Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thế giới trẻ em trong văn xuôi võ hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 155 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Đan Giao

THẾ GIỚI TRẺ EM
TRONG VĂN XUÔI VÕ HỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Ngọc Đan Giao

THẾ GIỚI TRẺ EM
TRONG VĂN XUÔI VÕ HỒNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số

: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. BÙI THANH TRUYỀN



Thành phố Hồ Chí Minh – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi. Tất cả nội
dung trình bày trong luận văn là kết quả làm việc của tơi và chưa được cơng bố
ở bất cứ cơng trình nào.
Học viên

Nguyễn Ngọc Đan Giao


LỜI CẢM ƠN
Tơi bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc, chân thành tới PGS.TS. Bùi Thanh
Truyền, người đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều kiện tốt nhất
cho tơi trong q trình thực hiện luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã hết lịng giảng dạy khóa 27 chun
ngành Văn học Việt Nam cùng các thầy cơ, các cán bộ Phịng Sau Đại học tạo
mọi điều kiện để tôi học tập, nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Trang đã
nhiệt thành cung cấp tác phẩm và giúp tơi có thêm cứ liệu cho việc nghiên cứu
đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã hết
lịng động viên và tạo thuận lợi cho tơi hồn thành khóa học.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2018
Học viên

Nguyễn Ngọc Đan Giao



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Chương 1. NHÀ VĂN VÕ HỒNG VÀ NHỮNG SÁNG TÁC VỀ
THẾ GIỚI TUỔI THƠ............................................................. 15
1.1. Cuộc đời và văn nghiệp Võ Hồng ........................................................ 15
1.1.1. Cuộc đời Võ Hồng ........................................................................ 15
1.1.2. Sự nghiệp văn học của Võ Hồng .................................................. 20
1.2. Sáng tác về tuổi thơ của Võ Hồng ....................................................... 45
1.2.1. Những trang viết giàu tâm huyết................................................... 45
1.2.2. Sức ám ảnh từ tính giáo dục và chất nhân văn ............................. 47
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 49
Chương 2. THẾ GIỚI TRẺ EM TRONG VĂN XUÔI CỦA VÕ
HỒNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG..................... 50
2.1. Trẻ em – những thiên thần nhỏ tuổi ..................................................... 51
2.1.1. Hồn nhiên, trong sáng ................................................................... 51
2.1.2. Giàu lòng nhân hậu ....................................................................... 57
2.1.3. Chan chứa tình u thiên nhiên, mơi trường ................................ 61
2.2. Trẻ em – những nạn nhân của hoàn cảnh sống .................................... 65
2.2.1. Những mảnh đời lạc loài ............................................................... 65
2.2.2. Những phận người thiếu vắng tình thương ................................... 69
2.3. Cái nhìn về trẻ em trong văn xi Võ Hồng ........................................ 78
2.3.1. Tuổi thơ với sự tổng hòa của các mặt đối lập ............................. 78
2.3.2. Truyền thống gia đình và mơi trường sống - hai nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến nhân cách trẻ em ....................................... 83
2.3.3. Trẻ em – những tín sứ mang thơng điệp đến với cuộc đời ......... 89



Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 94
Chương 3. HẾ GIỚI TRẺ EM TRONG VĂN XI CỦA VÕ
HỒNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............ 96
3.1. Nghệ thuật đặc tả ngoại hình, hành động và tâm lí nhân vật ............... 96
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật ....................................... 96
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng hành động nhân vật .................................... 99
3.1.3. Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật........................................... 101
3.2. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ ............................................................... 104
3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại đậm chất trẻ thơ .......................................... 104
3.2.2. Ngôn ngữ với sự gia tăng nồng độ cảm xúc ............................... 105
3.2.3. Sự linh hoạt trong sử dụng ngôn ngữ địa phương ...................... 108
3.3. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện ............................................................ 117
3.3.1. Sự đan xen giữa cốt truyện tâm lí và cốt truyện sự kiện............. 117
3.3.2. Sự hòa kết giữa cốt truyện đơn tuyến và đảo tuyến .................... 120
3.4. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn và giọng điệu trần thuật ..................... 122
3.4.1. Điểm nhìn nghệ thuật .................................................................. 122
3.4.2. Giọng điệu trần thuật................................................................... 127
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 132
KẾT LUẬN .................................................................................................. 133
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 136
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ .... 143

PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giai đoạn 1945 – 1975 là một đoạn đường phát triển của văn học
Việt Nam cả về số lượng và chất lượng các thể loại văn xi, thơ và kịch.
Trong đó, văn xi là đạt được nhiều thành tựu nhất. Khi cả dân tộc cùng trải
qua các cuộc đấu tranh giành độc lập, vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, vừa thống nhất đất nước ở cả hai miền thì bộ phận văn học
Việt Nam cũng đứng lên chiến đấu bằng sức mạnh của sáng tác ngôn từ. Hai
mươi năm lịch sử (1954 – 1975) là một cột mốc đánh dấu cho sự phát triển
vượt bậc của văn xuôi đô thị miền Nam.
1.2. Văn xuôi là thể loại hướng đến nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc
sống, gần gũi với các tác giả. Trong các tác phẩm, nhân vật – con người hoặc
động vật, đồ vật luôn là phương diện quan trọng nhất để các tác giả thể hiện
quan điểm của mình về cuộc đời và xã hội. Thế giới nhân vật trong văn học
luôn đa dạng và phong phú, là kiểu mẫu tương tự đối với thế giới con người
trong cuộc sống hiện thực. Trong quá trình sáng tác, mỗi nhà văn đều xây
dựng những kiểu nhân vật khác nhau, phù hợp với từng độ tuổi và hoàn cảnh.
Trong truyện, nhân vật thể hiện rõ nhất quan điểm sáng tác và tài năng của tác
giả. Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Vũ Bằng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng,…
là các tác giả đô thị miền Nam thành công với thể loại văn xuôi. Trong luận
án “Khuynh hướng văn học yêu nước tiến bộ trong các thành thị miền Nam”
(Nguyễn Thị Thu Trang, 2003), Trần Hữu Tá đã đề cập đến nhà văn Võ Hồng
là một trong các nhà văn tiến bộ ở miền Nam trước 1975.
Đến với những tên tuổi gạo cội trong làng văn học thiếu nhi như Tơ
Hồi, Phạm Hổ, Võ Quảng, Nguyễn Nhật Ánh,… chúng ta không thể khơng
đề cao vai trị của văn học thiếu nhi trong việc hình thành tâm hồn và xây
dựng nhân cách cho các thế hệ trẻ em. Những dòng thơ của Phạm Hổ ln
mang phong cách hóm hỉnh, nhẹ nhàng, phảng phất sự đáng yêu trong cách


