bổ xung như: Cấm đảm nhiệm những chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định; Tiêu hủy tang vật; Khôi phục lại tình trạng ban đầu; Tước một số

quyền cơng dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền; bồi thường thiệt hại…
Kết luận chương 1
Qua phân tích chương 1: “Cơ sở lý luận về quyền được bảo vệ chăm sóc
sức khỏe”, tác giả rút ra kết luận sau:
1. Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe là một quyền tự nhiên, cơ bản, tối
cao của con người nhưng không phải là quyền tuyệt đối, xét theo các tiêu chuẩn
nhân quyền quốc tế hiện hành. Quyền này có nội hàm rộng, khơng chỉ liên quan
trong lĩnh vực y tế đến việc bảo vệ các cá nhân khỏi bị tước đoạt tính mạng một
cách tùy tiện, mà còn gắn với những điều kiện vật chất và xã hội bảo đảm cho sự
tồn tại và an ninh của con người. Với nội hàm rộng như vậy, bên cạnh những
khía cạnh đã được khẳng định rõ ràng, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe
vẫn cịn những nội dung đang được tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
2. Quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc thực hiện các quyền khác của con người. Quyền được bảo vệ chăm sóc
sức khỏe là một phần tất yếu khơng thể tách rời của quyền con người. Ở Việt
Nam, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe mặc dù khơng được quy định riêng
trong một văn bản cụ thể nhưng đã được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và bảo
vệ. Khung pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe được ghi nhận ở
nhiều văn bản pháp luật hiện hành, mà nền tảng là Hiến pháp 2013, và một số bộ
luật, luật liên quan.
3. Pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe bao gồm tổng hợp các
quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về trách nhiệm đảm bảo thực hiện
quyền này trên cơ sở quy định pháp luật và nguyên tắc. Việc thực hiện pháp luật
bị chi phối bởi hai yếu tố quan trọng đó là yếu tố về pháp luật và yếu tố ý thức và
ý chí của các chủ thể tham gia vào hoạt động đảm bảo quyền được bảo vệ chăm
sóc sức khỏe. Những vấn đề được nghiên cứu ở Chương 1 sẽ là cơ sở phân tích
và đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền được
bảo vệ chăm sóc sức khỏe.
11



4. Ở Việt Nam, quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe trực tiếp quy định
trong các bản Hiến pháp, và đã được bảo vệ từ lâu trong hệ thống pháp luật thông
qua các quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm,
cũng như các quyền được trợ giúp của những cá nhân và nhóm yếu thế. Nhìn
chung, hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam đã tương thích với những
nguyên tắc cơ bản về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe trong luật quốc tế.
Mặc dù vậy, giống như nhiều quốc gia khác, pháp luật Việt Nam vẫn cần được
sửa đổi, bổ sung để hồn thiện và tương thích ở mức độ cao hơn với các tiêu
chuẩn quốc tế về quyền này. Từ những định hướng của Đảng trong Chiến lược
cải cách tư pháp và động lực từ những phát triển tiến bộ to lớn về chế định quyền
con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, có thể tin tưởng rằng
khuôn khổ pháp luật về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tới
đây sẽ được hồn thiện một cách đáng kể.
Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN ĐƯỢC BẢO VỆ CHĂM SÓC SỨC
KHỎE VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quy định pháp luật hiện hành về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
2.1.1. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong Hiến Pháp 2013
Quyền con người nói chung và quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là tiếng
nói chung, mục tiêu chung của xã hội loài người. Pháp luật về quyền con người
ghi nhận các tư tưởng và lý luận về quyền con người. Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
thúc đẩy sự phát triển tự do, nhân phẩm và hạnh phúc của mỗi người, mỗi quốc
gia và văn minh nhân loại. Sự ghi nhận các quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con
người trong Hiến pháp Việt Nam thể hiện quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Kế thừa và phát huy các bản Hiến pháp cữ, Hiến pháp năm 2013
đã đặt nền móng cho thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế và phát triển của đất
nước ta. So với các bản hiến pháp trước đây, Hiến pháp 2013 có những phát triển
mới trong chế định về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Đó là:
2.1.2. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các VBQPPL về y tế
Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế gồm 1137 văn bản quy phạm pháp luật

trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các hoạt động về sức khỏe : Điển hình là Luật
bảo vệ sức khỏe nhân dân năm (1989). Luật gồm 55 điều được chia làm 11
chương với phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, liên quan đến hoạt động của nhiều
ngành như y tế, vệ sinh, phòng chống dịch bệnh, kiểm dịch, thể thao, phục hồi
12


chức năng, điều dưỡng và kế hoạch hố gia đình. Nhiều quy định của Luật thể
hiện một tầm nhìn có tính chiến lược như quy định “bảo vệ sức khoẻ là sự nghiệp
của tồn dân" mà khơng chỉ là trách nhiệm của riêng ngành y tế. Bên cạnh ngành
y tế thì ngành thể dục thể thao, ngành lao động thương binh xã hội cũng có vai
trị quan trọng trong việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Luật cũng quy định
quyền của mọi công dân Việt Nam “được bảo vệ sức khoẻ, nghỉ ngơi, giải trí, rèn
luyện thân thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh
môi trường sống và được phục vụ chuyên mơn về y tế”. Luật cịn quy định trách
nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân trong việc đảm bảo vệ sinh trong sinh hoạt và lao
động, vệ sinh công cộng, phịng và chống dịch bệnh…
2.1.3. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các bộ luật khác
Trên tinh thần Hiến pháp 2013, các bộ luật, luật khác có liên quan cũng thể
hiện khá rõ nét về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
2.1.4. Quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe trong các Văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường cơng tác bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới là một văn bản về
chính sách y tế. Có thể coi đây là chính sách của các chính sách y tế. Trong Nghị
quyết 20-NQ/TW đã đưa ra năm quan điểm chỉ đạo cơng tác bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới.
Chỉ thị 06-CT/TW năm 2002 của Ban Bí thư về củng cố và hoàn thiện mạng
lưới y tế cơ sở đã xác định rõ mạng lưới y tế cơ sở bao gồm y tế thôn, bản, xã,

phường, thị trấn, quận, huyện, thị xã; là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo
đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp
phần thực hiện công bằng xã hội.
Quyết định số 122/QĐ-TT ngày 10-01-2013 về Chiến lược Quốc gia bảo vệ,
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn 2030,
đã chỉ rõ: “Sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và của toàn xã hội, đầu tư cho
việc chăm sóc sức khỏe cộng đồng là đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội”.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt
Nam hiện nay
2.2.1. Bối cảnh kinh tế xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2016-2020
2.2.2. Một số thành tựu đạt được của ngành y tế
Với quan điểm "Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
13


dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế,
chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân"[1], Việt Nam đã khơng ngừng hồn thiện hệ thống
y tế hiện đại, từng bước đưa các chỉ tiêu y tế vượt mức đề ra, tạo điều kiện để
người dân được tiếp cận, sử dụng y tế chất lượng cao ngay tại địa phương.
Việt Nam cũng đã đạt được nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ giai đoạn từ 1990
đến 2019 liên quan đến lĩnh vực y tế như: Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi đã
giảm từ 37‰ năm 1990 xuống còn 17,3‰ vào năm 2015 và 16,7‰ năm 2019,
Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi cũng đã giảm từ 51,5‰ xuống còn 21,6‰ vào
năm 2015 và 20,9‰ vào 2019, Tỷ lệ tử vong ở người mẹ mang thai giảm từ
139‰ năm 1990 xuống còn 56‰ vào năm 2015 và 54 ‰ năm 2019.
2.2.3 Những thách thức trong thi hành pháp luật về quyền được bảo vệ chăm
sóc sức khỏe Việt Nam hiện nay
Mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khen ngợi, nhưng nếu xem xét đầy đủ
các khía cạnh chúng ta vẫn cịn thấy y tế Việt Nam còn một số vấn đề như sau:

