Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện phù mỹ, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.56 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LẦM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

NGUYỄN MINH TRIỆU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2020


VIỆN HÀN LẦM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
___________________

NGUYỄN MINH TRIỆU

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO
LAO ĐỘNG NÔNG THÔN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN ANH HÙNG


HÀ NỘI - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là hồn tồn trung thực và có nguồn trích dẫn rõ ràng. Kết quả
nghiên cứu của luận văn không có sự trùng lặp với bất kỳ cơng trình nào đã cơng
bố.

Bình Định, ngày tháng năm 2020
Tác giả

Nguyễn Minh Triệu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN............. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động
nơng thơn ................................................................................................................ 8
1.2. Hình thức và nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ....................................................................................................................... 17
1.3. Các yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn ....................................................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
CHO LAO ĐỘNG NƠNG THƠN TẠI HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH
.............................................................................................................................. 31
2.1. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước đào tạo nghề cho lao động nông thôn
.............................................................................................................................. 31

2.2. Khái quát về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ,
tỉnh Bình Định ....................................................................................................... 45
2.3. Đánh giá thực tiễn quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ......................................................................... 56
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG
THÔN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH .................... 67
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao
động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định .................................. 67
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động
nông thôn .............................................................................................................. 70


KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

STT

Nghĩa đầy đủ

1

CBCC

Cán bộ, cơng chức


2

CCHC

Cải cách hành chính

3

ĐTN

Đào tạo nghề

4

HCNN

Hành chính nhà nước

5

HĐND

Hội đồng nhân dân

6



Lao động


7

LĐNT

Lao động nông thôn

8



Nghị định

9

NQ

Nghị quyết

10

QLNN

Quản lý nhà nước

11



Quyết định


12

QPPP

Quy phạm pháp luật

13

TTg

Thủ tướng

14

UBND

Ủy ban nhân dân

15

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu


Tên bảng

bảng
2.1

Phát triển mạng lưới cơ sở dạy nghề trên địa bàn
huyện Phù Mỹ

Trang

50

Mức độ hài lịng thí điểm chính sách xuất khẩu lao
2.2

động đối với LĐNT năm 2018 của huyện Phù Mỹ, tỉnh

57

Bình Định

DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu

Tên hình

hình

Trang


Tỉ lệ học nghề theo phân loại nghề nông nghiệp và phi
2.1

nông nghiệp so với số người được đào tạo tại huyện

53

Phù Mỹ giai đoạn 2016 -2019
Kết quả dạy nghề đào tạo so với kế hoạch ba năm tại
2.2

54
huyện Phù Mỹ giai đoạn 2016 -2019
Tỷ lệ người có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ

2.3

có năng suất, thu nhập cao hơn huyện Phù Mỹ giai
đoạn 2016 -2019

55


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn (ĐTN cho LĐNT) đã được Đảng và
Nhà nước ta lồng ghép vào Chương trình mục tiêu QG về xây dựng nơng thơn mới
(NTM). Nhờ đó, kể từ ngày 27 tháng 11 năm 2009 có Quyết định số 1956/QĐ-TTg

về Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nơng thơn đến năm 2020” đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu của công tác đào tạo nghề nhằm phục vụ nhân lực
cho xây dựng NTM, đồng thời phục vụ nhân lực cho tái cơ cấu sản xuất ngành nông
nghiệp. 10 năm thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020”, các địa phương trong cả nước đã tích cực triển khai các lớp đào tạo nghề cho
lao động nông thôn. Nhận thức của các cấp chính quyền và người dân với cơng tác
ĐTN cho LĐNT có nhiều thay đổi theo hướng tích cực hơn. Nhiều địa phương đã
huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị, các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ và các nguồn lực xã hội đầu tư cho công tác đào tạo nghề và hỗ trợ, tạo điều
kiện giúp người sau học nghề tổ chức sản xuất, kinh doanh. “Mặc dù đạt được
những kết quả nhất định nhưng công tác ĐTN cho LĐNT vẫn gặp nhiều khó khăn
như: “Cơng tác ĐTN cho LĐNT chưa được coi trọng đúng mức; nhiều bộ, ngành,
địa phương, cán bộ và xã hội nhận thức chưa đầy đủ về ĐTN cho LĐNT, coi đào
tạo nghề chỉ là cứu cánh, có tính thời điểm, khơng phải là vấn đề quan tâm thường
xuyên, liên tục và có hệ thống; hiệu quả ĐTN cho LĐNT không đồng đều giữa các
vùng trong cả nước; hoạt động đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề cho các trung
tâm cấp huyện chưa được quan tâm; việc xác định danh mục nghề đào tạo cho lao
động nơng thơn vẫn cịn dàn trải, nhất là danh mục nghề nông nghiệp; một số địa
phương chưa xây dựng, phê duyệt định mức chi phí đào tạo, xây dựng, phê duyệt
chuẩn đầu ra cho các nghề đào tạo... Bên cạnh đó, nhiều lao động nơng thơn chưa
nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của đào tạo nghề; đối tượng lao động nông
thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm còn rất hạn chế
nên việc phát huy hiệu quả học nghề chưa cao. Lao động học một số nghề phi nơng
nghiệp chưa tìm được việc làm, do thị trường tại chỗ khơng có nhu cầu và do tay
1