2

định nghĩa những sự vật, hiện tượng xung quanh, đặc biệt hơn là khát vọng
luôn mong muốn được trở thành người bạn đồng hành với trẻ thơ, như Mèo và
tro bếp, Mười quả trứng tròn, Bê đòi bú, Bê hỏi mẹ,… Bên cạnh các sáng tác
của Phạm Hổ, tập truyện ngắn của Tơ Hồi được xem như là một “nguồn
sống” tinh thần quan trọng của các em. Có biết bao thế hệ đã say mê những
câu chuyện, những nhân vật với đa dạng hình hài mà Tơ Hồi xây dựng. Thế
giới động vật luôn được nhắc mãi với cái tên Dế Mèn, Võ sĩ Bọ Ngựa, Đám
cưới Chuột, Trê và Cóc,… hay những tấm gương thiếu nhi anh hùng dũng
cảm như Kim Đồng, Vừ A Dính,… Vì vậy, viết về thế giới trẻ em trong văn
học thiếu nhi, mỗi tác giả đều có một quy luật đặc điểm về thế giới nhân vật.
Có thể thấy được các loại nhân vật trẻ em của Võ Hồng đa dạng ở mọi độ
tuổi, từ những em nhỏ đến lứa tuổi Trung học cơ sở và lớp trẻ trưởng thành
hoài niệm về quá khứ, về tuổi thơ.
1.3. Võ Hồng là một trong các nhà văn quen thuộc ở miền Nam thành
công với thể loại văn xuôi trước năm 1975. Xuất thân từ tầng lớp khá giả ở
nông thôn, đồng thời là một nhà giáo, có nhiều dịp tiếp cận với các lớp trẻ nên
một số tác phẩm của ông viết cho bạn đọc trẻ và trong những tác phẩm khác
vẫn thấy xuất hiện nhiều nhân vật nhỏ tuổi. Hầu hết các tác phẩm của nhà văn
gắn liền với mảnh đất Nam Trung Bộ qua các đề tài về gia đình, cuộc sống,
tình yêu, tuổi học trị và đặc biệt là vùng q ơng sinh ra – Phú Yên. Loạt
truyện ngắn viết về đề tài sinh hoạt gia đình, thơn xóm và trường lớp dành
cho lứa tuổi học trò đã để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc. Từ các tác
phẩm này, độc giả sẽ có những suy nghĩ, những hành động và những bài học
về giáo dục nhân cách làm người từ các em thiếu nhi.
Đã có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về cuộc đời và văn nghiệp
của nhà văn Võ Hồng từ trước 1975 và sau 1975. Hầu hết, các nhà nghiên cứu
trước đều đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh về dân tộc học và loại hình nhân
vật trong truyện ngắn của Võ Hồng. Chính vì vậy, người viết chọn đề tài Thế



3
giới trẻ em trong văn xuôi của Võ Hồng với mong muốn được bổ sung
thêm một khía cạnh mới về nhân vật của Võ Hồng. Đó chính là hình tượng trẻ
em và thế giới tuổi thơ của các em thiếu nhi, đặc biệt là các em sống ở vùng
quê nông thơn. Từ góc nhìn này, người viết và độc giả sẽ có những suy nghĩ,
những hành động và những bài học về giáo dục nhân cách làm người từ các
em thiếu nhi.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về cuộc đời và văn nghiệp của Võ Hồng
Hơn nửa thế kỷ sáng tác, Võ Hồng đã trở thành một nhà văn, nhà giáo
nhận được nhiều tình cảm, sự yêu mến và trân trọng của công chúng qua
nhiều thế hệ. Họ là những người lao động bình thường yêu văn chương, yêu
cái đẹp; là những tâm hồn nhỏ bé thổn thức qua từng dòng văn của Võ Hồng;
là giới văn sĩ tri thức, nhà báo, nhà nghiên cứu, nhà phê bình lý luận văn
học,… ở trong giai đoạn trước 1975 và sau 1975.
Trong giai đoạn trước 1975, sự nghiệp và văn chương của Võ Hồng
được nghiên cứu chủ yếu ở miền Nam, có khoảng hơn 40 bài viết và cơng
trình nghiên cứu được đăng trên tạp chí và báo. Những tạp chí như tập san
Tân văn, tạp chí Quần chúng, tạp chí Tuổi ngọc, tạp chí Tuổi xanh, Cánh én
hay bán nguyệt san Văn là nơi Võ Hồng thường xuyên trả lời phỏng vấn, trực
tiếp bộc lộ tình cảm và tư tưởng, quan điểm sáng tác cũng như phong cách
nghệ thuật của mình. Bên cạnh đó là những bài viết của các nhà nghiên cứu,
nhà lý luận phê bình văn học như bài Phê bình những truyện ngắn của Võ
Hồng của tác giả Nguyễn Văn Xuân đăng trên tạp chí Mai số ra ngày
10/8/1960.
Trong năm 1967 có một bài viết khơng thể không nhắc đến là Nghĩ về Võ
Hồng của dịch giả Trần Thiện Đạo đăng trên tạp chí Tân văn số tháng 10.
Trần Thiện Đạo là một dịch giả và nhà phê bình có uy tín trước 1975, sống ở
Pháp và có cảm tình với văn chương Võ Hồng, tìm ra những cái hay của Võ



