Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ VIỆT HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC SỨC
KHOẺ CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quyền con ngƣời

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Trần Thị Việt Hà


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV ......................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời
có HIV ................................................................................................................. 8
1.2. Nội dung quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV ......... 14
1.3. Bảo đảm quyền và các điều kiện bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của ngƣời có HIV................................................................................. 20
1.4. Cơ chế bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có
HIV ..................................................................................................................... 32
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................ 32
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM
SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............. 34
2.1. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi và bình
đẳng của ngƣời có HIV ....................................................................................... 34
2.2. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc điều trị và chăm sóc toàn diện của ngƣời
có HIV ................................................................................................................. 36
2.3. Thực trạng bảo đảm quyền từ chối điều trị của ngƣời đang điều trị AIDS
giai đoạn cuối ...................................................................................................... 45
2.4. Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc giữ bí mật riêng tƣ liên quan đến
HIV/AIDS, đƣợc tôn trọng danh dự khi đƣợc chăm sóc và điều trị ................... 47
2.5. Thực trạng cơ chế bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
ngƣời có HIV....................................................................................................... 48
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................ 51
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC
BẢO VỆ, CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .......................................................................................................... 53
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay .................................................................... 53
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có

HIV ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 55
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 67
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 69


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AIDS

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (Acquired
Immune Deficiency Syndrome)

CEDAW

Công ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ

CERD

Công ƣớc quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc

CHAI

Sáng kiến tiếp cận y tế Clinton

CRC

Công ƣớc về quyền trẻ em


GFATM

Quỹ toàn cầu phòng chống HIV/AIDS

HIV

Virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
ngƣời (Human immunodeficiency virus)

ICESCR

Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa

UDHR

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948

UNAIDS

Chƣơng trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS

UBND

Uỷ ban nhân dân

VAAC

Cục Phòng, chống HIV/AIDS thuộc Bộ Y tế


WHO

Tổ chức Y tế thế giới


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Xuất hiện vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỷ XX, dịch

HIV/AIDS trở thành một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính
mạng, sức khỏe con ngƣời và tƣơng lai nòi giống của các quốc gia, các dân tộc
trên toàn cầu, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an
toàn xã hội, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nƣớc. Dƣới góc độ nhân
quyền, đại dịch HIV/AIDS đã tạo nên nhóm xã hội dễ bị tổn thƣơng với số
lƣợng ngày càng nhiều. Do những đặc điểm của bệnh, từ những định kiến xã
hội, ngƣời có HIV bị tổn thƣơng hơn cả về thể chất, tinh thần so với các nhóm
đối tƣợng dễ bị tổn thƣơng khác trong xã hội. Chính những biện pháp y tế công
cộng truyền thống cùng với sự kỳ thị, phân biệt, xa lánh xuất phát từ sự thiếu
hiểu biết về HIV/AIDS của cộng đồng đã trở thành một nhân tố khiến đại dịch
HIV/AIDS toàn cầu bùng phát.
Con ngƣời muốn sống hạnh phúc và hƣởng đầy đủ các quyền của mình
thì trƣớc hết cần có sức khỏe, đây là điều quý giá nhất đối với mỗi ngƣời. Vì
thế quyền đƣợc đảm bảo sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất là
quyền xã hội quan trọng. Đối với ngƣời có HIV, quyền này còn mang ý nghĩa
đặc biệt bởi vì những ngƣời có HIV là những ngƣời đang hằng ngày phải
chống chọi với bệnh dịch, không những sức khỏe của họ bị đe dọa mà họ còn
bị tổn thƣơng nặng nề về mặt tinh thần khi luôn chịu sự kỳ thị xa lánh từ phía
cộng đồng. Do đó, vấn đề bảo vệ quyền của ngƣời có HIV đặc biệt là quyền

đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe là vấn đề cần đƣợc quan tâm và có những biện
pháp nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện quyền này của ngƣời có HIV trên
thực tế.
Ngay từ khi dịch HIV/AIDS xuất hiện, Liên Hợp Quốc đã đặc biệt quan
tâm đến phòng, chống căn bệnh này. Cơ sở của phòng, chống HIV/AIDS là sự
đồng thuận của cộng đồng quốc tế, đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết của Đại

1


hội đồng Liên Hợp Quốc. Cộng đồng quốc tế đã xác định: HIV đã gây ra cuộc
khủng hoảng toàn cầu và các chính phủ cam kết thực hiện nhiều giải pháp,
trong đó có giải pháp tiếp cận quyền, hợp tác quốc tế trong phòng, chống
HIV/AIDS. Những ngƣời có HIV có đầy đủ các quyền đƣợc ghi trong Hiến
pháp và pháp luật quốc gia trong đó có quyền đƣợc hƣởng thụ các chế độ bảo
hiểm và an sinh xã hội; quyền đƣợc chăm sóc sức khỏe…
Tại Việt Nam, nhận thức rõ sự nguy hiểm của đại dịch HIV/AIDS Đảng
và Nhà nƣớc Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng nhằm
khống chế sự gia tăng của dịch HIV/AIDS. Sự ra đời của các văn bản pháp luật
này đã tạo hành lang pháp lý cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền của ngƣời
nhiễm HIV/AIDS. Bên cạnh đó Nhà nƣớc xây dựng chƣơng trình, chiến lƣợc
quốc gia, triển khai kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS và qua quá trình thực
hiện đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng góp phần ngăn chặn, hạn chế tốc độ
gia tăng của đại dịch HIV/AIDS, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc,
điều trị cho ngƣời có HIV và bệnh nhân AIDS, tạo môi trƣờng bình đẳng trong
việc tiếp cận với các dịch vụ điều trị, chăm sóc và phòng ngừa HIV.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đƣợc, việc bảo đảm quyền cho ngƣời
có HIV trong đó có quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe đối với ngƣời có
HIV còn có nhiều bất cập. Các quy định về phòng, chống HIV/AIDS nhƣ hỗ
trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho ngƣời có HIV chƣa theo kịp tình hình thực tế.