nghề của người lao động chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; một số lao động học
nghề nông nghiệp, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được hoặc tiêu thụ rất khó
khăn… Cơng tác dự báo nhu cầu đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm và tiêu thụ sản phẩm

cho nơng dân chưa tốt. Chưa có cơ chế, chính sách gắn kết chặt chẽ các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Nguồn kinh phí dành
cho đào tạo nghề ít, giải ngân chậm, chưa lồng ghép tốt giữa các chương trình mục
tiêu quốc gia đầu tư cho nông dân và nông thôn” [13;tr.21]. Đặc biệt, huyện Phù Mỹ
tỉnh Bình Định là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. “Phù Mỹ giáp
các huyện Hồi Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát,tây bắc giáp Hồi Ân
và biển đơng ở phía đơng. Theo thống kê năm 2005 thì huyện Phù Mỹ có diện tích
là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người, trong đó riêng số nữ chiếm tới
96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/ km2” [20;tr.5]. Huyện Phù Mỹ tỉnh Bình
Định thực hiện tốt kế hoạch đã được phê duyệt; đổi mới mạnh mẽ các hoạt động
phục vụ cơng tác ĐTN cho LĐNT. Trong đó, “cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục
thực hiện tốt kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo Quyết định
1956/QĐ-TTg và Quyết định số 971/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Các bộ,
ngành, địa phương chủ động sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp
theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (Khóa XII) về “Tiếp tục đổi mới hệ
thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công lập”; đổi mới công tác quản lý, tăng cường các điều kiện bảo đảm
chương trình ĐTN cho LĐNT gắn với chương trình xây dựng NTM; lựa chọn nghề
đào tạo phải gắn với giải quyết việc làm. Chú trọng hơn nữa công tác quản lý chất
lượng đào tạo nghề; bổ sung danh mục nghề; hồn thiện chương trình đào tạo nghề
hiện có và xây dựng một số chương trình đào tạo nghề phi nông nghiệp và nông
nghiệp công nghệ cao phù hợp với từng đối tượng người học, đáp ứng yêu cầu của
thị trường lao động”. Do vậy, tác giả/học viên chọn: “Quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động nơng thơn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định" làm
đề tài cho luận văn của mình.

2



2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ
thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định vẫn cịn là vấn đề rất mới mẻ đối với khoa
học pháp lý, công tác quản lý nhà nước, học viên và các chủ thể áp dụng pháp luật
khi thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
Bởi lý do là tác giả có tìm hiểu các cơng trình nghiên cứu về đào tạo nghề có
liên quan đến đối tượng là lao động nơng thơn ở vài góc độ khác nhau, cụ thể đó là:
- Phạm Trường Giang (2010), Hồn thiện quản lý nhà nước đối với đào tạo
nghề lao động nông thôn Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Quản lý công, Trường Đại học
Kinh tế quốc dân. Luận án đã nghiên cứu sự phối hợp giữa các bộ phận trong hệ
thống quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT, tham khảo mô hình quản lý nhà nước
về ĐTN cho LĐNT ở một số nước phát triển và đề xuất giải pháp thích hợp hoàn
thiện cơ chế quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại Việt Nam.
- Nguyễn Hữu Vinh ( năm 2010), Giải pháp nhằm hạn chế lao động chưa
qua đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở Hà Nội. Luận văn Thạc sỹ chuyên
ngành kinh tế, Trường Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. Luận văn đã phân tích
nguyên nhân làm giảm ĐTN cho LĐNT và kiến nghị các giải pháp đảm bảo về
ĐTN cho LĐNT.
- Đề án khoa học (2010 - 2012), Xây dựng quy định quản lý nhà nước về đào
tạo nghề cho lao động nông thôn. Chủ nhiệm đề án: Trần Thị Hoa, Bộ LĐXH. Đề
án đã nghiên cứu và đánh giá tình hình quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT trong
thời gian 03 năm 2010 - 2012, xác định những nguyên nhân khách quan, chủ quan
đồng thời đề xuất các giải pháp quản lý có hiệu quả nhằm quản lý nhà nước về ĐTN
cho LĐNT như:
+ Hoàn thiện Luật và các văn bản hướng dẫn có liên quan, giao thẩm quyền
quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
+ Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa
phương, sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương trong công
tác ĐTN cho LĐNT.