4
Hồng. Sau khi phân tích những điểm bình luận và đánh giá văn chương Võ
Hồng, dịch giả đã nhận xét: “Võ Hồng là một nghệ sĩ chân chính”.
Với bài viết của tác giả Châu Hải Kỳ, những dấu hiện đầu tiên về yếu tố
tự truyện trong sáng tác của Võ Hồng được ông khai mở, đăng trên tập san
Tân văn số ra ngày 15/6/1968.
Đăng trên tạp chí Quần chúng số 11 và 12 tháng 5 và 6/1969 là bài viết
Võ Hồng – Quê hương – Trí nhớ và con người của nhà nghiên cứu Cao Thế
Dung. Ông đánh giá tiểu thuyết của Võ Hồng “mang một khuôn mặt đặc biệt
Việt Nam”.
Người nghiên cứu về văn xuôi đô thị miền Nam tương đối tập trung và
có hệ thống là Cao Huy Khanh với cơng trình Sơ thảo 15 năm văn xi miền
Nam 1955 – 1969 đăng nhiều kỳ trên tuần báo Khởi hành năm 1970, trong đó
số 48 là một dấu ấn khác biệt trong việc nghiên cứu văn chương Võ Hồng khi
ơng chủ yếu xoay quanh mảng đề tài tình yêu lứa đôi trong các sáng tác của
Võ Hồng qua 10 truyện ngắn tiêu biểu.
Cũng năm 1970 và 1971, hai cơng trình khảo luận tập trung, có giá trị
nhất khi nghiên cứu về Võ Hồng là cơng trình Mười khn mặt văn nghệ và
Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tỵ đã giới thiệu sự nghiệp văn
nghệ và tác phẩm của 20 nghệ sĩ mà ông đánh giá là thành đạt, trong đó có 13
tác giả văn xi. Tạ Tỵ khơng lựa chọn nhà văn theo các nhóm khuynh hướng
mà ông chủ yếu dựa vào nội dung hiện thực của tác phẩm, đời sống tác giả
của nhà văn cộng với cảm nhận chủ quan của một nhà nghiên cứu. Trong 13
tác giả văn xi này có sự xuất hiện của Sơn Nam, Vũ Bằng và Võ Hồng. Tạ
Tỵ gọi Vũ Bằng là “một hiện trượng” trong văn xuôi, là “người trở về từ cõi
đam mê”; đã trân trọng gọi Sơn Nam cùng với sự đóng góp và tình yêu quê
hương, địa phương trong nền văn xuôi đô thị miền Nam với cái tên “Sơn
Nam, hơi thở của miền Nam nước Việt”. Phần viết về Võ Hồng, ông cho rằng



5
văn chương của Võ Hồng gắn liền với “quê hương bất hạnh”, chân thực với
nhiều mảng màu khác nhau của cuộc sống vùng quê. Tạ Tỵ nhận định:
Tác phẩm của Võ Hồng chỉ có ảnh hưởng với một lớp độc giả nào đó, ưa
suy nghĩ, thích trở lại q khứ để tìm về kỷ niệm, tìm khoảng thời gian đã mất
để thấy có mình. Võ Hồng sáng tác rất đều, như nhà điêu khắc cần cù đục,
giũa để biến tảng đá xù xì thành một cơng trình mỹ thuật. Xun qua hơn
mười tác phẩm, người đọc, rất ít gặp những thoáng đam mê rựa lửa, những
hung cuồng ái ân với ngất ngây da thịt. Người ta thấy từng dòng u buồn lên
nhè nhẹ, từng xót xa đắm chìm tâm trí, từng bâng khuâng tiếc nuối, từng cơn
đau úp mặt, từng đắng cay tủi nhục của kiếp người bơ vơ giữa cuộc chiến tàn
khốc đã và đang tiếp diễn trên quê hương bất hạnh này.
Đến năm 1973, tác giả Lê Bình của Viện Đại học Cần Thơ đã thực hiện
đề tài nghiên cứu về tác phẩm Bên đập đồng cháy – một tác phẩm được đánh
giá là xuất sắc nhất về đề tài người nông dân của Võ Hồng mang tên Nghiên
cứu truyện Bên đập đồng cháy trong tác phẩm Những giọt đắng của Võ Hồng.
Giai phẩm Văn – số đặc biệt về nhà văn Võ Hồng phát hành ngày
1/3/1974 tổng hợp các bài viết giới thiệu về tiểu sử, bài phỏng vấn, các phần
trích thư; đặc biệt có cái bài viết có giá trị về mặt nghiên cứu như Chiến
tranh, tình u, hồi niệm và truyện ngắn Võ Hồng của Tuệ Sỹ, Đọc Võ
Hồng: Truyện tình của giới trung lưu của Cao Huy Khanh, Tiểu thuyết Võ
Hồng: Quê hương – Trí nhớ và con người của Cao Thế Dung, Khía cạnh giáo
dục trong tác phẩm Võ Hồng của Châu Hải Kỳ. Những bài viết giai đoạn này
được thực hiện với mục đích giới thiệu về Võ Hồng như một tác giả có tiềm
năng và là tiền đề cho sự phát triển sau này ở các mảng đề tài chính trong
sáng tác của Võ Hồng như gia đình, quê hương, tình yêu, chiến tranh và đề tài
giáo dục. Cho đến nay các cơng trình nghiên cứu được xem như là những tư
liệu quý giá cho thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về cuộc đời và văn
nghiệp nhà văn Võ Hồng.



6
Sau năm 1975, chân dung và văn nghiệp nhà giáo – nhà văn Võ Hồng
ngày càng nhận được sự quan tâm từ độc giả và đặc biệt là mang đến cảm
hứng nghiên cứu cho nhiều học giả. Số lượng các cơng trình được ra đời cũng
có con số xấp xỉ như trước năm 1975. Điều này chúng ta có thể nhận thấy rõ
văn chương của Võ Hồng vẫn gắn bó bền bỉ với người đọc.
Võ Hồng luôn trân trọng những bài viết, cơng trình nghiên cứu về mình
nên ơng khơng bỏ sót bất cứ bài nào và dành một sự trân trọng, biết ơn đối với
các nhà nghiên cứu: “Phải trân trọng và cảm tạ hai sinh viên đã đưa tôi ra để
làm luận văn tốt nghiệp ở Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh của cơ
Trần Thị Phong Lan năm 1987 và ở đại học Tổng hợp Huế của anh Nguyễn
Văn Long năm 1988” (Phan Thị Thanh Giang, 2017). Đó chính là hai luận
văn Những đóng góp của Võ Hồng đối với dòng văn học yêu nước tiến bộ tốt
nghiệp khóa 1983 – 1987 và Thi pháp truyện ngắn Võ Hồng tốt nghiệp khóa
1985 – 1989. Đây là hai cơng trình nghiên cứu có tính chun luận, khảo cứu
về sự nghiệp sáng tác của Võ Hồng và đặc biệt là khẳng định vóc dáng to lớn
của Võ Hồng trong nền văn học đô thị miền Nam Việt Nam năm 1945 –
1975.
Từ năm 1987 đến nay đã có 4 sinh viên chọn Võ Hồng làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn tốt nghiệp đại học ngành Ngữ văn. Đặc biệt là luận án Tiến
sĩ Ngữ văn Khuynh hướng văn học yêu nước tiến bộ trong các thành thị miền
Nam năm 1994 của Trần Hữu Tá. Ông đề cập đến Võ Hồng như một trong
các nhà văn tiến bộ ở miền Nam trước 1975. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đánh
giá luận án của Trần Hữu Tá đã tìm ra được giá trị văn chương Võ Hồng
trong nền văn học đơ thị Miền Nam và đây chính là thành cơng của luận án:
“Việc phát hiện này không phải chỉ riêng Trần Hữu Tá, nhưng cái mới của
Trần Hữu Tá là anh đã đặt đúng vị trí của Võ Hồng trong khuynh hướng văn
học yêu nước tiến bộ của miền Nam. Thời gian này càng cho thấy Võ Hồng