Luật phòng, chống HIV/AIDS đã không còn phù hợp với những tiến bộ về
khoa học trong dự phòng và điều trị HIV/AIDS hiện nay điển hình nhƣ những
quy định về chẩn đoán AIDS giai đoạn cuối, xét nghiệm HIV miễn phí cho tất
cả phụ nữ mang thai, các quy định về phòng, chống HIV/AIDS tại các doanh
nghiệp và nơi làm việc…
Nguyên nhân dẫn đến những vấn đề còn tồn tại nêu trên xuất phát từ
những bất cập về thể chế, chính sách pháp luật, về quy trình quản lý, giám sát
hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nƣớc. Bên cạnh đó, nếu nhƣ trƣớc đây

2


thực hiện các chƣơng trình phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam nhận đƣợc
nguồn kinh phí rất lớn từ tài trợ của các tổ chức nƣớc ngoài thì hiện nay các tổ
chức này đã và đang cắt giảm dần nguồn quỹ tài trợ dẫn đến việc nhà nƣớc
phải sử dụng gần nhƣ hoàn toàn nguồn tài chính của quốc gia để phục vụ công
tác phòng, chống HIV/AIDS. Chính vì vậy, đây là thách thức rất lớn trong
công tác hoạch định các chƣơng trình và giải pháp phòng, chống HIV/AIDS,
bảo đảm hiệu quả việc chăm sóc sức khỏe cho những ngƣời có HIV, đạt đƣợc
mục tiêu chung trong Chiến lƣợc quốc gia Phòng, chống HIV/AIDS đến năm
2020 và tầm nhìn 2030 là “Khống chế tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dân cƣ
dƣới 0,3% vào năm 2020, giảm tác động của HIV/AIDS đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội”.
Từ những thực tiễn nêu trên tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo đảm quyền
được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành luật học, chuyên ngành quyền con ngƣời với
mong muốn góp phần tăng cƣờng bảo đảm một trong những quyền cơ bản và
quan trọng của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay.
2.


Tình hình nghiên cứu đề tài
Dịch bệnh HIV/AIDS diễn ra ngày càng phức tạp và để lại những hậu

quả vô cùng nặng nề tới đời sống của cá nhân, gia đình và toàn xã hội. Trƣớc
tình hình đó, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này,
cụ thể:
- Về vấn đề quyền con ngƣời nói chung, có các công trình khoa học do
GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên nhƣ: Quyền con người, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2011; Quyền con người, tiếp cận đa ngành và
liên ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009; Những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nhóm quyền kinh tế - xã hội – văn hoá, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2011, GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên (2011); Pháp luật

3


quốc tế về quyền con người, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, GS.Võ Khánh
Vinh, TS Lê Mai Thanh chủ biên (2014).
- Về vấn đề quyền của các nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, có các công
trình khoa học nhƣ: Luật quốc tế về quyền của các nhóm người dễ bị tổn
thương, tập thể tác giả chủ biên: Đỗ Hồng Thơm – Vũ Công Giao, Nxb Lao
động – Xã hội, 2011; Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự
do tập thể tác giả chủ biên: Đỗ Hồng Thơm, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng
Dung, Lã Khánh Tùng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 …
- Sách về quyền của ngƣời có HIV có các tác phẩm: HIV/AIDS và quyền
con người, Cao Đức Thái chủ biên, Nxb Hà Nội, 12-2006; Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người của người nhiễm HIV, Cao Đức Thái chủ biên, Nxb Hà Nội,
tháng 3/2007; Chính sách quốc gia về phòng chống HIV/AIDS ở Việt Nam, tập
thể tác giả chủ biên: Nguyễn Văn Sáu, Cao Đức Thái, Nxb Khoa học Xã hội,

2008…
- Luận án, luận văn về các đề tài liên quan đến HIV/AIDS có các đề tài
nhƣ: Trần Thị Hòe, luận án Tiến sĩ “Nhà nước Việt Nam với việc bảo đảm
quyền con người trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay”; Lê Thị Huyền
Trang (2013), luận văn thạc sỹ “Đảm bảo quyền của người chung sống với
HIV/AIDS trong pháp luật Việt Nam hiện nay”; Vũ Thị Luyện (2014), luận văn
thạc sỹ “Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở
Việt Nam”; Nguyễn Thị Khánh Trang (2014), luận văn thạc sỹ “Quyền của
người nhiễm HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay”…
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đề cập đến quyền của ngƣời có
HIV và bảo đảm quyền của ngƣời sống chung với HIV/AIDS ở Việt Nam hiện
nay nhƣng chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về bảo đảm quyền đƣợc
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV và thực trạng thực hiện quyền
này trên thực tế ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu
nêu trên cung cấp một lƣợng kiến thức, thông tin lớn hết sức quan trọng về chủ

4


đề của luận văn, là nguồn tài liệu tham khảo quý báu cho việc thực hiện luận
văn này.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần luận giải cơ sở bảo đảm


quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện
nay.
3.2.

Nhiệm vụ:
Để đạt đƣợc mục tiêu nêu trên, luận văn phải hoàn thành các nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền đƣợc
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV;
- Phân tích, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam trong thời gian tới.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở pháp lý và các yếu tố bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ,

chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu về bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm

sóc sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam.

- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu về bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam từ khi Luật Phòng chống nhiễm vi
rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở ngƣời (HIV-AIDS) năm
2006 đƣợc ban hành cho đến nay.

5


5.

Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận duy vật biện chứng,

duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của cộng đồng quốc tế về
quyền và bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của con ngƣời nói
chung và ngƣời có HIV nói riêng; đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc
Việt Nam về bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có
HIV.
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, sử dụng các số liệu, dữ liệu trong các công trình nghiên cứu đã công bố,
các báo cáo của cơ quan chức năng, các văn bản pháp luật của nhà nƣớc…để
làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra. Thêm vào đó, với tƣ cách là một cán bộ
làm việc tại Cục Y tế dự phòng có điều kiện tiếp cận thông tin, thực hiện các
hoạt động quản lý nhà nƣớc về phòng, chống HIV/AIDS tác giả còn sử dụng
phƣơng pháp chuyên gia để thực hiện luận văn này.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền đƣợc bảo vệ,


chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV.
- Xác định các điều kiện bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của ngƣời có HIV.
- Luận văn đƣa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ cơ chế
tƣơng ứng nhằm bảo đảm đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo trong việc xây dựng
các chƣơng trình, kế hoạch, đề xuất chính sách hoặc làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu giảng dạy về việc bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức
khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam.

