Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

doc thi down ko thi thoi xin dung nem da

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.96 KB, 99 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>CÂY SỐ 42 Thứ tư, 28 Tháng 11 2007 01:40 Sân bay Tân Sơn Nhất, một buổi chiều. Những ngọn gió nam không bị vật gì kìm hãm, rít vù vù trong cuộc đuổi nhau bất tận, cuốn tung những ngọn cờ trên nóc nhà ga, và bên cạnh tôi những tà áo dài của các chị em trong đoàn đi đón khách bay vờn lên như những cánh bướm. Truyện ngắn. DŨNG HÀ Chiếc máy bay TU.134A lăn những vòng bánh cuối cùng rồi dừng lại ở vị trí quy định. Mấy phút sau chiếc cầu thang đã được đặt xong và cửa máy bay mở rộng. Các vị khách quốc tế xuất hiện trên khung cửa giơ tay vẫy chào đáp lại những cánh tay và những lời reo vui nồng nhiệt của chúng tôi, những người đón khách. Đó là những vị khách đến dự một cuộc họp quốc tế quan trọng được tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với các bạn trong đoàn ra đón, tôi lần lượt bắt tay các vị khách quý, những nhân vật có tên tuổi, nam và nữ của hai lục địa. Họ đều cao lớn, khoẻ mạnh với những gương mặt cởi mở, trang nghiêm, hoặc bỡ ngỡ với những màu da trắng hồng hoặc nâu và đen. Tôi xiết chặt tay một người mặc âu phục xám, dáng cao và mảnh khảnh, có hàng ria đen khá đậm để theo kiểu người Ả Rập và chào anh bằng tiếng Pháp. - Chúc mừng đồng chí đã đến thăm đất nước chúng tôi. Người khách nắm chặt tay tôi và thật bất ngờ, anh đáp lại bằng tiếng Việt khá sõi: - Chào đồng chí! Rất cảm ơn đồng chí đã ra đón chúng tôi. Đồng chí có mạnh khỏe không? Ngạc nhiên tôi ôm lấy người bạn quốc tế mà ngay từ câu nói đầu tiên đã tỏ ra am hiểu phong tục Việt Nam. Anh đã chẳng hỏi thăm ngay sức khỏe của tôi như một người bạn thân lâu ngày mới gặp lại đó sao? - Anh nói được tiếng Việt? Hay quá! Anh nói được nhiều không? - Tàm tạm - Anh bạn nhã nhặn gật đầu, miệng tủm tỉm, lộ vẻ hóm hỉnh - Tôi nói còn xoàng hơn mấy cha kia! Anh hất hàm về phía những người bạn quốc tế đang tíu tít bên những cô phiên dịch và những bạn bè quen thuộc ra đón. "Chà! Vớ được anh Tây mắm tôm". Tôi hết sức hứng thú trước sự bất ngờ này, nghĩ thầm trong bụng rồi lần lượt bắt tay những người bạn khác. Sau đó, tất cả chủ và khách cùng nắm tay nhau đi vào phòng khách của nhà ga. Anh bạn mà tôi vừa quen, đi trước cùng các đồng chí trong ban chấp hành ra đón. Tôi nhìn anh từ phía sau. Lưng anh hơi còng và lệch vai bên phải. Nhìn kỹ thấy bước chân anh hơi tập tễnh dường như chân trái có tật. Mái tóc đen dài và xoăn của anh đã bạc trắng ở hai bên thái dương. Tôi bỗng mơ hồ như đã gặp anh ở đâu. Nhưng nghĩ mãi không nhớ ra. Đêm hôm ấy, trong căn phòng nhỏ trên tầng lầu ba của một khách sạn bên sông Sài Gòn, tôi cứ trăn trở mãi không ngủ được, bâng khuâng nhớ lại cảnh tượng ban chiều. Cùng phòng với tôi, là một anh bạn ở Hà Nội vào. Chúng tôi trao đổi với nhau những nhận xét, những cảm nghĩ và ấn tượng ban đầu trong cuộc tiếp đón những bạn quốc tế. Tôi kể lại cho anh bạn Hà Nội nghe về người khách nói tiếng Việt rồi phàn nàn: - Trí nhớ mình tồi quá! Hình như mình đã gặp ông ấy ở đâu một lần. Anh bạn đã ngái ngủ nhưng cũng gắng tỏ ra lịch sự trả lời: - Ông thử nhớ lại những lần ông đi họp ở Liên Xô, ở Đức, ở Tiệp, ở Mông Cổ hay đi thăm Ấn Độ, Cu Ba xem?.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Cái gương mặt ấy, kiểu tóc ấy, bộ ria mép ấy, rõ ràng là người Ả Rập. Anh bạn Hà Nội cười phá lên: - Nói như thế cũng chẳng khó gì! Nhưng họ là người nước nào? Thôi ngủ đi! Mai hỏi khắc biết! Chỉ mươi phút sau, tôi đã nghe tiếng ngáy đều đều của anh bạn Hà Nội. Thế mà tôi vẫn không sao ngủ ngay được. Kỳ lạ! Hình ảnh người bạn quốc tế cứ xoắn lấy tôi. Tôi lặng lẽ ngồi dậy đốt một điếu thuốc rồi đến bên song cửa nhìn ra. Đêm đã về khuya. Từng cơn gió mát lạnh từ sông Sài Gòn thổi vào vuốt ve da thịt khiến tôi thấy tỉnh táo hẳn lên. Ngoài đường Tôn Đức Thắng chạy dọc bờ sông, lúc này xe cộ đã thưa thớt hẳn, không còn nghe thấy tiếng nổ phành phạch đến nhức tai của những chiếc xe lam hay xích lô máy, cũng như không còn phải hít cái mùi khói dầu khét lẹt do những chiếc xe đó phun ra. Không gian thoảng mùi êm dịu của hoa dạ hương từ một vườn hoa hay một dã thự nào đưa tới, lẫn với mùi tanh nhàn nhạt của mặt sông xao động dưới những ánh đèn xa và hương vị ngọt ngào trong vắt lúc này của gió. Thỉnh thoảng, có tiếng vọng ì ầm từ bên kia bến phà Thủ Thiêm hay mãi bên Khánh Hội hoà với tiếng còi xa xăm của vài chiếc tàu nhỏ đang rời hay cập bến. Dọc bến Bạch Đằng hàng trăm ngọn đèn lung linh mờ tỏ trên những con tàu đại dương sơn màu trắng, vàng hay nâu, dăng hàng, trang nghiêm, im lìm như một hạm đội đang chuẩn bị chiến đấu. Bầu trời cao thẳm đen sẫm. Ức triệu vì sao lung linh trải ra tít tận chân trời. Tôi lục tìm trong trí nhớ, hồi tưởng lại tất cả những chặng đường đã đi qua ở nước ngoài, những hội nghị, những cuộc viếng thăm, những ngày tắm nắng ở bờ Bắc Hải, những buổi toạ đàm ở Niu Đely… Nhưng hoài công. Tôi đã không thể nhớ lại được một gương mặt nào như thế, với dáng đi tập tễnh, đôi vai lệch và tấm lưng dài hơi còng như thế. Tôi lại trôi theo dòng hồi tưởng ngược về những năm tháng xa xưa, trong những ngày gian nan chống Mỹ, dọc đường khu Bốn, khu Năm, theo đường Trường Sơn vào tận các bưng biền miền Nam, đến khi tôi trở về thành thị và những ngày sôi động ở Sài Gòn. Không. Tôi đã không gặp một người nào như thế! Tôi đốt điếu thuốc "475" thứ ba, tiếp tục lần ngược dòng ký ức về tận những ngày xưa cũ, quãng thời gian chống Pháp, tiếp quản Thủ Đô đuổi giặc ở đồng bằng Bắc Bộ, ngược về chiến dịch Điện Biên Phủ. Tính tôi vốn như vậy: đã vương vấn nghi hoặc một điều gì là tự tìm cách lý giải đến cùng cho đến khi sáng tỏ mới thôi. Bỗng như tia chớp loé: một kỷ niệm vụt hiện lên trong trí nhớ tôi. Rồi nó cứ xoắn xuýt mãi, lúc đầu còn mơ hồ mỏng manh như khói sương, sau dần dần tụ hội lại, ngày càng rõ nét, càng hoàn chỉnh. Tôi bàng hoàng vui sướng kêu lên: "Đúng rồi!". Nhưng ngay sau đó, cảm giác hoài nghi khi nghĩ về thực tại lại lập tức chế ngự đầu óc. Tôi tự nhủ: "Không làm gì có chuyện như thế! Người đó đâu còn nữa! Ở đời thiếu gì người giống nhau!". Tôi bồi hồi trở về giường, khẽ khàng đặt lưng để khỏi làm anh bạn Hà Nội thức giấc. Tôi đặt cho mình một nhiệm vụ là sáng mai phải tìm gặp anh bạn ban chiều và hỏi cho ra ngọn ngành. Yên tâm, tôi ngủ thiếp đi. Hôm sau cuộc họp được tiến hành trong một hội trường tráng lệ của thành phố. Tôi ngồi ở chỗ dành cho các nhà báo trong nước được mời. Cả buổi sáng, cả buổi chiều, tôi nhìn lên phía đoàn chủ tịch, tai lắng nghe những lời phát biểu qua máy phiên dịch, mắt lại luôn nhìn anh bạn chiều qua. Rõ ràng anh là một nhân vật quan trọng trong cái tổ chức quốc tế Á - Phi này. Người ta gọi anh một cách trọng vọng là Ápđun Môhamét. Tôi cũng nhận thấy một điều khác lạ. Ápđun ngồi trên ghế đoàn chủ tịch, thường đưa mắt nhìn về phía chúng tôi. Cặp mắt nâu hơi sâu và trầm tĩnh của anh như tìm kiếm và khi anh phát hiện ra tôi, dường như cặp mắt ấy ánh lên một nét bỡ ngỡ lẫn mừng vui. Khi anh bước lên diễn đàn, giọng nói của anh trầm ấm và kiên nghị: - … Trong cuộc chiến tranh thần thánh chống bọn xâm lược Mỹ, nhân dân Việt Nam anh hùng đã giành được sự đồng tình, ủng hộ của cả loài người tiến bộ. Bằng những cống hiến của mình,.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> những bạn bè của các đồng chí ở khắp năm châu đã góp phần tích cực vào việc lên án bọn xâm lược, ca ngợi và cổ vũ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam. Chúng tôi vui mừng và tự hào trước sự đánh giá của bạn về phần cống hiến nhỏ bé này. Ngày nay trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước của Việt Nam, chúng tôi cũng giành toàn bộ tình cảm và sự ủng hộ của mình. Chúng ta đoàn kết với Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống đế quốc, giữ gìn độc lập dân tộc và bảo vệ hoà bình… Phiên họp cuối cùng chấm dứt, mọi người ùa ra hành lang sân nghỉ ngơi trong lúc chờ đi dự buổi chiêu đãi của Uỷ ban Nhân dân thành phố. Tôi đến ngồi trên chiếc sôpha, cạnh một chiếc bồn lớn bằng sứ tráng men xanh, trồng một cây bông sứ đẹp mê hồn, chờ cho Môhamét dứt khỏi những bạn bè. Thì chính anh ấy đã bước đến bên tôi với dáng cả quyết đáng mến: - Xin lỗi! Tôi muốn được nói chuyện với anh, được chứ? Tôi vội đứng dậy, nắm lấy tay anh, không giấu được vẻ mừng vui: - Tôi rất mừng là lại được nói chuyện với anh. Mấy ngày qua anh bận quá. Tôi có một băn khoăn muốn hỏi anh… Ápđun ôm lấy vai tôi nồng nhiệt nói: - Trời ơi! Chính tôi cũng đang muốn được gặp anh. Tôi cảm thấy rất quen anh, như là đã được gặp anh ở đâu rồi. Tôi khẽ nắm tay anh: - Anh cho phép tôi hỏi, trước đây anh đã sang Việt Nam lần nào chưa? Anh học tiếng Việt từ bao giờ mà nói khá thế? - Tôi sang đây lần này là thứ ba. - Lần thứ nhất là bao giờ? Hồi chiến tranh chống Pháp, anh có ở đây không? Ápđun nhìn chằm chằm vào mặt tôi, mặt đỏ lên vì xúc động: - Lần thứ nhất là từ cuộc chiến tranh Pháp - Việt. Lúc ấy tôi là lính trong quân đội Liên hiệp Pháp. Tôi hồi hộp hỏi dồn: - Anh có dự trận Điện Biên Phủ không? - Tôi có dự. Tôi là lính của tiểu đoàn lê dương đóng trên đồi Anne Marie. - Anh có ở trong đoàn tù binh về Thanh Hoá không? - Có! - Anh có nhớ vụ trực thăng ở cây số 42 không? - Trực thăng? Không bao giờ tôi quên được việc ấy! - Anh còn nhớ một commăngđăng và một cô gái thanh niên xung phong không? Ápđun nắm chặt cánh tay tôi. Nét xúc động tràn ngập ánh mắt anh: - Tôi có nhớ! Làm sao có thể quên được! - Thế anh có phải là người lính đó không? - Chính tôi đấy! - Trời ơi! Hoá ra anh đấy ư? Anh có nhận ra tôi không? Ápđun Môhamét bỗng run lên. Ánh mắ nóng bỏng của anh như cắm sâu vào mắt tôi. Trong một thoáng, hình như anh đang cố hình dung ra một bóng dáng xa vời của dĩ vãng. Cặp môi anh mấp máy, rồi anh ôm chầm lấy tôi, hoan hỉ kêu lên: - Mon commandanf!(1).

<span class='text_page_counter'>(4)</span> THỜI GIAN LẶMG LẼ Chủ nhật, 18 Tháng 11 2007 03:06 Khoảng 10 giờ sáng ngày mồng 4 Tết âm lịch năm 1972 Cả khu vực xóm Trại, nơi đóng quân của đại đội 4, tiểu đoàn 10 râm ran chuyện không hay; một cô gái đến chơi với người của đơn vị, đã bỏ đi để lại một đứa bé còn đỏ hỏn, dễ chừng mới được vài tháng tuổi... Cả đại đội rối tinh rối xòe. Cán bộ nháo nhào, chiến sĩ thì chạy xuôi chạy ngược. Người có liên quan trực tiếp là binh nhất Nguyễn Ngọc Phú, nguyên sinh viên Đại học Sư phạm II, tiểu đội trưởng tiểu đội 5, trung đội 2 được gọi lên và bị các thủ trưởng thẩm vấn liên tục. Truyện ngắn. DƯƠNG TỬ GIANG Cái vẻ đẹp trai thong dong thường ngày như biến đâu mất. Mái tóc đen mượt rối bời, mướt mồ hôi trán, trông bơ phờ mệt mỏi mà vẫn còn ngơ ngác, kể chuyện mà vẫn không hiểu sự tình nó là thế nào. Câu chuyện được kể lại lỗm bỗm, không biết đâu là đầu đâu là cuối. Đại để như Phú nói: Cô ta là bạn học từ hồi phổ thông, cũng có quan hệ với nhau từ hồi nghỉ hè. Bẵng đi thế rồi sáng nay cô ta bế đứa bé đến, cứ khăng khăng nói là con anh. Em cứ tưởng nói đùa, đang ngồi nói chuyện bình thường thấy cô ta đặt đứa bé ra phản, nói là để cho nó ngủ yên rồi bảo ra ngoài xem cảnh núi đồi, cũng chủ quan không tìm ngay... Khuôn mặt rầu rĩ, giọng nói của Phú khổ sở quá: "Các thủ trưởng bảo em phải làm gì bây giờ?". Kế hoạch lùng sục, tìm kiếm cô gái được triển khai tắp lự. Những là ra ga gần nhất, rồi hai ga trên và dưới. Những là đường cô ta quay lại, thậm chí cả lối đi xuôi nếu cô ta nghi binh. Những là vào từng nhà dân, chú ý cả những ao hồ, hàng quán ven đường. Bữa cơm trưa được ăn vội vàng, toàn bộ trung đội 2 được huy động. Từng tốp 3 người được quán triệt, dặn dò kỹ càng. Lúc đi căng thẳng, hăm hở bao nhiêu, vài tiếng sau khi trở về thì đều rã rời, chán trường bấy nhiêu. Ai cũng thuộc lòng hình dáng, khuôn mặt, trang phục, thậm chí kiểu dép cô ta đi, thế mà tất thảy đều chịu thất bại, không hoàn thành nhiệm vụ. Lúc 3 giờ 15, thấy toán cuối cùng về cũng lắc đầu, đại đội trưởng dậm chân bành bạch rồi nghiến răng ken két: - Không lẽ cô ta độn thổ? Từ lúc cô gái bỏ đi , việc bế ẵm đứa bé được giao cho binh nhì Nguyễn Thị Hạnh, chiến sĩ gái tiểu đội nuôi quân. Đứa bé khóc ngặt nghẽo, không biết nó muốn gì, đòi gì. Chỉ thấy binh nhì Hạnh vã mồ hôi, bơ phờ không kém binh nhất. ( ( ( ( ( ( ( ( ( ( ( ( (.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Phú. Đến 4 giờ 5 phút chiều, sau khi bàn bạc hội ý mãi, chỉ huy đại đội thấy chỉ còn mỗi cách là bế đứa bé lên tiểu đoàn, xin hướng giải quyết. Mệnh lệnh lập tức được thi hành, chính trị viên đại đội cùng Phú và Hạnh bế đứa bé lốc thốc lên đường. Tình huống hi hữu này cũng làm cho chỉ huy tiểu đoàn lúng túng không kém, chắc trong đời binh nghiệp của các anh chưa bao giờ gặp phải. Vấn đề xem chừng khó giải quyết. Tiểu đoàn trưởng đỏ mặt tía tai khi nhìn qua đứa bé: - Lính với tráng, tí tuổi đầu đã nhăng nhít. Cậu phải tìm bằng được và trao trả đứa bé này cho cô ta rõ chưa! Chính trị viên tiểu đoàn thì ôn tồn: - Em có biết nhà cô ta chứ gì? Được rồi, vấn đề là phải làm tốt công tác tư tưởng, phải quán triệt cho gia đình cũng như cô ta hiểu rõ tình hình. Chúng ta còn rất nhiều việc hệ trọng phải làm, chúng tôi cũng tin là gia đình và cô ta sẽ thấy được vấn đề để nhận lại cháu bé. Liên quan của em đến đâu và mức độ ra sao thì sẽ giải quyết từng bước. Còn tham mưu trưởng lại trầm ngâm: - Nhưng nếu như tìm đến nhà mà họ không nhận và cũng giả định là cô gái không có ở đấy, chưa về hoặc đã bỏ đi chỗ khác thì sao đây? Mọi vấn đề được lật đi lật lại, các tình huống được giả định và các phương án khắc phục được nêu ra. Cuộc hội ý rồi cũng đi đến hồi kết thúc. Văn thư tiểu đoàn khua máy chữ rào rào, văn bản đưa ra tới tấp, riêng Hạnh được nhận hai tờ giấy có cùng nội dung được đóng dấu đỏ chói: Đơn vị M ngày... tháng 2 năm 1972 Kính gửi: ủy ban hành chính xã Bạch Đằng Cháu bé đây không phải là con của quân nhân Nguyễn Thị Hạnh. Do những khó khăn mà đơn vị chưa thể khắc phục được, nếu gia đình đồng chí Hạnh rộng lượng, vui lòng tiếp nhận và nuôi dưỡng cháu thì đơn vị hết sức hoan nghênh và cũng mong ủy ban hành chính xã tạo mọi điều kiện cho gia đình trong việc nuôi dưỡng chăm sóc cháu. Đơn vị xin biết ơn gia đình, ủy ban hành chính xã và xin gửi lời chào quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. T/M. Đơn vị, Tiểu đoàn trưởng: Thượng úy Đỗ Văn Huynh Những người chờ và đi trên chuyến tàu chợ lúc 7 giờ 45 phút tối hôm 4 tết năm ấy từ Thanh Hóa ra Hà Nội hẳn chưa quên cảnh một đôi trai gái mặc quân phục nhưng mặt mũi còn non choẹt, bế theo một đứa bé, tất tưởi chen lên tàu. Anh chàng trông cao ráo lắm, đẹp giai nhưng thái độ gượng gạo, có vẻ thất thế, đeo hai ba lô cái trước cái sau, đi trước mở lối. Cô gái không đẹp, dáng người đẫy đà, bộ quân phục có vẻ hơi chật so với vóc dáng tràn đầy sinh lực của cô. Nét mặt hiền lành, thái độ bình tĩnh, cô gái chậm rãi đặt từng bước chân. Có vẻ như cô vừa sợ ngã, cũng như sợ ai đó vô tình bất cẩn, động vào đứa bé. Cả hai không ai nói với ai câu nào, và từ lúc ở sân ga cũng như khi lên tàu, đôi trai gái nhẫn nhịn, chịu đựng những cái nhìn đầy ẩn ý của mọi người. Tàu chạy được một đoạn, đứa bé ậm ẹo khóc. Rồi nó khóc to hơn. Bà khách sồn sồn ngồi dựa lưng vào ghế của đôi trai gái nói vọng sang: - Nó đói đấy. Anh chàng lóng cóng lôi ra cái bát sắt quân dụng, rồi bi đông nước, rồi đường, rồi sữa, rồi lập cập pha pha quấy quấy. Thằng bé vẫn nhắm nghiền mắt, chóp chép uống được vài thìa, rồi nó nghẹo đầu ngủ. Im lặng chỉ được mươi phút. Thằng bé lại khóc và lần này thì nó khóc to hơn, lâu hơn. Nghe mà sốt ruột quá. Bà khách sồn sồn nghển cả người lên thành ghế, càu cạu nhìn cô gái rồi càu nhàu: - Rõ chẳng ai như nhà chị này, con khóc như thế mà cấm chịu vạch áo.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> cho nó bú. Không có sữa thì cứ cho nó ngậm. Tí tởn lắm vào, giờ còn xấu hổ nỗi gì. Cô gái thở dài, bặm môi quay mặt đi. Cô gái ấy chính là Hạnh. Hạnh chẳng hé răng đến nửa lời, cô chỉ thấy mệt và đói, đúng rồi, suốt từ trưa đến giờ, Hạnh đã ăn uống gì đâu. Khi trưa, nghe chị em kháo nhau, thế là cô chạy sang. Khi thấy thằng bé nằm chỏng chơ ở phản, khóc oe oe, chủ nhà cũng không có ai, thế là cô bế thằng bé lên. Lúc đầu thì cô cũng thấy ngột và khó chịu lắm vì thằng bé cứ rúc đầu vào ngực cô. Sau cô cũng thấy bình thường, quen quen đi rồi chỉ thấy thương nó. Da nó đỏ hồng, những mạch máu li ti, mầu xanh, mỏng manh và yếu ớt. Môi nó bé xíu, nhỏ như hai cánh hoa hồng. Hai mắt nhắm nghiền, trông nó tội nghiệp, giống như con chuột đồng mới đẻ: Người ta bảo những đứa bé trông đỏ đắn như thế này, khi lớn lên sẽ trắng trẻo xinh xắn lắm, chẳng biết có đúng thế không. Mà sao mẹ nó bạc ác, nhẫn tâm đến thế. Những ý nghĩ ấy cứ miên man, lộn xộn trong đầu Hạnh. Cho đến khi bảo là phải bế nó lên tiểu đoàn, Hạnh có ý nghĩ là muốn bế nó thêm một lúc nữa. Thế là Hạnh xung phong. Lên đến Tiểu đoàn, khi chờ các thủ trưởng hội ý, rồi lại nghe nói phải bế thằng bé đi tàu ra Hà Nội, tự dưng Hạnh lại thấy ái ngại thay cho Phú. Chứ còn sao nữa, cả một đoạn đường trường như thế, anh ta sẽ xoay xở ra làm sao. Hơn nữa cô cũng lờ mờ cảm thấy là thằng bé có vẻ bén hơi cô. Thế là Hạnh lại xung phong. Bây giờ, khi đã ở trên tàu, Hạnh không hề ân hận một tí nào về việc đã bế thằng bé. Cô chỉ thấy mệt và đói. Tàu chợ, ì ạch như rùa leo dốc, lại người lên người xuống, í ới gọi nhau, ồn ào chen lấn. Hơi người nồng nặc, ngột ngạt quá. Thằng bé ngủ không yên, nó cứ giật mình thon thót và khóc liên tục. Có lúc tiếng khóc của nó như tắc đi, nghẹn lại, nó nấc từng hồi, còn mắt thì vẫn nhắm nghiền. Hạnh thấy xót xa trong lòng, đã mấy lần cô trào nước mắt nhưng vì tối quá nên không ai nhận thấy. Bụng dạ Hạnh rối bời. Lúc thì cô muốn tàu chạy nhanh, về là tìm được và trao ngay thằng bé cho mẹ nó, để nó khỏi mệt. Nhưng chỉ lát sau thì cô lại mong ngược lại, rằng tàu chạy thế này cũng chẳng sao, cứ như thế này mãi cũng được. Đấy, nó đã im và ngủ ngon lành rồi còn gì. Hạnh chẳng muốn xa thằng bé tí nào. Vừa chớm hình dung ra việc phải trao thằng bé cho mẹ nó, cô tự đập vào tay mình một cái, dứt khoát không nghĩ nữa. Và Hạnh ôm chặt thằng bé vào lòng. Bên cạnh anh chàng Phú đã say sưa ngủ từ lúc nào. Tang tảng sáng, tàu đến ga Hàng Cỏ. Phú đeo ba lô đi trước dẫn lối, còn Hạnh bế thằng bé, lếch thếch theo sau. Vòng vèo mấy dãy phố thì đến nhà cô gái, linh tính báo cho Hạnh biết là cô gái không có ở đây, điều đó cứ làm cô băn khoăn, không biết nên vui hay nên buồn. Phú luồn tay qua cái lỗ nhỏ sát tường của cái cổng sắt đã bắt đầu xệp xệ, thấy vang lên hai tiếng leng reng ngắn, rồi lại thấy Phú cúi xuống, di di mũi giày. Có tiếng loẹt xoẹt, rồi một người đàn bà gày gò mà Hạnh có cảm giác là ở bà ta cái gì cũng nhòn nhọn, bà ta cau có rút cái chốt then cổng. Khi nhận ra Phú, ánh mắt sắc lẹm của bà ta cụp xuống rất nhanh, bà ta cất giọng vồn vã nhưng nhạt thênh thếch: - Ô cậu Phú! Cái gì thế? - Cháu muốn hỏi: Tuyết có nhà không ạ? - Sao, anh vẫn còn hỏi nó cơ à? Nó không có ở đây. Hạnh thấy rõ ràng là bà ta sững người khi trông thấy cô bế thằng bé. Rồi bà ta nhẹ giọng: - Chào cô, là cũng mong cô thông cảm giúp. Bất tiện quá nhưng tôi cũng đã đến giờ đi làm. Mặt Phú tái đi, Phú ngắc ngứ bảo: - Cô ạ chuyện là thế này: Hôm qua Tuyết có vào đơn vị cháu... Mắt bà ta long lên, bà ta xoe xóe:.