xứng đáng là một cây bút hàng đầu trong 20 năm văn học dưới chế độ Sài


7
Gòn xét ở cả nội dung sáng tác cũng như thành tựu nghệ thuật” (Nguyễn Thị
Thu Trang, 2003). Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Đà Lạt của tác giả Đỗ
Thị Tình khóa 2000 – 2004 cũng đã chọn đề tài Văn xuôi Võ Hồng trong văn
học đô thị miền Nam thời kỳ 1954 – 1975.
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn Võ Hồng – Cuộc đời và tác phẩm
của Nguyễn Thị Thu Trang (năm 1996) là một công trình phong phú và mang
tính tồn diện, đầy đủ cả về cuộc đời và sự nghiệp văn chương cũng như
phong cách nghệ thuật của nhà văn Võ Hồng, có giá trị “hành trình đi tìm nhà
văn Võ Hồng, đích thực là Võ Hồng, không tô son vẽ phấn cho nhà văn”
(Nguyễn Thị Thu Trang, 2013). Mục đích cơng trình này chính là việc khẳng
định vị trí của Võ Hồng và những đóng góp của ơng trong sự phát triển của
văn học Việt Nam hiện đại, tìm ra những giá trị cơ bản, đặc sắc nhất từ văn
chương của ông. Trong luận văn, người nghiên cứu đã có chỉ ra những mảng
đề tài chính trong sáng tác của Võ Hồng là đề tài quê hương, viết về tuổi học
trò, hiện thực và hoài niệm.
Năm 1998, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh đã cho ra đời quyển
Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Trần Văn Giàu và Trần
Bạch Đằng chủ biên. Võ Hồng được nhắc đến như một nhà văn tiêu biểu cùng
với các cây bút yêu nước khác, những tri thức, những nghệ sĩ cao niên như
Trần Tuấn Khải, Nguyễn Hiến Lê; các nhà thơ Hà Kiều, Phong Sơn; các nhà
văn Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam;…
Năm 2000, Trần Hữu Tá tiếp tục khẳng định tên tuổi Võ Hồng là “nhà
văn đáng kính trọng cả về tài năng và nhân cách” khi thực hiện công trình
Nhìn lại một chặng đường văn học.
Năm 2001, Phan Hồng – Người Phú Yên đi phỏng vấn, đã bổ sung và
tập họp những bài phỏng vấn đăng rải rác cho in thành quyển Dạ thưa thầy…

nhân dịp 20/11 – Ngày Nhà giáo Việt Nam. Tác phẩm có hình thức trang
trọng giới thiệu chân dung 9 nhà giáo tiêu biểu ở các lĩnh vực khác nhau: Nhà


8
Ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, Nhà Biên đạo múa Đặng Hùng, Giáo sư Sử
học Đinh Xuân Lâm, Nhà Dược liệu học Đỗ Tất Lợi,…trong đó có Nhà văn –
Nhà giáo Võ Hồng. Những bài phỏng vấn của Phan Hoàng ln mang tính
thuyết phục với các nhà văn lớn và độc giả vì sự trung thực và thú vị, đa dạng.
“Hình như chất nhà giáo đã góp phần qui định nhà văn trong ông” và tác giả
cũng sử dụng những từ ngữ hết sức trân trọng để giới thiệu về Võ Hồng:
“Giống như Sơn Nam của Sài Gòn của Nam Bộ, Võ Hồng là nhà văn của Phú
Yên của Nam Trung Bộ. Mai sau những ai quan tâm đến “khúc ruột” đầy
thác lũ phong ba này của Tổ quốc, tôi tin khơng thể khơng tìm đến những
trang văn của Võ Hồng” (Nguyễn Thị Thu Trang, 2015). Những trang văn
chương của Võ Hồng giúp cho độc giả hình dung được khung cảnh vùng quê
yên bình, thanh mát và con người giản dị với bản chất nhân hậu và trong sáng.
Sinh ra là một người con của vùng quê Phú Yên và khi một người Phú Yên đi
phỏng vấn những người nổi tiếng của Sài Gịn hay Hà Nội thì Phan Hồng
vẫn nhớ về cội nguồn và gọi nhà văn Võ Hồng là “Bậc lão thành đồng hương
đáng kính”.
Bài viết Bóng dáng lịch sử và làng quê trong một ít truyện ngắn Võ
Hồng do tác giả Trần Xuân An viết năm 2012 khẳng định:
Có một nhà văn, tác phẩm của ơng khiến cho vài ba thế hệ người đọc
đều cảm mến, không những cảm mến về giọng văn mà cả cách nhìn đơn hậu,
thậm chí hình như khơng muốn mếch lịng ai của tác giả, đồng thời cảm mến
phần lớn những nhân vật ơng thương q, vốn có nếp sống chừng mực hoặc
chân chất; và lạ thay, cả vài ba thế hệ người đọc dường như sẵn lòng bỏ qua
những hạn chế về chính kiến, tư tưởng mà trong hồn cảnh lịch sử nhất định,
ông chưa vượt qua được hay không muốn vượt qua. Đó cũng là nhà văn Võ

Hồng.
Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Cần Thơ của sinh viên Dương Tú
Anh khoa Khoa học xã hội và Nhân văn với đề tài Khuynh hướng tìm về dân