Hệ thống y tế cồng kềnh, nhiều đầu mối, chưa đồng bộ, thiếu ổn định, hoạt động
chưa hiệu quả, phối hợp giữa y tế công và y tế tư nhân chưa chặt chẽ để phù hợp
với biến đổi mơ hình bệnh tật, mất an tồn thực phẩm, biến đổi khí hậu, già hóa
dân số và chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao
của Nhân dân.
2.3. Đánh giá chung về thực hiện bảo đảm quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
Như đã phân tích ở trên, quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe phụ thuộc rất
nhiều vào việc quyền này có được thừa nhận, tơn trọng và thực hiện trên thực tế
hay không phụ thuộc rất nhiều vào pháp luật có kiên quan. Pháp luật hiện hành
về quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam không quy định trọn vẹn trong
một VBQPPL cụ thể mà các quyền này được ghi nhận ở các bộ luật, luật chuyên
ngành có liên quan.
2.3.1. Thực trạng thực hiện quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
hiện nay
Kế thừa và phát triển các quy định, nguyên tắc của Hiến pháp 2013 về quyền
con người: như quyền sống, quyền không bị tra tấn, quyền được bảo đảm an sinh
xã hội… Tất cả những quyền trên đã đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh về bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe trong thời kỳ đổi mới đất nước. Trên cơ sở Hiến pháp, hệ
thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe ngày càng được hồn
thiện. Nhà nước đã thơng qua nhiều bộ luật, luật bao phủ hầu hết các lĩnh vực của
14


đời sống xã hội và nhìn chung tương thích với những nguyên tắc, quy định của
Luật pháp quốc tế về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Có thể nhận thấy hiệu quả của
các quy phạm pháp luật thông qua các thành tựu như sau:
“Năm 2008, năm đầu tiên triển khai BHXH tự nguyện, có 6,11 nghìn người
tham gia thì đến tháng 12/2019 con số này là hơn 570 nghìn người (tăng gần 100
lần). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp cũng tăng nhanh với 5,9 triệu người
khi bắt đầu triển khai năm 2009 lên 15,77 triệu người ở thời điểm tháng 12/2019.

Đầu năm 1990, sau khi thực hiện một số mơ hình thí điểm BHYT. Nghị định số
299-HĐBT ngày 15/8/1992 về việc ban hành điều lệ BHYT. Sau 2 năm thực
hiện, hệ thống tổ chức BHYT từ Trung ương đến địa phương đã hình thành với
sự quản lý của BHYT Việt Nam, trực thuộc Bộ Y tế. Năm 2002, Chính phủ ban hành
Quyết định 20/2002/QĐ-TTg chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Kể
từ đây hịa trộn 2 chính sách an sinh xã hội quan trọng là BHXH, BHYT thống
nhất thực hiện từ Trung ương xuống địa phương, theo mơ hình một quỹ quốc
gia”. Đặc biệt, BHYT là chính sách quan trọng trong hệ thống an sinh xã hội của
quốc gia để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, với nhiều lần sửa đổi, bổ
sung, chính sách BHYT phát triển mạnh mẽ, chế độ ngày càng hoàn thiện, đúng
đắn, vai trò của BHYT từng bước khẳng định trong hệ thống chính sách, thực sự
trở thành những chính sách trụ cột của hệ thống an sinh xã hội.
Ngày 23/11/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Ngay
sau Luật được ban hành, Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ, ngành đã ban hành hàng
loạt văn bản hướng dẫn thi hành luật. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
khám bệnh, chữa bệnh ra đời đã tạo hành lang pháp lý vô cùng quan trọng cho
công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh. Cụ thể: Luật
Khám bệnh, chữa bệnh đã góp phần chuẩn hóa chất lượng của hoạt động khám
bệnh, chữa bệnh thông qua việc quy định điều kiện tối thiểu để cấp chứng chỉ
hành nghề cho người hành nghề và giấy phép hoạt động cho các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh. Hơn nữa, Luật Khám bệnh, chữa bệnh đã góp phần tăng cường
khả năng tiếp cận với dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của người dân. Ngài ra, Luật
Khám bệnh, chữa bệnh cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, tạo hành lang pháp lý để y học Việt
Nam đã tiếp cận được với các kỹ thuật mới, phương pháp mới, kỹ thuật y khoa
tiên tiến, hiện đại hàng đầu thế giới, góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình của
người Việt Nam ngày càng được cải thiện.
Nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao sức khỏe người dân, phòng chống dịch
15