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Nó cũng đến chỗ anh cơ à, thế thì con này hư thân mất nết quá rồi, vào đấy làm gì cho anh mất thì giờ. Mà này, nói thật cho anh biết nhé, gia đình tôi từ nó đã từ lâu rồi! Bỏ mặc Phú và Hạnh đứng ở chỗ nửa đường nửa sân như thế, bà ta ngoảnh người bước vội vào trong nhà, lại còn đóng mạnh cửa ra vào đánh rầm một cái, làm thằng bé giật nảy người. Một vài ánh mắt của những người chung quanh, rồi cũng cái nhìn na ná như thế của những người qua đường tò mò nhìn Hạnh và Phú, Hạnh thấy bối rối khó nghĩ quá. Rồi Hạnh lại thấy Phú cũng quay ngoắt người, lùi lùi bước. Thái độ yếm thế ấy của Phú làm Hạnh bực mình, Hạnh lật đật bước theo và hỏi khẽ: - Thế nào, đi đâu bây giờ? - Tôi phải quay lại nhà cô ta, tìm gặp bằng được mẹ cô ta rồi muốn ra sao thì ra. Thật là nhẫn tâm, thật là vô nhân đạo! Tất cả những điều được chứng kiến từ sáng làm cho Hạnh thấy buồn nản, Hạnh mệt mỏi bảo với Phú: - Vô ích thôi, anh không tìm thấy cô ta thì cãi vã với bà ấy phỏng có ích gì, bà ấy cố tình ruồng bỏ thằng bé rồi, anh có thấy như thế không? Trong lúc thay tã cho thằng bé, chợt nhớ đến hy vọng cuối cùng, Hạnh nói: - Anh thu xếp đi, về nhà tôi. Chị gái tôi cũng mới sinh cháu, may ra... Về đến làng vào lúc non trưa, vừa ở trên xe bước xuống, Hạnh đã xăm xăm rảo bước đi trước làm Phú cứ như phải chạy gằn theo sau. Trong lòng Hạnh vừa xốn xang, vừa rối bời. Đã ngót năm nay cô chưa được về làng, những cảnh vật quen thuộc loang loáng trước mặt, một vài người í éo gọi cô chỉ trỏ điều gì đó. Hạnh cứ gật đầu bừa mà xăm xăm bước vội. Thực tình thì Hạnh có nóng ruột, không biết chuyện này rồi được thu xếp thế nào. Tâm trí cô dồn hết vào thằng bé và cô thấy trách nhiệm đặt hết lên vai mình, thôi thì hãy biết thế đã. Thằng bé sắp được bú, đúng rồi thằng bé sắp được bú sữa của chị cô, điều ấy như thúc giục, làm cô bước nhanh hơn. Khỏi phải nói gia đình Hạnh ngạc nhiên đến mức nào và băn khoăn ra sao khi thấy Hạnh nói ra dự định của mình. Cô như đọc ra được những ánh mắt của mọi người và thấy lo lo, chột dạ khi chờ thầy mình xem giấy tờ. Mân mê mãi tờ giấy, lại mân mê đến cặp kính lão, rồi thầy Hạnh cũng nói khẽ khàng: - Dù sao cũng là việc phúc đến nhà. Cũng là vất vả lắm đấy, thôi thì cũng tùy ở mẹ Tâm cả thôi! Hạnh muốn nhảy lên khi nghe thấy bố nói ra điều ấy, cô cũng cảm thấy chị Tâm cũng thích thích thằng bé. Cơm nước xong xuôi thì họ lại lếch thếch kéo nhau lên ủy ban. Ông phó chủ tịch xã chậm rãi đọc tờ công văn của đơn vị rồi đưa mấy tờ giấy khai sinh cho Phú. Ông hỏi như bâng quơ: - Đặt tên nó là gì đấy. Nghĩ đến câu nói của bố lúc trưa, lại chưa thấy Phú nói gì, Hạnh lanh chanh: - Phúc ạ, Nguyễn Hồng Phúc, bác ạ. - Mắt anh tinh, anh viết đi rồi tôi ký. Khi Phú viết xong, vừa liếc qua ông đã xổ ra một tràng: - Chữ anh này đẹp ghê, đại học hả? Nhưng không được, không được rồi. Thằng bé phải có mẹ chứ? Phú tần ngần: - Bác ạ, cháu không muốn ghi tên người đàn bà bạc bẽo ấy vào đây một tí nào. Ông phó chủ tịch lắc đầu quầy quậy: - Không được. Tôi cũng không hiểu anh đại học ở cái chỗ nào. Tôi hỏi anh nhé: Anh đẻ ra nó bằng đường nào, bằng nách à? Mặt Phú như dài thuỗn ra, Phú chẳng nói được câu gì. Im lặng dễ đến hàng phút. Một ý nghĩ chợt đến, thế là Hạnh nói luôn:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Hay đề tên cháu hở bác? Phải rồi, anh đề tên tôi vào cũng được! Nói dứt lời, Hạnh lại đỏ mặt tưng bừng. Ông phó chủ tịch trân trân nhìn Hạnh. Rồi ông ngả người, cười khà khà: - Thôi thì tùy nhé! Mà này, bút sa gà chết đấy con ạ. Gà con thì sống, còn chẳng biết gà mẹ sau này đào bới ra sao? Lúc ấy, Hạnh chẳng bận tâm tý nào về ý tứ câu nói ấy của ông phó chủ tịch. Nhìn nét mặt như nhẹ đi của Phú, cô cúi xuống nhìn thằng Phúc đang hé mắt hấp háy, hình như là nó đang cười với cô. Còn Hạnh, cô chỉ nghĩ: - Gớm, anh tí con ạ, được bú đẫy có khác. Tối hôm ấy, Hạnh và Phú lại xuống ga, lên tàu quay trở về đơn vị. Cái ánh đèn bão lúc lắc, lúc lắc ở cuối đoàn tàu xa dần rồi mất hẳn. Hạnh nhìn ra ngoài: tối như mực. Con tàu lao vun vút trong đêm. Hạnh thấy mình lâng lâng, như nhẹ bỗng, nhưng rồi lại nặng trình trịch. Cô nhớ thằng Phúc, cô ứa nước mắt, buột miệng gọi: con ơi. Chừng như nhớ ra, cô giật mình quay sang: bên cạnh anh chàng Phú ôm ba lô, đã ngủ, say sưa từ lúc nào. Sẩm tối ngày 26-3-1972, lúc đại đội đi hội trại hết trên tiểu đoàn thì Hạnh nhận được thư chị Tâm. Chị Tâm viết: ... Mọi việc ở nhà vẫn bình thường. Còn thằng Phúc, lạy trời nói trộm vía thì nó cũng dễ nuôi đấy. Nó đã biết lẫy. Dưng mà, cả đường và sữa gửi về nhà nhiều quá. ăn thì lâu hết mà bán đi thì bất tiện. Mà các em cũng phải giữ lại để bồi dưỡng sức khỏe chứ. Còn việc này thì chị muốn nói riêng với dì là hôm đi, dì có đưa cho 12 đồng, mấy hôm sau lại thấy dững 35 đồng trong giấy khai sinh của thằng Phúc. Thế là của Phú rồi. Hôm nọ lại gửi về 7 đồng nữa, cho nên là lúc nào, dì cũng phải lựa lời mà nói với chú ấy. Chị cứ nghĩ nếu như chị đẻ sinh đôi, thêm thằng Phúc thì cũng đến vậy mà thôi... Nói vào lúc nào nhỉ, mà lựa lời là thế nào? Hạnh thấy bí quá và băn khoăn cho đến tận lúc ngủ. Thời gian lặng lẽ trôi đi... Ngày 2-9-1975, trung sĩ quân y Nguyễn Thị Hạnh được Bệnh viện huyện tiếp nhận vào làm việc. Vai đeo ba lô, tay xách hai con búp bê có những cái mắt nhấp nháy, khi vừa xuống tàu và đặt bước chân đầu tiên xuống sân ga, Hạnh khẽ reo lên: thế là xong. Trong lòng cô, đâu đó như có tiếng hát ngân nga. Cô sắp được gặp lại cha mình, gặp lại chị, gặp lại quê hương. Cô không đi đâu xa nữa, cô luôn được ở gần họ và một điều làm Hạnh thích thú lắm, ấy là được gặp lại thằng Phúc. Chắc nó cũng lớn chứ nhỉ, đã gần bốn năm rồi còn gì. Bước chân vào cổng, Hạnh thấy chị Tâm đang sàng gạo, còn hai đứa bé đang chơi đùa gì đó. Hạnh nhận ngay ra thằng Phúc, nó e dè nhìn Hạnh. Chị Tâm cười cười: - Các con chào dì đi. à, Phúc thì phải chào mẹ, mẹ Hạnh vẫn viết thư về cho con đấy. ôi chào, búp bê đẹp chưa này. Chào mẹ đi. Thằng Phúc vẫn ngập ngừng, nói ấp úng câu gì đó rồi lảng ra sau lưng chị Tâm. Hạnh buông ba lô, cô bước lại rồi xoa đầu nó: - Ừ, dì cũng được. Hôm nay thì tha, nhưng mai phải gọi là mẹ. Dì mới thực là mẹ, mẹ đẻ ra con đấy. Rồi Hạnh bật cười rũ rượi, chị Tâm nắc nẻ cười theo làm hai đứa trẻ cứ ngơ ngác mãi. Đêm hôm ấy, Hạnh thấy khó ngủ quá. Lẽ ra phải ngược lại mới đúng chứ. Cô nhủ thầm như thế rồi tự đoán, chắc là vì lạ nhà, hoặc lúc tối phải uống một hai chén trà đặc khi tiếp mọi người đến chơi. Lúc sắp đi ngủ, Hạnh phải dỗ dành mãi, rồi chị Tâm cũng phải quát lên nữa, thằng Phúc mới phụng phịu, lên chõng nằm cạnh Hạnh. Thấy nó cứ vật vã, sì sục Hạnh nghĩ là có thể nó lạ nên phải vỗ về nó mãi. Rồi cô nghĩ đến việc những người mẹ hay ru con. Thế là cô cũng đọc lên khe khẽ.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> những bài hát, câu ca từ đời nảo đời nào, mãi như thế thành thử Hạnh lại thiu thiu ngủ trước. Giấc ngủ có vẻ êm đềm, đang đến một cách chậm chạp khó khăn, bỗng Hạnh giật bắn người, có cái gì đó lờ quờ, mơn man trên ngực cô. Hiểu ra là tay thằng Phúc, Hạnh thở phào. Cô kéo lại áo rồi mắng nó: - Làm thế là xấu, ngủ đi. Thằng Phúc không chịu, có lẽ nó cũng mới gà gà ngủ. Rồi nó nhì nhèo bật khóc ti tỉ, đòi vào với mẹ Tâm. Đêm đã khuya lắm, Hạnh phải nghiêm giọng: - Nín ngay, mẹ đánh đòn bây giờ. Lời dọa của Hạnh chẳng có tí hiệu lực nào, thằng Phúc cứ nhì nhèo, ghét thế không biết. Gian bên, chị Tâm cũng đã tỉnh giấc. Vừa nghe giọng chị Tâm, thằng Phúc đã lồm cồm ngồi dậy, dỏng tai chờ đợi. Thấy chị Tâm bảo: - Xin lỗi mẹ đi. Nhưng chỉ đợi có thế, thằng Phúc ngắc ngứ câu gì, rồi vén màn chạy tót đi làm Hạnh cứ buồn cười mãi. Nghỉ ở nhà nửa tháng thì Hạnh đi nhận việc. Cô được bố trí một phòng riêng 15 m2 trong khu tập thể của bệnh viện. Trong phòng có một cái giường cá nhân bằng sắt sơn xanh hòa bình đã chớm rỉ , một cái tủ gỗ mỏng dính, quét sơn mầu trắng nham nhở, có chiều cao bằng chiều rộng của cái giường. Không sao, thế là quá hạnh phúc, quá thừa thãi so với khi nằm võng ở rừng. Hạnh nghĩ thế lúc kê lại cái tủ đã ọc ạch, có tiếng mọt cọt kẹt đâu đó. Những ngày này với Hạnh mới dễ chịu làm sao. Nắng như không gay gắt mấy còn mưa dầm gió bấc hình như cũng ít hơn thì phải. Đi đâu cũng ríu rít hai mẹ con, đồng nghiệp hàng xóm thì quen rồi, chứ bạn bè xưa ít gặp thì chắc lạ lẫm và ngạc nhiên lắm. Hạnh luôn nhớ đến ơn của bố cô, đến công sức quá vất vả của chị Tâm. Này nhé, Hạnh không phải mang nặng đẻ đau, không phải gánh một tí điều tiếng gì, không bú mớm nâng giấc, thuốc thang sài đẹn cũng không nốt, ấy vậy mà bây giờ, cái thằng Phúc trông như trong tranh, lúc nào cũng bi bô gọi cô là mẹ. Còn muốn đòi gì và còn gì hơn thế nữa. Cô ngồi trông nó xúc cơm ngon lành thì chỉ muốn nó ăn thêm bát nữa. Với Hạnh thế nào cũng xong, bo bo, bột mỳ hay ngô tẻ già luộc thì cũng như nhau cả thôi, mà cô còn nhịn ăn, có lúc bỏ bữa đấy. Hình như Hạnh có béo lên, quần áo cứ chật dần. Cũng chẳng sao, miễn là đừng ốm đau, mệt mỏi gì là được. Nhưng Phú chẳng có tin tức thư từ gì cả. Sao thế nhỉ, hòa bình đã mấy năm rồi, bao nhiêu người đã nườm nượp trở về, chí ít thì tin tức cũng đã rõ ràng. Hay là anh ta đã, không, chắc không việc gì đâu, mình thật vớ vẩn. Chỉ cần Phú đã trở về, nhớ đến Hạnh hay không thì tùy, miễn là trông thấy thằng Phúc là được, trông nó, Phú phải thích lắm nhỉ? Đôi lúc Hạnh cứ nghĩ miên man, vẩn vơ như thế và cô cũng phải tự thú nhận là hồi này cô hay nghĩ và nhớ đến Phú rất nhiều. Có lần, đã lâu lắm, cô mơ thấy Phú nhưng máu me đầy mình và có mùi hôi khó chịu lắm, nhưng chỉ thoảng qua thôi và cô tỉnh ngay được. Còn lần sau, đấy là một trưa chủ nhật, cả hai mẹ con cùng đi ngủ. Giấc ngủ êm đềm đến thật nhẹ nhàng. Hạnh thấy mình đang đi lên một quả đồi, chung quanh toàn hoa sim, mát mẻ và vắng lặng lắm. Bất ngờ, Phú ở trên đồi chạy xuống quần áo mới tinh, hàm răng trắng bóng. Phú ôm chầm lấy Hạnh nhấc bổng cô lên rồi lại đặt cô xuống. Hạnh như lịm đi, cô kêu lên: "Ôi, anh ơi!", nhưng cô lại cuống quít, hình như không phải Phú, đấy là khuôn mặt của ông bảo vệ bệnh viện... Không được, cứu, cứu tôi với, mà sao vắng lặng thế này. Tiếng kẹt cửa làm Hạnh tỉnh giấc. Hạnh dụi mắt và tự cấu vào mình, thì ra là Hạnh vừa mơ. Nhưng máu vẫn rần rật và người cô vẫn còn bừng bừng. Thằng Phúc hỏi: - Mẹ gọi gì đấy. Hiểu ra thằng Phúc đã không ngủ, trốn mẹ đi chơi, Hạnh thấy tức nó. Cô mắng nó xơi xơi: - Gọi gì à, làm sao mà không ngủ. Đi đâu về nhễ nhại thế này. Quần áo.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> nữa kìa, bẩn quá đi thôi. Phúc, tự úp mặt vào tường đi. Thằng Phúc nhích nhắc đi vào tường, len lét quay đầu nhìn mẹ. Chắc nó cũng ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy mẹ nó. Người đang ngồi trên giường kia, tóc tai rã rợi, mặt mũi sưng sỉa đỏ như phát ban, lại đang gầm gừ quát tháo, có lẽ không phải mẹ nó. Chừng như Hạnh cũng nhận ra một điều gì quá đáng ở mình. Cô im bặt và lặng lẽ soi gương. Cô giật mình khi thấy mình lạ đến thế. Gớm ghiếc làm sao. Rồi Hạnh cũng tĩnh trí lại được. Cô ôm chầm thằng Phúc vào lòng, nhẹ nhàng xoa đầu nó và không nói một câu nào nữa. Nhưng suốt cả chiều hôm ấy, Hạnh như người khác. Người cô cứ nóng ran,mụ mị và mê muội đi. Trong cơn mộng du và nỗi thèm khát dai dẳng, Hạnh tự hành hạ mình, với một cái cuốc và một đôi quang gánh, cô thay toàn bộ lớp đất trên mặt của 12 m2 đất được chia để trồng rau. Chẳng nhớ là bao nhiêu gánh, gánh đất cũ đi và gánh đất mới về. Ai hỏi, Hạnh bảo đất này bạc màu rồi. Đêm về, nỗi ám ánh ấy vẫn không buông tha cho Hạnh. Cô không tài nào ngủ được. Hạnh giở thư của Phú, chỉ có hai lá thôi mà cũ lắm rồi, cô đã thuộc lòng. Hạnh thoáng thấy lo lo khi mân mê cái khăn mặt mà Phú quàng lên cổ cô hôm nào. Rồi Hạnh lấy diêm và một tờ báo. Hạnh đốt tờ báo và hơ cái khăn lên đó. Tờ báo cháy lem lém. Người ta bảo làm như thế này là người đi xa phải nóng ruột. Chẳng biết có đúng không? Ngày 15-8-1978. Hạnh đi xin cho thằng Phúc vào học lớp 1, trường của thị trấn. Người ta yêu cầu phải có giấy khai sinh và hộ khẩu, kèo nèo mãi thì người ta cũng nhận. Lý do phải nói khó là vì thằng Phúc chưa có hộ khẩu ở thị trấn. Người ta trách cô, sao mà bất cẩn quá, sao mà không nhập hộ khẩu cho thằng Phúc. Hạnh cũng không ngờ cái chuyện giấy tờ hành chính lại lôi thôi, nhiêu khê đến thế. Cũng không nên trách cô, thực ra Hạnh đã chủ tâm bởi cô tính rằng cứ để việc thằng Phúc đấy, đợi Phú về hãy hay. Cô chẳng muốn nói ra vì chính cô cũng thiệt thòi nhiều khi mấy năm không làm hộ khẩu cho thằng Phúc theo mình. Đã mấy lần có mấy người nhắc, cô chỉ ậm ừ. Là bởi vì cô đã tính thế. Nhưng đến nước này thì không thể được nữa rồi, phải làm hộ khẩu cho thằng Phúc thôi. Biết khi nào Phú mới về. Nộp đơn và giấy khai sinh hôm trước thì chiều hôm sau Hạnh được mời lên phòng tổ chức hành chính để làm việc. Bình thản ngồi xuống ghế, Hạnh lặng lẽ nhìn người cán bộ phụ trách việc quản lý theo dõi hồ sơ. Có lẽ anh ta chưa đến 40 tuổi, quần áo phẳng phiu, da trắng bệch, cặp mắt bé tí như hai vết rạch tiểu phẫu trên khuôn mặt bèn bẹt. Tóc lưa thưa, mươi sợi dài thõng thượt, cố che lấy cái trán đã hói trơn lên tận đỉnh. Hôm nay, Hạnh mới nhìn rõ mặt anh ta, chẳng biết ai rỗi hơi nói là anh ta mê Hạnh. Mình thì có đẹp gì nhưng anh ta thì rõ là đồ trai hoi. Nghe nói con gái anh ta cũng đã lớn lắm và anh ta đang chê vợ già, quê đâu xã dưới thì phải. Hạnh chẳng thấy ưa anh ta tí nào. Anh ta rót nước, cất giọng điệu đà và mềm như bún: - Uống nước đi em, thế bao giờ cho các anh ăn cỗ đấy nhỉ? - Chưa, có lẽ cũng còn lâu đấy - Hạnh đáp qua loa cho xong chuyện. Cái giọng mềm oặt ấy vẫn không tha, hình như nghe lại thẽ thọt hơn: - Lâu là đến bao giờ, anh ấy đang làm gì, chức vụ thế nào, công tác ở đâu? Hạnh xẵng giọng: - Làm gì, ở đâu, dễ thường tôi phải khai với anh à? Im lặng. Khuôn mặt bèn bẹt ấy không hề biến sắc. Anh ta nhếch một cái cười, tợp một ngụm nước. Rồi anh ta rướn người, nghiêm mặt: - Xin lỗi, có những việc tổ chức phải được biết và nắm rõ. Đồng chí Hạnh chưa lập gia đình có đúng không? - Anh xem lý lịch thì rõ..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Có nghĩa là chưa kết hôn. Vậy cháu Phúc là con ngoài giá thú? Hạnh ớ người, cô chẳng biết trả lời thế nào. Anh ta lại dồn tiếp: - Tại sao đồng chí không ghi vào lý lịch. Anh ta đắc thắng, kẻ cả chìa mấy bản lý lịch mới toanh: - Yêu cầu đồng chí ghi rõ và bổ sung lý lịch. Ngày hôm nay là... Chẳng phải nghĩ ngợi gì, Hạnh ngoáy ngoáy trên mấy tờ lý lịch ấy. Mà việc gì phải nghĩ ngợi, việc làm rõ như ban ngày, trước chưa khai thì bây giờ khai, đã sao đâu nào. - Hết rồi à. Hạnh chẳng buồn đáp, buông cái bút đánh cạch xuống bàn. - Chiến tranh, thời chiến mà? Biết vậy, cũng không ngờ nhỉ - Cái giọng mềm oặt ấy lại nhẽo nhợt. Hạnh thấy bừng bừng trong người, cô đứng phắt dậy: - Anh không được nhắc đến thời chiến, biết vậy thì anh làm gì nào. Này, nói cho anh biết nhé: Anh có mắt cũng như không. Cái mặt mỏng dính ấy càng bẹt thêm ra, anh ta cũng chồm lên rồi the thé: - Cô nói bé thôi, quát ai đấy. Tôi cảnh cáo cô về hai tội: thiếu trung thực với Đảng và lăng mạ cán bộ. Làm gì à, rồi cô khắc biết. Hừ, trông thế mà lẳng lơ! Hạnh đập bàn đánh rầm: - Lẳng lơ à, thì đã sao? Còn hơn khối kẻ rúc nách vợ! Đùng đùng bỏ ra ngoài, Hạnh vẫn còn thấy gai cả người. Cô chẳng sợ gì cả, nhưng cô thấy buồn quá. Buồn cho chính mình, mà hôm nay làm sao mình lại ngoa ngoắt như thế. Buồn cho sự đời nhiêu khê và phức tạp, chuyện của cô đơn giản, khác nào một cộng một bằng hai, vậy mà nhiều người vẫn chẳng tìm hiểu cho ra ngọn ngành, đưa cô vào thế bí, lại còn buộc tội cô nữa. Cả chiều hôm ấy, Hạnh thấy chán ngơ chán ngắt, cô chẳng tập trung đầu óc tí nào. Đã vậy, chiều tối về nhà, thầy Hạnh lại nhắc đến chuyện riêng của cô làm cô càng sốt ruột. Cô ngồi đầu hè tựa lưng vào cột, lặng lẽ nhìn bầu trời cao rộng mà thấy rối bời. Trăng chưa lên. Bầu trời chi chít những sao là sao, lặng lẽ và nhấp nháy. To rộng thế nhưng xem ra lại mạch lạc chứ không lộn xộn, rối mù như trong đầu cô. Thực ra Hạnh cũng thấy núng thế lắm rồi. Cô cũng biết mình rõ lắm chứ! Bao nhiêu gương mặt của những người đàn ông như chập chờn trước mặt. Anh Tứ thầy giáo cấp 3 nhé, anh Vân công an huyện. Rồi cả anh Bảo mới lên phó chủ tịch huyện phụ trách nông nghiệp nữa chứ. Toàn là những người đàng hoàng cả và họ cũng đều thực lòng với cô đấy thôi. Nhưng cứ nghĩ đến chuyện phải yêu ai thôi là cô lại thấy ngài ngại. Cô nghĩ đến hình ảnh thằng Phúc nằm chỏng trơ ở phản năm nào. Có khác nào cô là người bỏ rơi nó. Rồi với Phú nữa, nghĩ đến người khác tức là không chung thủy với Phú. Nhưng đã có gì với nhau đâu. Mà như thế thì đáng gọi là gì nhỉ? Phải, hôm ấy, trời cũng đầy sao thế này, có điều oi bức hơn thôi. Suốt từ trưa, cả tiểu đội Hạnh quần quật với những chuyện chia bôi gạo, cá khô, mắm ruốc. Rồi còn nắm cơm cho hơn trăm con người. Lúc sẩm tối, Phú có đến tìm thì Hạnh vẫn nói tưng tửng: - Vâng! Thế anh đi mạnh khỏe nhé. Rồi Hạnh lại cắm cúi với công việc. Thấy Phú cứ loanh quanh rồi lật đật chạy đi, Hạnh bỗng thấy bứt rứt: Dù sao thì anh ta cũng sắp đi xa, vào nơi hòn tên mũi đạn chứ có phải chuyện chơi, lành dữ đã biết thế nào, rồi cô lại nhớ đến thằng Phúc. Thôi thế là bố nó phải đi xa thật rồi. Chẳng gì thì cũng có chuyện liên quan đến thằng bé... Hạnh chưa biết làm gì thì tiếng còi tập trung đã cất lên lanh lảnh, nghe đanh từng hồi dài. Trong bóng tối oi bức của một ngày đầu hè, những ánh đèn pin loang loáng, những tiếng gọi í ới, thúc giục, nhắc nhở nhau. Rồi chỉ loáng sau, từ các ngõ xóm, hơn trăm con người, lặc lè ba lô, lỉnh kỉnh súng ống, lầm lũi trong bóng tối, nối nhau ra tập trung ở sân kho, trước cửa bếp nuôi quân của Hạnh..