9
tộc trong một số truyện ngắn Võ Hồng năm 2013 được xem là hướng nghiên
cứu mới mẻ so với các cơng trình nghiên cứu trước đây. Bài viết tập trung vào
việc nghiên cứu nội dung và nghệ thuật tiêu biểu thể hiện tính tìm về dân tộc
trong một số truyện ngắn của Võ Hồng.
Hình tượng nhân vật trong truyện ngắn Võ Hồng trong luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Văn học Việt Nam của tác giả Nguyễn Xuân Linh, trường Đại
học Đà Lạt bảo vệ năm 2014 là luận văn được xem như sự tiếp nối trên nền
tảng của tác giả Nguyễn Thị Thu Trang.
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn mới đây nhất vào năm 2017 của tác giả Phan
Thị Thanh Giang, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố
Hồ Chí Minh với tên đề tài Thời gian và ký ức trong tác phẩm Võ Hồng đã
đem đến sự mới mẻ, đi sâu vào tìm hiểu mảng đề tài về hoài niệm trong văn
chương Võ Hồng.
Viết về Võ Hồng khơng chỉ có những cơng trình nghiên cứu mà cịn có
những bài viết dưới dạng tùy bút, tản văn nhưng lại chứa đựng trong đó là cả
tâm tình của tác giả Hoàng Như Mai, Nguyễn Huệ Chi, Huỳnh Như Phương,
Trần Huiền Ân, Mai Quốc Liên, Trần Hữu Tá,… dành cho cây bút gạo cội.
Nội dung của các bài viết chỉ là những câu chuyện trong các cuộc gặp gỡ, trị
chuyện thân tình; những kỷ niệm, cảm nghĩ về nhà văn Võ Hồng ở các khía
cạnh đời sống. Ấn phẩm Văn chương và nhân cách Võ Hồng do Nhà Xuất bản
Trẻ phối hợp với cơng ty Văn hóa Hương Trang phát hành nhân kỷ niệm 100
ngày mất của nhà văn Võ Hồng, tổng hợp gần 40 bài viết của các nhà giáo,
nhà phê bình, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tên tuổi, hầu hết đã đăng trên các báo
và tạp chí từ sau 1975. Phụ lục là phần nhận xét của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi

về luận án Phó Tiến sĩ của Trần Hữu Tá (1994), phần nói về Võ Hồng và luận
án Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Nguyễn Thị Thu Trang (1996). Các bài in
trong sách này do chính tay nhà văn Võ Hồng sưu tập từ các báo, tạp chí,
photo và đóng tập từ mười năm trước, khi ơng cịn khỏe và minh mẫn. Trong


10
số 40 bài viết, có hai bài của Trần Hiền Ân và Phạm Chu Sa viết về Võ Hồng
sau khi ông mất.
Từ sau ngày 31/3/2013, sau khi nhà văn Võ Hồng qua đời, bên cạnh các
tin cáo phó đồng loạt đăng trang trọng trên các tờ báo lớn, uy tín như Tuổi
ngọc, Người Lao động, Cơng an Nhân dân,… cịn là những bài viết của độc
giả quen thuộc với văn chương Võ Hồng, là những bạn đồng nghiệp, học trò.
Những bài báo, bài viết tưởng niệm Nhà văn – Nhà giáo Võ Hồng được học
trị cũ Ngơ Văn Ban trình bày tập hợp hơn 20 bài viết lớn, nhỏ tri ân về thầy
giáo Võ Hồng như bài viết của Trần Huiền Ân, Ngơ Văn Ban, Trí Bửu,… đặc
biệt là lá thơ của chị Võ Thị Tri Thủy – con gái út của nhà văn Võ Hồng.
Nhìn chung, ở cả hai giai đoạn trước 1975 và sau 1975, các tác giả, các
nhà nghiên cứu đều hướng tới chung mục đích là khẳng định vị trí, vai trị của
nhà văn Võ Hồng. Càng về sau năm 1975, chất lượng các cơng trình nghiên
cứu mang tính chun mơn, phong phú và đa dạng cùng với nhiều phương
pháp tiếp cận khác nhau. Tất cả trở thành nguồn tư liệu quý báu cho thế hệ
nghiên cứu sau này tiếp tục khám phá và tìm tịi sâu hơn về các tác phẩm của
nhà văn Võ Hồng.
2.2. Những nghiên cứu về thế giới trẻ em trong văn xuôi của Võ Hồng
Võ Hồng được biết đến là một nhà văn của thiếu nhi và lứa tuổi học trò.
Các sáng tác của ông viết về trẻ em, viết cho trẻ em khơng chỉ đem đến sự u
thích, đam mê của các em mà ngay cả những người lớn là bậc phụ huynh
cũng rất thích thú. Qua những tác phẩm, các em học được những bài học, điều
hay lẽ phải và những giá trị trong cuộc sống. Còn những người lớn tuổi đọc

truyện để nhớ lại thời thơ ấu hồn nhiên, tươi đẹp và hơn hết là có thêm nhiều
giải pháp trong việc giáo dục con em mình.
So với những cơng trình nghiên cứu về văn nghiệp và đời người của Võ
Hồng thì những cơng trình nghiên cứu về trẻ em trong văn xi Võ Hồng rất
là ít. Có thể đơn cử một vài cơng trình ít nhiều có liên quan đến mảng đề tài


11
như: Lời giới thiệu tác phẩm Một bông hồng cho cha của Trần Huiền Ân,
Không gian đời thường trong tác phẩm Áo em cài hoa trắng được giới thiệu
trong chủ đề IV của Thi pháp trong văn học thiếu nhi do tác giả Bùi Thanh
Truyền biên soạn, Trần Viết Thiện với bài Tuổi thơ và thế giới học đường
trong sáng tác của Võ Hồng đăng trên tạp chí Nha Trang, bài viết Một thoáng
“Trầm Tư” với nhà văn Võ Hồng của Trúc Chi và Nguyễn Vy Khanh viết về
Võ Hồng của nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh. Bên cạnh đó cịn có các bài
viết viết đã được in trong tập Văn chương và nhân cách Võ Hồng như: Triệu
bông hồng cho cha của Phạm Chu Sa, Đọc “Thương mái trường xưa” của tác
giả Đông Hải, Đọc những tác phẩm giàu tính giáo dục của Nhà văn – nhà
giáo Võ Hồng chấm bút bởi tác giả Ngô Lập Định,…
Qua việc khảo sát những cơng trình, bài nghiên cứu trên có thể thấy các
nhà nghiên cứu trước đây thường chú ý trẻ em là một tuyến nhân vật phụ
trong thế giới nhân vật của Võ Hồng. Nhìn chung, phạm vi nghiên cứu về Thế
giới trẻ em trong văn xuôi Võ Hồng vẫn chưa có cơng trình nào đi sâu vào
nghiên cứu một cách tổng hợp. Với khả năng nghiên cứu còn chừng mực,
chúng tôi cố gắng kế thừa những người đi trước, tìm hiểu những tài liệu có
liên quan nhằm mở rộng và phát huy các vấn đề ở phương diện nội dung cũng
như phương thức nghệ thuật. Chính vì vậy, ở đề tài này, người viết mong
muốn đem lại cái nhìn tồn diện về hình tượng nhân vật trẻ em trong thể loại
văn xuôi – một nội dung sáng tác quan trọng làm nên tên tuổi nhà văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 . Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung tìm hiểu thế giới trẻ em trong văn xi của Võ Hồng
nhìn từ các phương diện nội dung phản ánh và hình thức thể hiện.
3.2 . Phạm vi nghiên cứu
Nhà văn Võ Hồng đã để lại một gia tài văn học lớn, gồm 8 tiểu thuyết và
truyện dài, trên 70 truyện ngắn cùng nhiều tùy bút, bút kí. Do giới hạn của đề