3


+ Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng cơng nghệ thơng
tin trong cơng tác quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT...
Bên cạnh đó, có đề tài như Cơ sở khoa học hoàn thiện quản lý nhà nước về
đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Chủ nhiệm đề tài: Tiến sỹ Dương Xuân
Triệu, Giám đốc Trung tâm Thông tin Khoa học BLĐXH, năm 1999, Đề tài khoa
học); Thực trạng đào tạo nghề cho lao động nông thôn và một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả hiện nay (Nông Hữu Tùng, Học viện Hành chính Quốc gia,
2015, Luận văn thạc sĩ Luật học); Hồn thiện quản lý quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho lao động khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam (Trần Quốc
Túy, Luận văn thạc sĩ luật học ĐH Luật tp.HCM, năm 2015); Hồn thiện cơng tác
quản lý đào tạo nghề cho lao động khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Gia
Lai (Trần Ngọc Tuấn, Đại học Đà Nẵng, 2017, Luận văn thạc sỹ); Công tác quản lý
quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn hiện nay Thực trạng và giải pháp (Lại Hữu Hiệp, Đại học Cơng đồn, 2013, Chun đề tốt
nghiệp); Hồn thiện cơng tác quản lý đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh
Bình Định (Võ Năm, Đại học Đà Nẵng, 2016, Luận văn thạc sỹ).
Các cơng trình nghiên cứu khoa học kể trên hầu hết đề cập đến vấn đề quản
lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT trên phương diện kinh tế lao động, hành chính
cơng... Tuy nhiên, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước
về ĐTN cho LĐNT trên phương diện luật học, các công trình kể trên đều có đề cập
phần nào và đưa ra một số đánh giá, nhận định về ưu, nhược điểm của các quy định
của pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
Qua khảo sát, có rất ít các nghiên cứu chun sâu, trực tiếp về quản lý nhà
nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn của một huyện như huyện Phù Mỹ (Bình
Định). Do vậy, trên cơ sở thực tiễn công tác, tác giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước
về đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình
Định" để nghiên cứu sâu vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

4


Thông qua việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật quản lý
nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Qua đó, phân tích đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và xác định nguyên
nhân của hạn chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân trong quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù
Mỹ, tỉnh Bình Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đặt ra, tác giả thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu những khái niệm cơ bản và phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn
của quy định pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT;
- Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT gắn với thực tiễn
ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và hệ thống pháp luật có liên quan hiện nay.
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT
ở huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định, từ đó chỉ ra những bất cập, hạn chế trong các quy
định pháp luật.
- Đưa ra phương hướng và một số đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các quan điểm, các quy định về pháp luật quản lý nhà
nước về ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định và các yếu tố
có liên quan tới pháp luật quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT và thực tiễn tại
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định hiện nay .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình

Định. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu có đề cập một số tình hình, kết quả thực
hiện giai đoạn 2015 đến tháng 6 năm 2020 theo nhiệm kỳ Đại hội Đảng các cấp và
chiến lược phát triển KT-XH của huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định cũng như tỉnh
Bình Định hiện nay.

5


Phạm vi nghiên cứu thời gian: Từ năm 2015 đến tháng 6 năm 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Muốn đáp ứng mục tiêu đề tài này, luận văn cần thực hiện từ cơ sở phương
pháp duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước - pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng ta và Nhà nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài này, luận văn cố gắng kết hợp việc sử dụng một số
phương pháp chủ yếu gồm có:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: được sử dụng trong hầu hết các nội
dung của luận văn nhằm phân tích làm rõ các khái niệm, làm rõ quy định của pháp
luật, dẫn chứng các số liệu cần phân tích,...
- Phương pháp thống kê - so sánh: nhằm làm rõ các quy định của luật pháp
có liên quan, thể hiện nội dung của Chương 2 luận văn.
- Phương pháp diễn giải và quy nạp: để diễn giải những nội dung và các số
liệu trích dẫn nhằm làm rõ các vấn đề nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc xây dựng luận cứ khoa học trong quá trình
hồn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật quản lý nhà nước về
ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
- Góp phần giúp chính quyền và các cơ quan ban ngành nghiên cứu hồn
thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về quản lý nhà nước về

ĐTN cho LĐNT từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong gian đoạn tới.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh mục mở đầu, mục kết luận và mục tài liệu cần tham khảo, Luận
văn có kết cấu cơ bản với nội dung có ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về ĐTN
cho LĐNT.

6


Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tại huyện Phù
Mỹ, tỉnh Bình Định.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
về ĐTN cho LĐNT.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho
lao động nông thôn
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nơng
thơn
ĐTN cho LĐNT giữ vị trí, vai trị quan trọng trong bối cảnh tồn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực cho LĐNT sẽ là yếu tố quyết
định nâng cao năng lực cạnh tranh và sự thành công của mỗi quốc gia như một quốc
gia nông nghiệp, nông thôn như Việt Nam.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho LĐNT, tạo ra người lao động có kỹ