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Vịn tay vào cây cột, Hạnh căng mắt. Là Hạnh có ý tìm Phú, nhưng trông ai cũng giống nhau quá, mũ cối sùm sụp thế này. A, nhưng tiểu đội trưởng thì thường đi đầu đấy. Mới được có ba hàng, Phú đâu nhỉ? Hạnh đang căng mắt thì Phú lại đến ngay cạnh làm cô kêu ớ lên một tiếng. Dưới vành mũ cối, Hạnh thấy hàm răng Phú trắng lấp lóa: - Tôi đi đây, chào Hạnh lần nữa nhé! Hạnh thấy mình run run. Cô đang cố tự chủ, định nói câu gì cho thật tình cảm nhưng đúng mực. Nhưng lạ quá, đầu óc như biến đâu mất cả mà khuôn mặt với hàm răng trắng lóa của Phú cũng như mờ đi. Ô hay, mình khóc à. Hạnh thấy tay Phú cũng run run khi nắm tay cô. Khuôn mặt hai người gần nhau lắm. Đột ngột, Phú kéo khuôn mặt cô rồi hôn lên tới tấp. Hạnh thấy rụng rời cả chân tay, cô chưa biết phản ứng thế nào thì bàn tay Phú đã xoa rất dịu dàng lên khuôn mặt cô, rồi lại ở phía sau trên thắt lưng. Hạnh chẳng biết làm gì cả, cô không kịp kêu. Hình như Hạnh có dướn người lên. Việc ấy chỉ xảy ra trong mươi giây, Phú nói nghẹn ngào quá: - Anh đi, em ở lại nhớ giữ gìn sức khỏe. Nhất định anh sẽ về với em, với con. Người Hạnh run như phải cảm. Cô không nói được câu gì rành rẽ. Nước mắt khiến cô tắc nghẹn. Phú cởi khăn của mình lau cho cô rồi quàng lên cổ Hạnh. Tiếng chỉ huy dõng dạc: Đại đội tập hợp. Tất cả chỉ có vậy, thế là Phú đi, đi mãi. Nhớ tới chuyện cũ hôm nào, Hạnh thấy trong người bừng bừng. Cô chạy ra giếng, rồi cứ nguyên cả quần áo như thế múc nước dội ào ào. Tiếng thùng va vào thành giếng loảng xoảng trong đêm khuya. Lời bàn của những người ngoài cuộc. Tôi, phó ban bảo vệ một công trường trọng điểm biết được câu chuyện trên một cách hết sức tình cờ. Cậu nhân viên dưới quyền đưa cho tôi một quyển sổ bìa bọc nhựa đen đã cong queo, một cái gương soi bé xíu đã mờ và một khăn mặt mầu cỏ úa đã cứng quèo. Cậu ấy nói nhặt được mấy thứ trên tại bãi cỏ hoang, cạnh hàng rào của công trường mà chúng tôi đang thi công. Cậu ấy phán đoán: có thể những thứ này là vật chứng còn lại của một vụ trộm nào đó mà bọn bất lương đã bỏ lại. Bởi ban bảo vệ chúng tôi đang giữ những thứ ấy nên tôi đã thông báo, ai là chủ nhân của chúng xin liên hệ theo số máy: - Trong giờ: 04. 864196. Hoặc ngoài giờ: 04.862.408. Sở dĩ tôi phải nói vậy là vì trong cuốn sổ ấy không thấy đề quê hương địa chỉ gì cả. Trang đầu chỉ ghi Nguyễn Thị Hạnh, hòm thư 705161 JC..., mấy số sau ở sát mép trang bị quăn, số lại mờ nên không đọc được. Trang tiếp theo chép những câu danh ngôn, chẳng hạn câu đầu tiên là: "Thép đã tôi trong lửa đỏ và nước lạnh. Lúc đó, thép trở nên cứng rắn và không hề biết sợ". - ... Những trang tiếp theo chép những bài hát, được ưa thích một thời như: Đường cày đảm đang, Tiếng hát trên Đường 9 chiến thắng, Câu hò trên bến Hiền Lương... Có cả bài Ru con Nam Bộ. Rồi lẫn lộn vào đấy là những câu thơ, có những câu chẳng rõ đọc được ở đâu. Ví như: - Nước còn giặc ta đi đánh giặc. Sức trẻ lên đường, Đất nước chuyển rung. Để trống năm trang thì đến những dòng nhật ký. Ngày bắt đầu là 31-12-1971, ghi.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> lại những cảm xúc đầu tiên khi xa nhà, nỗi nhớ gia đình, quê hương. Những ngày tiếp theo nói về cuộc sống quân ngũ, những chuyện phấn đấu, riêng tư và dừng lại ở đoạn cuối cùng như tôi vừa kể trên thì còn một tí nữa là hết giấy. Đọc những dòng nhật ký ấy, tôi thấy rất ấn tượng. Nét chữ mềm mại ngay thẳng, câu cú rành mạch, thú thực là tôi đã chép nguyên văn những ngày, những đoạn có liên quan đến câu chuyện này, chỉ có một mạo muội duy nhất là đã thay đổi đại từ nhân xưng cho tiện kể hơn mà thôi. Nhưng cái đoạn dừng lại như thế làm tôi băn khoăn quá. Chẳng hiểu rồi cuộc đời và số phận của những con người ấy sẽ ra làm sao, chuyện riêng tư của họ sẽ được thu xếp như thế nào. Tôi nghĩ là anh đã bình an vô sự trở về, anh sẽ gặp lại chị và họ sẽ lấy nhau. May mắn có thể đến với họ như thế lắm chứ, nhưng biết đâu có thể còn khối điều bất hạnh đã đến với họ thì sao? Chịu, tôi không thể nào đoán được. Nhưng dù có thể gì gì đi chăng nữa thì tôi vẫn tin tưởng ở nơi chị bởi tôi láng máng nhận ra rằng, tình yêu của chị dành cho anh luôn nguyên vẹn, mãi mãi là những điều mới mẻ, tinh khôi. Còn nghĩa cử và tấm lòng của chị dành cho thằng Phúc thì như nước của sông dài biển rộng, dẫu có qua ba vạn sáu ngàn ngày chắc cũng chẳng thể nào vơi cạn được. Chưa rõ kết cục câu chuyện thế nào, nhưng chẳng hiểu sao tôi cứ đinh ninh như thế. HỔ CỐT DU KÝ Thứ tư, 14 Tháng 11 2007 00:45 Đội tuyển thành phố Hồ Chí Minh đang vẫy hãm khung thành đội tuyển Hà Nội, thấy thằng bạn đang nhảy như choi choi, hò hét như hóa dại cổ vũ cho đội Thành phố Hồ Chí Minh, Đức vội máy nó chuồn ra cổng. Tuy còn năm phút nữa, trọng tài mới nổi còi mãn cuộc, Đức đang hồi hộp vì bàn thua trông thấy của đội tuyển Hà Nội, cậu ta vẫn phải dứt áo ra đi. Lúc ấy cổng đang vắng, thằng bạn gửi xe ở một nhà quen nên ba phút sau, hai đứa đã vi vu trên chiếc Hon đa 50... Truyện ngắn. VŨ BÃO 20 giờ 15, hai đứa đã đến địa điểm đóng quân. Thằng bạn quay xe ngay về Hà Nội. Chỉ còn 45 phút nữa là đến buổi phát thanh Quân đội nhân dân, đừng có đứa nào dại đến quấy rầy đại đội trưởng vào giờ ấy. Tranh thủ giây phút vàng ngọc này, Đức xộc thẳng đến buồng đại đội trưởng. Đức gõ cửa. Tiếng đại đội trưởng vọng ra: - Ai? Đức trả lời khe khẽ: - Báo cáo đại đội trưởng, em ạ, Đức đây ạ. Nghe tiếng đàn ông đại đội trưởng ra mở cửa. Anh không tiếp con gái vào ban đêm, rách việc! Đức vừa vào đến nhà vội rút chai rượu trong túi xách đặt lên bàn: - Báo cáo đại đội trưởng, thầy mẹ em có chai rượu hổ cốt, sai em đem lên biếu đại đội trưởng ạ. Ở ngoài hiên có bóng người thấp thoáng bên khuôn cửa. Anh lính nào đấy vừa lên trả phép có tí quà định đến biếu đại đội trưởng, nhưng thấy bị “đội bạn” chen ngang, nên vội lủi ra gốc cây đứng chờ. Trong nhà, hai thầy trò mải vui quên cả điều lệnh, đại đội trưởng vỗ vai Đức đến “bộp” một cái rồi cười to: - Cậu cho mình gửi lời cám ơn các cụ. Còn cậu, mình phê bình cậu... Đức giật mình đến thót một cái, rút túi lấy bao Bông Sen run run xé mép giấy thiếc: - Mời đại đội trưởng xơi thuốc. Đại đội trưởng vừa rút điếu thuốc vừa nói tiếp:.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> - Cậu là quân nhân cách mạng, cậu lại quên là Bộ Quốc phòng đã có lệnh cấm uống rượu à? - Báo cáo đại đội trưởng, đây là thuốc ạ. Đau khớp, nhức xương, đại đội trưởng uống một chén là kiến hiệu lắm ạ. Đây là xê ri cao hổ cốt nấu phục vụ cán bộ cao cấp, thầy mẹ em mới nhờ mua được một chai. Bây giờ đại đội trưởng mới nhìn đến nhãn hiệu dán ở vỏ chai in hình đầu hổ và dòng chữ: TIGER’S BONES - BEST QUALITY (Rượu hổ cốt - chất lượng tốt nhất) THAI BìNH DƯƠNG FACTORY MADE IN RS VIÊT NAM Đại đội trưởng thầm nghĩ: tên rượu viết bằng chữ nước ngoài, bét ra cũng là loại xuất biên chứ khônng phải tồng tộc bán ở cửa hàng dược phẩm theo giấy giới thiệu đơn vị. Đức xòe bật lửa mời thuốc cho đại đội trưởng xong mới vừa gãi đầu gãi tai nói nhỏ nhẹ: - Báo cáo đại đội trưởng, gia đình em có việc đột xuất, em phải đưa thầy em vào viện nên đến chậm. Đại đội trưởng rút vội điếu thuốc ra khỏi môi: - Cụ nhà làm sao? - Báo cáo đại đội trưởng, thầy em tự dưng khó thở, may sao em xin được xe của ông thứ trưởng ở cùng khu tập thể, đưa ngay thầy em vào bệnh viện. - Tình hình sức khỏe cụ nhà bây giờ thế nào? - Báo cáo đại đội trưởng, thầy em vẫn thở bằng bình ô xy ạ. - Gay nhỉ. - Chủ nhật này, em xin phép đại đội trưởng đi tranh thủ vào viện thăm thầy em, sáng thứ hai em lên ngay. Một đại đội trưởng vốn giàu lòng thương lính nỡ nào từ chối đề nghị thiết tha của người con hiếu thảo thế này được? Đức vừa đẩy cửa bước ra, Hoàng đang nấp ở gốc cây chạy chạy vội vào. Phúc cho cậu ta, bây giờ mới 8 giờ 40, còn 20 phút nữa mới đến chương trình phát thanh Quân đội nhân dân. Lộc ôm một gói nặng đang đứng thập thò sau bể nước vội chạy vụt lên, nấp sau gốc cây Hoàng vừa đứng chờ ban nãy. Thọ lẻn đến nấp sau bể nước chờ Hoàng vào. Từng anh lính trả phép chậm lần lượt bước vào biếu quà, và trình bày lý do “có chuyện đột xuất” trong gia đình nên mới về chậm. Từng người con hiếu thảo ấy lại năn nỉ đại đội trưởng chủ nhật này cho phép họ về Hà Nội vào viện thăm bố, thăm mẹ lần nữa. Cầu được ước thấy, tối thứ bảy, Đức, Hoàng, Thọ, Lộc lại được tranh thủ về để thăm bố mẹ “đang nằm viện” cho nó tròn chữ hiếu. Đại đội trưởng có biết đâu bệnh viện ấy là sân vận động Hàng Đẫy, còn bố mẹ của các “con trời” là 22 cầu thủ mặc quần đùi lồng như ngựa trên bãi suốt 90 phút giao tranh trong trận đội tuyển Thành phố Hồ Chí Minh gặp đội tuyển miền Duyên Hải giành cúp đội tuyển 1987. Chuyện ấy thôi không nói nữa. Lại nói về đại đội trưởng. Từ lâu, anh đã muốn xin chuyển vùng về Ban chỉ huy quân sự huyện nhà cho gần vợ con. Anh đã một lần tâm sự với tiểu đoàn trưởng và nhờ tiểu đoàn trưởng trình bày với cấp trên. Đôi ba lần anh định lên gặp tiểu đoàn trưởng, nhưng thời buổi này, nhờ vả ai việc gì, lên tay không nó chống chếnh thế nào ấy. Đến nay có số quà của anh em vừa biếu, đại đội trưởng quyết định lên thăm tiểu đoàn trưởng, nghe ngóng binh tình thế nào. Tiểu đoàn trưởng thích xem ti vi. Anh ngồi lì trước màn ảnh nhỏ từ Bông hoa nhỏ đến tận Chương trình truyền hình đêm nay của chúng tôi đến là hết. Thân ái chào các bạn. Những lúc ấy đừng ai hòng kéo anh ra khỏi máy thu hình. Chẳng may, trên trung đoàn có điện xuống anh hất hàm cho trợ lý thông tin chạy sang nghe rồi về báo cáo lại với anh. Cũng may anh lại bị “dị ứng sách báo”. Đọc sách.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> là buồn ngủ, đọc báo là ngáp ngắn ngáp dài. Vì thế đại đội trưởng bấm giờ lên thăm tiểu đoàn trưởng tốt nhất là sau bữa cơm chiều cho đến trước khi tiểu đoàn trưởng cắm phích ti vi vào ổ điện. Y như rằng đại đội trưởng đến vào lúc tiểu đoàn trưởng đang thấy hâng hâng trong lòng, ngong ngóng chờ người bạn nào đó đến lấp chỗ trống. Tiểu đoàn trưởng dội nước sôi tráng ấm chén, vừa với tay lấy hộp chè, đại đội đã trưởng đã moi ngay trong túi một bịch chè cầm hai tay đặt lên bàn: - Đại úy thưởng thức món chè Thái này xem thế nào? Tiểu đoàn trưởng gật gù: - Tay này dạo này xài sang đấy. - Báo cáo đại úy, tôi có ông anh dưới quê lên chơi cho ít quà. Lộc bất khả hưởng tận, gọi là có chút tình cảm lên thăm đại úy. - Hừ, cái cậu này chỉ vẽ vời. - Đây hoàn toàn là chuyện tình cảm, đại úy. Miệng nói, tay đại đội trưởng lần lượt bày các thứ lên bàn. Toàn những các ông đa phúc bà mít: nửa cân mứt hạt sen, nửa cân cà phê Buôn Ma Thuột, một hộp đường viên Tiệp Khắc, chai rượu Hổ cốt. Tiểu đoàn trưởng mỉm cười: - Bánh đa bẻ nửa, anh em ta chia đôi. Đại đội trưởng vội thanh minh hoạt cái cười của cấp trên cùng một tiết tấu, cùng một âm sắc: - Thế là đại úy không tình cảm với tôi rồi. - Thật lòng nhé, mình có uống rượu bao giờ đâu. Mình bị huyết áp cao, bác sĩ cấm rượu. Đành kiêng vậy. - Đại úy cho phép tôi gửi về biếu các cụ ở nhà. Đây là rượu hổ cốt thứ thiệt, phục vụ các đồng chí lãnh đạo cao cấp, ông anh tôi có tay trong xin duyệt được một chai. Đau khớp, nhức xương, uống vào kiến hiệu lắm. - Các cụ tôi quy tiên cả rồi. - Anh không cho phép thằng em biếu bà chị món quà nhỏ này hay sao? - Bà ấy đã là sư tử Hà Đông, cậu lại tăng cường cho bà ấy một con hổ nữa, sức mấy tôi chịu đựng nổi. Cậu bày vẽ quá làm mình khó nghĩ. Miệng nói thế nhưng tiểu đoàn trưởng hơi nghiêng người nhìn vào hình đầu con hổ và dòng chữ tiếng Anh trên nhãn hiệu chai rượu. Đại đội trưởng thấy thế đưa đẩy nhẹ chai rượu về phía tiểu đoàn trưởng: - Đại úy thông cảm, cái tình với nhau mới là quý. Vật chất chỉ là cái hương hoa làm sao xứng đáng với sự quan tâm của đại úy với gia đình chúng tôi. Nghe đến câu “sự quan tâm của đại úy với gia đình chúng tôi” tiểu đoàn trưởng sực nhớ công việc trọng đại mình đang mắc nợ đại đội trưởng, anh nhoai người vỗ vai đại đội trưởng: - Yên trí, mình đã nói với trung đoàn trưởng rồi. - Đại úy xem ý tứ trung đoàn trưởng thế nào? - Mình là Kít xinh giơ của ông ấy. Xuôi. Nhất định xuôi. Vừa lúc ấy, ở phòng bên, nhạc hiệu của Đài Truyền hình trung ương bắt đầu vọng sang - đại đội trưởng biết ý, xin cáo lui. Tiểu đoàn trưởng cất từng thứ một vào trong tủ. Khi cầm đến chai rượu hổ cốt, anh ghé nhãn hiệu vào gần ánh đèn. Anh không biết tiếng Anh nhưng lại tin rằng, cái gì các đồng chí lãnh đạo cao cấp đã dùng tất nhiên phải tốt hơn các loại rượu thông thường đang bán cho dân chúng. Tiểu đoàn trưởng có thằng con trai đầu lòng thi trượt vào trường đại học lâm nghiệp, cho cháu học thêm một năm nữa thì vừa tốn kém, vừa chưa chắc cậu cả năm tới thi có đủ điểm hay không, chi bằng làm cái đạo chắc, cứ xin cho cháu vào làm công nhân ở nhà máy dệt vợ anh đang làm, chờ có chuyến nhà máy tuyển công nhân đi học nghề ở Tiệp Khắc, hai vợ chồng sẽ nhờ trưởng phòng tổ chức cài ngay cậu cả vào danh sách. Thế là gọn. Nhà trưởng phòng tổ chức ở mãi tầng năm khu tập thể Lò Lợn. Tiểu đoàn trưởng gỡ chiếc túi ra khỏi ghi đông, đưa cho vợ rồi cố đẩy chiếc xe lên năm tầng.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> gác, vượt một bà xách cái làn nặng đang hỏi thăm lên tầng 5. Vừa mở cửa thấy vợ chồng tiểu đoàn trưởng, trưởng phòng tổ chức đã ớn lên đến sống lưng. Đợt này, nhà máy chỉ tuyển có 50 cháu vào học nghề, các ông ở thành, các ông ở quận, các ông ở Sở lao động, ở Sở công nghiệp, ở Ngân hàng đã gửi gắm 15 suất rồi, ông giám đốc xí phần 5 suất nữa, thế mà trong hồ sơ tuyển sinh, trưởng phòng tổ chức đã nhận được 125 đơn của cán bộ công nhân nhà máy. Lại cái đơn thứ 126... Tiểu đoàn trưởng vừa cười khà khà vừa chìa tay bắt tay trưởng phòng tổ chức, như đang gặp một chiến hữu xa nhau lâu ngày. - Hôm nay đi họp, tôi về thăm các đồng chí. Không chờ trưởng phòng tổ chức mào đầu, tiểu đoàn trưởng kéo phéc mơ tuya túi du lịch bày các thứ của ông đa phúc bà mít lên bàn: - Anh chị thông cảm, con nhà lính cứ một là một, hai là hai, hôm nay đến thăm anh chị có chút cây nhà lá vườn. Các đồng chí ở Hà Nội cứ chê anh em bộ đội không biết làm kinh tế. Mời anh chị thưởng thức gạo nếp hoa vàng chúng tôi cấy, cà phê chúng tôi trồng, đường chúng tôi ép mía, mật ong chúng tôi nuôi. Tiểu đoàn trưởng đặt tiếp chai rượu Hổ cốt lên mặt bàn: - Còn chai rượu này, tôi gửi biếu cụ. Xê ri này nấu phục vụ các đồng chí lãnh đạo cao cấp, khi về thăm tiểu đoàn, Trung tướng tư lệnh tặng tôi. Kiến hiệu lắm, lúc trở trời, cụ nhà đau xương, nhức khớp, mỏi gối làm một chén, cơn đau tụ ở đâu là tan ngay đấy, như quân ta truy kích quân ngụy năm 1975 vậy. Lúc tiễn vợ chồng tiểu đoàn trưởng ra cửa, trưởng phòng tổ chức bắt tay tiểu đoàn trưởng thật chặt: - Anh là lính, tôi cũng là lính. Anh bày vẽ quá đấy. Anh chị làm tôi khó nghĩ. Tiểu đoàn trưởng cười khà khà: - Tôi nay đây mai đó, việc nhà có bà ấy đảm đang. Còn thằng con trai, tôi xin bàn giao cho anh quản. Cứ tác phong quân sự như anh rèn cháu, tôi mới yên tâm. Vợ chồng tiểu đoàn trưởng vừa bước ra hành lang, một người bê một bọc nặng đã chạy tọt vào nhà trưởng phòng tổ chức, một người khác chậm hơn, đành đứng chờ ở cửa nhà bên. Một người nữa đứng thập thò ở đầu cầu thang, mắt gườm gườm nhìn người đứng ở hành lang, hai chân đứng trong tư thế xuất phát, nhăm nhắm chờ cánh cửa bật ra là “thứ nhất cự lý, thứ nhì tốc độ”, chạy tọt vào nhà trưởng phòng tổ chức. Chuyện này lại thôi không nói nữa. Nói tiếp về trưởng phòng tổ chức. Ông ta có cậu con trai tối dạ y như bố mẹ vậy. Tổng kết học kỳ một điểm trung bình môn toán 4,5, môn văn 4, môn sử 5, môn địa 5, ngoại ngữ 2. Cứ đà này thì cậu cả mang dòng máu truyền thống của ông bố tối dạ được ở lại lớp cũ, làm nòng cốt cho năm học sau đến nơi rồi! Đúng mồng một tết, hai vợ chồng trưởng phòng tổ chức xách một làn nặng đến chúc tết cô giáo chủ nhiệm, vật đầu vật tai xin cô giáo quan tâm đến cháu, gia đình không quên ơn cô giáo. Khách về rồi, cô giáo xách chai rượu Hổ cốt vào khoe với chồng: - Anh xem loại rượu Hổ cốt này sang lắm, chỉ cung cấp cho cán bộ cao cấp. Thế là ông ấy quý trọng nhà ta lắm. Ông chồng cầm chai rượu vừa nhìn nhãn hiệu, vừa gật gù: - BEST QUALITY là thượng hảo hạng. TIGER’S BONES là xương hổ. Đúng là rượu Hổ cốt thứ thiệt rồi! Nghe đến hai chữ Hổ cốt, Đức đang ngồi nghe chương trình ca nhạc mừng xuân, cũng phải chạy bổ ra: - Bố mẹ mừng tuổi chai rượu cho con! Đại đội trưởng khen rượu hổ cốt này chữa đau khớp nhức xương kiến hiệu lắm. Từ ngày uống chai rượu của nhà ta đem biếu đến giờ, cụ ông trong quê hương không bị đau khớp, nhức xương mỏi lưng nữa. Sẵn chai rượu Hổ cốt trong tay, Đức “được nằm” ở Hà Nội hai ngày nữa, để dự trận đấu mở màn Giải bóng đá A1 toàn quốc. Thế là chai rượu Hổ Cốt đã đi chu du được một vòng. Không biết chai rượu Hổ cốt chạy vòng thứ hai được đến.