12
tài khi nghiên cứu về hình tượng trẻ em, chúng tôi chỉ đi sâu vào khảo sát một
số tác phẩm ghi dấu ấn tên tuổi của nhà văn trực tiếp đề cập đến thế giới trẻ
em, cụ thể là:
* Về truyện ngắn gồm các tập:
1. Lá vẫn xanh, NXB Thời mới, 1962
2. Áo em cài hoa trắng, NXB Thanh niên, 1990
3. Một bông hồng cho cha, NXB văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1994
4. Chúng tơi có mặt, NXB TP Hồ Chí Minh, 2001
5. Thơm ngát hương cau, NXB Trẻ, 2003
6. Niềm tin chưa mất, NXB Văn hóa Văn nghệ, 2014
* Về truyện dài gồm các tập:
1. Bên kia đường, NXB Mặt trời, 1968
2. Người về đầu non, Tập san Văn, 1968
3. Vẫy tay ngậm ngùi, NXB Trẻ, 1992
4. Thương mái trường xưa, NXB Trẻ, 1993
5. Vùng trời thơ ấu, NXB Trẻ, 1995
* Về tiểu thuyết gồm các tập:
1. Hoài cố nhân, NXB Ban Mai, 1959
2. Nhánh rong phiêu bạt – Tiểu thuyết, tái xuất bản 2009
4. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài, người nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp

nghiên cứu cơ bản:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Ở phương pháp này, người nghiên cứu khảo sát và chọn ra các tác phẩm
có nội dung và hình tượng về trẻ em trong văn xi của Võ Hồng. Từ đó, xây
dựng các luận điểm chính làm nổi bật hình tượng trẻ em.


13
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Người nghiên cứu sử dụng phương pháp để tìm hiểu về thế giới tuổi thơ
của trẻ em và cách xây dựng hình tượng của nhà văn về trẻ em.
4.3. Phương pháp so sánh
Với phương pháp so sánh, người nghiên cứu đặt nhà văn trong mối quan
hệ với các tác giả cùng thời để đưa ra các đánh giá về việc xây dựng hình
tượng các nhân vật trẻ em trong đời sống của nhà văn.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn mang đến cho người đọc góc nhìn về thế giới trẻ em trong văn
xi của Võ Hồng. Những nét đặc sắc, những hình tượng và những bài học
giáo dục nhân cách làm người từ hình tượng trẻ em trong văn xi của Võ
Hồng sẽ giúp cho các giáo viên và sinh viên có cách tiếp cận mới về phương
pháp giảng dạy văn học thiếu nhi.
6. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm có các phần: Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ
lục, Nội dung. Nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Nhà văn Võ Hồng và những sáng tác về thế giới tuổi thơ
Chương 1 hướng vào việc giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của Võ Hồng để làm nổi bật quan niệm nghệ thuật của Võ Hồng, đặc
biệt là nội dung chính là mảng đề tài sáng tác về tuổi thơ của tác giả.
Cụ thể; trong phần “Cuộc đời và văn nghiệp của Võ Hồng”, chúng tôi sẽ
trình bày cuộc đời và sự nghiệp văn học của Võ Hồng qua các mảng đề tài

trong văn xuôi và quan niệm nghệ thuật của tác giả. Ở phần “Sáng tác về tuổi
thơ của Võ Hồng”, chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu những trang viết giàu tâm
huyết và sức ám ảnh từ tính giáo dục nhân cách trẻ thơ để có cơ sở đi sâu vào
khai thác hình tượng nhân vật trẻ thơ trong văn xuôi của Võ Hồng nhìn từ
phương diện nội dung và nghệ thuật.


14
Chương 2: Thế giới trẻ em trong văn xuôi của Võ Hồng nhìn từ
phương diện nội dung
Chương này hướng vào việc minh giải các hình tượng trẻ thơ trong văn
xi của Võ Hồng nhìn từ nhiều phương diện nội dung. Hình ảnh trẻ em với
sự hồn nhiên, trong sáng, giàu lịng nhân hậu và chan chứa tình u thiên
nhiên, mơi trường. Bên cạnh đó có những hình ảnh trẻ em dưới góc nhìn nạn
nhân của hồn cảnh sống, thiếu vắng tình thương và lạc lồi. Cuối cùng là cái
nhìn về tuổi thơ của trẻ em với sự tổng hòa của các mặt đối lập, cái nhìn về trẻ
em trong mối quan hệ giữa truyền thống gia đình và mơi trường sống, đặc biệt
là hình ảnh trẻ em trở thành những tín sứ mang thơng điệp đến với cuộc đời.
Chương 3: Thế giới trẻ em trong văn xuôi của Võ Hồng nhìn từ
phương diện nghệ thuật thể hiện
Phương diện nội dung và nghệ thuật luôn song hành cùng với nhau. Khi
triển khai chương “Thế giới trẻ em trong văn xuôi của Võ Hồng nhìn từ
phương diện nghệ thuật thể hiện”, chúng tôi giải quyết các vấn đề về nghệ
thuật thể hiện trên các phương diện về đặc tả ngoại hình, hành động và tâm lí
nhân vật; nghệ thuật sử dụng ngơn từ đậm chất trẻ thơ và sự linh hoạt trong sử
dụng các dạng thức ngôn ngữ địa phương; nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong
sự đan xen giữa cốt truyện tâm lí và cốt truyện sự kiện, sự hịa kết giữa cốt
truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến; nghệ thuật tổ chức điểm nhìn qua
lăng kính tuổi thơ và người lớn được trẻ con hóa, giọng điệu ngây thơ trong
trẻo và tình cảm thiết tha.

Xét trong chỉnh thể của cấu trúc luận văn, Chương 2 và Chương 3 có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo hướng bổ trợ cho nhau để góp phần thể
hiện rõ những điểm đặc sắc, nổi bật trong thế giới trẻ em của Võ Hồng, đồng
thời thể hiện những đóng góp mới của luận văn.