bệnh, nâng cao chất lượng công tác dân số, 31/7/2017 Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định phê duyệt Chương trình Mục tiêu y tế- dân số giai đoạn 20162020. Trong những năm thực hiện, chương trình đã đạt được nhiều thành tựu
đáng kể. Cụ thể, mạng lưới y tế Việt Nam được phát triển rộng khắp, cùng với
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm được Quốc hội thông qua ngày 21 tháng
11 năm 2007 đã góp phần kiểm sốt được các bệnh, dịch mới nổi, khơng có dịch
lớn xảy ra, tiếp tục giảm số mắc, số tử vong của nhiều bệnh dịch nguy hiểm, bảo
vệ thành quả thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh, duy trì tỷ lệ tiêm chủng
đầy đủ trên 95% cho trẻ em dưới 1 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ trong độ tuổi sinh
đẻ. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em thể nhẹ cân đã giảm từ 17,5% năm 2010 xuống
còn 15,3% năm 2013 và giảm xuống còn 13% năm 2019. Tỷ lệ suy dinh dưỡng
trẻ em thể thấp còi đã giảm từ 29,3% năm 2010 xuống còn 25,9% năm 2013 và
23,3% năm 2019.
Việt Nam cũng triển khai được năng lực giám sát xét nghiệm rất tốt. Tất cả
bệnh truyền nhiễm mới nổi đến nay, Việt Nam đều có khả năng xét nghiệm và
phát hiện, từ MERS-CoV, Ebola, hay cúm A/H7N9 và rất đáng tự hào khi Việt
Nam là nước duy nhất trên thế giới thành công trong trong việc khống chế dịch
COVID-19, chữa trị khơng để ca tử vong nào (Tính đến hết tháng 4/2020)… Hệ
thống giám sát bệnh truyền nhiễm hoạt động hiệu quả từ giám sát cộng đồng,
giám sát tại cửa khẩu, tại phòng xét nghiệm, giám sát tại vùng bất thường liên
quan đến yếu tố dịch tễ đều được báo cáo, sàng lọc.
Luật Bảo vệ môi trường được áp dụng từ năm 2014 đã hồn thiện thể chế,
chính sách, quy định pháp luật về Bảo vệ môi trường phù hợp với đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập, tạo hành
lang pháp lý đồng bộ, thống nhất về môi trường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công
tác quản lý Nhà nước về môi trường, đáp ứng yêu cầu đặt ra trong lĩnh vực sống
trong môi trường trong lành của con người.
Hệ thống VBQPPL về kiểm sốt vệ sinh an tồn thực phẩm ở Việt Nam
tương đối toàn diện và phong phú, bao gồm các lĩnh vực như an toàn sức khỏe
cộng đồng, quy định về kiểm dịch động thực vật, hệ thống quy định về kinh

doanh, xuất khẩu và nhập khẩu thực phẩm. Cùng với các văn bản theo hệ thống
pháp luật về VSATTP, nhiều văn bản luật, pháp lệnh có liên quan đến cơng tác
kiểm sốt VSATTP cũng đã được ban hành như Luật Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ
thuật, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Thương mại, Luật Quảng cáo,
Luật Hình sự, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ thực vật,... và hàng loạt các
16


văn bản dưới luật cũng được ban hành. Các văn bản nói trên đã tạo hành lang
pháp lý cho cơng tác kiểm soát VSATTP trong xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế. Những quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) đã được tiếp cập theo hướng mới, chuyển từ phương thức quản lý tiền
kiểm sang hậu kiểm (quản lý dựa trên tiêu chuẩn, quy chuẩn công bố áp dụng),
từ quản lý theo phương thức kiểm tra VSATTP theo công đoạn sang quản lý theo
quá trình, theo chuỗi cung cấp thực phẩm.
Bên cạnh những nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật
quốc gia về bảo đảm và thúc đẩy quyền bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong những năm qua Việt Nam luôn chủ trương đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực nhân quyền, đặc biệt là việc tham gia thực hiện về cơ bản đầy đủ
các cam kết quốc tế về quyền con người nhằm thể hiện quyết tâm cao của Đảng,
Nhà nước ta trong việc thúc đẩy và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản cho người
dân Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế.
Ngay sau đó, đến nay Việt Nam đã trở thành thành viên của hầu hết các công
ước quốc tế quan trọng khác liên quan đến nhân quyền như: Việt Nam đã tham
gia cả hai Công ước quốc tế cơ bản về Nhân quyền năm 1966 (ICCPR, ICESCR)
và một số điều ước quốc tế khác về quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương
như Cơng ước về Quyền trẻ em 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật
(2006), Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vơ nhân đạo hoặc hạ nhục con người...
Trong năm 2019, Việt Nam cũng đã bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Cơng