năng nghề, có khả năng thích ứng linh hoạt với sự thay đổi của cơng nghệ thì đào
tạo nghề được xem là một trong những đích đến quan trọng. Với ý nghĩa đó, lao
động nông thôn đã được thừa nhận trong hành lang pháp lý quốc tế và trong hệ
thống pháp luật quốc gia của các nước. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban
hành rất nhiều văn bản điều chỉnh mối quan hệ liên quan đến đào tạo nghề như:
Công ước số 168 về xúc tiến việc làm và bảo vệ việc chống lại thất nghiệp; Công
ước số 122 năm 1964 về chính sách việc làm; Cơng ước số 142 năm 1974 về vai trò
của hướng nghiệp và đào tạo nghề trong việc khai thác tài nguyên nhân lực; Công
ước số 140 năm 1974 về nghỉ việc để học tập có hưởng lương; Cơng ước số 159
năm 1983 về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của những người có khuyết tật;
Khuyến nghị số 83 về tổ chức dịch vụ việc làm; Khuyến nghị số 136 về những
chương trình đặc biệt về việc làm và đào tạo cho thanh niên nhằm mục đích phát
triển; Khuyến nghị số 169 năm 1964 về chính sách việc làm; Khuyến nghị số 189
năm 1998 về các điều kiện chung khuyến trợ tạo việc làm tại các doanh nghiệp vừa
và nhỏ…
Đặc biệt là Công ước 142 năm 1974 về vai trò của hướng nghiệp và đào tạo
nghề trong việc khai thác tài nguyên nhân lực. Công ước này là một văn kiện pháp
8


lý quan trọng quy định về trách nhiệm Nhà nước trong việc chấp thuận và triển khai
các chính sách, chương trình hồn chỉnh, có phối hợp về hướng nghiệp, ĐTN, mối
liên hệ chặt chẽ giữa hướng nghiệp, ĐTN với giải quyết việc làm cho người lao
động. Ngồi ra, Cơng ước cũng quy định việc hoàn thiện những hệ thống ĐTN, mở
rộng hệ thống hướng nghiệp và hệ thống thông tin truyền thông về việc làm. Công
ước cũng nhấn mạnh vai trị của thơng tin và hướng nghiệp, mối quan hệ của người
sử dụng lao động và người lao động trong thực hiện chính sách ĐTN.
“Trong hành lang pháp lý của các quốc gia, ĐTN cho LĐNT có thể được các
quốc gia ghi nhận rõ trong Bộ luật Lao động như Philippin, Pháp, Trung Quốc,
Indonexia hoặc được quy định thông qua Luật đơn hành như Nhật Bản (Luật An

ninh về việc làm năm 1974); Trung Quốc (Luật xúc tiến việc làm năm 2007); Mỹ
(Luật việc làm và ĐTN cho LĐNT năm 1973); Ba Lan (Luật việc làm và thất
nghiệp năm 1991)...
Pháp luật của Indonesia quy định, ĐTN cho LĐNT là tất cả các hoạt động
nhằm cung cấp cho người lao động/công nhân hoặc nhân cơng tiềm năng có điều
kiện và định hướng để tiếp thu, nâng cao và phát triển năng lực nghề, năng suất, kỷ
luật, tinh thần, thái độ lao động, đạo đức nghề đạt đến một mức độ nhất định về kỹ
năng, trình độ chun mơn phù hợp với u cầu, tiêu chuẩn của một vị trí cơng tác
hay một cơng việc” [9,tr.52].
“Ngồi ra, pháp luật Indonesia cũng quy định về năng lực nghề của người
học nghề. Theo đó, năng lực nghề được xác định là khả năng của mỗi cá nhân về
các mặt kiến thức chuyên môn, kỹ năng, tinh thần, thái độ làm việc tương ứng với
các chuẩn mực đã định. Pháp luật của Philipin cũng quy định về ĐTN cho LĐNT,
trong đó ĐTN cho LĐNT nhằm giúp nhu cầu của nền kinh tế về nhân lực đã qua
đào tạo và thiết lập một chương trình quốc gia về học nghề thực hành với sự tham
gia của người sử dụng lao động, người lao động và các cơ quan Chính phủ và phi
Chính phủ, thiết lập các tiêu chuẩn học nghề thực hành để bảo vệ người học nghề
thực hành. Khái niệm ĐTN cho LĐNT được định nghĩa dưới hình thức là học nghề
thực hành. Theo đó, học nghề thực hành được hiểu là đào tạo thực hành tại chỗ, vừa

9


học vừa làm, có bổ sung sự hướng dẫn lý thuyết liên quan. Đề cập đến ĐTN cho
LĐNT, pháp luật của Lào lại quy định về xây dựng và phát triển các kỹ năng lao
động. Theo đó, xây dựng các kỹ năng lao động được hiểu là cung cấp đào tạo
nghiệp vụ cơ bản cho người lao động chưa từng được đào tạo nhằm xây dựng năng
lực làm việc cho họ. Việc xây dựng và phát triển các kỹ năng lao động được thực
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: học tập tại trường, đào tạo tại các trung tâm
phát triển kỹ năng lao động, đào tạo thực hành nghề, khảo sát thực tế, các bài học