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> cung đoạn nào. Biết rằng: báo Sức Trẻ số đầu Xuân có một bài của Hoàng Sơn: HỔ ĂN CỎ, HỔ ĂN CÁM Thời gian vừa qua, nhà máy cơ khí Thái Bình Dương liên kết với nhà máy xi măng Sông Hồng sản xuất loại rượu Hổ cốt. Loại rượu này đang được khách hàng ưa chuộng. Theo điều tra của chúng tôi, loại cao hổ cốt này chế bằng xương lợn và xương bò. Hai tấm ảnh các bạn xem dưới đây là hố đầu bò, sừng bò và hố móng lợn đầu lợn do chúng tôi chụp được tại chân núi Ta Vũ cách nhà máy xi măng Sông Hồng 2 ki lô mét. Phải chăng cuộc liên kết kinh tế này đã lai tạo được một giống hổ ăn cỏ và một giống hổ ăn cám để nấu cao, chế biến rượu Hổ cốt đánh lừa đồng bào... ... ... Đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trưởng phòng tổ chức rồi cả đến vợ chồng cô giáo chủ nhiệm cùng sung sướng thở phào. Tí nữa thì mình uống phải “thứ rượu thổ tả” đó. MÙA CÁ BỘT Chủ nhật, 28 Tháng 10 2007 00:47 Mùa cá bột lại đến. Bây giờ con sông nhỏ chảy qua bãi Thè Le bỗng rộng rãi hẳn ra, phù sa đỏ ngầu, dòng nước sủi bọt chảy về xuôi vội vã. Công việc ở trong thôn trở nên bận rộn một cách hứng thú, người ta bắt đầu bàn với nhau chuyện đón bột, nuôi bột và mọi công việc khác từ nhổ cỏ đay, dậm xen vừng ba tháng vào những chỗ đay bị muội hay việc gieo mạ mùa vào ngày tua rua mọc… nhất nhất đều được tiến hành rất khẩn trương. Chuyện vớt bột đòi hỏi nhiều thời gian, nó bắt người ta phải kiên nhẫn và như thế nếu những việc khác không được thu xếp chu đáo thì ai mà yên lòng được. Truyện ngắn. ĐỖ CHU Ban đêm bà con xã viên trong làng gọi nhau ra ngủ ở ngoài bãi, ai cũng biết rằng cái trò vớt bột thường ăn thua vào những đêm lặng gió. Anh chủ nhiệm Khang đi họp chi uỷ ở bên làng Bồng nửa đêm mới về, anh rẽ ngay xuống bãi mà không về nhà nữa, nhà chỉ có hai vợ chồng, vợ anh chắc là cũng đang ở dưới bãi. Khang cởi khuy áo ngực để hứng gió thổi từ sông lên, gió mang mùi lá đay quen thuộc ngửi thật dễ chịu. Tới bến sông, Khang đưa mắt nhìn khắp một lượt, các lều vớt cá vẫn còn thức cả, ánh đèn dầu từ trong các mái rạ úp trên mặt đất tỏa ra vàng khè, tiếng thằng con trai chị Tính ve giật mình thức giấc khóc ré lên ở chiếc lều cuối bãi. Dưới sông, các rành vớt cá nổi lập lờ trên mặt nước, nước xói mạnh vào bờ làm chúng chao nghiêng ngả có lúc tưởng như chúng bị tụt ra khỏi đáy. Hợp tác xã của Khang vừa mới được mậu dịch cung cấp cho một loạt lưới đáy, gai không tốt lắm nhưng mắt đan đều, thả xuống sông nước rất thoát, phồng đẹp như cái loa phễu. Được những cái đáy như thế, ai cũng muốn đi bột. Ngang qua lều cụ Tư Gấc, nhớ tới nghị quyết của chi uỷ anh liền tạt vào. Cụ Tư đang ngồi hút thuốc ở góc lều, nghe thấy tiếng chân Khang bước vội, cụ liền lấy hai tay chống xuống đất, xoay hẳn người, nhìn ra ngoài. Khêu to ngọn đèn, cụ hỏi đón: - Lại anh chủ nhiệm chứ không sai? - Bác không chợp mắt một lát cho dễ chịu. - Ôi dào, chẳng sao cả, bọn già chúng tôi càng thức càng tỉnh. Già mà ngủ nhiều tức là sắp "suy" rồi! Anh có biết cụ Năm Bịu bên Bồng không nhỉ? Ông cụ ngủ suốt ngày anh ạ. Ai lại mặt thì vẫn tỉnh như sáo mà miệng thì lại gọi "u ơi"! Hỏng! Nói có anh, tôi cho như thế là sắp "hỏng" mất rồi. - Ở xã ta vào tuổi các cụ cũng chẳng còn mấy, nói dại, nếu các cụ mà mất đi thì bọn chúng con ở lại lúng túng to chứ chẳng chơi. Như món vớt bột này chẳng hạn, vẫn vớt được cái bột.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> lên bờ rồi cũng còn loay hoay không biết mang về chăm sóc nó thế nào để đem bán lấy đồng tiền. - Ấy, anh có nhắc đến thì tôi mới nói, chính tôi cũng vẫn lo thế đấy. Các anh đánh Tây đánh Pháp có tài thật nhưng ví phỏng không có người truyền cho thì liệu đã biết cầm cái vợt mà vớt con cá lên chưa! Anh nghĩ tôi phát biểu có đúng không? - Vâng, có thế. - Cho nên là tôi lo lắm - ông cụ hạ thấp giọng - Anh là chi uỷ thì đã đi một nhẽ, đằng này các người khác họ tệ lắm, nay ngấp nghé công trường nọ, mai tấp tểnh nhà máy kia, nhiều lúc tôi nghĩ giận quá. - Mỗi người một tay thì hợp tác mình mới khấm khá lên được bác ạ. Trời hôm nay oi quá, chắc lại sắp mưa. - Anh cũng thạo đường thời tiết gớm! Trời thế này chỉ gà gáy là mưa thôi, có mưa nguồn mấy ngày sau lại "giót bột" lắm đấy. Trứng ở mạn trên nở nhiều phải biết. - Bác ạ… Chúng cháu có câu chuyện muốn nói với bác… - Ấy ấy, tôi biết rồi! Lại việc sắm thêm lưới bột chứ gì? - Không bác ạ… Sắp đến ngày giỗ anh Đá rồi bác nhỉ? - Vâng. Thằng cả nhà tôi mất vào đêm mồng bốn tháng năm giữa mùa cá bột, tôi vẫn nhớ. - Bác ạ, năm nay thì bác cho chúng cháu mang anh cả về nằm bên nghĩa trang làng mình, có anh có em chắc là anh ấy vui hơn. Khang hấp tấp nói liền một hơi, anh sợ cụ Tư Gấc ngắt lời. Nhưng ông cụ vẫn không nói, mãi sau ông cụ mới trầm ngâm: - Các anh cứ nói đi nói lại mãi làm cho tôi thêm nể. Tôi nghĩ kỹ rồi, nó ngã ở đâu cứ để nó nằm ở đấy lại hóa hay. Anh có thấy cái mả nó nằm ngày càng bồi to mãi lên đấy không. Với lại tâm tính nó thì tôi thuộc lòng, lên năm tuổi nó đã nằng nặc đòi mẹ cho ra ngủ riêng rồi, bà nó nhà tôi vẫn giận thằng bé vì cái chứng "độc lập" ấy đấy. Sau khi nhồi cho cụ Tư một điếu thuốc rõ chặt vào nõ, Khang đứng dậy bỏ về lều mình, đành phải tìm cách khác mà vận động ông cụ thôi, bây giờ có nói thêm thì ông cụ cũng chẳng chuyển. Anh còn lạ gì tính nết ông cụ. Dạo này năm ngoái hợp tác chủ trương mở rộng nghề cá bột, ban quản trị vận động vã bọt mép ông cụ vẫn không chịu nhận chân lãnh đạo tổ vớt bột, nhưng khi chọn được người khác làm việc ấy rồi thì ông cụ lại nhất quyết xin đảm nhiệm. Mà nào có giản đơn, ông cụ cho bà cụ đến mời Khang tới nhà nói xa nói gần mãi rồi mới nhận. Ông cụ nói tràng giang đại hải những là "nghĩa vụ bà con làng xóm trao cho; cũng vì nể lòng các đồng chí chi bộ"… Duy có một điều làm cho Khang cũng như mọi người không thể nào giận được ông cụ ấy là sự chăm lo hết lòng của ông cụ đối với công việc chung trong hợp tác. Khang lắc đầu cười một mình rồi lần xuống sông rửa mặt, những vốc nước mát lạnh làm anh tỉnh táo cả người. Anh lắng tai nghe tiếng sóng vỗ, từ bờ bên kia vang sang tiếng nước xói vào bờ và tiếng những tảng phù sa đổ ụp xuống mặt sông nghe mơ hồ xa lạ. Đêm ở trên bãi sông thường êm dịu và đầy âm thanh. Khang lên lều nằm, lều vắng ngắt, tối om, mùi cỏ dại trên đất bốc lên thơm như có hơi rượu. Chẳng cần thắp đèn làm gì nữa, anh cởi áo gối lên đầu, nằm thao thức. Khang bồi hồi nhớ lại những ngày xa xưa, mọi kỷ niệm vẫn còn đang sống trong lòng anh nguyên vẹn và nó thầm thì to nhỏ với anh suốt năm suốt tháng. Khang nhớ lại những đêm tháng chạp theo anh Đá lên quấy rối địch trên bốt Bồng. Nhớ đôi mắt anh ấy nhìn vợ chồng Khang cười hóm hỉnh, hai ngón tay sù sì giơ lên ra hiệu và cái đầu húi móng lừa gật gù như muốn nói: "Tao biết mà… Tốt đôi lắm!"..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Có lẽ ngoài hai vợ chồng Khang ra thì bây giờ ít ai còn nhớ bài vè "Anh Khang chị Tiềm" mà bọn trẻ con thường hát trêu hai người hồi ấy. Rõ ràng có người nói bài vè ấy do anh cả Đá đặt ra, vậy mà có hỏi thì anh ấy chỉ lắc đầu cười ha hả. "Ve vẻ vè ve Cái vè lá lốt Anh Khang cũng tốt Chị Tiềm cũng xinh Anh ấy cô mình Cùng muốn lấy nhau"… Lũ trẻ chạy theo đội du kích ra ngoài bãi Thè Le tập quân sự, tốp con gái nắm lấy vạt áo của Tiềm, còn đám con trai thì bám lấy dây súng của Khang, vừa cười chúng vừa hát vè váng cả lên, có trời rẩy được chúng nó ra. Những lúc ấy má Tiềm đỏ chín lên như gấc còn Khang thì vã mồ hôi hột, xấu hổ không thể tưởng tượng được, mỗi người phải nhìn đi một nơi. Nhưng thật khổ, trong những lúc như thế người ta lại cứ hay bắt gặp cái nhìn của nhau, ngượng chết người. "Anh ấy cô mình cùng muốn lấy nhau"… Và rồi hai người lấy nhau thật, cả hai chưa ai đầy hai chục tuổi đầu. Đám cưới hai người cũng là tối liên hoan mừng chiến thắng đầu tiên của đội du kích xã. Hôm ấy anh Đá xã đội trưởng đã phát biểu cảm tưởng suốt buổi, quên cả hai họ. Sau khi chúc hai người "vui duyên mới không quên nhiệm vụ" anh Đá rút trong túi ra trao tặng cô dâu một quả lựu đạn, đám thanh niên được một phen cười rung cả rạp, các cụ già thì ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì. Cưới xong hai vợ chồng vác súng ra đê gác ngay, đêm ấy Tiềm đã nói với Khang bao nhiêu là chuyện: Nếu còn Tây thì cô nhất định không chịu có con, nhưng khi đã yên hàn rồi thì "mỗi người sẽ đẻ một đứa, con trai là của anh còn con gái là của em!". Cả hai không ai ngờ anh Đá đã đứng đằng sau từ bao giờ, cố nhịn cười để giấu anh ấy nhưng càng giấu thì như lại càng bị lộ hơn. Anh ấy lấy tay béo tai Tiềm rồi nói: "Thôi đừng giấu tôi nữa, gà đẻ gà cục tác thế thì kín làm sao được. Canh gác như vợ chồng cô hôm nay rồi tha hồ mà mơ mộng ở trên bốt!". Con người ấy chết sớm ai mà tin được! Hôm nghe tin anh Đá mất, cả làng chưa ai tin ngay, người ta bỏ cả nồi cơm đang sủi, bỏ rơi cả gầu nước đang kéo lên nửa chừng… Tất cả đều chạy sang sông xem thực hư ra sao. Những ngày chiến tranh, niềm vui, hạnh phúc thường kéo đến đường đột rồi bỏ đi cũng đường đột y như khi nó tìm đến với người ta. Bây giờ nằm nghĩ lại tưởng như những chuyện ấy mới chỉ xảy ra hôm qua đây thôi. Khang nhỏm dậy vớ chiếc điếu cày rít một hơi thuốc, ngọn lửa đỏ chập chờn như muốn bay ra khỏi đầu que diêm. Ngoài kia những hàng đay đứng im phăng phắc, những ngôi sao xanh lấp lánh mọc ban tối bây giờ biến đi đâu mất cả, mấy chú cào bay tới đạp cánh rào rào trên mái rạ. Trời đất này ai mà biết được tính khí ông giời. Mờ sáng thì trời đổ mưa rào, cơn mưa kéo từ bờ bên kia sang. Những tia chớp làm quang cả bầu trời, mây hiện lên lộng lẫy như những bức tranh sơn mài. Gió quất mưa ầm ĩ trên mặt sông và bãi đay, đèn trong các lều lập tức vụt tắt, mái rạ bốc lên từng mảng. Khang vội vàng choàng dậy, lom khom chạy ra khỏi lều, quên cả mặc áo. Anh xắn quần men xuống mặt sông rồi cứ thế nhảy ào xuống nước, từng đợt sóng đục ngầu ập vào bộ ngực căng phồng của anh, bọt nước bắn toé lên cả mặt. Khang nhanh nhẹn hớt bột trong rành vào chiếc chậu da lươn rồi bưng chiếc chậu lên bờ thả bột vào lò sống cá ở cạnh lều - Một hố nước ngập quá đầu gối mà vợ chồng anh mới đào ban chiều. Ở đằng xa, tiếng cụ Tư Gấc nói trong mưa nghe lúc to lúc nhỏ: "Gió này còn mạnh nhiều… úp tất cả… lên bờ". Khang vội đặt chậu cá xuống đất rồi lao xuống vớt mấy chiếc rành và đáy lên - Anh chạy lại mấy chiếc lều khác, bà con cũng đang hối hả làm việc. Ông cụ Tư cởi trần.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> trùng trục chạy đến bên anh: "Sóng này mà không kịp mang lên bờ là rách hết anh ạ. Đáy rách thì cá chẳng vào rành có phải không anh?". Khang gật đầu cười với ông cụ, chợt nhớ tới tổ phụ nữ do Tiềm phụ trách, anh hỏi: - Mấy cô ở tổ nhà cháu không hiểu biến đâu mất? - Chết chửa! Tôi cũng quên khuấy đi mất, chị ấy dẫn cả tổ sang bờ bên kia thả đáy từ tối hôm qua. - Họ nghĩ thế nào mà mò sang tận bên ấy hả bác? - Chả là chị ấy hỏi tôi bờ bên nào bột về nhiều hơn, tôi bảo bên nào lở nhiều thì bên ấy lắm bột. Năm nay bãi mình bồi thế này thì bờ bên ấy chắc là lở to anh ạ. - Chẳng hiểu họ làm ăn ra sao, cháu phải sang bên ấy một lát. - Gió to lắm, không khéo úp thúng chứ chẳng chơi. - Úp thì cháu bơi! Khang kéo chiếc thuyền thúng ở ven bờ xuống sông, đứng lên mũi thúng anh nhổ sào đẩy thuyền đi. Khúc sông này rộng, mùa cạn lũ trẻ trong làng vẫn đánh trâu ra tận giữa dòng đùa nghịch, nhưng mùa này, thì nước cũng cắn ngập gần hết con sào. Mưa như trút nước, bờ bên kia mù mịt, mặt sông trông càng thêm mênh mông. Có tiếng sào va vào mạn thúng ở mé sau, Khang ngoảnh lại thì ra là thúng của cụ Tư Gấc đang lướt lên. Khang ghìm thúng chậm lại: - Bác Tư sợ thúng cháu ụp chăng? - Đời nào! Ai còn lạ gì tài đi thúng của vợ chồng anh. - Ngày trước anh Đá cháu đi thúng cừ lắm. Có lần anh ấy đã dùng tay không mà đuổi kịp thúng cháu có sào hẳn hoi. - Hà, anh lại nhắc đến nó, thằng cả nhà tôi mà còn thì năm nay cũng tròn bốn mươi rồi đây. - Hôm ấy đưa anh Đá sang sông một lát thì chúng cháu nghe thấy tiếng lựu đạn nổ, tưởng là anh ấy đánh tháo được ai ngờ lại cùng chết với chúng nó. - Thằng cả nhà tôi nó còn khờ khạo nỗi gì anh bảo, chẳng qua cũng vì tụi chúng đến sát quá rồi. - Bác có còn nhớ ngày chúng cháu cưới nhau không nhỉ? - Quên sao được! Cái thằng quỷ ấy, lúc các anh cười thì tôi không rõ tại sao, về nhà mới biết, tôi mắng như tát nước vào mặt. Việc cưới xin là không có được đem những chuyện nhảm nhí ra đấy. - Ấy thế mà quả lựu đạn ấy về sau chúng cháu đã dùng được khối việc, cô Tiềm cô ấy mang ném vào quán rượu trên bốt giữa ban ngày. - Nghĩ cái năm ấy cũng lạ! "Giót bột" lắm anh ạ. Tôi ra sông vốc nước lên lòng bàn tay, có trời chứng thực, bột nở nhiều quá, có con vẫn còn đang ngoáy đuôi đội trứng. Lúc ấy tôi cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ, chỉ mong sao chóng đến ngày sóng yên biển lặng để lại được ra sông thả đáy… Được như bây giờ thì nó lại chẳng còn… - Đêm qua chi uỷ chúng cháu họp cũng có bàn đến việc di phần mộ anh cả về, ai cũng bảo mình nằm mơ thấy anh ấy. - Các anh đối với nó chí tình thật! Chi uỷ "nghị quyết" rồi hả anh - Ông cụ è hèm trong cổ Nếu vậy thì xin hãy nán lại đến ngày giỗ nó đã. Đợi con mẹ cả nó về tôi bảo qua nó một tiếng, một ngày cũng nên nghĩa nên tình anh ạ. - Chị ấy lại vừa ở cữ cháu gái, hồi đầu tháng nhà cháu có sang thăm. - Ừ, ở với thằng cả được một mụn gái, bước này lại thêm hai gái nữa. Con mẹ cũng vất vả, thằng chồng bây giờ đâu đóng ở mãi tận Tây Bắc, Điện Biên… Chống nhẹ sào thôi anh ạ, chỗ.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> ấy có mũi đá đấy, khéo không bục thúng chứ chẳng chơi. - Vâng. Mưa ngớt rồi bác ạ. Hai người cắm sào găm thuyền lại rồi leo lên bờ sông. Gió im dần, mưa lấm tấm như rắc bột trên mặt nước. Khang thấy người ớn lạnh, anh khẽ lắc đầu, rùng mình. Cụ Tư Gấc đưa mắt nhìn xung quanh rồi nhận xét rất nhanh: - Họ không thả đáy ở đây đâu. Thử xuống chỗ mả thằng cả xem sao. - Chỗ ấy sông đổi hướng, chắc là sóng im hơn. - Tôi cũng đoán thế. Chị ấy mà dại thì anh bảo ai khôn. - Cụ Tư vừa đi vừa nâng những khóm đay bị đổ lên, thỉnh thoảng cụ lại lấy chân bồi thêm đất vào một gốc đay. Khang đi sau cụ, anh không nói gì nữa, bước đi thận trọng, mỗi lần qua các rãnh nước anh đều đứng lại khoắng chân mấy cái cho sạch đất. Anh đang nghĩ về người xã đội trưởng của mình. "Giá mà anh ấy còn, anh ấy sẽ làm thêm được bao nhiêu là việc nữa. Anh ấy sẽ chỉ cho mình thấy vô khối cái vụng về trong công tác". Đã đến quãng con sông chuyển hướng, con sông đang ôm ghì lấy bãi Thè Le bỗng dưng bỏ chạy bổ nhào ra phía trước bãi, lòng sông thắt lại, sâu thẳm. Cụ Tư Gấc đã nhìn thấy Tiềm, giọng cụ phá lên ròn tan: - Chị chủ nhiệm chắc là đang đắp bờ cho lò sống cá. Tiềm ngẩng lên, chị thoáng nhìn thấy chồng. Vẫn lúi húi bốc đất đắp miệng hố chứa bột, Tiềm trả lời ông cụ: - Mưa thế này mà bác cũng sang! Chúng cháu vừa mới mò ra, nước dưới lò đầy quá, chỉ sợ bột trào ra mất cả. - Mấy cô kia họ chui đâu rồi? - Cháu vừa bảo họ mang lưới lên lều bơm nước mà gửi nhờ. Cả đêm họ chẳng chịu ngủ. - Tôi phải chạy lên đó gọi các cô ấy về. Ướt như chuột thế này chịu làm sao được. Ông cụ Tư đi rồi, Khang liền cúi xuống bốc đất đắp bờ giúp vợ. Anh hỏi Tiềm: - Sao không cất đáy lên từ đêm? - Khúc này khuất gió, em cứ liều thả - Tiềm lấy cánh tay gạt mấy sợi tóc mai ra đằng sau, giọng chị sôi nổi hẳn lên - Anh Khang này, mình thật là khờ! Nếu như chịu khó sang đón bột ở bên này thì mùa năm nay hợp tác mình thu nhập ít ra cũng gấp rưỡi năm ngoái. Nước đầy là thế mà bột vẫn cứ vào đặc cả rành. - Chiều nay đại hội xã viên cô đưa ý kiến ấy ra. - Nhưng anh cũng phải ủng hộ chúng em cho mạnh vào. - Được rồi, bây giờ thì hãy về tắm giặt đã. Hai vợ chồng đi ngược lên chỗ găm thuyền ban nãy. Tiếng cụ Tư kháo chuyện ở phía sau nghe trong như tiếng chuông, âm thanh vang mãi ra ngoài xa: "Tạnh hẳn rồi, cơm xong lại ra thả đáy là vừa!". Tiềm tranh lấy phần chở thúng, chị nắm lấy cây sào trong tay Khang, một tay bám hẳn vào vai anh. Hơi thở của chồng làm chị thoáng nghĩ đến ngày hai người mới lấy nhau, những ngày gian truân nhất. Cả hai người chẳng ai còn kịp nghĩ đến cái ngày yên hàn xa xôi kia nữa, đồng đội, cái chết, lòng căm thù kéo họ lao vào giành giật lấy một phần khó khăn, vất vả. Đội du kích xã phải xé lẻ ra thành nhiều tiểu đội độc lập chiến đấu, vợ chồng Khang mỗi người một nơi. Những đêm vượt sông gặp nhau, ôm lấy nhau mừng mừng tủi tủi, đay trên khắp bãi rì rầm, cổ hai người nghẹn ứ lên vì xúc động. Những ngày ấy đã qua lâu rồi nhưng dễ gì quên được nó. Bỗng chị quay lại hỏi chồng: - Cứ để anh Đá nằm ở bên kia mãi hay sao?.