ước về các quyền dân sự, chính trị, một trong những công ước được sự quan tâm
cao của dư luận quốc tế. Phiên bảo vệ đã diễn ra thành công trên tinh thần trao
đổi thẳng thắn. Việt Nam đã giải đáp rõ ràng với lập luận vững chắc về chính
sách và pháp luật của Việt Nam về quyền con người, cũng như thực tiễn triển
khai các nghĩa vụ theo Công ước. Chúng ta cũng cung cấp thông tin để giúp cho
các thành viên Ủy ban công ước hiểu rõ hơn về tình hình thực tế Việt Nam
2.3.2. Một số tồn tại trong thực hiện quyền bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
Vấn đề về hệ thống pháp luật:
Văn bản pháp luật chưa đầy đủ:
Chế tài xử phạt chưa thích đáng:
Bất cập về tổ chức thực hiện của Nhà nước
Bất cập về nguồn lực:
Ảnh hưởng do yếu tố xã hội:
17


Kết luận chương 2
Có thể nói, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội.
Bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm
nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong những chính
sách được Đảng và Nhà nước ưu tiên hàng đầu.
Việt Nam cũng đã đạt được nhiều mục tiêu Thiên niên kỷ giai đoạn từ 1990
đến 2019 liên quan đến lĩnh vực sức khỏe như: Tăng tuổi thọ trung bình, Tỷ suất
tử vong trẻ em dưới 1 tuổi, Tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi, Tỷ lệ suy dinh
dưỡng (thể nhẹ cân) … Đây là những thành tựu đáng ghi nhận, được quốc tế đánh
giá cao. Nhân dân ở hầu hết các vùng, miền trong cả nước đã được chăm sóc sức
khỏe tốt hơn. Tình trạng sức khỏe nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ mắc các
bệnh truyền nhiễm ngày càng giảm, nhiều bệnh dịch nguy hiểm trước đây đến
nay đã được khống chế và đẩy lùi.
Khơng quốc gia nào có thể đạt được bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân và

các mục tiêu phát triển bền vững về y tế nếu thiếu hệ thống chăm sóc sức khỏe
ban đầu vững mạnh. Và Việt Nam cũng khơng là ngoại lệ. Chăm sóc sức khỏe
ban đầu là điểm tiếp xúc đầu tiên giữa người dân và cộng đồng với hệ thống y
tế, đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ sức khỏe cho mọi người.
Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN
ĐƯỢC BẢO VỆ CHĂM SÓC SỨC KHỎE Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chăm sóc sức khỏe
Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm sóc sức khỏe cho nhân dân không
những thể hiện sâu sắc chủ nghĩa nhân văn cao đẹp của Người, mà còn là kim chỉ
nam cho Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cho nhân dân
ta trong thời kỳ mới.
3.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe
nhân dân
“Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cộng đồng là trách nhiệm của Nhà
nước nhưng đồng thời cũng là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình, của
mỗi lực lượng kinh tế - xã hội và của cả cộng đồng”[3]. Bảo vệ chăm sóc sức
khỏe nhân dân, là một trong những nhiệm vụ quan trọng, là ưu tiên hàng đầu
trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện được mục tiêu:
18


“Giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe, tăng tuổi thọ, cải thiện
chất lượng giống nịi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn
nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe đồng bộ từ Trung ương đến cơ
sở và thói quen giữ gìn sức khỏe của nhân dân, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8],
3.2. Giải pháp nhằm bảo đảm về quyền được bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở
Việt Nam hiện nay
3.2.1. Nhóm giải pháp thứ nhất: Hồn thiện hệ thống pháp luật về y tế