6


7.

Cơ cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm 3

chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận về bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của ngƣời có HIV.
Chƣơng 2: Thực trạng bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của ngƣời có HIV ở Việt Nam hiện nay.

7



CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƢỢC BẢO VỆ, CHĂM SÓC SỨC
KHỎE CỦA NGƢỜI CÓ HIV
1.1.

Khái niệm, đặc điểm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
ngƣời có HIV

1.1.1. Người có HIV và nhu cầu được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Human Immunodeficiency
Virus" là một loại vi rút tấn công hệ miễn dịch gây suy giảm miễn dịch ở
ngƣời, làm cho cơ thể suy giảm khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh.
Ngƣời có HIV là ngƣời mang trong cơ thể vi rút HIV do bị lây nhiễm từ ngƣời
khác. Ngƣời bệnh có HIV trải qua giai đoạn nhiễm HIV cấp rồi qua giai đoạn
nhiễm HIV không triệu chứng và cuối cùng là đến giai đoạn AIDS.
AIDS (cách viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired
ImmunoDeficiency Syndrome) hay còn gọi là SIDA (cách viết tắt từ của cụm
từ tiếng Pháp: Syndrôm dé Immuno Dèficience Acquise) là giai đoạn cuối cùng
của quá trình nhiễm HIV [2, tr.1].
Một ngƣời có HIV sẽ không phải thành ngƣời bị AIDS ngay mà nó diễn
ra trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu không đƣợc điều trị, thƣờng mất
khoảng 10 năm ngƣời có HIV sẽ chuyển sang giai đoạn AIDS. Điều trị sẽ làm
chậm thiệt hại do vi rút gây ra và có thể giúp ngƣời có HIV giữ đƣợc sức khỏe
trong nhiều thập kỷ trƣớc khi phát triển thành AIDS. Giai đoạn AIDS thƣờng
kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm nếu không đƣợc điều trị bằng thuốc kháng vi rút
thì có thể dẫn đến tử vong [2, tr.3].
Ngƣời có HIV mang những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngƣời có HIV là nguồn truyền nhiễm HIV sang cho ngƣời
khác. Tất cả mọi ngƣời, không phân biệt tuổi tác, giới tính, vị trí xã hội, nghề
nghiệp … đều có thể bị nhiễm HIV nếu có hành vi không an toàn dù chỉ một

lần trong cuộc sống. Các phƣơng thức làm lây truyền HIV bao gồm lây truyền

8


qua đƣờng máu, lây truyền qua đƣờng tình dục và lây truyền từ mẹ sang con.
Trong các con đƣờng lây truyền HIV thì lây truyền qua đƣờng tình dục đƣợc
coi là phƣơng thức lây truyền HIV phổ biến nhất trên thế giới. Nhiễm
HIV/AIDS là một bệnh truyền nhiễm mãn tính kéo dài. Ngƣời mắc bệnh thậm
chí cũng không biết nên vẫn có thể truyền bệnh cho ngƣời khác.
Thứ hai, ngƣời có HIV cho đến khi chuyển sang giai đoạn AIDS vẫn có
thể sinh hoạt, học tập, lao động bình thƣờng. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi
rút HIV tấn công vào hệ thống miễn dịch của cơ thể khiến cho cơ thể suy giảm
khả năng phòng chống bệnh tật từ đó dẫn đến mọi mầm bệnh nhƣ vi trùng, siêu
vi trùng nhân cơ hội gây bệnh (nhiễm trùng cơ hội) và cả tế bào ung thƣ gây
nên nhiều bệnh nguy hiểm... Quá trình phát triển từ HIV thành AIDS có thể trải
qua một số giai đoạn khác nhau và kéo dài trong khoảng thời gian trung bình từ
5 đến 7 năm hoặc có thể lâu hơn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành
vi của từng ngƣời. Trong thời gian này ngƣời có HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ
vẫn sống, lao động, sinh hoạt và học tập bình thƣờng [2, tr.3].
Những ngƣời có HIV gặp phải sự kỳ thị, phân biệt đối xử rất lớn từ xã
hội, từ cộng đồng khiến cho họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc học tập, sinh
hoạt cũng nhƣ làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình. Cũng chính vì vậy
họ trở thành nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng trong xã hội, dễ bị xâm phạm các
quyền và tự do cơ bản của con ngƣời.
Thứ ba, ngƣời có HIV là những ngƣời bị tổn thƣơng cả về mặt vật chất,
thể trạng lẫn tinh thần. Phần lớn những ngƣời nhiễm vi rút HIV thuộc diện
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không nghề nghiệp. Nhóm ngƣời này thuộc tầng
lớp nghèo khổ, thiếu hiểu biết, thiếu điều kiện để tự bảo vệ mình. Một bộ phận
khác bị lây nhiễm thuộc nhóm ngƣời lao động xa gia đình nhƣ lái xe đƣờng

dài, làm thợ nề, khai thác than, đào vàng… có quan hệ tình dục với gái mại
dâm. Sau khi mắc bệnh, điều kiện kinh tế còn khó khăn hơn gấp nhiều lần khi
phải cố gắng chạy chữa và trở thành gánh nặng cho gia đình. Sức khỏe suy