trao đổi và các hoạt động khác trong việc nâng cao các kỹ năng lao động”
[32;tr.41].
Đối với Việt Nam, thuật ngữ ĐTN cho LĐNT được tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, “đào tạo” được hiểu là làm cho trở thành
người có năng lực, có khả năng làm việc theo những tiêu chuẩn nhất định.“Khái
niệm nghề cũng được Từ điển Tiếng Việt định nghĩa. Qua đó xác định rằng, nghề
có thể được hiểu là chun làm cơng việc nào đó trên cơ sở phân cơng lao động xã
hội. Khái niệm nghề cũng được quan niệm là “những chuyên môn có những đặc
điểm chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chun mơn. Nghề vốn dĩ là
tập hợp của một nhóm chun mơn có cùng loại. Với thuật ngữ chuyên môn dung
để chỉ một dạng lao động đặc trưng mà con người sử dụng sức mạnh của mình
nhằm tác động các đối tượng cụ thể để làm thay đổi nó theo hướng phục vụ u cầu,
mục đích cũng như lợi ích mang lại.
Nghề là khái niệm dùng để chỉ một dạng xác định hoạt động trong hệ thống
phân công lao động xã hội của một người lao động, bao gồm sự hiểu biết kiến thức,
có kỹ năng cần thiết nhất định” [15;tr.24]
Theo đó, ĐTN cho LĐNT là q trình hoạt động định hướng, chỉ dẫn giúp
cho người lao động nơng thơn có kiến thức và năng lực, kỹ năng cần thiết nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển xã hội nhất định. ĐTN cho LĐNT cũng được hiểu là quá
trình trang bị cho người lao động các kiến thức, kỹ năng cần thiết để người lao động
thực hiện được một công việc đáp ứng yêu cầu chuyên môn.

10


Dưới góc độ pháp lý, ĐTN cho LĐNT được hiểu là hoạt động dạy và học
nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học
nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hồn thành khố học.
Từ đây, đào tạo nghề cho lao động nông thôn được hiểu là hoạt động dạy học để trang bị cho người học sau tốt nghiệp đã có các kiến thức và kỹ năng căn
bản cùng tác phong, thái độ nghề nghiệp cần thiết nhằm tìm kiếm được việc làm

hoặc tự tạo việc làm để sinh kế.
Xuất phát từ quan niệm đó, cần có sự quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
Quản lý nhà nước với đặc trưng là hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ
quan nhà nước, nhất là cơ quan hành chính nhà nước và một số tổ chức được nhà
nước ủy quyền quản lý theo luật định nhằm thi hành luật để thực hiện chức năng
quản lý và tổ chức, điều hành của nhà nước đối với quá trình kinh tế - xã hội. Đối
với quản lý hành chính nhà nước đó là quản lý của khối hành pháp nhà nước trong
quan hệ chấp hành, điều hành trên mọi lĩnh vực theo thẩm quyền nhà nước.
Quản lý nhà nước được thực hiện bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước,
gồm có: Chính phủ và các cơ quan chính quyền địa phương các cấp (mà không kể
các tổ chức thuộc nhà nước nằm trong cơ cấu nhà nước ví như doanh nghiệp).
QLNN được hiểu là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà
nước và sử dụng pháp luật nhằm điều chỉnh những hành vi của con người do các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, để thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con
người cũng như duy trì mơi trường xã hội ổn định và phát triển.
ĐTN đối với LĐNT là một trong các hoạt động của ngành giáo dục - đào tạo.
Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là một hiện tượng gắn liền với xã hội khi
xuất hiện có thị trường lao động, xuất hiện ở đâu và khi nào mà ở đó lao động xã
hội đã đạt đến một trình độ xã hội hóa tương đối cao.
Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT xuất hiện và tồn tại cùng với sự ra đời
và tồn tại của nhà nước. Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là
hoạt động tổ chức, điều hành của cả bộ máy nhà nước, là sự tác động, tổ chức của
quyền lực nhà nước trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nghề cho LĐNT. Theo cách

11


hiểu này, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là hoạt động của hệ thống cơ quan
nhà nước là các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ Trung ương tới địa phương được
giao nhiệm vụ QLNN về ĐTN cho LĐNT theo quy định của pháp luật; chủ thể

quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là các cơ quan, công chức trong bộ máy nhà
nước được trao quyền lực công; đối tượng quản lý của nhà nước là tất cả các cá
nhân, tổ chức sinh sống và hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia khi tham gia
vào quan hệ pháp luật về ĐTN cho LĐNT theo tinh thần Luật Giáo dục nghề nghiệp
số 74/2014/QH13 và Nghị định 48/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Giáo dục nghề
nghiệp đã quy định rõ về tổ chức bộ máy QLNN về ĐTN, theo đó Chính phủ thống
nhất thực hiện cơng tác QLNN về ĐTN trên cả nước; quản lý nhà nước về ĐTN cho
LĐNT có tính tồn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng, ngoại giao... và mục tiêu của quản lý nhà
nước về ĐTN cho LĐNT là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền
vững trong xã hội.
Quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT ở nghĩa hẹp chủ yếu đó là q trình tổ
chức, điều hành của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước đối với q trình hoạt
động kinh tế - xã hội và các hành vi của con người theo luật định để đạt các mục
tiêu và yêu cầu nhiệm vụ của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Ngoài ra, cơ
quan nhà nước về cơ bản là thực hiện những hoạt động chấp hành, điều hành với
tính chất hành chính nhà nước để xác lập tổ chức bộ máy, củng cố chế độ nội bộ
trong cơng tác của mình Ví như, việc ra quyết định chia tách, thành lập, sáp nhập
đối với những tổ chức thuộc bộ máy của mình; quy hoạch, đề bạt, khen thưởng, kỷ
luật đối với cán bộ, công chức… Theo cách hiểu này, quản lý nhà nước về ĐTN cho
LĐNT đồng nghĩa với khái niệm quản lý hành chính nhà nước. Đây là một dạng đặc
trưng trong hoạt động mang tính quyền lực nhà nước về đào tạo nghề, chúng được
tiến hành bởi các chủ thể có quyền năng về hành pháp – với đặc trưng hoạt động
chấp hành và điều hành được tổ chức thống nhất, chặt chẽ.
Trên cơ sở các chủ thể có thẩm quyền và chủ thể tham gia theo nghĩa hẹp của
quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT, ta có thể hiểu: quản lý nhà nước về ĐTN cho