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> Khang không trả lời vợ, anh mải lắng nghe tiếng vợ chồng con le le gọi nhau trong đầm nước sau bãi. Khắp vùng này có điệu dân ca nào tha thiết hơn thế không? Những đêm vượt sông về làng, anh ấy thường thì thào nói với mình: "Cậu có nghe thấy những con le le gọi nhau đấy không? Như thế là hôm nay tụi trên bốt không phục ở bên ấy"… Khang bỏ thõng hai chân xuống nước, chuẩn bị lội xuống kéo thuyền lên bờ cho vợ. Cụ Tư và mấy cô gái cũng đã về đến giữa dòng, tiếng họ chuyện trò lao xao trên mặt nước. Sau cơn mưa nước chảy xiết hơn, khắp bãi và mặt sông đều im lặng, chỉ có tiếng vợ chồng con le le đang gọi nhau lảnh lót, dồn dập. Đ.C PHÁI VIÊN BỘ TỔNG Chủ nhật, 21 Tháng 10 2007 17:14 Chiến sĩ Nga là người đầu tiên phát hiện ra tổ trinh sát năm người bị hổ cấu chết bên bờ khe Trai Nai. Họ gồm một tiểu đội trưởng, một chiến sĩ đo đạc, một chiến sĩ phụ trách pháo đối kính, một kế toán pháo binh, một thông tin vô tuyến. Khi đại đội dừng lại dưới chân động Be Lao thì họ có nhiệm vụ đi trước, ngày và đêm, vượt qua những đèo dốc đã có đường mòn hoặc băng theo phương vị, nhanh chóng xác định sơ bộ vị trí các đài quan sát và trận đại súng cối hạng nặng một trăm hai mươi ly, có thể bắn vào các khu vực dự kiến địch sẽ nống ra suối dải Cù Đinh -Baze và bắn kiềm chế cả trận địa hỏa lực tại chi khu quân sự Cam Lộ. Truyện ngắn. TÔ ĐỨC CHIÊU Họ hết lương thực. Nhiệm vụ vẫn đang khẩn trương. Chiến sĩ Nga trẻ tuổi, được phái tới tiếp tế và truyền đạt chỉ thị của đại đội trưởng. Rừng Quảng Trị những ngày đầu mặt trận chưa mở ra, u tịch và hùng vĩ. Theo dấu đường mòn Nga phải tới chân điểm cao 333 gặp tổ trinh sát. Anh hăm hở. Nhưng bồn chồn. Truyền đơn chúng rải trắng rừng. Nào là Thiếu úy đại đội phó Mai Hiền Nhi đã về với chính nghĩa quốc gia. Nào là cha mẹ và vợ con đang trông chờ các bạn từng ngày. Nào là vì sao cụ Phan Nho vui mừng. Rồi vì sao ông Hồ Hữu Ngân hăng hái hoạt động?... Nga hồi hộp. Mỗi đoạn đường đi về phía trước hun hút như rừng tự nhiên khép lại mà chẳng bao giờ chịu mở lối ra. Bom tọa độ rít rợn người. Rồi bom B52. Bom lửa. Bom phá. Pháo bắn cầm canh. Pháo bầy. Trên bầu trời lúc nào cũng có những tốp L.19 lượn lờ chỉ điểm. Nga không thể ngập ngừng. Như người sợ ma bao giờ cũng sẽ bị ma hù dọa. Anh lên đường lúc ấy còn sớm mà giờ này bóng chiều đã lởn vởn trần ai trên những tán cây rừng. Chỗ này tối sầm lại. Chỗ kia nở phình ra. Chập chờn. Ảo ảnh! Sao lại không sợ được nhỉ? Bỗng có tiếng hót vang đồng loạt từ chân bên kia động Be Lao vọng tới. Vượn! Có khi tới hàng trăm con vượn. Rừng Quảng Trị ngày ấy vượn từng đàn, to như con bê, ào ào chuyền từ cành này sang cành khác, rung động cả rừng cây bạt ngàn. Một con, chắc là đầu đàn, hót lên cao vút, hàng chục hàng trăm con khác hót theo, tạo thành dàn hợp xướng hoang sơ hùng vũ, của rừng mà chỉ ở khung cảnh này con người mới được thưởng thức. Gần chân điểm cao 333 khi bóng mờ sương khói hun hút đuổi theo bờ suối Nga mới tìm được tới khu vực tổ trinh sát trú quân thì thật lạ... dấu chân hổ chi chít. Mới lắm! Anh chờn chợn. Thằng dịch mình còn bắn nó được chứ hổ thì... Nga đưa đạn lên nòng mà tay anh run run. Hổ đuổi qua khe thằng què cũng phải nhẩy. Ở đây phải gọi là tót. Tót sao cho nhanh trước khi con hổ với những móng vuốt kinh khủng và sức mạnh của phi đoàn B.52 lao tới. Và cũng phải chọn cây to để nó không thể nào húc đổ. Mỗi bước đi là một nhận định, một ngó nhìn, một hồi hộp, một lo âu. Nga nép mình dưới gốc cây to, sẵn sàng bật lên, và hú làm hiệu..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> - Tróc! Tróc! Tróc! Vách núi ngập ngừng trả lại những âm thanh ấy: - Tróc! Tróc! Tróc! Anh vòm hai lòng bàn tay che miệng làm loa thổi vào thinh không rờn rợn những tiếng gọi bầy kêu cứu: - Tắc kè! Tắc kè! Tắc Kè! Vách núi vẫn trả lại đúng ba tiếng như vậy: - Tắc kè! Tắc kè! Tắc Kè! Quái lạ! Chẳng lẽ họ đã di chuyển? Chẳng lẽ họ quá mệt và ngủ khì trên những ngọn cây đề phòng hổ tới? Nhưng phải có người thức cảnh giới chứ? Bỗng anh giật thót mình. Trời ơi! Cành cây rơi chứ đâu có phải tiếng động phát ra từ bước chân của hổ. Vạt rừng trống cháy đỏ hoàng hôn sườn núi bên kia chẳng khác nào nụ cười giễu cợt. Những loạt bom tọa độ nổ vang bên lèn đá Hi Gia cắt ngang mọi suy tưởng khiến Nga vội vã bước đi. Anh hú gọi. Rừng núi vẫn từ chối đáp trả lại tiếng hú gọi của anh rền vang hút theo triền dốc chạy dài. Càng đi càng thấy dấu chân loài dã thú ấy líu ríu với nhau thành từng cặp, từng cụm, như những cái hình bình hành chồng xếp khéo léo. Anh bủn rủn muốn khuỵu hai gối xuống và cô đơn chết lặng giữa rừng đại ngàn. Trời ơi kìa! Các vị này chắc quá mệt không còn nghe thấy tiếng hú. Lại còn không cử người cảnh giới. Mất cảnh giác thật! Đồng loạt ngủ ngon thế kia giữa chốn bom rơi đạn réo và bộ binh địch có thể từ trên trời bổ xuống bất cứ lúc nào có chết cha người ta không cơ chứ! Năm cái võng thành hình ngũ giác như trụ sở Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đung đưa giữa những thân cây. Nga hý hóp mừng thầm trong bụng và giận sôi người. Anh tính sẽ thu hết súng lại và hô biệt kích. Nhưng tới gần thì anh choáng váng. Bên cạnh chiếc võng đang tòng teo rúm ró chao đi chao lại là chiến sĩ có lẽ được phân công cảnh giới chết ngồi bên một gốc cây. Người anh rũ xuống. Thân đã tím lại. Súng tiểu liên vẫn dựa bên vai. Hai mắt lồi ra. Mặt rách toác. Quần áo tả tơi. Vết chân hổ cào cấu trên đất quanh chỗ anh ngồi. Chúng đã làm anh chết khiếp và hành hạ thân thể anh. Bốn người còn lại vẫn nằm im trên võng và chết trên võng. Thân thể nát nhừ. Có anh còn bị vặn ngoéo đầu lại phía sau. Ba lô nguyên vẹn. Súng đạn nguyên vẹn. Nga sững sờ. Trái tim như ngừng đập. Rừng sập bóng đen trĩu nặng. Đất trời bỗng dính chặt vào nhau tạo ra tiếng nổ khủng khiếp như thời tiền sử. Anh muốn gào mà không dám gào. Anh muốn khóc mà không dám khóc. Cuối cùng anh hét lên và trân trân chĩa súng bắn hết băng đạn ba mươi viên mà chẳng biết để làm gì. Thế rồi anh co cẳng chạy. Đâm vào cây vào cối cũng cứ chạy. Vừa thở dốc vừa chạy. Đêm ụp xuống cũng cứ chạy. Theo lối mòn đã dẫn anh tới đây mà chạy. Rừng già vô tận. Đêm tối không cùng. Phút chốc anh tưởng thế gian bỗng tan ra để rồi biến mất. Chính những loạt bom tọa độ đã thức tỉnh anh. Lần đầu tiên bom đạn kẻ thù không làm anh sợ mà còn háo hức cho biết anh là sinh linh đang tồn tại. Vậy thì anh phải hành động để thoát khỏi cái chết và về với sự sống. Tin cả tổ trinh sát pháo binh bị hổ cấu bay vù về mặt trận rồi ngấm ngầm lan tỏa khắp các đơn vị. Những bộ đội làm nhiệm vụ lẻ tẻ trong rừng lo âu. Một phái viên Bộ Tổng tham mưu còn rất trẻ tên là Trang được phái xuống đơn vị pháo. Anh quê Thanh Hóa bên con sông nước phi như ngựa và sống gần bà con dân tộc mường. Nghe chuyện, anh không bình luận gì mà chỉ lẩm nhẩm trong miệng Đàn hổ ít nhất phải năm con. Có khả năng nhiều hơn. Và chúng phải đồng lọat hành sự vào năm mục tiêu là các chiến sĩ trinh sát. Anh gặp đại đội trưởng. Rồi gặp chính trị viên đại đội. Rồi chiến sĩ Nga được gọi tới kể lại tỉ mỉ những điều mắt thấy. - Chú mày! - Phái viên Bộ Tổng xưng hô với Nga thân mật - Có phát hiện ra dấu tích của sự vật lộn giữa người và hổ không? Nga ngửa cổ lên trời ngẩn ngơ như rơi vào thinh không bao la: - Em không để ý. Lúc ấy đã nhá nhem tối. Và anh bỏ qua em mới dám nói, thú thực em có phần nào mất bình tĩnh. Phái viên xoa xoa hai bàn tay vào nhau:.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> - Không sao! Không sao! Cái sự đột ngột thế này có khi ai gặp cũng dễ mất bình tĩnh. Chính anh cũng đang rất lấy làm băn khoăn. Rồi đột nhiên anh hất mặt lên và chớp mắt loang loáng nhìn Nga hỏi tiếp: - Chú mày nhớ đường chứ? Cái miệng Nga vắt vẻo chỉ kịp nhếch có một bên mép: - Chắc là em nhớ. Nhưng để làm gì ạ? Hàng mi phái viên cụp xuống. Anh nhìn vào một điểm vô hình thăm thẳm trong rừng đại ngàn: - Để làm gì thì chú mày sẽ biết sau. Ngay bây giờ, đeo súng AK vào, đưa anh đi. Chúng ta sẽ tới nơi năm chiến sĩ hy sinh do hổ là kẻ thù gây ra tội ác. Nga hơi ngán. Anh đã quay lại đây cùng tổ làm chính ách đưa thi hài liệt sĩ về phía sau chôn cất. Lần này là thứ ba. Mà bộ đội vào chiến trường đánh nhau với Mỹ hay đánh nhau với hổ đây? Dường như ngay chính trị viên đại đội cũng không khoái cử Nga đi theo phái viên. Hay là vị này muốn xa phía trước và gần phía sau hơn? - Anh lầm lũi đi trước dẫn đường, đôi mắt soi mói và cảnh giác. Phái viên đi phía sau chẳng nói chẳng ràng, thỉnh thoảng dừng lại nhìn đây đó làm chiến sĩ phải đợi. Nhiều lúc sốt ruột, nét mặt Nga trở nên nhăn nhó: - Anh tìm gì ạ. Chẳng có mìn đâu. Phái viên Bộ Tổng khoát tay ra chiều khẳng định: - Đừng có tò mò quá, chú mày. - Nhưng anh tìm dấu chân hổ à? - Cũng có thể là như vậy. Chiếc L19 sà xuống cánh rừng và tiếng loa rõ to bật vang. Cái giọng trọ trẹ nhát gừng từ phía trên rọi xuống: Hỡi các bạn cán binh bộ đội Bắc Việt... Hãy noi gương thiếu úy Mai Hiền Nhi... Vị phái viên chẳng để ý đến tiếng loa mà mải miết với những dấu chân trên đất còn Nga thì sốt ruột và chăm chú cảnh giới. Đến nơi tổ trinh sát pháo binh đi vào giấc ngủ vĩnh hằng phái viên quan sát từng dấu chân xem độ nhỏ to giống nhau hay khác nhau và từng cụm dấu chân như đếm sạn trong ra gạo. Rồi kéo Nga đi rộng tới những nơi bỗng dưng biên mất hẳn dấu chân hổ. Họ ngồi ngủ dưới chân cây lim già. Phái viên Trang trầm tư lặng lẽ một lát rồi đứng lên, chậm rãi đi đi lại lại và dầu cây gậy chống cầm tay gõ nhịp vào bất cứ chỗ nào thuận tiện. Giọng anh dí dỏm và khêu gợi: - Hổ ấy mà! - Vừa rồi đã xài hai con lợn quý giá của bếp anh nuôi mặt trận. Đêm đầu nó lùa tay vào chuồng bắt một con. Anh nuôi không hiểu sao cứ kiểm điểm hoài. Đêm hôm sau nó lại tới xài con nữa. Mình nghe tin xuống xem và làm cho một cái bẫy. Trò này mình học hồi nhỏ từ một ông già người Mường vùng Ngọc Lạc. Hồi lại tới. Quen mui lùa tay trước vào chồng. Đàn lợn hồn xiêu phách lạc im thin thít như thịt nấu đông. Lập tức dây bẫy bị tay hổ quờ phải kéo theo cò súng làm toàn bộ băng đạn bay ra khỏi nòng. Có tới bảy viên găm vào anh chàng trộm lợn tới mức siêu việt này. Nga còn chưa hiểu ý định của phái viên thì anh Trang đưa ra câu hỏi: - Hả? Chú mày đọc sách báo đã thấy nói hổ dữ đi hàng đàn tìm mồi bao giờ chưa? Ta có đầy đủ cơ sở khả nghi đây không phải là hổ. Ta cho rằng bãi tranh đang cháy đỏ hoàng hôn sườn núi bên kia trực thăng đã hạ cánh. Nga nhìn theo ngón chỉ của phái viên trong lòng rộn rã bao ý nghĩ mới mẻ. Và điều bất ngờ hơn đối với anh là đúng nơi ấy có dấu trực thăng đỗ xuống. Không thể khác được rồi! - Vị phái viên Bộ Tổng nói ngay - Máy bay trực thăng đã chở tiểu đội thám báo tới đây. Chúng tiếp cận mục tiêu tấn công và thay lốt người bằng lốt hổ. Ý đồ tâm lý của hành động đã có hiệu quả. Ghê thật! Mỹ có khác - Anh hạ một câu như vậy để kết luận cuộc khảo cứu của mình. Những cánh quân trùng trùng ngấp nghé các cửa rừng. Gần chục tiểu đoàn mỹ và ngụy đã nhảy xuống vùng Cù Đinh - Baze ngăn chặn. Chúng tràn ngập trên các điểm cao quanh những bãi trống. Chúng chiếm khu vực Phù Tân ấp, suối La La, lèn 216, lèn Hi Gia, làng Tre, điểm ba trăm đất, điểm ba trăm đá. Rồi bộ binh ta áp sát các mục tiêu đã được chuẩn bị. Pháo cối một trăm hai mươi ly.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> không tập trung đánh tiểu đoàn mà phân ra từng trận địa đại đội sẵn sàng chi viện cho bộ binh tiêu diệt địch ngoài công sự. Sở trường của bộ đội ta là đánh đêm! - Nghe tuyên bố như vậy phái viên Trang chỉ im lặng. Anh xin phép mặt trận cho tập kích hỏa lực vài trận thí điểm. Có trận nổ súng vào lúc gần sáng và sau đó trinh sát tiếp cận kiểm tra kết quả trận đánh. Không thấy xác địch. Cũng không thấy dấu tích thương vong. Chỉ có những điểm đạn nổ rất chụm, chuẩn xác và đồ hộp đủ các loại. Chẳng hiểu Nga thấy mến vị phái viên Bộ Tổng này từ lúc nào tuy rằng có phần e dè anh. Chính Nga đã chứng kiến phút gặp gỡ khi phái viên từ chân điểm 333 trở về. Chính trị viên đại đội nhếch mép cười rất ý vị: Sao! Ông bắt được hổ chứ? - Anh Trang biết mình bị giễu nhưng vẫn điểm tĩnh coi như chẳng có gì phải để ý. Anh từ tốn giải thích: Làm gì có hổ? Biệt kích Mỹ đội lốt hổ đó ông ạ. Xem ra bọn này cũng quỷ quái thật! - Chính trị viên lờ chuyện hổ đi mà xen vào- Bom pháo đủ loại đánh nát cánh rừng như ông đã thấy đấy. Nhưng bộ đội ta kinh hơn nhiều. Họ rất vững vàng ông ạ. Tới đây vị chính trị viên cười rất tươi. Anh ngừng nhưng Nga biết ẩn dụ phía sau lời nói ấy. Cái ngầm ý sâu sa là như thế này: Chính tôi (chính trị viên đại đội) đã xông xáo có mặt bên từng chiến sĩ lúc nguy nan nhất, nhẩy lên khỏi hầm ngăn chặn mấy anh bị đánh ác liệt quá sinh ra dao động: Nằm xuống! - Tôi đã hét lên như vậy tới khản hơi kiệt sức - không được rời vị trí chiến đấu! Tôi đã khẳng định niềm tin cho anh em và trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm chứ đâu có nhởn nhơ đi tìm vết tích của hổ. Phải chăng dưới con mắt của chính trị viên, anh Trang chỉ là công tử. Sĩ quan tổng hành dinh! Thành phần lớp trên. Nghe nói giàu lắm. Các cụ ngày xưa có trang ấp kia mà! Nhất là khi mỗi sớm tuồn khỏi căn hầm đất tiu hỉu phái viên lấy lược chải đầu thì thế nào chính trị viên cũng lặng lẽ nhìn để rồi nguýt dài một cái. Nga băn khoăn về sự đánh giá không công bằng của chính trị viên. Nga thấy ở anh Trang sự có học và hiểu biết rộng rãi. Ấy vậy nhưng Nga để ý thấy không khi nào chính trị viên đại đội chính thức mời anh nói chuyện. Những khi các cán bộ chính trị giảng bài về đường lối, về lập trường, về xu hướng thời đại với những tính tất yếu gì đó anh vẫn nghiêm chỉnh ngồi nghe. Khi chiến sĩ hỏi chính trị viên đại đội: Thủ đô Lơ ke ở đâu và của nước nào? Vị chính trị viên đại đội đầy tự tin khẳng định: ở bên Tây và của nước Pháp! Có chiến sĩ bật cười. Nhưng anh Trang thì im như là không nghe thấy. Một buổi sáng mùa thu gió lặng nắng vàng. Chiến sĩ Nga chui từ căn hầm ra vươn vai một cái rõ dài và bất ngờ kêu lên thèm khát: Chao ôi! Giống buổi sáng đến trường ghê quá. Anh thấy đôi mắt phái viên Trang mở rất to nhìn mình xa xăm lưu luyến. Phái viên như muốn nói một câu gì đó với chiến sĩ. Nhưng rồi im lặng và đăm đăm hướng vào chốn vô hình. Từ đài quan sát đại đội trưởng điện xuống có tốp máy bay lên thẳng là là bay đứng trên mặt sông Cam Lộ. Sao? Sao lại là là trên mặt sông Cam Lộ? A! Chúng nhất bổng lên rồi. Ơ kìa! Chuẩn bị! Chuẩn bị! Lèn Hi Gia! Tọa độ... Đạn... Ngòi... Liều... ơ kìa! Chúng nó tắm. Lính Mỹ tắm! Chúng tồng ngồng từ trong lèn chạy ra, trắng có, đen có, như ngan như vịt đủ màu kỳ cọ dưới mưa phun của máy bay lên thẳng. Bắn! Bắn gấp! Tạm dừng! Lính Mỹ đã ồ ạt chạy cả vào trong lèn. Vào thời điểm địch dàn quân ra khắp vùng Cù Đinh và hết sức ca lên việc thiếu úy Mai Hiền Nhi đầu hàng thì phái viên Trang được gọi về sở chỉ huy mặt trận. Chuyện hổ báo người ta cũng nhanh chóng quên đi như trời đã sáng chẳng còn sợ ma nữa. Mặt trận yêu cầu các phái viên từ Bộ vào, và của chính mặt trận cử xuống, nhanh chóng rút kinh nghiệm ban đầu để tìm cách bẻ gẫy cuộc hành quân Haxtin rầm rầm rộ rộ. Hang núi thẳm sâu trong rừng đại ngàn. Điện sáng trưng. Không có bom đạn hoặc bất cứ thứ biệt kích thám báo nào mò được tới đây. Vị Tư lệnh vừa từ đài quan sát tiền duyên trên điểm cao 425 trở về ngồi ở trước bàn ghép bằng những thanh nữa đặt mấy chiếc máy điện thoại. Chuông reo. Ông cầm máy và cất giọng chắc nịch:.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> - Thu Bồn không tiêu diệt được mấy đơn vị Mỹ này thì có tội với đồng bào miền Nam ruột thịt! Tôi nhắc lại là có tội với đồng bào miền Nam ruột thịt! - Ông định đặt máy lại áp vào tai gọi tiếp - Hả? Vồ hụt à? Cho đơn vị rút kinh nghiệm. Rút kinh nghiệm ngay! Hổ vồ mồi mà vồ hụt thì còn ra cái thể thống gì nữa! Tư lệnh ngồi chững chạc đầy vẻ oai phong. Nếu chỉ thấy trong tư thế đang hiển diện ta dễ đánh giá ông là con người bệ vệ, xa cách. Nhưng chính Trang đã gặp ông bên suối Cù Đinh, chính Trang đã cùng ông nhào vào một khe đã khi bom B52 chụp xuống nên hiểu ông là người thế nào. Anh giơ tay chào và ngồi vào vị trí. Đánh loáng, các hàng ghế đã chật người. Không cần tuyên bố lý do, không cần báo cáo theo nghi thức, Tư lệnh đặt máy và vào đề luôn: - Lần đầu tiên chúng ta chạm trán với lính thủy đánh bộ Mỹ. Mỗi người trong chúng ta cũng như quân khu và mặt trận đều chưa có kinh nghiệm. Mọi bài bản huấn luyện ở hậu phương phải được áp dụng linh hoạt và không máy móc. Các đơn vị của Thu Bồn có pháo cối hạng nặng và sơn pháo bẩy nhăm ly chi viện đã mấy lần chộp hụt những đại đội Mỹ. Hồ vồ mồi như thế được chăng? Thế là thế nào? Kẻ thù với đội quân ngàn ngàn và bom đạn trung lai bất tận đang hung hăng tìm diệt và bình định mà ta lại định thu lu chui vào ba chân kiềng sao? Hả các đồng chí? Và ông ngồi nghe. Lặng im để nghe. Không cắt ngang lời một người nào. Nhưng bất cứ ai dài dòng lặp đi lặp lại một nội dung thì ông nhắc ngay. Phái viên Trang trình bày ý kiến của mình. Sở trường đánh đêm từ thời chống Pháp vẫn làm ta đắm say song phải biết áp dụng sao cho phù hợp vì đối tượng tác chiến hôm nay là chú Sam ghê gớm chứ đâu phải anh gà trống Gô loa dạo nọ. - Thưa thủ trưởng mặt trận! - Trang nói - Năm chiến sĩ của tổ trinh sát pháo binh bị hổ vồ như ta đã biết. Mới đây lại một chiến sĩ tình cờ thoát khỏi nanh vuốt của hổ. Đồi tranh. Chiến sĩ ra suối lấy nước. Nghe tiếng sột soạt khe khẽ anh cảnh giác ngồi thụp xuống đúng lúc con hổ phóng vút phía trên đầu. Chỉ phần ngàn của giây chậm trễ chắc chắn mặt chiến sĩ sẽ bay vèo. Loài hổi vồ hụt là biến. Thời cơ chiến đấu thắng kẻ địch để bảo vệ mình khắt khe là vậy. Nhanh một giấy không được. Chậm một giây không xong. Còn cái thế kiềng ba chân theo tôi chỉ là biện pháp chiến thuật nhất thời bởi nó mang tính phòng thủ thụ động. Mắt Tư lệnh sáng lên: - Vậy với pháo binh thì sao? - Vẫn phải áp dụng thế hổ vồ mồi. Chi viện cho bộ binh đánh địch ngoài công sự hay độc lập tập kích vào sinh lực lộ cũng như vậy cả. - Đồng chí phái viên! - tư lệnh mặt trận cao giọng. Ông hơi nhướng người về phía trước làm cho cái đầu cắt cua hùng dũng chẳng khác nào khối thuốc nổ sắp được châm ngòi - Liệu có nên đặt ra giả thiết địch là hổ và ta là mồi không? Trang điềm tĩnh báo cáo: - Sự ấy đã xảy ra rồi, Thưa Tư lệnh. Ta mạnh. Và địch cũng mạnh. Năm chiến sĩ pháo binh địch cấu nát chẳng là báo hiệu hổ vồ mồi đó ư. Nếu ta không là hổ thì dứt khoát sẽ biến thành mồi. Nếu kiền ba chân cứ tưởng là vững mà án binh bất động thì sẽ là mồi. Sẽ bị đớp gọn từng chân kiềng một hoặc cả ba chân cùng một lúc! - Cám ơn đồng chí! - Tư lệnh hạ thấp giọng và ngồi xuống ở tư thế cũ. Phái viên Trang cẩn trọng lắng nghe mọi ý kiến phát biểu và đặc biệt kết luận của Tư lệnh mặt trận. Anh đề nghị được tiếp tục gắn bó với đơn vị. Mây trắng bồng bềnh và anh muốn bay cao để nhìn ra xa tít tới cả vùng đồng bằng ven biển miền Trung rực rỡ ánh nắng mặt trời. Anh trở về với đơn vị hỏa lực. Chiến sĩ nghênh đón khi anh nhanh nhanh bước tới với mũ tai bèo đội lệch, túi 351 kềnh kệch bên sườn, cây gậy nhỏ cầm tay vừa để chống vừa vung vẩy vào không khí như lấy đà khua khoắng. Riêng Nga chỉ nhành miệng ra cười và xoe xoe hai mắt ngắm nhìn. Bốn khẩu pháo cối hạng nặng một trăm hai mươi ly dàn đội hình dưới chân điểm cao không tên chờ đánh tập kích vào bất cứ đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ nào nống ra khu vực đồi Con Thỏ bên kia tràng rộng Baze..