Hoàn thiện thể chế, các luật tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực y tế, trong
đó tập trung dự án Luật gồm Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế,
Luật Dân số, Luật phịng bệnh, Luật Chuyển đổi giới tính, Luật Lấy ghép hiến
mô, bộ phận cơ thể người. Các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý về y tế
tích cực phối hợp chặt chẽ trong việc rà soát, sửa đổi bổ sung Luật BHYT đề nghị
được đưa một số nội dung liên quan đến khám, chữa bệnh cho người có thẻ
BHYT trong Luật khám bệnh, chữa bệnh sửa đổi theo một số nguyên tắc đã được
quy định tại Nghị quyết số 20/NQ-TW 2013 .
3.2.2. Nhóm giải pháp thứ hai: Tăng cường công tác bảo vệ sức khỏe với
phương châm phịng bệnh hơn chữa bệnh
Tập trung chỉ đạo cơng tác phòng, chống và cai nghiện ma túy. Thực hiện
đồng bộ các giải pháp nhằm giảm tiêu thụ rượu, bia, thuốc lá. Thực hiện đồng bộ
các giải pháp giảm thiểu ảnh hưởng xấu từ ơ nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu
tới sức khỏe. Triển khai đồng bộ các giải pháp phịng, chống thảm họa, bảo đảm
trật tự, an tồn giao thơng, an tồn lao động, phịng, chống tai nạn, thương tích,
cháy, nổ, bệnh nghề nghiệp.
Bảo đảm phương châm phịng bệnh hơn chữa bệnh, y tế dự phòng là then
chốt, y tế cơ sở là nền tảng, hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân. Phát
triển bảo hiểm y tế tồn dân, nhằm từng bước đạt tới cơng bằng trong chăm sóc
sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giàu với
người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già.
Để đảm bảo VSATTP, vấn đề đặt ra là phải quản lý được chuỗi thực phẩm
từ trang trại đến bàn ăn. Các hành vi buôn bán, vận chuyển và sản xuất kinh doanh
gây nguy hại đến sức khỏe con người phải được xem như là hành vi giết người,
mang tính chất hình sự.

19


3.2.3. Nhóm giải pháp thứ ba: Tăng cường giáo dục, phổ biến tuyên truyền

về sức khỏe
Tập trung nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi, đề cao trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, tồn xã hội và của mỗi người dân về công tác sức khỏe, xây
dựng và tổ chức thực hiện đồng bộ các đề án, chương trình về nâng cao sức khỏe
và tầm vóc người Việt Nam. Quan tâm các điều kiện để mỗi người dân được bảo
vệ, nâng cao sức khỏe, đặc biệt là ở vùng nông thôn, miền núi, hải đảo. Đổi mới
căn bản giáo dục thể chất, tâm lý, tăng số môn tập luyện tự chọn trong nhà trường,
kết hợp chặt chẽ với tập luyện ngoài nhà trường. Phát triển mạnh các phong trào
rèn luyện thân thể. Tăng cường công tác y tế học đường.
3.2.4. Nhóm giải pháp thứ tư: Phát triển hệ thống y tế hiện đại
Đổi mới hệ thống y tế, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh: Đổi mới và
hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển. Đẩy mạnh
thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ chuyên môn, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài
chính gắn với trách nhiệm giải trình, cơng khai, minh bạch, khơng thương mại
hóa, phát huy vai trị giám sát của người dân trong tổ chức thực hiện. Đồng thời
định hướng phát triển y tế trong điều kiện kinh tế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa.
Đẩy mạnh cơ chế tự chủ trong các bệnh viện công lập: Trong bối cảnh nhu
cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng cao trong khi nguồn lực Nhà
nước còn hạn chế, việc đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đối với các bệnh viện công lập là cần thiết nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội. Bên cạnh các hoạt động hoàn thiện pháp lý
và các quy định về cơ chế tự chủ, tổ chức bộ máy y tế, nâng cao trình độ đội ngũ
cán bộ, nhân viên y tế…. Đồng thời chống, ngăn chặn và chấm dứt tình trạng lợi
dụng chủ trương xã hội hóa, cơ chế tự chủ để lạm dụng các nguồn lực công phục
vụ lợi ích riêng của bệnh viện, tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng
dịch vụ y tế, gây ảnh hưởng đến quyền được chăm sóc sức khỏe của người dân
và bảo toàn quỹ BHYT.
Hoàn thiện hệ thống hồ sơ sức khỏe điện tử: Mục tiêu chung của việc triển
khai hồ sơ sức khỏe điện tử là bảo đảm mỗi người dân có một hồ sơ sức khỏe
điện tử, qua đó hình thành cơ sở dữ liệu về sức khỏe người dân tại Trung tâm dữ