9


giảm, cơ thể không còn khả năng miễn dịch, không thể sống bình thƣờng nhƣ
ngƣời khỏe mạnh đồng thời phải đối diện với sự kỳ thị xa lánh từ phía cộng
đồng. Bị tổn thƣơng sâu sắc về mặt vật chất, thể chất lẫn tinh thần, những
ngƣời có HIV dƣới hình thức này hay hình thức khác, chủ quan hay khách
quan thực tế đã bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Những ngƣời có HIV mang trong mình vi rút gây suy giảm hệ thống
miễn dịch của cơ thể dẫn đến việc họ luôn bị những nguy cơ đe dọa đến sức
khỏe. Chính vì vậy họ rất cần sự bảo vệ, chăm sóc từ gia đình và cộng đồng.
Họ cần đƣợc thăm khám, theo dõi và điều trị theo phác đồ điều trị chặt chẽ
nhằm kiềm chế sự phát triển của vi rút trong cơ thể. Bên cạnh đó họ cũng cần
có những biện pháp chăm sóc về dinh dƣỡng một cách khoa học để bảo vệ cơ
thể, tăng cƣờng khả năng chống đỡ với bệnh tật. Ngƣời có HIV phải sống với
áp lực tâm lý vô cùng lớn lo sợ mọi ngƣời biết về tình trạng bệnh của mình, họ
luôn thiếu sự tự tin vào bản thân, bị cô lập giữa cộng đồng. Chính vì vậy ngƣời
có HIV bên cạnh nhu cầu đƣợc bảo vệ, chăm sóc về thể chất họ cũng cần đƣợc
tiếp cận và đƣợc điều trị tâm lý với những liệu pháp phù hợp nhằm ổn định tinh
thần, giúp họ có thể hòa nhập với cộng đồng, có thể học tập, lao động bình
thƣờng để tự nuôi sống đƣợc bản thân, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
1.1.2. Khái niệm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV
Quyền đƣợc bảo vệ , chăm sóc sức khỏe là một trong những quyền cơ
bản của con ngƣời thuộc nhóm các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá, đƣợc ghi
nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia. Hiến chƣơng của
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1946 đã ghi nhận ngay trong lời nói đầu:

“Bảo vệ sức khỏe là quyền cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc,
tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế hay xã hội”. Tiếp theo đó,
Tuyên ngôn quốc tế về quyền con ngƣời (UDHR) năm 1948 ghi nhận quyền
đƣợc chăm sóc sức khỏe là một phần của quyền đƣợc có mức sống thích đáng,
quy định tại Điều 25: “Mọi người có quyền được hưởng một mức sống thích

10


đáng, đủ để bảo đảm sức khỏe và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các
khía cạnh ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết… Các bà
mẹ và trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt”. Quy
định của Điều 25 UDHR sau đó đã đƣợc cụ thể hóa trong nhiều Công ƣớc, nhƣ
Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR), Công
ƣớc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW), Công ƣớc
về quyền trẻ em (CRC), Công ƣớc quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
chủng tộc (CERD), Tuyên bố Viên và Chƣơng trình hành động thông qua tại
Hội nghị thế giới về quyền con ngƣời lần thứ hai năm 1993. Đặc biệt, Điều 12
ICESCR đƣợc coi là quy định pháp luật quốc tế toàn diện nhất về quyền đƣợc
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe. Theo Điều này, mọi ngƣời có quyền đƣợc hƣởng
một tiêu chuẩn sức khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể đƣợc.
Các quốc gia thành viên Công ƣớc cần thi hành các biện pháp để thực hiện đầy
đủ quyền này, trong đó bao gồm những biện pháp cần thiết nhằm giảm bớt tỷ lệ
tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em; cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trƣờng và
vệ sinh công nghiệp; ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài
da, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh khác, tạo các điều kiện để bảo đảm mọi
dịch vụ và sự chăm sóc y tế khi đau yếu. Quyền này đặc biệt có vai trò quan
trọng đối với ngƣời có HIV bởi họ là ngƣời đang mang trong mình vi rút gây
ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sức khoẻ và tính mạng. Hơn nữa họ còn là nguồn
lây nhiễm bệnh sang ngƣời khác. Chính vì vậy, các biện pháp bảo vệ cũng nhƣ

điều trị, chăm sóc sức khoẻ đối với những ngƣời có HIV lại càng trở nên có ý
nghĩa. Ngƣời có HIV bình đẳng với tất cả mọi ngƣời trong việc tiếp cận và thụ
hƣởng quyền. Trong bình luận chung số 14, Điều 12.1, tại mục 8, Uỷ ban về
các quyền kinh tế, văn hoá và xã hội đã nêu “Quyền chăm sóc sức khoẻ bao
gồm cả tự do và quyền. Tự do bao gồm quyền làm chủ về sức khoẻ và thân
thể…và quyền đƣợc tự do không bị can thiệp, chẳng hạn nhƣ quyền không bị
tra tấn, điều trị và thí nghiệm y tế mà không đƣợc sự đồng ý. Quyền bao gồm

11


tiếp cận hệ thống bảo vệ sức khoẻ, trong đó đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội
cho tất cả mọi ngƣời đƣợc hƣởng thụ mức độ cao nhất có thể đạt đƣợc”.
Việc bảo vệ sức khoẻ của ngƣời có HIV đƣợc hiểu là những biện pháp
dự phòng, khuyến cáo về chế độ ăn uống, sinh hoạt nhằm giúp cho ngƣời có
HIV tăng cƣờng khả năng phòng ngừa đƣợc bệnh tật, phòng tránh lây nhiễm
HIV từ mẹ sang con. Chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV là những hoạt động
xét nghiệm, điều trị, phục hồi chức năng giúp cho ngƣời có HIV giữ đƣợc sức
khoẻ về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể.
Từ sự phân tích nói trên có thể đƣa ra định nghĩa về quyền đƣợc bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV nhƣ sau: “Quyền được bảo vệ, chăm sóc
sức khỏe của người có HIV là quyền cơ bản mà theo đó người có HIV được
khám bệnh, chữa bệnh, tiếp cận các dịch vụ y tế, được áp dụng các biện pháp
dự phòng bệnh, nâng cao sức khỏe và Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho
người có HIV được thụ hưởng quyền đó”.
1.1.3. Đặc điểm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV
Ngƣời có HIV là ngƣời mang trong cơ thể vi rút gây nên tình trạng bị
suy giảm hệ thống miễn dịch dẫn đến nguy cơ mắc bệnh gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến sức khoẻ và tử vong với những đặc điểm đặc thù nhƣ đã
phân tích ở trên. Từ những đặc điểm đó dẫn đến việc tiếp cận hay thụ hƣởng

các dịch vụ thăm khám, điều trị, chăm sóc y tế thuộc nội dung quyền đƣợc bảo
vệ, chăm sóc sức khoẻ của những ngƣời có HIV sẽ có những điểm khác biệt so
với những ngƣời bình thƣờng khác.
Thứ nhất, quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ là quyền có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với những ngƣời có HIV. Nhiễm vi rút HIV hiện nay
chƣa có thuốc đặc trị, chính vì vậy những ngƣời có HIV phải chung sống suốt
đời với việc khám bệnh, điều trị bằng thuốc. Bảo đảm, bảo vệ quyền đƣợc
chăm sóc sức khoẻ cho những ngƣời có HIV giúp cho họ kéo dài đƣợc sự sống
của mình. Bên cạnh đó, những ngƣời có HIV là những ngƣời mang tâm lý lo sợ