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Cuộc hội ngộ chẳng vui sướng gì giữa ta và địch được chọn là vào sáng sớm hoặc chiều về chạng vạng khi địch vừa đổ quân xuống hoặc thực hành bốc quân đi. Lính Mỹ chơi sáng hơn cả các chàng công tử Bạc Liêu một thời cưỡi xe song mã. Máy bay ném bom hoặc pháo bắn cấp tập dọn bãi sạch tưng. Rồi rùng rùng máy bay trực thăng chở các chàng đáp xuống. Rồi co cụm lại hoặc đánh nống ra vùng chung quanh. Chiều đến ít khi đón về điểm cao ban đầu và đó là điều làm bao lần ta đã tập kích vào chỗ không người. Chúng có thể dùng trực thăng bốc đi. Rất bất ngờ. Rất nhanh chóng. Nhưng cũng có thể co về, hành động như vừa nấp sau màn sương khói mơ màng vừa phới lới bày ra trước mặt, nhận đạn dược, thực phẩm, thuốc men, đầy đủ, chi lý đến cả gói giấy vệ sinh và nước rửa, rồi đốt lửa, để đêm chìm xuống, luồn rất tài tình vào bóng đen sâu hút dành cho đối phương một mục tiêu không người. Cuộc chiến ở Cù Đinh - Baze những ngày năm 1966 ấy hai bên chờn vờn nhau cứ như mèo và chuột. Lúc bên này là mèo thì bên kia là chuột. ở chỗ nọ bên này là chuột thì bên kia là mèo. Đôi khi cả hai đều là hổ, gầm gừ, nhe nanh, giơ vuốt, chẳng hiểu anh nào sẽ chộp được anh nào. Núi rừng nghiêng ngả. Cây cối bị tiện ngang. Từng đàn vượn mấy trăm con ào ào rừng cây cành lá biến đâu mất tăm. Tiếng hót của chúng chẳng còn vang vọng từ bên kia dãy Tia Pông đội về. Hổ cũng mất hút. Suốt ngày đêm rùng rùng chuyển động. Trường Sơn nghiêng ngửa. Trường Sơn bùng cháy. Trường Sơn oằn mình lấy sức như sắp đổ ụp xuống đồng bằng. Tin từ mặt trận ngày mai địch sẽ đổ quân lần thứ hai xuống dãy đồi Con Thỏ bên kia tràng rộng Baze. Nhưng mỏm nào? Dãy đồi ấy có rất nhiều mỏm? Khó mà biết trước cụ thể mỏm nào vì ngay cả dự báo kia mới là phán đoán. Suốt đêm đó đài quan sát pháo binh do đại đội trưởng Xuân phụ trách thay nhau theo dõi mọi diễn biến. Từ Cam Lộ, từ 241, pháo địch vẫn bắn từng loạt động rồ tới các mỏm của đồi Con Thỏ. Chẳng có gì gọi là đặc biệt. Mờ sáng pháo địch bất ngờ như lên cơn sốt ác tính bắn cấp tập vào mỏm K và mỏm H. Rồi máy bay phản lực chúi xuống cắt bom. rồi từng đàn trực thăng chở quân khuấy động bầu trời. Đất xoay tròn. Núi đồi nghiêng ngả. Bốn khẩu pháo cối hạng nặng thập thình nhả đạn tìm điểm chạm rồi khi có phần tử chuẩn xác thì thi nhau tung đạn như muốn khợp lấy bầu trời đầy lửa. Hổ đang vồ mồi! Lính Mỹ lập tức đổ sang những mỏm đồi bên cạnh. Pháo cối chuyển làn. Đạn nổi găm những mảnh gang là là trên đất. Trận đánh diễn ra chừng ba mươi phút đồng hồ. Sở chỉ huy mặt trận điện xuống yêu cầu đại đội cử tổ trinh sát tới các mỏm K và H của đồi Con Thỏ, kiểm chứng kết quả bắn pháo của ta và xem xét mức độ thương vong của địch. Phái viên Bộ tổng xin được đảm nhiệm tổ trinh sát này. Các cán bộ đại đội tròn mắt nhìn nhau. Chính trị viên bước đi bước lại trước căn hầm nhỏ. Anh người thấp. Đầu cứ hơi cúi xuống khoái trá đếm từng bước chân trên đất để rồi thỉnh thoảng mủm mỉm cười ruồi. Đôi lần anh đứng hẳn lại bập bạp đôi môi vào không khí ắt hẳn muốn hỏi bầu trời: Có nên đồng ý không nhỉ? Có gì lạ lùng ở chuyện này không nhỉ? Chơi trọi chăng? Và cái gương mặt viên thiếu úy chợt choài mang tên Mai Hiền Nhi ra hàng chẳng lẽ không phải là bài học cho ta hay sao? Phái viên Bộ Tổng có trình độ đấy, được anh em đơn vị mến yêu đấy, nhưng lại không phải thành phần cơ bản để ta hoàn toàn yên tâm. Gia đình anh có trang ấp kia mà! Vậy thì ghê gớm quá. Anh tư như mây trời lơ lửng biết đâu lại chỉ thích vù vù lượn theo chiều gió. Ngay cả chiến sĩ Nga cũng hiểu rõ điều này. Khi nhập ngũ anh đã phải kê khai thành phần gì, bố mẹ, ông bà, cụ kỵ, cả đến những người thân chưa bao giờ anh biết mặt và gặp gỡ, có bao nhiêu tài sản. Anh hiểu chính trị viên đại đội của mình là con người dũng cảm, khí phách hiên ngang, nhưng rất kị với những ai thuộc tầng lớp cứ bồng bềnh chiều mây lảng bảng. Nga hơi mủi lòng thay cho phái viên Trang. Dường như anh Trang nắm bắt được những làn sóng ngầm xô nhẹ ấy song không tỏ thái độ gì. Vào chốn hy sinh âu cũng chẳng được dễ dàng! Mặt trận điện xuống đồng ý để anh Trang đi..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Nghe đâu phải có ý kiến của Tư lệnh. Chính trị viên đại đội không cử Nga mà lại gọi chiến sĩ Hoàng tới giao nhiệm vụ: - Đồng chí đi với phái viên Bộ Tổng. Hoàng nhăn mặt lại như bát canh quá nhiều lá bứa: - Tôi sẵn sàng ạ. Nhưng sao không phải Nga? Nga vẫn đi với phái viên kia mà. Sao lại là tôi? Chính trị viên hất chiếc mũ tai bèo đang đội đầu về phía sau rồi nở nụ cười phơ lớ: - Là đồng chí! Nhiệm vụ nặng nề. Tổ có ba người. Phái viên Trang, đồng chí và một chiến sĩ vô tuyến mang theo máy 2W. Phải liên lạc vê theo quy định. Phải luôn luôn lắng nghe chỉ thị. Có tình hình nguy cấp phải báo cáo và mở máy liên tục. Đồng chí phải hiểu vì sao mình được chọn. Hoàng đánh mặt làm cho cái mũi nhòn nhọn vắt vẻo như mũi tây hếch lên và miệng nhanh nhanh đáp gọn: - Rõ! Chính trị viên bỗng kéo mũ tai bèo trùm kín đầu: - Chưa. Đồng chí chưa rõ hẳn. Đồng chí thành phần gì nhỉ? Nghĩa là bố mẹ, ông bà, cụ kỵ ấy mà. - Bố mẹ em bần nông! - Đấy. Còn ông nội đồng chí? - Cũng bần nông. - Đấy! Như thế chứ. Còn cụ kỵ chắc đồng chí chả biết. - Rồi xòe hai bàn tay ra nói tiếp - Chính vì vậy mà cử đi làm nhiệm vụ hôm nay. Phải quan sát mọi cử chỉ, mọi hành động vì tới đồi Con Thỏ cũng là lọt vào trong vòng của địch. Máy bay chở quân của chúng có thể hạ xuống bất cứ lúc nào. Một cán bộ có thể thông minh và vững vàng khi chỉ huy trên bản đồ tác chiến, thậm chí khi đi tìm vết chân hổ, nhưng trước tình huống hiểm nghèo lại chưa được thử thách để mà khẳng định. Lại càng chưa biết được sẽ như thế nào trước mọi sự cám dỗ... Thiếu úy đại đội phó Mai Hiền Nhi là bài học đau đớn cho chúng ta. Tới đây người chậm hiểu nhất cũng rõ chứ đừng nói đến Hoàng. Anh nhảy nhót với chiếc ba lô cắm đầy ngụy trang và tiểu liên AK trước ngực. Từ các dẻo yên ngựa và sườn dốc khu đồi Không Tên xuống đã là suối Cù Đinh. Ngược về phía bắc đi nữa, đi nữa, tốp người đổ bóng trên tràng rộng Baze. Cỏ hoa chạy dài nhức mắt. Những vùng bị cháy đen xạm hoặc đỏ cạch khói vẫn nghi ngút bốc lên làm cho mặt đất mênh mông như tấm da báo căng mãi không biết đâu là bến là bờ. Chỗ này chỗ kia lửa ngùn ngụt lè ra liếm vào bầu trời sền sệt vàng cong nắng quái. Những bông lau còn sót lại tạo thành lớp bụi phấn màu bàng bạc trôi tít tới chân rừng. Các mỏm đồi Con Thỏ nối nhau như thiên nga rã cánh nhập vào với đàn khác ở An Hòa, ở Bái Sơn trùng trùng quẫy cựa dưới tro tàn và khói bom ảm đạm. Lúc nằm. Lúc chạy. Lúc ẩn mình bên khe đá hoặc các bụi sim mua. Lúc tưởng bị địch tóm gọn. Truyền đơn có ảnh Mai Hiền Nhi đang vui cười được rải dầy đặc. Có truyền đơn chúng vẽ người chiến sĩ giải phóng hai tay giơ cao, mũi súng chúi xuống đất với dòng chữ kêu gọi: Các bạn hãy tỏ thiện chí trở về chính nghĩa quốc gia bằng hành động như thế này và nếu như chưa có dịp thì hãy cứ giữ lấy tờ giấy có trong tay bạn làm căn cước. Hoàng thấy phái viên Trang chẳng nói chẳng rằng xé vụn tờ truyền đơn ném về phía trước. Nga ở lại trận địa lòng dạ bâng khuâng: Bỗng anh nhớ phái viên Trang. Con người ấy đâu phải là bẻm m ép. Trận đại bị đánh tơi tả suốt mấy ngày liền. Cây cối đổ ngổn ngang. Bỗng ào ào... ào ào... Đàn vượn không hót mà chuyền cành chạy trốn rất nhanh trong nỗi kinh hoàng. Một con bỗng rơi bịch xuống đất. Nó lăn quay hai ba vòng liền. Dường như nói bị hơi ép của bom hay có miểng nào găm vào trong người cũng chẳng biết nữa. Nó gắng gượng rồi ngồi xệp trên mặt đồi như là lấy sức. Nó quay lại nhìn! Nó nào có nghe. Anh chạy tới định bế lấy, nó liền chồm theo đồng bọn. Một con khác to lớn chẳng hiểu có phải đầu đàn hay không chạy lại đón nó, đỡ lấy một bên vai của nó, nhập vào với cả đàn tiếp tục.

<span class='text_page_counter'>(29)</span> ào ào... ào ào... trên những tán lá rừng còn sót lại. Cả trận đại quan tâm theo dõi bước chân của tổ chiến sĩ đi vào khu đồi Con Thỏ. Liên lạc vô tuyến mười lăm phút một lần. Quá trưa họ đến điểm cao H. Mọi kết quả kiểm tra được thông báo về. Đạn ta nổ rất chụm. Không còn một xác lính Mỹ nào. Nhưng dấu tích thương vong thì nhiều. Vết máu. Bông băng. Cả bộ phận nào đó của cơ thể. Mọi người hiểu rằng lính thủy đánh bộ Mỹ chiến đấu theo điều lệnh khá bài bản. Hầm cá nhân ưỡn cong dưới nắng. Không sâu. Nếu trụ lại có thể mắc võng nằm ngửa liu riu thõng thẹo theo chiều dài căn hầm. Súng gác chéo trước ngực. Bị hỏa lực tập kích chỉ cần ôm súng lăn nhào xuống là kín người. Bị bộ binh ập tới chỉ cần bật dậy là tha hồ xả đạn. Quanh mỗi công sự cá nhân là cả một chạn thức ăn phong phú. Hộp trứng. Hộp phomát. Hộp mứt hoa quả. Hộp lạc. Hộp rau. Cà phê tan và cồn đun nước pha tại chỗ. Nước rửa mặt. Giấy vệ sinh... Vô tuyến báo về vị phái viên Bộ Tổng nhanh chóng nhặt những đồ ăn lạ lùng ấy cho vào bo lô nên hai chiến sĩ kia cũng thoăn thoắt làm theo. Họ vừa chuẩn bị lui thì pháo địch rót tới. Rồi một đàn máy bay chở quân xuất hiện. Chúng muốn chiếm dẻo đồi Con Thỏ lần thứ ba. Rõ ràng đối phương toan tính ngăn chặn dòng thác bộ binh ta tràn qua ép vào vùng phía tây huyện Gio Linh. Phái viên Trang kéo cả tổ nép mình bên một cụm sim mua già. Không được lộ! - Anh ra lệnh khi thấy chiến sĩ Hoàng giơ tiểu liên lăm lăm - Nhưng địch chụp lên đầu? Chưa! chúng còn chưa... Chúng chưa chụp... Hoàng lại giơ súng lên. Đôi mắt phái viên Trang vằn đỏ - Cấm! Tôi là người chỉ huy ở đây. Cấm manh động - Không được để kẻ thù phát hiện. Phải giữ bí mật đến cùng và tìm lối thoát. Mất liên lạc. Cả đài quan sát vào trận địa thấy rõ máy bay chở quân hạ xuống. Có chuyện rồi! Chính trị viên bồn chồn ngồi lặng trên khúc cây đổ ngang phía sau trận đại. Anh kéo sụp vành mũ tai bèo xuống như tàu lá môn thục bị héo. Nghe chiến sĩ thông tin báo có những âm thanh lạo xạo từ phía đồi Con thỏ gọi về máy bộ đàm vừa liên lạc được anh lao tới thộp lấy ống nghe và gọi rối rít: Hả? Hả? Bến Hải đâu? Bến Hải đâu? Bỗng giữa những âm thanh loạn xạ trùng lai ấy vang lên giọng của chính phái viên Bộ Tổng: - Tọa độ H! Chính trị viên bật người như chiếc lò so cực mạnh: - Hả? Sao lại tọa độ H? Tiếng vọng từ phía đồi Con Thỏ hổn hển gấp gáp: - Chúng đổ quân xuống rồi! Chúng đổ quân xuống rồi. H! ấy là phút giây ba chiến trực thăng chở quân hạ hẳn. Rồi một chiếc khác nhất bổng lên từ từ hạ trên đầu ba chiến sĩ. Cái bụng nó lỳ lỳ gớm ghiếc. Cửa máy bay mở. Nhạc nổi lên. Tiếng gọi chiêu hồi vọng xuống. Máy bay thấp dần tưởng như sức gió hút bật ba chiến sĩ dính vào thân dưới của nó. Bỗng một thang dây tung ra vắt vẻo và tiếng gọi chua chát: Lên đi các bạn Bắc Việt! Tức thì khẩu súng ngắn trong tay phái viên nổi đanh hai viên đạn. Máy bay bật lên cao. Rõ ràng chúng muốn bắt sống nhưng không dám hạ hẳn xuống. Lính Mỹ trên mặt đồi khép chặt vòng vây. Tổ ba người còn rất ít đạn đang bắn phát một như bình tĩnh đếm từng bước chân trên đường đến cõi vĩnh Hằng. Một lần nữa Trang lại trực tiếp gọi vào máy: - H! Anh không thể nói gọn hơn được nữa. Đạn pháo cối ta chụp xuống. Lính Mỹ ào ra bốn phía. Lệnh bắn gấp liên tục. Nga vừa nạp đạn vừa giàn giụa nước mắt nức nở khóc một mình. May mà khói bụi mù mịt chẳng ai phát hiện ra. Trận đánh ngừng và sau đó Hoàng cùng chiến sĩ vô tuyến tơi tả chạy về. Mọi người xúm lại: - Anh Trang đâu? Giọng Hoàng khản đặc: - Hy sinh...! Ngay lập tức lời khẳng định ấy được chỉnh lại bằng hơi thở ngập ngừng hổn hển: - Có thể là hy sinh...!.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Chính trị viên trợn tròn hai mắt: - Sao lại có thể? Trình bày rõ xem nào. Hoàng hối hả kể mà tiếng nói cứ lịm đi như tiếng gọi hồn chìm vào trong đất. Một chiến sĩ kêu lên: Cho cậu ấy uống đã! Cho cậu ấy uống đã! Một ca nước đầy được mang đến. Hoàng ực một hơi hết sạch rồi lại cất giọng khàn khàn đặc quánh: - Chúng nó chụp xuống. Phái viên kéo chúng tôi vào bụi sim mua rất dầy và yêu cầu phải giữ bí mật. Anh quát lên: Không được manh động! Không được liều mình! Nhưng lộ rồi. Làm gì mà bọn Mỹ không phát hiện ra. Chúng thả thang dây kêu gọi. Rồi lính thủy đánh bộ lao tới. Chúng tôi đánh trả. Khẩu súng ngắn trong tay phái viên cẩn trọng điểm xạ từng phát. Tôi không thể nào quên được khuôn mặt anh ấy. Lạnh như sắt thép và hai mắt đỏ ngầu. Đạn hết, anh ném súng và bắt chúng tôi rút. Tôi thấy máu đã ướt đầm chân anh, trên vai anh và cả trên mặt anh. Tôi liền ghé vai định cõng thì anh thều thào nói trong hơi thở: - Mau... Rút... Tôi vặn lại: - Còn anh? Anh gắng sức nói và hai mắt thình lình biến thành hai tia lửa cháy rực có thể thiêu trụi cả một cánh rừng: - Rút... u... út! - Đoạn anh lôi quả đạn từ túi đeo bên thắt lưng chờ lính Mỹ lăm le đi tới. Có lẽ chúng vẫn muốn bắt sống anh. Chính trị viên tròm mồm ho hó hỏi lại: - Bắt sống à? Và thêm vào ngay: - Chắc chắn không? Chiến sĩ thông tin giảng giải thay cho bạn: - Không ạ. Không chắc đâu anh ạ! Anh Trang không thể để mình rơi vào tay quân thù. Lựu đạn lăm lăm trong tay. Và anh chờ đợi. Chờ đợi! Anh gắng sức kìm chân địch cho chúng tôi thoát ra trọn vẹn. Tôi thấy rõ anh loay hoay để sẵn sàng rút nụ xòe quả lựu đạn. Anh sẽ chọn cho mình cái chết xứng đáng! Cả trận địa lặng lẽ. Chính trị viên kéo vành mũ tai bèo rũ xuống và khuôn mặt đăm chiêu để rồi dần dần ửng đỏ. Bên khóe mắt anh hai giọt lệ cực lớn lăn ra. Đại đội trưởng Xuân cũng có mặt từ lúc nào. Cả đêm hôm ấy và ngày hôm sau toàn địa đội phấp phỏng chờ tin tổ tìm liệt sĩ. Họ về tay không. Họ đi theo đường cũ. Họ không thể rà sót được hết các ngả đường từ đồi Con Thỏ về trận đại. Nhưng khi trời đêm sắp ụp xuống rừng già, chiến sĩ Nga xuống suối lấy nước thấy một hình hài đang di chuyển tới. Anh đứng lặng. Lúc đầu sợ hãi. Rồi bỗng khuỵu hai chân và hét lên: Anh Trang! Nga lao tới đón và nước mắt cứ ào ạt chảy ra. Rồi cả đại đội xúm lại. Người ta cười và khóc. Người ta gọi bác sĩ trung đoàn bộ binh phối thuộc tới. Người ta xung phong cho máu để chuyền. Người ta hồi hộp! Người ta nín thở! Người ta đợi chờ! Rừng đêm sáng dần. Trại viết Đồ Sơn, 3.4.200 T. Đ.C BỨC THƯ GỬI MẸ ÂU CƠ Thứ hai, 08 Tháng 10 2007 05:07 Mẹ kính yêu của con! Ngày hôm nay con được chứng kiến nỗi đau những người mẹ. Nỗi đau của con lại bùng lên và biết bao nhiêu bà mẹ cũng có nỗi đau như con. Bà mẹ thứ nhất: cô gái nhỏ 16 tuổi, cô vừa bước chân vào tuổi dậy thì đã vội làm mẹ. Cô là một bệnh nhân, bệnh nhân cô-vắc. Cô không hề hay cô đang mang một mầm sống trong cơ thể. Ngay ngày hôm trước khi bị mang ra xét xử, cô còn ngồi đánh chuyền với các bạn, ngồi ở tư thế gò bó, thỉnh thoảng vươn dậy cho đỡ mỏi, và bây giờ cô đang nằm đó, hồi sức lại sau cơn đau. Sau khi qua.