12



LĐNT là hoạt động quản lý theo ngành do các cơ quan chức năng thực hiện, sử
dụng quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động ĐTN cho
LĐNT nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra.
Theo đó, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là những quy tắc xử sự điều
chỉnh về các nguyên tắc, hệ thống cơ quan pháp lý và nội dung quản lý đối với ĐTN
cho LĐNT.
1.1.2. Đặc điểm quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn
Thứ nhất, về chủ thể quản lý NHà nước là các cơ quan trong bộ máy quản lý
hành chính nhà nước từ Trung ương tới địa phương được giao nhiệm vụ quản lý nhà
nước về ĐTN cho LĐNT theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, đối tượng quản lý Nhà nước là mọi hoạt động của quản lý nhà nước
về ĐTN cho LĐNT ở tất cả các cơ sở đào tạo nghề.
Theo quy định pháp luật hiện hành thì cơ sở giáo dục nghề nghiệp bao gồm
trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trường trung cấp, và trường cao đẳng. Trong đó,
đối với giáo dục nghề nghiệp lại là một bậc học căn bản của hệ thống giáo dục quốc
dân để đào tạo cho người lao động đạt ở các cấp trình độ như: sơ cấp, trung cấp, cao
đẳng và những chương trình đào tạo nghề nghiệp khác, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân
lực để phục vụ trực tiếp trong hoạt động SX-KD và dịch vụ. Hệ thống giáo dục
nghề nghiệp được thực hiện dưới hai hình thức, đó là: đào tạo thường xuyên và đào
tạo chính quy. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Giáo dục nghề nghiệp 2014
thì cơ sở giáo dục nghề nghiệp được tổ chức theo các loại hình sau đây:
- Cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc khu vực cơng lập đó chính là cơ sở giáo
dục nghề nghiệp do Nhà nước sở hữu, được nhà nước đầu tư và xây dựng cơ sở vật
chất – kỹ thuật;
- Cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục là cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc sở
hữu của các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân

13



hoặc cá nhân, do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế tư
nhân hoặc cá nhân đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất;
- Cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm cơ sở giáo dục
nghề nghiệp 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài; cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên
doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, mục tiêu quản lý là đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức
kỷ luật, tác phong công nghiệp cho LĐNT. “Khu vực nông thôn nước ta chiếm
khoảng 70% dân số và hơn 50% lực lượng lao động xã hội. LĐNT chủ yếu làm việc
trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; hằng năm cung cấp nguồn lương thực, thực
phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và bảo đảm an ninh lương thực quốc
gia. Tuy nhiên, LĐNT trình độ nghề nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh
CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. LĐNT chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu lao động
cả nước và có vị trí trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội ở nơng thơn. Do đó,
ĐTN cho LĐNT là một nhiệm vụ quan trọng” [14,tr.48].
Mục tiêu quản lý là đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, ý thức kỷ luật,
tác phong cơng nghiệp cho LĐNT góp phần nâng cao chất lượng lao động, tạo cơ
hội việc làm, nâng cao thu nhập. Đồng thời, góp phần thay đổi vị thế của người lao
động ở nông thôn nước ta bởi LĐNT vốn không được đánh giá cao về vị thế chính
trị - xã hội, do chủ yếu sản xuất dựa trên cách thức lạc hậu, manh mún nên họ
không đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến. Trong quá trình ĐTN, người lao
động được trang bị kiến thức về sản xuất các ngành nghề, kiến thức về khoa học công nghệ, thị trường, hội nhập... Đó là những tri thức quan trọng giúp người nông
dân từng bước cải tiến phương thức sản xuất theo hướng tiên tiến, hiện đại; từ đó
thay đổi vị thế chính trị - xã hội của mình.
1.1.3. Ý nghĩa quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Thứ nhất, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT là một nhu cầu khách quan
của hoạt động quản lý nhà nước về nguồn nhân lực.
“Không phải đến bây giờ vấn đề ĐTN cho LĐNT, học nghề mới được đề cập
đến mà theo một tư liệu nước ngồi từ thế kỷ XVIII trước cơng ngun, chế độ