15

Chương 1
NHÀ VĂN VÕ HỒNG
VÀ NHỮNG SÁNG TÁC VỀ THẾ GIỚI TUỔI THƠ
1.1. Cuộc đời và văn nghiệp Võ Hồng
1.1.1. Cuộc đời Võ Hồng
Võ Hồng là tên thật và là bút danh của nhà văn khi sáng tác. Ông sinh
ngày 05 tháng Chạp năm Nhâm Tuất (giấy khai sinh ghi ngày 05/05/1921) tại
làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú n – một miền văn
hóa cịn khép kín nhiều bí ẩn và huyền thoại. Võ Hồng được ni dưỡng lớn
khơn nhờ gia đình người Bác, một điền chủ giàu có trong vùng châu thổ Sơng
Cái, sở lỵ của Phú Yên từ thời mở cõi. Ông viết văn từ rất sớm, bắt đầu từ
thời tiền chiến và viết đều đặn từ năm 1959 cho tới lúc ông mất. Võ Hồng quê
ở Phú Yên nhưng hơn nửa thế kỷ ông sống, dạy và viết ở thành phố Nha
Trang nên người Nha Trang cũng như độc giả, học trò của ơng mặc nhiên
xem ơng là người Nha Trang. Chính vì vậy, hầu hết các tác phẩm của ông đã
ra đời ở ngôi nhà số 51 Hồng Bàng và cũng là nơi ông đã vĩnh viễn chia tay
người bạn đời khi cả ơng và người vợ thương u đều cịn trẻ.
Tuổi thiếu niên ông học ở trường phủ, trường tỉnh. Năm 1939, ông học
Trung học ở Qui Nhơn. Khi đang học lớp Đệ Tam niên Trường Collège Qui
Nhơn, Võ Hồng được khai sáng khả năng văn chương của mình khi thầy Trần
Cảnh Hảo phê vào bài viết của ông trong một giờ Việt Văn: “Tơi nhận thấy
có vài đóa hoa trong bài của anh” (Nguyễn Thị Thu Trang, 2003). Năm

1939, Võ Hồng thành công với văn chương ở tuổi 16 với truyện ngắn được
đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ Bảy, tên truyện là Mùa gặt, bút hiệu Ngân
Sơn. Đây cũng chính là cột mốc đầu tiên đánh dấu sự nghiệp văn chương của
nhà văn.


16
Sau khi kết thúc chương trình học Đệ Tứ niên ở Trường Collège Qui
Nhơn, Võ Hồng học ban Tú tài ở Hà Nội. Ơng có ba năm học ở Hà Nội. Thời
gian học Tú tài ở Hà Nội, Võ Hồng làm quen với văn chương và được gặp
những bậc tài danh làng văn bấy giờ như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng
Đạo... Năm 1943, Võ Hồng lên tàu về quê, việc học hành dang dở và ước mơ
về tương lai phải bỏ lại ở Hà Nội.
Năm 1959, Võ Hồng chính thức khai bút và gia nhập vào giới văn
chương với tập truyện ngắn Hoài cố nhân. Bản thảo chép tay của truyện dài
Ngôi sao nhỏ viết 1943 và Chỉ một lần năm 1945 hiện nay vẫn cịn được lưu
giữ. Hồi cố nhân là tấm thẻ thơng hành có giá trị để Võ Hồng vững tin bước
vào con đường văn nghiệp. Các nhà nghiên cứu phê bình, độc giả chú ý đến
sự ra đời của quyển sách khi giữa một văn đàn đồ sộ các tác phẩm cung cấp
cho độc giả những sự kiện lịch sử; những đề tài, nhân vật mang tầm vóc sử thi
mà văn chương của Võ Hồng lại nhẹ nhàng với những con người bình dị, hiền
hịa cùng phong cách văn chương chững chạc. Trong bài Phê bình những
truyện ngắn đầu năm 59 – cuối năm 60, Nguyễn Văn Xuân nhận định: “Điều
nhận xét đầu tiên của tôi: Võ Hồng không phải là người mới viết, mặc dầu –
hình như thế - ơng ít hay viết truyện ngắn cho các báo, tạp chí. Tập truyện
ngắn đầu tay này của ông từ lối bố cục đến kỹ thuật viết, đẩy truyện đi tới,
đến lời văn đã đạt đến mức làm chủ ngịi bút của mình” (Nguyễn Thị Thu
Trang, 2003).
Cuộc đời của nhà văn đã trải qua 20 năm từ 1939 đến 1959 – một
khoảng thời gian đầy biến động của chiến tranh. Kinh nghiệm thực tiễn ấy đã

trở thành vốn tích lũy sống có giá trị để nhà văn khai thác xây dựng tác phẩm.
Rời ghế nhà trường, vào năm 21 tuổi, ơng trở thành Bí thư của Tịa Tổng đốc
4 tỉnh miền Nam Trung Việt đóng tại Đà Lạt dưới thời chính phủ Trần Trọng
Kim. Chiến tranh nổ ra, ơng theo đồn người di tản tránh giặc, tham gia
kháng chiến. Năm 23 tuổi, ơng là Trưởng ty Bình dân Học vụ tỉnh Phú Yên,


17
sinh sống và làm việc vào những năm 1946 đến 1953. Từ 26 tuổi, Võ Hồng
trở thành nhà giáo, dạy Quốc văn, Anh văn, Pháp văn. Cuộc đời của Võ Hồng
không phải người dân Phú Yên nào cũng dám mơ ước đến, nhưng sự trang
trọng, đài các dường như chưa bao giờ xuất hiện trong văn chương của nhà
văn, chỉ được thấp thống nhắc qua đơi chỗ. Vì thế các nhân vật của Võ Hồng
đều là những người nhà quê, hiền lành, thật thà và chân chất, chăm chỉ làm ăn
với đám ruộng, miếng vườn. Họ nghèo, nhưng khơng có bản chất đói rách,
bần tiện hay keo kiệt. Họ sống theo lẽ phải, đạo lí thường tình và giữ đúng
đạo lí làm người.
Trong khoảng thời gian hai mươi năm, ơng đã đi và ở rất nhiều nơi: Qui
Nhơn, Hà Nội, Đà Lạt, Phan Rang, Phú Yên, Khánh Hòa,… Thời kháng
chiến, ông cùng vợ dạy học ở trường Trung học Lương Văn Chánh (Phú
Yên), sau đó làm hiệu trưởng trường này. Năm 1953, ông bị bệnh xin nghỉ dài
hạn. Năm 1954, Võ Hồng đưa vợ con về quê vợ là Đà Lạt. Giai đoạn này ông
được tiếp cận với rất nhiều tác phẩm văn học Đông, Tây. Năm 1955, Võ
Hồng cùng gia đình xuống Nha Trang và sinh sống bằng nghề dạy học ở các
trường tư. Gia đình chưa kịp yên ổn thì vợ ơng bệnh nặng và mất vào năm
1957 để lại cho ông ba đứa con thơ dại, đứa út mới ba tuổi. Văn chương đối
với ông lúc này chính là người bạn tâm tình, giúp ơng giải tỏa những nỗi niềm
tâm sự, giao cảm với đời và đem lại niềm vui sáng tạo.
Võ Hồng là một nhà văn quen thuộc ở miền Nam. Nếu khơng tính những
tác phẩm được tái bản, tuyển tập, in chung thì Võ Hồng cũng đã có khoảng 30