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> khỏi cơn kinh hoàng, cô bỗng hiểu vừa xảy ra chuyện gì. Truyện ngắn. Y BAN Cô đưa mắt tìm kiếm. Nó đó - hài nhi còn đang há mồm đớp khí. Nó chưa biết khóc, hai mắt mở thao láo, cái miệng như hai cái mỏ chim non mà mới hôm qua thôi cô còn chụm môi để mớm cho chút nước bọt. Còn nó thì nằm đó. Điều phán xử là nó phải chết! Bỗng nhiên cô quặn đau. Đau thắt vùng tim. Đau như ai bóp chặt. Đau nhợt nhạt. Đau ràn rụa nước mắt. Qua cơn đau cô bỗng trở thành một người đàn bà từng trải. Ai đã xét xử điều đó? Mẹ cô? Bỗng cô thương hại con người ruột thịt của mình đến cháy lòng. Bà đang đứng kia âm thầm đau đớn. Và nó - nó đang đau đáu muốn sống. Bà mẹ thứ hai: Mẹ cô gái nhỏ kia, bà đau nỗi đau nhục nhã với thiên hạ. Bà mong muốn, thoát khỏi tội lỗi cho nhanh. Cái giống sao mà nó sống dai dẳng đến thế. Không tã lót gì cả để cho nó chết đi! Bà đặt nó vào một tấm xăng rồi bê ra một gốc cây. Bà ngồi dưới một gốc cây khác rồi chờ. Nó dai dẳng, chân tay ngọ nguậy, mồm ngáp đòi ăn, đòi thở. Màn đêm buông xuống lạnh lẽo bao quanh. Bà cứ chờ. Nó cứ sống dai dẳng, bà khóc than thân phận và nguyền rủa đứa con tội lỗi của bà. Bà đau cái đau riêng của mình... Mẹ kính yêu của con! Ngày ấy con cũng thế. Con như cô gái nhỏ tội nghiệp kia. Con đau nỗi đau của con. Mẹ đau nỗi đau của mẹ - hai người mẹ - Từ bấy đến nay, năm tháng trôi qua, con vẫn âm thầm đau nỗi đau của con. Nỗi đau nó trôi đi theo năm tháng nhưng nó lại bừng dậy bởi hàng ngày chứng kiến lại âm thầm đau. Những người mẹ là những người sinh ra nhân loại, sinh ra những đứa con. Là những người có trước hãy hiểu nỗi lòng của những đứa con gái, để nỗi đau hòa chung, đồng cảm và biến mất đi. * * * Ngày ấy... - Bệnh nhân cô-vắc sang phòng làm thuốc - Tiếng cô bác sĩ gọi chỉ cho người còn thức nghe thấy. Cả phòng phụ khoa nhổm dậy hoảng hốt nhìn quanh. Tiếng cô-vắc là tiếng giết người. Từ giường cuối của căn phòng, con nhổm dậy chuẩn bị đi. Mọi con mắt đổ dồn về phía con, kinh ngạc, khinh bỉ: - Ái à, thế mà mình lại cứ tưởng... - Vậy mà sáng nay mình còn bắt chuyện với nó kia đấy. - Trông người chả ai biết được nhỉ, rõ hiền lành tử tế mà khốn nạn, đĩ bợm. Con lao đi ra phía cửa. Những tiếng nói nghiệt ngã đuổi theo. Con câm lặng chịu đựng. Con biết nói gì nữa! Con bước vào phòng làm thuốc. Trong phòng lố nhố vài ba bóng áo choàng. Cô bác sĩ ra lệnh: - Cởi váy, nằm lên bàn! Con kinh hãi nắm chặt cạp váy vốn đã không có cúc. Con quay sang nhìn người nọ, người kia cầu cứu. Chẳng có ánh mắt nào thương hại con. Con tuyệt vọng biết không thể nào cứu vãn được tình thế. Con buông tay, chiếc váy sản.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> phụ tụt xuống chân con. Không đợi nhắc đến lần thứ hai, con nằm ngay lên trên bàn. - Tắt kinh từ bao giờ? - Từ tháng sáu. - Thở bình thường, mềm bụng ra. Tiếng một người phụ việc hỏi xen vào: - Cô hãy khai cho thật nhé. Cô phải nói thật, không được giấu giếm gì, như người bệnh ấy. Cô phải kể rõ ngọn nguồn căn bệnh, có thế chúng tôi mới chữa cho cô hiểu không nào? - Dạ, hiểu. - Được rồi, cô thụ thai trong trường hợp nào? Ở đâu? Trong công viên? Trên nền cỏ hay cạnh bờ ao? Hay trên giường nhà anh ta? Con mở mắt ngơ ngác. Con chú ý đến cơn đau tức ở bụng dưới hơn những câu hỏi của người y tá. Khi cơn đau qua đi, con mới chú ý. - Cô hãy khai thật đi nào! Anh ta là người yêu cô chứ? - Vâng, anh ấy là người yêu của cháu ạ. - Yêu nhau được mấy ngày? - Chúng cháu yêu nhau được hai năm ạ... - Anh ta có vợ rồi phải không? - Chưa ạ, cháu và anh ấy sẽ cưới nhau. - Thế ở đâu, cô và anh ấy... Cô nói đi, phải khai cho đúng vào. -... - Tiếng cô bác sĩ bảo y tá: - Chị đi lấy cho tôi chai huyết thanh: - Vâng. Người y tá định đi nhưng bỗng dừng lại nói với con: - Nào, cô khai thật đi. Mấy lần? Cô và anh ta ngủ với nhau mấy lần? Cô nghe rõ này, một lần thì chúng tôi có huyết thanh một lần, hai lần có huyết thanh hai lần... Sáu, bảy tám có huyết thanh sáu, bảy, tám lần. Nào khai đi. Cô không thành thật nó không ra đâu. Thuốc của chúng tôi công hiệu lắm... Cô nói nhanh lên cho tôi còn đi lấy thuốc. Con trân trối nhìn cô ta, vẻ mặt cô ta cố tỏ ra nghiêm trang, nhưng đôi mắt phản bội cô ta, nó cười cợt: - Nào, cô có khai không? Nói đi tôi còn đi lấy thuốc. Con chợt hiểu. À thì ra sự thể là thế này đây. Thời học sinh ngồi tán chuyện trên trời dưới biển con đã được nghe những chuyện như thế này. Bây giờ thì nó đang vận vào con đây. Uất ức trào lên nghẹn cổ, con bật dậy hét lên: - Bằng số lần để cô có được đứa con ấy! Sau khi hét lên như thế con đã nhảy phắt ra khỏi bàn. Trong con chỉ còn tồn tại một con thú bị săn đuổi đến đường cùng. Con chạy ra phía cửa, không nghĩ.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> đến việc phải mặc váy nữa. Một vệt máu chảy theo chân con. Cô bác sĩ vội vàng chạy theo giữ con lại: - Dừng lại! Muốn chết hay sao? - Vâng, tôi đang muốn chết đây. - Cô hãy bình tĩnh lại, chết lúc nào cũng được. Nhưng không phải lúc này. Chị y tá đi lấy huyết thanh cho tôi. Chị hộ lý, chưa cần đến chị đâu. Cô y tá tiu nghỉu đi ra, mắt cô ta còn cố lườm con một cái dài. - Đồ gái... - Chị đi nhanh lên cho - Tiếng cô bác sĩ gắt. Mọi người ra hết rồi, cô bác sĩ bảo con: - Chúng tôi xin lỗi cô. Lâu nay ở đây những trò đùa như thế vẫn hay xảy ra. Quả thật đó là một trò dớ dẩn, vô ý hết sức. Cô hãy bình tâm... Mà cô còn phải chịu đựng nữa kia. Cách cư xử của cô bác sĩ làm con dịu lại. Nhưng con vẫn nhìn cô bác sĩ với ánh mắt của con thú dữ bị xích. Cô bác sĩ để con ngoan ngoãn nằm lên bàn. Người y tá mang huyết thanh vào rồi hấm hứ đi ra ngoài. Một cơn đau tức dữ dội lại nhói lên ở bụng dưới, rồi như người nhịn giải lâu ngày, bụng căng lên anh ách. Một cảm giác choáng váng và buồn nôn. * * * Con nhợt nhạt bước vào phòng vô sinh. Thật trớ trêu thay, người khi làm côvắc bị xếp cùng phòng với người vô sinh. Buổi sáng hôm trước vào viện, phòng cô-vắc đã đóng, hết chỗ. Mẹ đã phải nhờ người quen, con mới được vào viện ngay, không phải chờ đợi. Y tá hành chính xếp tạm con vào phòng vô sinh. Phòng vô sinh cũng khá đông người. Họ khỏe mạnh và mau mồm miệng, thoạt đầu khi con bước vào phòng mọi người tiếp đón con niềm nở. Người ta kể chuyện về mình, người lấy chồng mười năm mà chưa có con. Người lấy chồng mười lăm năm... người nhiều tuổi, người ít tuổi, đều mong muốn một mụn con và cũng có người như con, bây giờ không thể sinh nở được nữa. Lúc con sang phòng làm thuốc, mẹ đã kịp bịa ra một nguyên cớ nhằm giảm nhẹ tội cho con: - Cháu nó lấy chồng từ đầu năm, nhưng cháu bị bệnh tim, ốm yếu quá thành ra sợ thai phát triển không đầy đủ, đành phải phá đi. Nhưng thể chất của con không thể là bệnh tim, ngay cả lúc bấy giờ con nhợt nhạt vô hồn bước từ phòng làm thuốc về. Sự nói dối của mẹ càng làm cho người ta dè bỉu thêm. - Ôi dào, bệnh tim, bệnh dài tim ấy thì có. - Trời ơi, sao trời không có mắt? Người chính chuyên hẳn hoi thì trời không ban cho lấy một mụn, kẻ lả lơi thì lại mau mắn. Người ta nói, người ta nguýt. Con câm lặng. Nước mắt con đã cạn khô. Giá như nó chảy ra được, thì sẽ vợi đi nhiều. Tủi hổ, bẽ bàng đến cùng cực, con trở ra, con mắt ráo hoảnh nhìn mọi người. Con có cảm giác họ đang dồn con vào chân tường. Bây giờ con mới hiểu mẹ là người đau nhất. Mẹ âm thầm khóc. Mọi người đổ dồn vào con mà không chú ý đến mẹ, chỉ có một bà mẹ đi thăm con mình vô sinh đã nhìn thấy. Bà ấy bảo mọi người:.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> - Nếu các bà bảo ông trời không có mắt là sai. Ông trời có mắt. Ông ấy phạt bọn chúng ta đấy, phạt cả cô ta lẫn các người. Thôi, các bà đừng nói nữa mà nẫu cả lòng... Quả sau đó người ta không nói nữa thật. Nói người rồi ngẫm đến ta. Họ đang nghĩ về cuộc đời họ. Đau đớn và buồn rầu, con cảm thấy được hả hê. Con có cảm giác đau đầu và buồn nôn. Con nói với mẹ: - Con buồn nôn quá, mẹ lấy cho con cái bô. Mẹ sực tỉnh đi lấy cái bô cho con. Nhưng đó chỉ là cảm giác. Con chỉ ậm oẹ không nôn ra được, mẹ cằn nhằn: - Sướng chưa? Ai đã dạy mày như thế cơ chứ? Mẹ của con! Khi con biết cảm nhận và nhớ những gì xung quanh mình thì nơi con sống là một vùng quê êm ả, trù phú. Đồ đạc chuyển đến từ bao giờ con không nhớ. Con chỉ nhớ rằng khi mẹ cõng con đến nơi thì đông vui lắm rồi. Bao nhiêu người ở trong nhà mình. Lúc ấy trời đang tối dần. Con vòi vĩnh "Mẹ ơi, con đói lắm". Mẹ bảo: "Chờ tí nữa mẹ thổi cơm cho ăn". Con đã không phải chờ. Một bác trong đám đông vui ở nhà ta ấy cõng con về ngay nhà bác. Bác đặt con xuống giường và lấy cơm cho ăn. Con ăn ngon lành. Bác nhìn con âu yếm: - Con nhà, ăn ngon lành quá! Khi con làm quen với nơi ở mới xong thì bao nhiêu điều thú vị xung quanh con. Làng xóm vào vụ gặt, con theo các bạn ra sân đình. Vui ơi là vui. Có đêm trăng sáng, còn đêm không trăng thì thắp đèn to. Sân đình ngổn ngang những đống thóc to. Từng tốp người đứng xung quanh chiếc cối đá úp sấp. Họ giơ lên đập những bó lúa. Thóc bắn ra như hằng hà sa số sao trên trời... Mẹ ơi, cám ơn cha mẹ biết chừng nào khi tuổi ấu thơ của con được sống ở nông thôn. Để những câu chuyện cổ tích cha kể cho con nghe, con đã gặp những hình ảnh ở xung quanh mình. Để bài học o, a đầu tiên sao hấp dẫn đến như vậy! Con đi học sớm, năm tuổi cha mẹ đã cho con đi học vì: "Con gái phát triển sinh lý sớm, cho nó đi học muộn đến tuổi 16,17 yêu đương, không đi học được". Lớp học của con ở trong cái đình to. Lớp con đông vui lắm, toàn các bạn quen. Cô giáo đầu tiên của con là cô Tiên gù. Không, không bao giờ cô xấu cả. Cô vẫn tròn như quả trứng gà... Mẹ ơi, ai đã dạy con ư? Mẹ dạy. Ngày hè con nằm quay đầu ra bờ ao, gió từ ba cây nhãn thổi vào, mẹ ngồi bắt chấy cho con, con thiếp đi ngon lành. Lúc tỉnh ngủ không thấy mẹ đâu. Mẹ đã đi làm rồi. Con bâng khuâng, buồn thiếu mẹ. Con cứ muốn nằm mãi trong lòng mẹ. Mẹ ơi, ai đã dạy cho con ư? Đất đấy, thiên nhiên đấy, mầu vàng của lúa, mầu xanh của cây, miền quê con sông ấy đã kiến tạo nên tâm hồn con, để con biết khóc trong tiếng mưa, biết cười trong nắng, biết múa hát trong tiếng cây cỏ trỗi dậy sau trận mưa rào. * * * "Ai dạy cho mày như thế cơ chứ?" Cha mẹ làm y tá bệnh viện huyện. Mẹ hay dắt con đến nơi làm việc khi con đang ở cái tuổi biết nhận thức và hay tò mò. Mẹ làm việc ở khoa sản. Khi đến nơi, mẹ dắt con vào phòng hành chính, đặt con lên cái ghế và dặn: "Ngồi yên đấy chơi, không được đi lang thang". Mẹ yên trí vì đã dặn dò con cẩn thận. Con chỉ ngồi yên được năm phút là chạy đi chơi khắp nơi. Ngõ ngách nào con cũng ngó.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> vào. Những phòng đóng kín cửa là những phòng con thích ngó nhất. Con đã đứng sau mẹ khi mẹ đỡ em bé. Thế là con biết em bé đã ở đâu ra, một cái ngách rất nhỏ, kín đáo, bí mật chứ không phải ở nách chui ra, không phải ở bãi rác, khi mẹ đi qua con đã bíu chặt lấy, mẹ đem về nuôi. Và khi chơi đồ hàng, búp bê, mẹ con, con biết vén áo lên. Trên ngực con có hai cái núm bé xíu. Con bẹo thịt ở ngực ra để ấn cái núm bé xíu ấy vào miệng búp bê thủ thỉ dịu dàng: "Con ngoan của mẹ, bú tí đi nào". Đấy, sau bài học o, a đầu tiên, con đã biết cái điều mà không cô giáo nào dạy con cả. * * * "Ai dạy mày như thế cơ chứ?" Nhà mình không ở làng quê ấy nữa. Chiến tranh bom đạn, sơ tán. Lần chuyển nhà thứ hai con biết trong đời, nhà mình chuyển đến một căn nhà chật hẹp. Cả nhà mình, con đã có thêm em thứ hai nằm trên một chiếc giường. Mẹ và ba chúng con nằm một chiều. Cha nằm dưới chân. Giấc ngủ trẻ thơ say sưa mê mệt. Ban ngày con nô đùa, chạy nhảy nên đặt mình xuống là ngủ như chết. Thường là những đêm như thế. Nhưng những ngày chiến tranh kéo dài quá, ngày ngày bom rơi đạn nổ, ngày ngày vì cái sống cái chết, ngày ngày từng lớp người ra đi. Ngày ngày vì những điều trọng đại ấy nên mẹ của con đã không chú ý đến một đêm con bỗng mở mắt ra đúng lúc ấy, tò mò, con băn khoăn và con không hiểu... Sáng hôm sau thức giấc, con đã không trong trẻo như những ngày thường. Con cứ mang một câu hỏi trong đầu. Con không dám hỏi những người lớn. Con chỉ hỏi những đứa bạn cùng tuổi với con: - Ban đêm cha mẹ mày có cởi truồng không? Có đứa nhìn con kinh ngạc. Có đứa thì gật đầu... * * * "Ai dạy mày như thế cơ chứ?" Ngay từ hồi học lớp một, lớp hai bọn con đã biết chế nhau rồi. Thế là lớp học phân biệt thành hai phe lớn: Phe nam, phe nữ. Đứa con gái nào mà chơi thân với con trai thì bị ê ê cho đến khi biết xấu hổ thì thôi. Ngày con học lớp ba thì mẹ đã từng mắng con như vậy. - Ai dạy mày đi chơi như thế? Giờ thì con biết đi chơi ấy là do trời đất dạy con. Đất bao la và Trời rộng lớn dạy con. Cuộc đi chơi ấy... Buổi sáng trước khi đi làm, mẹ dặn con: "Ở nhà trông nhà đừng đi chơi nhé". Con ngồi ở ngoài cổng chơi đồ hàng thì thằng Ba đánh trâu đi qua. Nó học cùng lớp với con, nhưng con không dám chơi với nó vì sợ chúng bạn chế. Thằng Ba rủ con: "Mày có đi chăn trâu với tao không". Con chưa bao giờ được chăn trâu nên đồng ý luôn. Thằng Ba đỡ con lên lưng trâu ngồi sau nó: "Mày ôm chặt lấy tao kẻo ngã đấy". Con trâu đủng đỉnh đưa hai đứa đi. Thằng Ba cho trâu đi dọc mương, chỉ cho con xem: - Mày xem kìa, bóng chúng mình in xuống nước đẹp không? Con nhìn theo tay thằng Ba chỉ quả là đẹp thật, nước trong suốt, phẳng lì in.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> bóng chúng con và con trâu. Ở dưới nước, chúng con xinh hơn và áo quần không đầy mụn vá. Con trâu cũng đẹp, da nó căng bóng lên. Thằng Ba cho trâu lội qua mương. Mương sâu. Nó bảo con cởi quần áo đội lên đầu kẻo ướt. Thằng Ba cũng cởi quần áo, một tay cầm thừng trâu, một tay nó đội quần áo lên đầu. Thằng Ba dặn con: "Mày phải ôm chặt lấy tao, ngã xuống nước là chết đấy nghe chưa?". Con ôm chặt lấy thằng Ba. Con trâu dầm mình xuống nước, chỉ để cái mũi thở. Nước dâng lên đến ngực con. Con hơi sợ một chút, nhưng khoái quá. Nước mơn man trên da thịt. Con trâu rẽ nước, nước rẽ bên sườn con. Thằng Ba thúc trâu đi nhanh. Nước tát nhẹ vào ngực con như ai mơn man cù nhẹ. Con khoái chí cười vang. Thằng Ba cũng cười. Đến khi hai đứa thấy rét mới cho trâu lên bờ. Thằng Ba cho trâu đi dọc bờ ruộng. Ruộng lúa đang chín, mầu vàng rực lên dưới nắng. Thằng Ba để cho trâu gặm cỏ, rủ con bắt muồm muỗm. Con chạy dọc bờ ruộng, như ngày nào lần đầu tiên ra đồng, con bị cái mầu vàng làm mê đi, ngồi xuống bờ cỏ nghiêng nghiêng đầu đón gió. Bỗng con phát hiện ra điều mới mẻ, ruộng lúa lăn tăn như sóng, từng đợt sóng nhỏ rồi lan ra xa to hơn, cồn lên những sóng vàng, gió rì rào như lời hát. Con gọi thằng Ba bảo nó điều đó. Nó nhìn con ngạc nhiên: - Sao đến bây giờ mày mới biết điều đó? Hai đứa thi nhau nghiêng đầu nhìn đồng lúa. Chúng con thấy càng ra xa sóng lúa càng to hơn, cái mầu vàng óng ả như tấm thảm vàng ai đang rũ. Một lúc thằng Ba chỉ: - Mày xem lắm cò chưa? - Ừ nhỉ. Cánh cò trắng bay tung nổi bật trên nền lúa vàng, cánh cò bay lan xa chấp chới đổ xuống. Rồi lại ở xa hơn, một đám khác tung lên như những mảnh giấy trắng rắc trên trời vàng. Tuyệt quá! Con mê đi không còn nhớ gì nữa. Khi chúng con đã chán đồng lúa chín, thằng Ba đánh trâu đến gốc đa. Cây đa to tán lá dầy xanh gắt tỏa ra khoảng đất rộng mát rượi. Một nửa tán cây tỏa xuống lòng mương. Thằng Ba trèo lên bứt những búp đa vứt xuống cho con. Cái búp đa trông như cái ngòi bút. Thằng Ba lại bứt xuống bao nhiêu là lá. Nó dạy con gấp con trâu lá đa, bù đài... gấp chán con nằm dài xuống gốc cây. Thằng Ba trèo lên cây chọn một cành là ra mặt nước ngồi vắt vẻo. Bóng thằng Ba in xuống nước. Con bỗng nhỏm dậy bắt gặp một hình dáng quen quá con bỗng nhớ ra. A, câu chuyện tìm mẹ mà cha kể. Hai đứa - thằng Nhà, con Gạo ngồi trên cây gạo in hình xuống nước để tìm khuôn mặt giống chúng nó... thằng Ba nghe há hốc mồm. Con kể xong, thằng Ba ngồi băn khoăn. Hết rồi à? Hay thế! Ai kể cho mày nghe vậy? Đồng quê và câu chuyện tìm mẹ ấy làm cho con về muộn. Mẹ đã đánh con một trận cho chừa đi. Vâng, con đã chừa, chừa cho đến khi xảy ra chuyện này, con đã không chơi với một người bạn trai nào. Nhưng cuộc đi chơi ấy bằng cả tuổi thơ của con. * * *.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> "Ai đã dạy mày như thế cơ chứ?" Ngày con lên mười nhà mình có sự thay đổi lớn. Cha bảo: "Vì tương lai của chúng nó, chúng mình phải chuyển lên phố em ạ". Thế là cả nhà mình chuyển lên thành phố. Con được sống trong nền văn minh mới. Con bắt đầu mở mang bằng những quyển sách dễ kiếm. Những ngày đất nước chưa giải phóng, mẹ vẫn bận trăm công nghìn việc, bởi thế, mẹ không có thời gian chăm chút đến con. Con đã được tự do kiến tạo nên tâm hồn mình bằng tất cả những loại sách rơi vào tay con. Có những cuốn sách tuyệt vời: "Jên Erơ". "Đitê con của người đời","Anna Karênian", "Tấm lòng vàng", "Thép đã tôi thế đấy", "Dấu chân người lính"... Nhưng cũng có những cuốn sách "Đồi thông hai mộ", "Vụ án thành Pari"... cũng được truyền bí mật từ cặp đứa nọ sang cặp sách đứa kia. Nhưng tất cả những cuốn sách ấy đều không dạy con cái lần đầu tiên ấy. Không, con hoàn toàn không ấu trĩ. Ở lớp con là đứa bé nhất. Con thắc mắc mùa hè nóng thế mà chúng nó cứ mặc hai áo và tại sao môn thể dục lăn bánh xe, các bạn ấy, mặc dù bị thầy mắng cũng không chịu làm. Con xung phong làm nhiều lần, có gì khó kia chứ. Chống hai tay xuống đất, động đầu xuống, dạng hai chân lên trời, rồi chống chân xuống. Khi con làm, các bạn nữ quay mặt đi, các bạn nam bụm miệng cười. Con không hiểu sao các bạn ấy lại cười. Ừ thì áo nó tụt xuống tận cổ, quần nó tụt đến tận gối thì có gì đáng cười. Có lẽ tại ở cái ngực nó mọc hai cái mụn. Đi học về con tức tối hỏi cha. Mẹ thì chẳng để ý đến con nên con không dám hỏi: - Cha ơi, chết rồi, con bị mọc hai cái mụn ở vú đây này, đau ơi là đau. - Ừ, cứ để nguyên rồi nó khỏi thôi. Con còn để ý các bạn gái của con hay có quyển lịch tay, cứ mỗi tháng đánh dấu ba ngày. Điều bí mật ấy cứ thập thò và con hiểu rằng sẽ có ngày với con cũng xảy ra điều ấy. Con chờ trong nỗi thấp thỏm mong đợi, vui vui. Cái ngày ấy con không hoảng hốt, con mừng vui nhưng con xấu hổ. Con bí mật xé vải màn của mẹ thành từng miếng nhỏ, đến tối con mới dám thay. Con phơi ở chỗ kín đáo nhất, cha phát hiện ra trước, cha bảo con: - Con gái bẩn thỉu, mày giặt giũ thế à? Đem ra chỗ nắng mà phơi cho nó sạch chứ. Con xấu hổ trào nước mắt. Con gào lên: - Cha biết gì, kệ con! Giá mà là mẹ, mẹ bảo con và hướng dẫn cho con, con đã không gào lên như thế. * * * Lúc tối mẹ đã đi gặp cô bác sĩ quen. Mẹ chỉ muốn tội lỗi thoát cho nhanh ra khỏi cơ thể con. Cô bác sĩ đã cho mẹ hai ống oxytoxin. - Chỉ hơi ê ẩm thôi mẹ ạ. - Thế thì ngủ đi mà lấy sức. - Nhưng con rét lắm. - Làm sao được. Phải chịu đựng lấy, đừng có kêu tao, tao có dạy mày thế này đâu? Con cố gắng nằm, thỉnh thoảng bụng hơi vần lệch một chút, lẩm nhẩm.