12


ngƣời khác biết về tình trạng nhiễm bệnh của mình. Chính vì vậy những ngƣời
có HIV tiếp cận quyền rất thụ động đòi hỏi các cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở
điều trị phải có phƣơng pháp tiếp cận và điều trị phù hợp cho nhóm ngƣời này.
Bên cạnh việc điều trị nhằm bảo đảm tình trạng sức khoẻ cho ngƣời bệnh cần
phải có những liệu pháp điều trị về tâm lý nhằm ổn định tinh thần cho ngƣời có
HIV, tránh cho họ những suy nghĩ căng thẳng, tiêu cực, giúp họ có đủ tự tin để
tiếp tục sống, học tập và làm việc để nuôi sống bản thân và gia đình.
Thứ hai, quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của ngƣời có HIV
thƣờng có nguy cơ bị xâm phạm bởi những ngƣời có trách nhiệm khám, chữa
bệnh hoặc bị xâm phạm bởi chính chủ thể quyền. Những ngƣời có HIV hay
gặp phải thái độ xa lánh, phân biệt đối xử từ chính đội ngũ nhân viên y tế khi
đến khám và điều trị tại các cơ sở y tế. Đây là rào cản khiến cho những ngƣời
có HIV gặp khó khăn trong việc tiếp cận và thụ hƣởng quyền. Bên cạnh đó,
việc vấp phải thái độ kỳ thị, xa lánh của cộng đồng cùng với việc phải điều trị
trong thời gian dài khiến cho bản thân những ngƣời có HIV chán nản, có tâm lý
buông xuôi, không tích cực chữa bệnh nữa. Chính vì vậy, để đảm bảo chăm
sóc, điều trị cho ngƣời có HIV cần phải tạo ra môi trƣờng có dịch vụ y tế thân

thiện, tăng cƣờng chất lƣợng dịch vụ cũng nhƣ tính bảo mật thông tin. Sự thiếu
thoải mái, không an toàn và kỳ thị là rào cản khiến ngƣời có HIV không muốn
đến để chăm sóc y tế dẫn đến việc họ không đƣợc bảo đảm về tình trạng sức
khoẻ của mình, đồng thời họ còn là nguồn lây nhiễm vi rút HIV trong cộng
đồng.
Thứ ba, bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của ngƣời có
HIV cần sự vào cuộc của Nhà nƣớc, của gia đình và của toàn xã hội. Đa số
những ngƣời có HIV đều thuộc diện có điều kiện kinh tế khó khăn. Khi bị
nhiễm bệnh do tình trạng sức khoẻ giảm sút, bị cộng đồng kỳ thị, xa lánh họ
mất dần cơ hội để đƣợc làm việc, không có khả năng tài chính để chi trả cho
các dịch vụ thăm khám và chăm sóc sức khoẻ của mình. Chính vì vậy, mọi

13


hoạt động chăm sóc y tế, điều trị và áp dụng các biện pháp bảo vệ đối với
ngƣời có HIV cần sự hỗ trợ từ phía nhà nƣớc và cộng đồng xã hội.
1.2. Nội dung quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV
1.2.1. Quyền được tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi và bình đẳng
Ngƣời có HIV là những ngƣời có thể trạng yếu hơn những ngƣời bình
thƣờng khác, họ cần có sự chăm sóc, điều trị liên tục không gián đoạn theo một
quy trình đặc biệt. Chính vì vậy quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
nhóm ngƣời này bao hàm nội dung họ có quyền đƣợc tiếp cận một cách thuận
lợi nhất với những cơ sở y tế, thuốc men, phƣơng tiện chăm sóc y tế, điều kiện
chăm sóc y tế tốt nhất có thể nhằm làm chậm lại quá trình diễn biến xấu của
bệnh
Quyền đƣợc tiếp cận dịch vụ y tế thuận lợi đòi hỏi nhà nƣớc và các cơ
quan có thẩm quyền phải mở rộng phạm vi cung cấp, bảo đảm tính liên tục và
dễ tiếp cận của dịch vụ điều trị bằng thuốc kháng vi rút HIV, điều trị nhiễm
trùng cơ hội, điều trị lao cho ngƣời có HIV, điều trị dự phòng lây truyền HIV

từ mẹ sang con thông qua việc đƣa công tác điều trị về tuyến y tế cơ sở, lồng
ghép với các chƣơng trình y tế khác…nhằm tạo điều kiện cho ngƣời có HIV có
thể đƣợc chăm sóc, điều trị một cách nhanh chóng, hiệu quả để họ đƣợc thụ
hƣởng quyền một cách tốt nhất có thể.
Bên cạnh đó nhà nƣớc cũng có nghĩa vụ bảo đảm cho ngƣời có HIV
đƣợc bình đẳng trong việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế nhƣ những
ngƣời khác. Theo quy định tại Điều 9 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009
“Người bệnh không bị kỳ thị, phân biệt đối xử hoặc bị ép buộc khám bệnh,
chữa bệnh”. Không cơ sở y tế nào đƣợc từ chối cung cấp dịch vụ hoặc bỏ mặc
ngƣời bệnh bởi lý do họ nhiễm HIV. Nhà nƣớc có trách nhiệm bảo đảm cho
ngƣời có HIV ở vùng sâu, vùng xa, những khu vực có điều kiện kinh tế khó
khăn đƣợc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế và điều trị tƣơng ứng nhƣ các
khu vực khác thông qua việc Nhà nƣớc ban hành và thực hiện các chính sách