14


ĐTN cho LĐNT đã được ghi nhận trong Bộ luật của Vương quốc Babilon. Ở Hy
Lạp và La Mã cổ đại, chế độ ĐTN cho LĐNT đã được luật hoá và áp dụng tương
đối phổ biến. Thời trung cổ ở Châu Âu các hang hội đã áp dụng một loạt các chế độ
ĐTN cho LĐNT nhằm bồi dưỡng kỹ năng sản xuất, tri thức nghiệp vụ cho người
làm công trong thực tế sản xuất và công tác” [14,tr.9].
Ở Việt Nam, ĐTN cho LĐNT đang trong quá trình phát triển. Đặc biệt, trong
giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu và
thực hiện Chính sách ĐTN cho LĐNT được triển khai nhất quán từ TW đến các địa
phương, trên cơ sở các văn bản về chủ trương của Đảng và chính sách cụ thể của
nhà nước như: Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của BCH Trung ương Đảng,
Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án ĐTN cho LĐNT đến năm 2020, Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 04/6/2010 phê duyệt “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 -2020” với các nhiệm vụ, mục tiêu trên tất cả các lĩnh
vực về kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phịng...; trong đó có việc tập trung đào
tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động
ở vùng nơng thơn... vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ phổ thơng cũng
như lao động trình độ cao khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nước ta là rất
lớn nên hoạt động ĐTN cho LĐNT diễn ngày một quy mô với số lượng các trung
tâm, trường ĐTN cho LĐNT và doanh nghiệp ĐTN cho LĐNT mở rộng.
Việt Nam là một quốc gia có lực lượng lao động trẻ, trình độ lao động chưa
đồng đều tại các khu vực đô thị khác nhau cũng như các khu kinh tế, khu chế suất,
khu cơng nghiệp. Do đó, sự phát triển của hoạt động ĐTN cho LĐNT là một xu
hướng khách quan, phổ biến, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường lao động.
Hoạt động ĐTN cho LĐNT theo sự phát triển gắn với nhu cầu xã hội và thị trường
lao động, nhất là các ngành trọng điểm đang là vấn đề được nhà nước ta quan tâm.
Phát triển ĐTN cho LĐNT được xem là “xương sống” để phát triển nguồn nhân lực.

Phát triển ĐTN cho LĐNT là nội dung quan trọng của chiến lược, quy hoạch phát
triển nhân lực quốc gia. Chính vì vậy, ĐTN cho LĐNT gắn với u cầu thực tế là

15


một nhu cầu mang tính khách quan. Do đó, nhà nước điều chỉnh hoạt động ĐTN
cho LĐNT trong hệ thống các văn bản pháp luật nhằm ghi nhận mối quan hệ ĐTN
cho LĐNT tồn tại giữa bên sử dụng lao động, người học nghề, nhà nước, các trung
tâm, các cơ sở ĐTN cho LĐNT…
Thứ hai, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT hướng tới tạo lập một hành
lang pháp lý để bảo vệ quyền lợi của cơ sở ĐTN cho LĐNT và người học nghề.
Hoạt động ĐTN cho LĐNT không chỉ được ghi nhận trong hệ thống pháp
luật quốc gia mà còn được thể hiện trong hệ thống pháp luật quốc tế. Ngay trong
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hoá năm 1966 cũng đã được
đề cập đến quyền được ĐTN cho LĐNT và coi đây là một trong những quyền cơ
bản của con người. Ngồi ra, Cơng ước số 142 năm 1975 về vai trò của hướng
nghiệp vào ĐTN cho LĐNT trong việc khai thác tài nguyên nguồn nhân lực cũng đề
cập đến trách nhiệm trong ĐTN cho LĐNT của các chủ thể tham gia quan hệ về
ĐTN cho LĐNT. Ở Việt Nam, nhà nước đã tạo lập hành lang pháp lý về ĐTN cho
LĐNT để bảo vệ quyền lợi của cơ sở ĐTN cho LĐNT và người học nghề. Theo đó,
pháp luật bảo vệ các cơ sở ĐTN cho LĐNT thông qua việc ghi nhận các điều kiện
pháp lý để thành lập các cơ sở ĐTN cho LĐNT và chế độ ưu đãi dành riêng cho các
cơ sở này. Pháp luật cũng cho phép người học nghề được quyền lựa chọn các cơ sở
ĐTN cho LĐNT, hình thức ĐTN cho LĐNT và có những chế độ, chính sách ưu đãi
dành cho người học nghề là đối tượng lao động đặc thù, người học nghề là thương
binh, người khuyết tật người dân tộc thiểu số, người học nghề thuộc các đối tượng
hưởng chế độ chính sách của nhà nước… Nhà nước cũng tạo lập cơ chế bảo vệ cơ
sở ĐTN cho LĐNT và người học nghề thông qua hoạt động quản lý nhà nước về
ĐTN cho LĐNT. Nhà nước Cơ chế kiểm tra giám sát và tạo mọi điều kiện hỗ trợ

cho cơ sở ĐTN cho LĐNT. Điều chỉnh pháp luật đối với ĐTN cho LĐNT tạo ra
hành lang pháp lý hữu hiệu bảo vệ không chỉ cho cơ sở ĐTN cho LĐNT mà cho cả
người lao động trong quan hệ về ĐTN cho LĐNT.
Thứ ba, quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT nhằm quản lý một cách hiệu
quả quan hệ trong ĐTN cho LĐNT.