liệu y tế quốc gia.
Giảm thiểu, tiến tới xóa bỏ tình trạng q tải tại các bệnh viện: Đẩy mạnh
sự phát triển hệ thống y tế tư nhân là một giải pháp quan trọng giải quyết tình
trạng q tải tại bệnh viện cơng. Để giảm quá tải bệnh viện phải thực hiện đồng
20


bộ các giải pháp đi liền với nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, kể cả kỹ
thuật cao.
Đẩy mạnh phát triển ngành Dược và thiết bị y tế: Bảo đảm thuốc đủ về số
lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu phòng, chữa bệnh, phục hồi
chức năng, khuyến khích sử dụng thuốc sản xuất trong nước. Giảm giá thuốc,
thiết bị, hoá chất, vật tư y tế, bảo đảm công khai, minh bạch.
Nâng cao năng lực nghiên cứu, sản xuất thuốc, vắc xin. Đầu tư đủ nguồn lực
để làm chủ công nghệ sản xuất vắc xin thế hệ mới, vắc xin tích hợp nhiều loại
trong một, cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêm chủng mở rộng trong nước, tiến tới
xuất khẩu.
Từng bước miễm giảm chi phí khám và điều trị cho bệnh nhân: Nhà nước
cần xây dựng cơ chế giá dịch vụ và cơ chế đồng chi trả BHYT phù hợp nhằm
khuyến khích người dân tích cực tham gia khám bệnh định kỳ. Quy định giá
khám, chữa bệnh BHYT không theo hạng bệnh viện mà theo chất lượng của bệnh
viện được đánh giá bởi tổ chức độc lập, y tế dự phòng do ngân sách Nhà nước
bảo đảm là chủ yếu,
3.2.5. Nhóm giải pháp thứ năm: Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra
giám sát các hoạt động về y tế
Việc thanh, kiểm tra trong lĩnh vực y tế nhằm góp phần quan trọng chấn
chỉnh hoạt động của các cơ sở vi phạm, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
chủ các cơ sở, hạn chế vi phạm, qua đó đã tạo hiệu ứng tốt đến đối tượng quản lý
và tồn xã hội, góp phần ngăn chặn không để xảy ra những vụ việc nổi cộm, bức
xúc trong dư luận về lĩnh vực y tế và vệ sinh an tồn thực phẩm.

3.2.6. Nhóm giải pháp thứ sáu: Tập trung tối đa nguồn lực tài chính cho
cơng tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
Tăng cường đầu tư và đẩy mạnh quá trình cơ cấu lại ngân sách Nhà nước
trong lĩnh vực y tế để có nguồn lực triển khai tồn diện cơng tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, nhất là đối với các đối tượng chính sách,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, biên giới, hải đảo.
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm về quyền được bảo vệ chăm
sóc sức khỏe ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Nâng cao nhận thức và đề cao ý thức trách nhiệm
Phải nâng cao nhận thức và đề cao ý thức trách nhiệm của các cấp, các ngành,
của cả hệ thống chính trị và tồn dân đối với cơng tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe.
Khơng ngừng vận động, hướng dẫn người dân có kiến thức và biết tự chăm sóc,
21


nâng cao sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng; tuyên truyền các hành
vi lối sống có lợi cho sức khỏe nhằm tạo ra phong trào có sức lan tỏa sâu rộng,
bền vững, trở thành thói quen, nếp sống văn hóa trong cộng đồng dân cư.
3.3.2. Hồn thiện pháp luật về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
Để quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe được thực thi hiệu quả, thì pháp
luật trong lĩnh vực này cần phải được hồn thiện. Đó là cơ sở pháp lý cho việc
thúc đẩy và phát triển các quyền này của con người.
3.3.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực
bảo vệ và chăm sóc sức khỏe
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật.
Kiểm tra việc thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe là một biện pháp quan trọng để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm
chỉnh pháp luật, khắc phục, phòng ngừa những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
này. Kiểm tra nhằm mục đích nhắc nhở, giáo dục việc chấp hành nghiêm chỉnh
theo pháp luật của các cơ quan, tổ chức cá nhân.