14


ƣu tiên đầu tƣ cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực cho những khu vực này
nhằm tăng cƣờng khả năng đáp ứng dịch vụ điều trị theo các tiêu chuẩn Nhà
nƣớc quy định.
1.2.2. Quyền được điều trị và chăm sóc sức khỏe toàn diện
Điều trị và chăm sóc cho ngƣời có HIV cần đƣợc thực hiện một cách
toàn diện bao gồm nội dung chăm sóc về thể chất, về tinh thần, chăm sóc dự
phòng lây nhiễm HIV và chăm sóc về mặt xã hội.
Về thể chất việc chăm sóc và điều trị bao gồm xét nghiệm và tƣ vấn,
khám sức khỏe định kỳ cho ngƣời có HIV và bất kỳ lúc nào có bệnh để theo
dõi tình trạng bệnh nhằm mục đích phát hiện bệnh cơ hội để điều trị sớm; xác
định tình trạng miễn dịch, tình trạng virus để khẳng định hiệu quả của thuốc
kháng HIV nếu đang dùng. Khi ngƣời có HIV sắp chuyển sang giai đọan AIDS
cần áp dụng phác đồ điều trị phù hợp và chỉ định liệu trình dùng thuốc cũng

nhƣ chăm sóc sức khoẻ phù hợp. Tới giai đoạn đã uống thuốc kháng HIV
(ARV) ngƣời có HIV đƣợc khám lâm sàng định kì mỗi tháng 1 lần để phát hiện
các bệnh cơ hội và tác dụng phụ của thuốc ARV. Nếu có bất cứ điều gì bất
thƣờng xảy ra sẽ đƣợc giải quyết kịp thời; đƣợc hƣớng dẫn cách tuân thủ tuyệt
đối điều trị ARV để không bị kháng thuốc và thất bại điều trị; đƣợc theo dõi
tình trạng miễn dịch (xét nghiệm CD4) đều đặn 03-06 tháng một lần. Nếu phát
hiện có kháng thuốc sẽ đƣợc đổi phác đồ kịp thời…[4, tr. 28 - 32].
Đối với phụ nữ mang thai cần đƣợc tƣ vấn để biết cách biết cách tự
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và thai nhi một cách tốt nhất; đƣợc
thăm khám và quản lý thai nghén đều đặn đảm bảo theo dõi sức khoẻ trong khi
mang thai và sinh đẻ an toàn, tiếp cận và nhận đƣợc các dịch vụ dự phòng lây
truyền HIV từ mẹ sang con; đƣợc điều trị thuốc kháng vi-rút (ARV) cho bản
thân khi có thai, cần đƣợc tiếp tục điều trị tại cơ sở chăm sóc và điều trị
HIV/AIDS nhƣng cũng cần thông báo cho cả bác sĩ sản khoa (ngƣời chịu trách
nhiệm khám thai) và bác sĩ điều trị biết vì một số loại thuốc kháng HIV có thể

15


có ảnh hƣởng đến thai, đặc biệt là khi dùng trong 3 tháng đầu khi mới có thai.
Sau khi sinh con ngƣời mẹ vẫn tiếp tục đƣợc điều trị và hƣớng dẫn phòng tránh
lây nhiễm HIV từ mẹ sang con. Đối với trẻ em nhiễm HIV cần chế độ chăm
sóc đặc biệt để kiểm soát bệnh, làm chậm quá trình chuyển sang giai đoạn
AIDS bởi trẻ em nhiễm HIV diễn biến bệnh nhanh hơn ở ngƣời lớn. Nguyên
nhân chủ yếu trẻ bị lây nhiễm HIV là từ mẹ. Đặc biệt, rất khó chẩn đoán em bé
có bị nhiễm HIV hay không trong tháng đầu tiên sau sinh. Do đó, đối tƣợng
này cần phải điều trị dự phòng sớm, bởi trẻ mắc bệnh diễn tiến đến giai đoạn
AIDS nhanh hơn so với ngƣời lớn.
Thể chất và tinh thần có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thể
chất có khỏe thì tinh thần mới minh mẫn. Ngƣợc lại tinh thần cũng ảnh hƣởng

rất lớn đến thể chất. Sự đau khổ, tuyệt vọng thƣờng làm cơ thể suy sụp nhanh
chóng. Một trong những vấn đề sức khỏe thƣờng gặp của ngƣời có HIV là sự
suy kiệt. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân trong đó có tình trạng tinh thần
căng thẳng và buồn khổ kéo dài xuất phát từ nỗi sợ (sợ chết, sợ bị xa lánh, sợ
cô đơn) và những mặc cảm (mặc cảm tội lỗi vì những hành vi phi đạo đức, mặc
cảm là ngƣời bệnh, là nguồn lây, là ngƣời phải sống bám vào ngƣời khác…).
Hỗ trợ giúp ngƣời có HIV ổn định cảm xúc là 1 trong 4 thành phần quan trọng
của việc chăm sóc toàn diện ngƣời có HIV (điều trị, điều dƣỡng, hỗ trợ tinh
thần, hỗ trợ xã hội) vừa giúp họ chậm suy kiệt đồng thời cũng giúp họ có đƣợc
1 tinh thần khỏe mạnh để sống hữu ích cho gia đình, xã hội và đƣơng đầu tốt
hơn với AIDS.
Chăm sóc và dự phòng lây nhiễm HIV một trong những nội dung rất
quan trọng trong hoạt động bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cho ngƣời có HIV.
Hoạt động này nhằm giúp cho ngƣời có HIV trang bị cho mình những thông tin
cần thiết và các phƣơng tiện để phòng tránh lây nhiễm HIV cho ngƣời khác bao
gồm tƣ vấn giới thiệu, chuyển gửi tới các cơ sở tƣ vấn xét nghiệm tự nguyện;
tƣ vấn, khuyến khích ngƣời có HIV nõi rõ tình trạng bệnh lý của mình với