16


“Đề án 1956 của Thủ tướng Chính phủ thể hiện rõ quan điểm “ĐTN cho
LĐNT là sự nghiệp của Đảng và Nhà nước, của các ngành, các cấp và của toàn xã
hội nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn, phục vụ cho yêu
cầu CNH-HĐH nông nghiệp, nơng thơn”; thể hiện các chính sách về ĐTN cho
LĐNT của Nhà nước, là cơ sở để huy động các nguồn lực thực hiện nhằm tăng
cường, nâng cao số lượng và chất lượng đào tạo nguồn nhân lực LĐNT theo mục
tiêu đề ra. Với thời gian thực hiện trong 11 năm (2010 - 2020), mục tiêu của Đề án
là: “Dạy nghề cho khoảng 10,6 triệu LĐNT, trong đó hỗ trợ dạy nghề cho 6,54 triệu
người theo chính sách của Đề án; bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1
triệu LĐNT, trong đó đào tạo, bồi dưỡng 100 ngàn lượt cán bộ, công chức xã; đến
năm 2020, lao động ở nơng thơn cịn khoảng dưới 30% lao động xã hội, tỷ lệ qua
đào tạo đạt trên 50%, tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề tối thiểu đạt 80%”. Pháp
luật quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quan hệ về ĐTN cho LĐNT đúng pháp luật” [17, tr.67].
Đồng thời ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh hoạt động của cơ sở ĐTN
cho LĐNT, người học nghề, đảm bảo sự ổn định cho thị trường lao động ở nước ta
hiện nay; tạo khung pháp lý để các cơ quan quản lý Nhà nước về ĐTN cho LĐNT
thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đồng thời cũng tạo khung pháp lý để các
chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ về ĐTN cho LĐNT.
Thừa nhận sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động ĐTN cho LĐNT là đáp ứng
yêu cầu của thị trường lao động, của cơ sở ĐTN cho LĐNT và người học nghề.

1.2. Hình thức và nội dung quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao
động nơng thơn
1.2.1. Hình thức quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho hoạt động nông
thôn
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ĐTN cho LĐNT là hình thức pháp
lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ thể quản lý nhà nước về ĐTN cho
LĐNT nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Nhà nước thực hiện quản lý
hành chính thơng qua các hình thức: ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ĐTN

17


cho LĐNT, ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật, thực hiện những hoạt
động khác mang tính chất pháp lý, áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp, thực
hiện những tác động về nghiệp vụ - kĩ thuật.
Theo quan điểm của học viên, thì ban hành văn bản quy phạm pháp luật về
ĐTN cho LĐNT là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động của các chủ
thể quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Số lượng văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan quản lý nhà nước về
ĐTN cho LĐNT ban hành là rất lớn. Điều đó dường như khơng phù hợp với chức
năng cơ bản của bộ máy hành chính nhà nước là chức năng chấp hành luật. “Điều
đó được quyết định chủ yếu bởi các cơ quan quyền lực nhà nước các cấp không
phải là những cơ quan hoạt động thường xuyên và việc mở rộng phạm vi những vấn
đề các cơ quan quyền lực nhà nước mới được phép quyết định không phải là vô tận.
Mặt khác, pháp luật hiện hành và thực tiễn quản lý khẳng định khả năng lập quy
độc lập của các cơ quan quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT. Những quy tắc xử sự
chung trong luật và các văn bản khác của các cơ quan quyền lực nhà nước không
bao hàm hết mọi vấn đề của đời sống xã hội. Chúng chỉ là những quy định chung
cần được cụ thể hóa trong từng lĩnh vực của quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT.
Nhiệm vụ cụ thể hóa đó được pháp luật trao cho các cơ quan quản lý nhà nước về

ĐTN cho LĐNT tương ứng. Hoạt động này không nhằm thay đổi những quy định
chung mà nhàm bao đảm việc chấp hành những quy định chung bằng cách bổ sung
những quy phạm pháp luật hành chính do các cơ quan quản lý nhà nước về ĐTN
cho LĐNT ban hành nhằm cụ thể hóa, chi tiết hóa những quy phạm luật căn cứ vào
những điểu kiện lãnh thể và thời gian, đảm bảo chấp hành luật một cách đúng đắn,
hiệu quả, phù hợp với những yêu cầu của luật” [32, tr.31].
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về ĐTN cho LĐNT là
phương tiện hữu hiệu để các chủ thể quản lý nhà nước về ĐTN cho LĐNT tác động
tích cực lên lĩnh vực đời sống xã hội thuộc quyền quản lý của mình trong khn
khổ những u cầu chung của luật. Cũng chính thơng qua việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật về ĐTN cho LĐNT mà vai trò điều chỉnh của hoạt động chấp

18


×