Kết luận chương 3
Chương 3 luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống
pháp luật về lĩnh vực sức khỏe, qua đó nâng cao quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe ở Việt Nam trong thời gian tới. Với các giải pháp nêu trên, tác giả ln
mong muốn chính sách, chương trình của Nhà nước và các văn bản pháp luật liên
quan ban hành tại Việt Nam về các vấn đề sức khỏe được thực thi đầy đủ, trọn
vẹn. Các giải pháp cần làm không chỉ dừng lại ở việc bổ sung, sửa đổi luật pháp
mà cịn cần được coi là chương trình mục tiêu quốc gia. Cần phát huy cơ chế uỷ
ban, các bộ ngành để tăng cường kiểm tra, giám sát, xây dựng các chương trình
phổ biến, giáo dục, truyền thơng, đi kèm các biện pháp xử lý nghiêm minh đối
với những hành vi xâm phạm các quyền về sức khỏe.
Để thực hiện đồng bộ các giải pháp này rất cần sự tham gia của các đồn thể
chính trị - xã hội và của toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân. Chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, coi đây là một trong những nhiệm vụ chính
trị quan trọng hàng đầu. Thống nhất nhận thức, quyết tâm hành động của cả hệ
thống chính trị và của mỗi người dân trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe cho bản thân, gia đình, cộng đồng. Đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về y tế và các
lĩnh vực ảnh hưởng đến sức khỏe như môi trường, thể dục, thể thao, văn hoá…
22


vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp.
Từ những định hướng của Đảng trong Chiến lược cải cách tư pháp và động
lực từ những phát triển tiến bộ to lớn về chế định quyền con người, quyền công
dân trong Hiến pháp năm 2013, có thể tin tưởng rằng khn khổ pháp luật về
quyền bảo vệ. chăm sóc sức khỏe của Việt Nam tới đây sẽ được hoàn thiện một
cách đáng kể, góp phần quan trọng ngày càng nâng cao quyền được bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe cho nhân dân.
KẾT LUẬN

Tuy nhiên, cùng với những thay đổi nhanh chóng về kinh tế xã hội, Việt Nam
hiện phải đối mặt với những thách thức mới về sức khỏe. Biến đổi khí hậu nghiêm
trọng, ơ nhiễm khơng khí và suy thối mơi trường, thói quen hút thuốc và uống
rượu bia cùng với lối sống ít vận động - tất cả những điều này đều đang ảnh
hưởng tiêu cực tới sức khỏe và là những yếu tố nguy cơ của các bệnh mạn tính,
dịch bênh gia tăng theo hướng phức tạp, đặc biệt là đại dịch SARS-CoV-2 đang
hoành hành... Trong bối cảnh này, Việt Nam cần phải định hướng lại hệ thống
bảo vệ chăm sóc sức khỏe để giải quyết những thách thức trên và thiết kế lại cách
thức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo các chức năng y tế công
cộng thiết yếu, cũng như tái thiết lập một hệ thống chăm sóc sức khỏe vững mạnh.
Và Chính phủ Việt Nam đã ghi nhận những thách thức đó của ngành y tế. Nghị
quyết 20 của Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 2017 đã tái khẳng định quan
điểm “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu tư cho
phát triển”. Nghị quyết cũng chỉ ra rằng Việt Nam có thể đạt được bao phủ chăm
sóc sức khỏe tồn dân ngay cả với nguồn lực hạn chế, bằng cách tập trung ngân
sách Nhà nước cho y tế dự phòng, y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng sâu vùng xa và
vùng khó khăn. Tuy nhiên, việc này đòi hỏi sự lãnh đạo sát sao và cam kết mạnh
mẽ của chính phủ, cũng như sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành liên quan. Bên
cạnh đó, vai trị của mỗi người dân trong việc gia tăng nhận thức về sức khỏe bản
thân cũng như hướng tới một lối sống lành mạnh cũng vô cùng quan trọng. Với
sự tăng cường đầu tư cho chăm sóc sức khỏe và các hành động phối hợp khác, chúng
ta có thể biến bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân thành hiện thực tại Việt Nam.
Việc đảm bảo quyền bảo vệ chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Do vậy, việc nghiên cứu sâu về lĩnh vực
này vừa có ý nghĩa về mặt khoa học, thực tiễn sâu sắc. Từ sự phân tích thực trạng
23


×