16


ngƣời thân; cung cấp bơm kim tiêm sạch; cung cấp và khuyến khích sử dụng
bao cao su đúng cách để đảm bảo an toàn tình dục. Họ sẽ đƣợc hƣớng dẫn sử
dụng các sản phẩm dinh dƣỡng và tăng sức đề kháng tốt nhất với chi phí thấp
nhất để kéo dài tối đa “giai đoạn tiềm tàng”. Ngƣời có HIV đƣợc hƣớng dẫn
làm sao có thể kết hôn, sinh con… mà không bị lây nhiễm sang vợ/chồng.
Công tác hỗ trợ xã hội cho ngƣời có HIV là một phần trong nội dung bảo
đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cho ngƣời có HIV bởi việc hỗ trợ
ngƣời có HIV tiếp cận đƣợc với các chƣơng trình xóa đói giảm nghèo hoặc các
chƣơng trình, các quỹ hỗ trợ xã hội khác; tiếp cận đƣợc với các hoạt dịch vụ,

tạo việc làm, có thu nhập; đến với các tổ chức từ thiện, nhân đạo hoặc các hoạt
động tín dụng, tiết kiệm…hoặc giới thiệu tham gia sinh hoạt hội phòng, chống
HIV/AIDS, sinh hoạt nhóm, câu lạc bộ… chính là tạo nền tảng hỗ trợ, giúp đỡ
ngƣời có HIV cả về vật chất và tinh thần, từ đó bảo đảm hiệu quả hơn quyền
đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của ngƣời có HIV.
Theo quy định tại Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 ngƣời bệnh có
quyền đƣợc khám bệnh, chữa bệnh có chất lƣợng phù hợp với điều kiện thực
tế. Ngƣời bệnh đƣợc tƣ vấn, giải thích về tình trạng sức khoẻ, phƣơng pháp
điều trị và dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh phù hợp với bệnh, đƣợc điều trị bằng
phƣơng pháp an toàn, hợp lý và có hiệu quả theo quy định chuyên môn kỹ
thuật. Bên cạnh các quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Phòng
chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở ngƣời
(HIV/AIDS) năm 2006 (gọi tắt là Luật phòng, chống HIV) quy định các cơ sở
y tế có trách nhiệm khám bệnh, chữa bệnh cho ngƣời có HIV. Thầy thuốc và
nhân viên y tế có trách nhiệm điều trị ngƣời có HIV và giải thích cho họ hiểu
về HIV/AIDS để tự giữ gìn sức khỏe và phòng lây nhiễm HIV cho ngƣời khác.
Ngƣời có HIV mắc các bệnh nhiễm trùng cơ hội hoặc các bệnh khác liên quan
đến HIV/AIDS thuộc chuyên khoa nào đƣợc cứu chữa tại chuyên khoa đó hoặc
tại chuyên khoa riêng và đƣợc đối xử bình đẳng nhƣ những ngƣời bệnh khác.

17


Bên cạnh đó, ngƣời có HIV tình trạng sức khỏe và biểu hiện bệnh của họ ở mỗi
giai đoạn là khác nhau và cần có phác đồ điều trị cũng nhƣ các biện pháp hỗ trợ
nhằm bảo vệ, nâng cao sức khỏe là khác nhau. Do vậy, các cơ sở y tế cần thăm
khám và tƣ vấn cho bệnh nhân về tình trạng của họ và đƣa ra phƣơng án điều
trị phù hợp nhằm đảm bảo cho họ đƣợc chữa trị kịp thời, giữ đƣợc sức khỏe ở
mức tốt nhất có thể.
1.2.3. Quyền từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh AIDS

trong giai đoạn cuối
Một ngƣời kể từ khi bắt đầu mang trong cơ thể vi rút HIV họ sẽ trải qua
4 giai đoạn của bệnh, trong đó AIDS là giai đoạn cuối cùng của quá trình
nhiễm HIV. Ngƣời mang HIV lúc này có những biểu hiện lâm sàng nặng của
nhiều loại bệnh do suy giảm miễn dịch liên quan đến HIV. Quyền từ chối khám
bệnh, chữa bệnh trong giai đoạn cuối này có ý nghĩa rất quan trọng đối với
bệnh nhân AIDS khi mà việc chữa trị không còn có ý nghĩa duy trì tình trạng
hiện tại và có thể càng làm cho họ thêm đau đớn. Một số quốc gia trên thế giới
hợp pháp hoá quyền an tử nhƣ Albania, Hà Lan, Vƣơng quốc Bỉ, Đại Công
quốc Luxembourg, Thuỵ Sĩ, Argentina, một số bang của Mỹ (Washington,
Oregon, Vermont, Montana) cho phép những ngƣời nhƣ bệnh nhân ung thƣ
giai đoạn cuối hay những ngƣời có HIV đang trong giai đoạn cuối cùng của
AIDS hoặc mắc các bệnh trầm kha đƣợc kết thúc cuộc sống đau đớn một cách
nhanh chóng bằng cái chết êm ả, bằng một liều thuốc trợ tử do chính những
nhân viên y tế thực hiện nhằm mong muốn không kéo dài sự đau đớn của họ và
việc thực hiện phải tuân thủ quy trình chặt chẽ theo quy định của pháp luật
hoặc cho phép ngƣời bệnh đƣợc quyền từ chối điều trị, chờ đợi cái chết đến
một cách tự nhiên do chính căn bệnh của mình [5, Tr 44-51]. Ở Việt Nam hiện
nay quyền an tử vẫn chƣa đƣợc xem xét để đƣa vào luật, tuy nhiên nó là vấn đề
mới mẻ, nhạy cảm đã từng đƣợc nghiên cứu trong quá trình dự thảo Bộ luật
dân sự năm 2015.

18


1.2.4. Quyền được giữ bí mật riêng tư liên quan đến HIV/AIDS, được tôn
trọng danh dự khi được chăm sóc, điều trị
Đƣợc giữ bí mật riêng tƣ liên quan đến HIV/AIDS là nội dung nằm trong
quyền bí mật cá nhân và đƣợc bảo vệ bằng pháp luật, là một trong những
quyền nhân thân cơ bản của con ngƣời, đƣợc ghi nhận trong Điều 12 của

Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền: “Không ai phải chịu sự can thiệp vô
cớ đến đời tƣ, gia đình, nhà cửa hoặc thƣ tín, cũng nhƣ sự xúc phạm đến danh
dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi ngƣời đều có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ chống
lại sự can thiệp và xâm phạm nhƣ vậy”. Trong Điều 17 của Công ƣớc quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị quy định: “Không ai bị xâm phạm trái phép hay
độc đoán vào đời tƣ, gia đình, nhà ở, thƣ tín, hoặc bị xúc phạm trái phép đến
danh dự và thanh danh” và “ai cũng có quyền đƣợc pháp luật bảo vệ chống lại
những sự xâm phạm ấy”. Trong các quy định của pháp luật Việt Nam, Luật
phòng chống HIV/AIDS đã ghi nhận nội dung này tại Điều 4 về quyền và
nghĩa vụ của ngƣời nhiễm HIV. Đƣợc giữ bí mật thông tin riêng tƣ liên quan
đến HIV/AIDS đƣợc hiểu là thông tin tình trạng sức khỏe, tình trạng bệnh tật
của ngƣời có HIV không đƣợc cung cấp ra bên ngoài dƣới bất kỳ hình thức nào
bao gồm tất cả các tƣ liệu về hồ sơ bệnh án, kết quả xét nghiệm, phƣơng thức
điều trị, kết quả điều trị … lƣu trữ dƣới dạng văn bản giấy hoặc tệp tin điện tử.
Ngoài ra các thông tin cá nhân nhƣ địa chỉ, số điện thoại, số căn cƣớc công
dân… cũng cần đƣợc bảo vệ. Những ngƣời có HIV là những ngƣời sống cùng
với mặc cảm bệnh tật, phải đối diện với sự kỳ thị, xa lánh từ cộng đồng. Chính
vì vậy, việc giữ bí mật thông tin riêng tƣ liên quan đến HIV/AIDS khi họ tiếp
cận và sử dụng các dịch vụ y tế là vô cùng quan trọng và có ý nghĩa đối với họ.
Bên cạnh việc tôn trọng bí mật riêng tƣ về tình trạng bệnh của ngƣời có HIV
với ý nghĩa đó là một trong những quyền cơ bản của con ngƣời thì việc bảo
đảm thông tin này khiến những ngƣời có HIV không còn tâm lý e ngại khi tới

19


cơ sở khám chữa bệnh, nó giúp cho việc kiểm soát tình hình dịch HIV/AIDS
thuận lợi hơn, giảm thiểu việc lây lan HIV trong cộng đồng.
Theo quy định tại Điều 9 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, quyền
đƣợc tôn trọng danh dự trong khám bệnh, chữa bệnh bao gồm nội dung:

- Đƣợc tôn trọng về tuổi tác, giới tính, dân tộc, tín ngƣỡng.
- Không bị phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội.
Đây là nội dung thể hiện quan điểm bảo đảm sự công bằng cho tất cả
mọi ngƣời đi khám chữa bệnh trong đó có ngƣời nhiễm HIV. Đây là quan điểm
và là mục tiêu hàng đầu của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Việt Nam. Nó có
ý nghĩa quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn đến những ngƣời bị thiệt thòi về kinh tế, xã
hội. Ngƣời có HIV là nhóm ngƣời dễ bị tổn thƣơng, xuất phát từ đặc thù của
bệnh khiến cho họ dễ bị xâm phạm quyền, khó tiếp cận và thụ hƣởng các
quyền của mình. Chính vì vậy để đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe họ cần sự hỗ
trợ và bao cấp của nhà nƣớc cũng nhƣ các tổ chức xã hội.
1.3. Bảo đảm quyền và các điều kiện bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm
sóc sức khỏe của ngƣời có HIV
1.3.1. Khái niệm bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người
có HIV
Các quyền của con ngƣời là những giá trị tự nhiên đƣợc con ngƣời nhận
thức, thừa nhận và dần thể chế hóa trong các văn kiện quốc tế về quyền con
ngƣời và đƣợc các quốc gia thừa nhận, cam kết thực hiện. Nhà nƣớc là chủ thể
có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con ngƣời. Đối với các quyền
con ngƣời về kinh tế, xã hội và văn hóa và quyền của một số nhóm ngƣời dễ bị
tổn thƣơng ngƣời ta còn đề cập đến nghĩa vụ tổ chức và nghĩa vụ đạt đƣợc kết
quả. Nghĩa vụ tổ chức đƣợc hiểu là việc các quốc gia thực hiện trên thực tế các
biện pháp cụ thể, tạo lập các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con ngƣời
nhằm thực thi các quy định của các công ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời.

20


Nghĩa vụ đạt đƣợc kết quả là yêu cầu quốc gia phải bảo đảm rằng những biện
pháp và hoạt động đề ra phải mang tính khả thi và hiệu quả [13, tr.71].
Nhƣ vậy bảo đảm quyền con ngƣời là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện

về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý và tổ chức để các cá nhân, công dân thực
hiện đƣợc các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của họ. Nói cách khác, bảo đảm
quyền con ngƣời là quá trình tạo lập các cơ chế và triển khai các hoạt động
thực tiễn để hiện thực hóa quyền pháp định.
Từ khái niệm chung về bảo đảm quyền con ngƣời có thể đƣa ra khái
niệm bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV nhƣ
sau: Bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của người có HIV là
trách nhiệm của Nhà nước tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, pháp lý,
kinh tế, xã hội và tổ chức thực hiện để người có HIV được hưởng đầy đủ các
quyền và lợi ích trong lĩnh vực y tế.
Bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có HIV có
vai trò hết sức quan trọng. Nó giúp cho những ngƣời có HIV là nhóm ngƣời dễ
bị tổn thƣơng trong xã hội có cơ hội tiếp cận, thụ hƣởng và thực hiện quyền
con ngƣời của mình, giúp cho họ tiếp tục duy trì đƣợc sự sống, giữ gìn đƣợc
sức khỏe để có thể học tập, lao động, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó bảo đảm quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của ngƣời có
HIV giúp ngăn ngừa sự lây lan của HIV ngoài cộng đồng và kiểm soát đại dịch
HIV/AIDS.
1.3.2. Các điều kiện bảo đảm quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
người có HIV
1.3.2.1. Điều kiện chính trị
Điều kiện chính trị đóng vai trò tiên quyết trong việc bảo đảm quyền con
ngƣời nói chung và quyền đƣợc bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ của ngƣời có HIV
nói riêng. Một chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ sẽ coi trọng và đề cao quyền
con ngƣời, có mục tiêu chính trị vì con ngƣời, quan tâm tới việc xây dựng

21



×