đầu sách được in và rất nhiều bài viết được đăng trên các báo trong nước. Hơn
60 năm gắn bó với văn chương. Ơng đã có 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70
truyện ngắn cùng nhiều tùy bút, bút ký, tập truyện viết cho thiếu nhi.
Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy, trích giảng trong sách
giáo khoa văn cho chương trình trung học trước năm 1975. Trước năm 1975,
truyện của Võ Hồng đã được chọn đưa vào chương trình Giảng văn phổ


18
thơng. Vài ví dụ như bài Học sinh q mùa trích trong tác phẩm Hồi cố nhân
được biên soạn bởi Đỗ Văn Tú trong chương trình của lớp Đệ Thất, bài Tấm
ảnh được trích trong truyện ngắn Trận địn hịa giải (phần cuối) trong chương
trình của lớp Đệ lục cũng của Đỗ Văn Tú. Một số bài đăng khác trong sách
Giảng văn của Nhà Xuất bản Trí Đăng và của Thế Uyên.
Sau Hoài cố nhân và Ngày xưa in chung tập, Võ Hồng tiếp tục viết các
truyện ngắn và gửi đăng trên các báo, tạp chí trước khi tập họp và xuất bản
thành sách. Truyện Tai họa cuối cùng đăng trên tạp chí Bách Khoa số 107 ra
ngày 15/06/1961, truyện Chuyện cái răng – Bách Khoa số đặc biệt 115,
116,… Đến năm 1963, Nhà xuất bản Thời Mới in tập truyện ngắn thứ hai Lá
vẫn xanh. Năm 1965, tập truyện ngắn khác với tiêu đề Vết hằn năm tháng
được ra đời. Đến lúc này, tên tuổi Võ Hồng đã trở nên quen thuộc với các độc
giả trong nước. Giai đoạn Võ Hồng sáng tác sung mãn nhất là những năm
1965 đến 1970. Trong năm 1966, ông đã cho ra đời hai tập truyện ngắn, một
tiểu thuyết và một truyện thiếu nhi là Con suối mùa xuân, Khoảng mát, Hoa
bươm bướm và Tuổi thơ êm đềm. Năm 1968 ơng cho trình làng các tác phẩm
truyện dài như Người về đầu non, Gió cuốn và Bên kia đường. Như cánh chim
bay là tiểu thuyết nhận được sự quan tâm nhiều nhất và là một trong số những
quyển sách bán chạy nhất. Tiểu thuyết miêu tả toàn cục tỉnh Phú Yên trong
những năm kháng chiến chống Pháp với các mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội, xen vào đó là những mẩu chuyện nho nhỏ của đời thường rất sinh động.

Sau Như cánh chim bay, bên cạnh những truyện ngắn, Võ Hồng cịn viết về
một quyển tiểu thuyết nữa nói về tệ nạn ma túy đang lan tràn ở miền Nam
những năm trước năm 1975.
Đầu năm 1974, tiểu thuyết Thiên đường trên cao hồn thành, đăng trên
tạp chí Văn nhưng đến năm 1987, Sở Văn hóa Thơng tin Nghĩa Bình mới cho
xuất bản lần đầu. Năm 1988, Hội Văn học Nghệ thuật Nha Trang tập hợp
những truyện ngắn chưa xuất bản của Võ Hồng in trong tập Trong vùng rêu


19
im lặng. Sau năm 1975, nhà văn Võ Hồng có 16 tác phẩm được xuất bản rộng
rãi đến với người đọc, như Vẫy tay ngậm ngùi, Thương mái trường xưa, Một
bông hồng cho cha, tập Trầm tư, tập thơ Hồn nhiên tuổi ngọc,…
Võ Hồng là một nhà giáo ưu tú với vốn học vấn chắc chắn, trình độ
ngoại ngữ Anh, Pháp lưu lốt. Khi ơng chính thức bước vào làng văn, phong
trào sáng tác và báo chí ở miền Nam đang phát triển. Số lượng các tác giả và
báo chí phát hành gia tăng. Ơng khơng ở trong một nhóm bút, một trường
phái văn chương nào cho dù ở thời điểm đó xuất hiện nhiều khuynh hướng,
nhiều phong cách thể hiện trên văn đàn. Bởi lẽ, so với thời tiền chiến, vẫn
chưa có nhóm nào có đội ngũ mạnh và cùng chí hướng như nhóm “Tự lực văn
đồn”. Thế hệ của Võ Hồng được tiếp xúc và học tập, viết tiếng Pháp, văn
chương Tây phương. Chặng mười tuổi, ông thưởng thức văn chương văn học
Việt Nam của nhóm “Tự lực văn đoàn”, truyện miền Nam của Nguyễn Chánh
Sắt, Hồ Biểu Chánh, báo Phong hóa, Ngày nay, Tiểu thuyết thứ Bảy, Tiểu
thuyết thứ Năm,.. từ tủ sách của gia đình. Những năm đầu cầm bút, văn phong
của ơng có chịu ảnh hưởng khá đậm từ xúc cảm, đặt câu, dùng quan hệ địa
danh từ. Sau trưởng thành, ơng dần hình thành bản sắc văn chương của riêng
mình. Tiếp xúc với vài sinh ngữ như Anh, Pháp, Nhật… giúp nhà văn đặt câu
rõ nghĩa nhưng cách nhìn nhận, cách cảm xúc thì không bị chi phối.
Khi các cây bút khác vội vàng rời xa phấn trắng bảng đen thì Võ Hồng

lại tiếp tục cần mẫn với nghề giáo của mình, mặc dù chỉ là buổi vừa học vừa
chơi của những đứa trẻ hàng xóm từ 4 đến 5 tuổi. Đến với nghề viết, ơng chỉ
coi văn chương là nghề chính sau nghề giáo. Nhà văn Võ Hồng thường viết
cho hai tạp chí lớn như Bách Khoa và Văn. Độc giả và các tác giả cùng thời
đã đón nhận tác giả với nhiều thiện cảm khi được nhìn thấy những nét trẻ
trung, giản dị đậm chất quê hương. Võ Hồng là một nhà giáo tâm huyết với
hơn bốn mươi năm đứng trên bục giảng, cùng nhiều hoạt động gắn liền với
văn hóa, giáo tục từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp cho đến sau


×