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> rồi lại thôi. Chỉ có rét. Rét kinh khủng. Chiếc áo nilông lạnh lẽo như càng rét hơn, mồ hôi bốc lên đọng vào cổ áo. Chỗ chân tay để hở chạm vào như động phải nước đá, khó chịu quá con lại rên lên khe khẽ. Mẹ lại hỏi. - Đau rồi à? - Không. Mẹ nằm xuống ngủ đi. - Mặc kệ tao. Gần sáng mẹ thấy con vẫn không đau gì. Mẹ lấy xi lanh đã khử trùng sẵn, chẳng cần đèn đóm, mẹ bảo con giơ đùi ra ánh sáng nhờ nhờ của ngọn đèn đường hắt vào. Mẹ tiêm cho con hai ống thuốc. Mẹ chờ đợi nhưng con vẫn không đau. Con không đau tức là tội lỗi của con nó còn bám chắc vào lòng con. Mẹ cáu gắt luôn. Sáng ra, cô bác sĩ đi tua cặp nhiệt độ cho con. Sốt 39 0C, con buộc phải tháo "sông ra". Nếu cứ để sẽ rất nguy hiểm cho tính mạng con. Con chuyển sang phòng cô-vắc. Phòng đã có năm bệnh nhân, thêm con là sáu. Con quan sát những bệnh nhân cô-vắc. Toàn những cô gái trẻ nhưng nhợt nhạt vô hồn. Họ ngước mắt nhìn con, cái nhìn thoáng vẻ đánh giá, như những con thú nhìn đồng loại. Đặc biệt trong phòng có một cô bé trẻ nhưng xanh lướt, yếu đến nỗi chẳng thể tự đi được. Một bà mẹ già lưng còng gập, ngày ngày đến chăm sóc cô. Con được xếp cùng giường với một cô bé to lớn. Cô ta mau mắn hay khóc, hay cười. Con phải nằm tiêm truyền cả ngày. Cô ta giúp đỡ con trong những việc vặt, cô ta đã kịp thông báo về tình hình những người cùng phòng. - Con bé yếu nhất kia nó bị băng huyết gần chết đấy. Chẳng hiểu ai xui nó chị ạ. Nó đặt rễ cau vào bụng, chị xem, mẹ nó già nhỉ. Mẹ nó khóc suốt. - Còn cái chị nằm cùng giường với nó là đi Tiệp về đấy. Người yêu chị ấy về sau. Anh ấy bảo chị về nước là cưới nhau. Mẹ chị ấy không cho, cứ bắt đi phá. Em mà như chị ấy em chẳng phá. Đi tây về thì sợ gì. - Thế còn chị thì sao? - Chẳng sao cả. - Chị bị ốm à? - Ừ. Cô ta đang nói rôm rả bỗng ôm lấy mặt khóc. Con nằm im nhìn những giọt nước rơi đều đều vào máu như những giọt yêu đương đã rơi vào cuộc đời con. - Ối, ối đau quá, chết mất! Cô bé to lớn đang khóc bỗng kêu lên dữ dội. Cô ta nhảy phắt xuống đất lăn lên trên sàn. Mấy người bệnh nhân ở các phòng khác chạy đến xem: - Cho chết đi! - Sướng đời, ừ thế mới sướng! - Ối đau quá. Chị gì ơi. Chị đi gọi bác sĩ hộ em. - Đừng kêu nữa, chị đi đây. - Chết mất thôi. Ối trời ơi! Chị "gì" trở lại: - Đừng kêu nữa, họ bảo không chết ngay được đâu. Cố chịu vậy thôi..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Cô ta bíu chặt lấy chị "gì". - Chị cứu em với! Chị "gì" chắc cũng thương hại cô ta. Chị để yên cho cô ta bíu lấy tay mình nhưng ngoảnh mặt đi. Cô ta lăn lộn đầu tóc rũ rượi. Con nhìn vào khiếp đảm cái hình ảnh như điên như dại kia. Con sợ nhưng tự an ủi, chắc chỉ đau như đau ruột thừa là cùng. Đột nhiên ngừng hẳn tiếng kêu rên. - Chị ơi hình như nó ra rồi! - Để chị đi gọi bác sĩ. Cô y tá chạy sang: - Đứng dậy. Sang phòng làm thuốc. Cô y tá cau có, không chút thương tâm. Chị "gì" đỡ cô ta dậy. Cô khúm núm bê một bọc to dưới váy. Những giọt nước hồng hồng chảy theo chân cô ta. - Chị ơi rơi mất! - Giữ chặt lấy. - Đi nhanh lên kẻo bẩn hết sàn. Đến khổ cho các bà trẻ. Các bà sướng lắm để làm khổ người ta thế này. Đi nhanh lên! Không chết được đâu mà phải rón rén. Truyền gần hết chai huyết thanh mà con vẫn không đau. Tội lỗi cứ bám vào lòng con muốn sống. Mẹ đã gần kiệt sức. Mẹ gắt lên. Cái giống lạc loài sao mà nó dai dẳng thế… * * * "Cái giống lạc loài", con và hài nhi của con là cái giống lạc loài. Con và các con của con là thế nào hả mẹ? Con là đứa con lạc loài. Các em con không lạc loài. Ngày ấy khi mẹ mắng con như thế, anh ấy vẫn bên con như cha vẫn bên mẹ kia mà. Vậy khác nhau như thế nào? Cái gì làm thước. Tình yêu hay hôn nhân? Con sẽ không lạc loài nếu như không bao giờ xảy ra chuyện này. Hài nhi của con sẽ không lạc loài, nếu như con và anh ấy đã cưới nhau. Phải thế không mẹ? Có khác nhau nhiều không hả mẹ? Tình yêu và hôn nhân? Con chưa có hôn nhân nên con không biết điều đó. Đêm hôn nhân mẹ đã sinh ra con trong niềm hạnh phúc toại nguyện và trong sự cho phép. Đêm tình yêu của con... đó là đêm thứ năm con bị ốm ở xa cha mẹ. Anh ấy ở bên con chăm sóc cho con. Nhà con ở chỉ có một chiếc giường. Anh ấy nằm dưới đất. Thỉnh thoảng anh ấy lại sờ con xem có ngon giấc hay không? Đêm thứ năm ấy, con khỏe mạnh hoàn toàn. Con bảo anh ấy: - Anh nằm bên cạnh em cũng được, tiết trời hãy còn lạnh, nằm dưới đất khéo ốm mất đấy. - Em cho phép anh nằm bên cạnh ư? - Vâng, anh nằm cạnh đây nhé. Em để cái chăn này giữa hai chúng mình. Anh có nhớ những chuyện mình cùng đọc không? Câu chuyện thời chống Mỹ ấy? Những đêm hành quân, những người yêu nhau ấy, họ chỉ nằm cách nhau bằng một chiếc bạt mỏng thôi. Bây giờ giữa anh và em cách nhau bằng một chiếc chăn dày kia mà. Đấy như thế đấy. Anh ngủ đi. - Chúc em ngủ ngon..

<span class='text_page_counter'>(40)</span> - Vâng. Anh ấy quàng tay qua chiếc chăn đặt lên con. Ôi khi bàn tay mạnh mẽ của anh ấy ôm lấy con thì vũ trụ ngừng quay. Khi môi anh ấy chạm vào môi con thì vũ trụ ngừng thở. Tất cả đều chìm đi, không còn gì tồn tại cả. Cả trinh tiết, cả những lời mẹ dạy, cả những bài luân lý. Chỉ có anh ấy và con ở trên đời này. Chúng con cuồng nhiệt trao nhau những điều đã học ở cuộc đời. Đến lúc tỉnh ra đứa nọ nhìn đứa kia bối rối. Con sợ hãi: - Nhỡ chúng mình có con thì sao? Anh ấy lảng tránh ánh mắt con. Đó là điều trung thực. Anh ấy cũng chẳng biết "thì sao". Quả thật sau đó chúng con không biết sẽ ra sao. Vậy về vật chất, cái đêm sinh ra giống lạc loài có giống cái đêm sinh ra giống không lạc loài không hả mẹ? Mẹ, con yêu mẹ. Con tin mẹ. Nhưng con cũng yêu sách vở và tin sách vở. Vậy mà con không hiểu được rằng, tình yêu thì được hết lời ca ngợi như thế. Mà tình yêu lại hay sinh ra những giống lạc loài! Và những đứa con lạc loài thì hay bị ruồng bỏ. * * * Mẹ gần như tuyệt vọng đi tìm cô bác sĩ quen. Cô bác sĩ đi nói với bác sĩ trưởng khoa. Bác sĩ trưởng khoa đồng ý khám cho con. Xong, bà ra lệnh cho y tá cầm đến một ống thuốc nhỏ. Bà tiêm cho con: - Chỉ nửa tiếng nữa là sổ. Cô là nhất đấy. Hằng trăm ca, chỉ có ca cô là được dùng đến thứ này đấy nhé. Mẹ mừng rỡ chạy đi mua quà cho ca trực. Mọi người ra khỏi phòng. Quả thật chưa được mười phút sau cơn đau thúc lên tim, tim như ai bóp chặt. Cái đau thúc sang trái, sang phải, mới đầu con còn nằm im trên giường. Đau quá con nhảy xuống đất, vết kim truyền ở tay lại chảy máu. Máu chảy ròng ròng xuống đất. Trong số những người đứng xem con đau ở cửa có một người thương tình chạy đi tìm cho con ít bông. Con không kịp rịt máu, đã lăn ra nhà. Cái đau ngày càng dữ dội. Ngồi thì cái đau thúc phải đứng lên. Đứng lên thì nó thúc cho khuỵ xuống. Quay sang trái nó thúc cho quay sang phải. Quay sang phải rồi quay sang trái. Rồi đứng lên. Rồi ngồi xuống, bật người ra sau gập về phía trước, bò bằng bốn chân, giá như được đóng thêm cái đinh để quay như chiếc cù chắc dễ chịu hơn. Con kêu la ầm ĩ. Con gọi mẹ chẳng thấy mẹ đâu. Con đập đầu vào tường, cái đau nó giảm đi chút ít. Đập thêm cái nữa thì cô bác sĩ quen chạy vào: - Đừng làm thế cháu, há mồm ra, thở đi, đừng kêu nữa họ cười cho. - Kệ họ, cháu cần gì đâu. Mẹ cháu đâu? Cháu chết đi còn hơn. Nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng. Cái váy không có cúc cứ tụt xuống. Mẹ về đúng lúc con đau nhất. Mẹ xoa cho con: - Chịu đựng tý, con ạ, sắp xong rồi. - Chết mất thôi mẹ ơi. - Đừng kêu nữa, chịu khó tý. Đột nhiên ngừng hẳn mọi đau đớn, như từ độ cao rơi xuống, con tỉnh táo hẳn. Con định xem mình đang làm sao. Váy con ướt sũng. Mẹ dìu con sang phòng thủ.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> thuật. Cô bác sĩ khám cho con: - Chưa, mới vỡ ối thôi. Con nằm im trên bàn chờ. Con buồn ngủ quá, lơ mơ ngủ không được vì vẫn bị những cơn đau thúc. Con nghe tiếng mẹ ngoài cửa: - Về đi, tôi bảo anh về đi. - Cháu... Con nhìn ra. Anh ấy đang áp mặt vào cửa kính nhìn vào. Bỗng con cảm thấy căm thù anh ấy, vì cái con đang trải qua là do anh ấy. Con muốn nhảy xổ ra mà đánh. Mẹ kéo anh ấy đi. Cô bác sĩ bảo con: - Há mồm ra thở đều nhé, không phải rặn nữa đâu. - Được rồi, mềm bụng ra. - Y tá lấy cho tôi chút iôt! - Mềm bụng ra, không được nâng mông dậy. Thở cho đều, há mồm ra và thở đều! Như có con dao nào đó đưa vào bụng con mà ngoáy. Con bật dậy thét lên: - Để cháu chết đi cũng được các cô ơi! Cô y tá vội vàng ấn con nằm xuống. Mẹ chạy vào. Lưỡi dao lại ngoáy tiếp vào bụng con lần nữa. Con lại co người lên hét. Ba, bốn người lại giữ chặt lấy con. Há mồm ra thở đều đi! Con há mồm ra đớp không khí vừa chuẩn bị kêu, tay cô bác sĩ thò vào đến đâu con kêu đến đó. Lần thứ ba cô bác sĩ rút tay ra tuyên bố: Xong rồi! Mẹ mặc quần áo cho con. Con đã hết đau. Con bỗng nhớ đến nó. Con tìm kiếm nó. Dưới chân con có cái khay phủ khăn trắng. Con bỗng khiếp đảm. Không dám thò chân xuống lối đó nữa. Con co chân nhảy qua đầu bàn, cô y tá vội vàng đỡ lấy con: - Mày muốn băng huyết chết hay sao? Con hẩy tay mẹ và cô y tá, đi như chạy về giường. Con nằm xuống và thở hổn hển, mồ hôi tứa ra. Lúc ngồi nhỏm dậy con đã nhìn qua chân, thấy cái nhau to hơn bàn tay, và cái cuống nhau dài dài nối với nó - hài nhi, đứa con đầu tiên của tôi. Tội lỗi của con. Tình yêu của con! Chiếc khăn trắng phủ kín nó. Nó đã chết. * * * Đêm thứ ba ở lại bệnh viện chỉ có một mình, mẹ đã về từ buổi tối. Mẹ đau đớn và mệt mỏi nên mẹ không thể ở lại với con đêm ấy. Vả lại, đêm ấy con đã thoát khỏi tội lỗi rồi: Phòng cô-vắc có vẻ bình thản hơn. Cô bé to lớn nằm cùng giường con, vừa khóc ồn ào một chập xong, cô ta lại cười nói ngay. Cô ta kể với con, cô ta đã kéo chiếc khăn trắng phủ khay. Cô ta đã nhìn thấy rõ một thằng bé hẳn hoi, to gần bằng con búp bê. - Chị ơi, hơn sáu tháng rồi còn gì nữa, kể cũng tiếc chị nhỉ. Chỉ hai tháng nữa là nó biết khóc rồi còn gì. Chị này, kể ra nó sống cũng dai thật. Khi em bị chửa, em uống năm chục viên thuốc ký-ninh mà nó chẳng sao cả. - Sao em lại phá nó.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> đi! - Mẹ em bắt, vả lại nó chuồn rồi. - Ai? - Thằng người yêu em ấy. Thằng đểu ấy đi yêu đứa khác rồi. - Thế sao em không bắt đền? - Em không cần. Nhưng phen này em sẽ cho nó biết tay! - Em định làm gì? - Em sẽ tạt cho nó lọ a-xít vào mặt để nó mất tương lai. Đời em thì chẳng cần nữa. Thế chị ơi, đứa của chị, chị có xem không? - Chị không dám. - Thế nó là con trai hay con gái? - Chị không biết, thôi chị buồn ngủ lắm rồi. Cô ta im lặng. Cô úp mặt xuống gối. Tất cả đã qua rồi, con không thấy đau đớn và mệt mỏi nữa. Hừ, thế là xong. Lúc đau đớn con mong muốn nó như một chiếc nhọt bọc vỡ ra là hết đau. Nhưng bây giờ là cái đau khác. Cô gái to lớn hỏi con: Chị ơi, nó là trai hay gái? Con không biết. Nó chết rồi. Trái tim người của nó đập được bao nhiêu nhịp? Nó đã kịp sung sướng gì chưa? Nó đã biết đến đau đớn chưa? Tội lỗi của con, người đàn bà tuổi ấy có quyền có đứa con chứ? Vậy sao con không bảo vệ nổi nó. Con lặng lẽ khóc. Nước mắt tràn đầy trên gối. Cái gối bệnh viện đã bão hòa nước mắt. Nó không thể ngấm thêm. Những giọt nước mắt chảy dài xuống chiếu rồi rơi xuống đất. Đất mẹ có thấm nỗi đau của con hay không, con không biết. * * * Sáng hôm sau, mẹ đến với con. Mẹ quan sát con. Mẹ sờ vào ngực con - Đã xuống sữa rồi đấy! Ôi, giá như bây giờ con chơi trò đồ hàng, búp bê, mẹ con, con không phải bẹo thịt ra nữa. Hai bầu vú con căng sữa, sữa chảy ra áo. Mẹ lo lắng: "Sữa mày nhiều đấy, về nhà nhớ ý tứ kẻo người ta biết!". Mẹ bảo con phải uống thêm kháng sinh để chóng tiêu sữa đi. Đến chiều, mẹ xin cho con về. Lần đầu tiên mẹ giục con đánh son phấn: - Đánh vào một tý cho nó hồng hào lên: Con thay áo quần trả bệnh viện. Mấy bà bệnh nhân nhìn con: - Gớm, trông cô lại như thiếu nữ dậy thì. Mẹ ơi, từ bấy đến nay hai mẹ con ta cùng mang nỗi đau. Mẹ mang nỗi đau của người mẹ, nỗi đau có đứa con hư hỏng. Con đau nỗi đau của con, và cũng là nỗi đau của người mẹ. Tháng thứ nhất con mơ hồ, tháng thứ hai lo sợ, tháng thứ ba có cái gì đó thắng nỗi lo sợ... cái gì đó ấm áp dịu dàng... Giờ thì không còn nữa. Nỗi đau đớn của người mẹ đã không bảo vệ nổi con mình, những nỗi đau như thế của con chắc mẹ đã hiểu. Còn một nỗi đau này nữa mẹ ơi, là nỗi cô đơn con không thể chia sẻ cùng ai. Sau ngày ấy tình yêu của con chết đi theo nó. Sau ngày ấy con đã là một người đàn bà từng trải, nhưng bên ngoài con vẫn là một thiếu nữ trong sáng, e ấp con chờ một tình yêu mới đến với con, tình yêu mới đến - đâu có thể dễ dàng như lời.

<span class='text_page_counter'>(43)</span> nói ấy. Con đã từng trải, mẹ thì khắt khe hơn. Cuộc sống ngày ngày cứ diễn ra sôi động. Ngày ngày con vẫn cứ nhập cuộc: con đi xem, đi vũ hội, đi du lịch... nhưng sau tất cả những cuộc vui, con càng cô đơn hơn. Con mong muốn tình yêu. Con đã có đầy đủ một tình yêu đầu tiên ấy rồi. Hoặc là bằng, hoặc là hơn. Mẹ và lý trí không cho con buông thả. Giá như ngày ấy mặc dù tội lỗi, mẹ cứ cho chúng con lấy nhau thì con đã trở thành người phụ nữ bình thường chứ không phải mang cảnh góa bụa trong cô thiếu nữ kén chồng thế này. Chuyện truyền rằng, những người đàn bà góa bụa đêm đến phải đổ thóc vào xay, xay cho mệt lử đi để ngủ, ngủ mê mệt để quên đi. Con không có thóc mà đổ vào xay. Tối con đi xem về, con tiếp xúc nhưng không buông thả. Đêm đến, màn đêm bao phủ sự bí mật của con. Con thao thức, con hồi tưởng và con khát khao. Lý trí đôi lúc chẳng được việc gì, con bèn hồi tưởng lại và với bàn tay mình, con tự vuốt ve thân hình thiếu nữ để thỏa mãn cơn đàn bà! Mẹ, mẹ có hiểu được con chăng? Từ ấy đến nay mẹ đau nỗi đau của mẹ, con đau nỗi đau của con. Nhưng có đêm nào mẹ tỉnh dậy vì nỗi đau của mẹ không? Đêm đêm cha mẹ vẫn bên nhau và con thức tỉnh với nỗi đau của mình. Mẹ, mẹ có hiểu con không. Mẹ Âu Cơ sinh được 50 người con trai, 50 người con gái. Con trai của mẹ thì thành anh hùng, thi sĩ, con gái của mẹ thì trở thành những bà mẹ. Đất nước anh hùng, ngoại xâm, thiên tai liên miên, nên mẹ quan tâm đến những anh hùng, thi sĩ. Mẹ đã không chú ý đến những cô gái vốn dịu dàng, nhu mì, không mấy đòi hỏi. Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ. Mẹ kính yêu ơi! Xin mẹ hãy tha thứ cho con. NGƯỜI CÙNG SƯ ĐOÀN Thứ ba, 02 Tháng 10 2007 03:25 Cái chức giám đốc, thời kinh tế thị trường này coi chừng cũng không có gì khó. Khánh vốn là một công nhân xây dựng bình thường. Cũng nhờ mấy đận làm ăn xa quê gặp hên nên có tiền rủng rỉnh. Lại thêm bên nhà vợ và sự hỗ trợ của bạn bè, Khánh thấy cái túi tiền của mình không chừng chẳng biết tiêu vào việc gì. "Sao lại không? Đúng lúc ấy vợ Khánh mách anh có tài, làm cái anh công nhân quèn thế đủ rồi, giờ phải làm giám đốc". "Ủa! Em tưởng cứ có tiền thì muốn làm gì cũng được sao?". "Riêng cái đó anh lại đần. Để em bày. Anh tìm lấy vài anh bạn thân trong nghề xây dựng của anh í. Mở ngay một công ty trách nhiệm hữu hạn. Cái này dễ ợt. Anh sẽ là giám đốc. Cán bộ nhân viên à? Để em lo. Đừng ham các em đẹp, nó bóc cho không còn cả áo lót mà mặc đấy! Riêng cánh thợ, anh chọn lấy độ chục người. Thế là thành cái công ty chứ gì đâu?". Truyện ngắn. NGUYỄN BẢO _______________________ - Ai cho mình làm, phải được phép của Nhà nước hẳn hoi đấy em ạ! - Xí, phép với chả tắc, có tiền là xong tuốt. Cái đó vô tư đi. Khánh thấy ý của vợ hay. Hỏi số bạn bè thân hữu, họ vào hùa ngay. Cũng một thời hăng hái tham gia bộ đội đánh Mỹ, bây giờ hoà bình trở về, nhiều người chưa có công ăn việc làm. Hùn vốn với nhau dựng cái công ty, hay quá đi chứ. Thế là tờ trình, là đề cương, là chạy "sếp" này, "sếp" kia, cấp này cấp nọ để có được tờ giấy phép. Vợ Khánh rõ là người mẫn cán trong việc khai sinh ra công ty, khai sinh ra một giám đốc. Công ty trách nhiệm Pết-ép-Lây ra đời. Khánh bảo vợ: "Tìm cái tên gì giản dị, dễ nhớ, dễ hiểu". Vợ Khánh lườm: "Thời này phải có tí tiếng Tây, tiếng Tàu vào, càng khó hiểu càng được chú.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> ý, càng được quý trọng". "Mình có biết cái tiếng nước ngoài khỉ gió gì đâu?". "Ôi! Cần gì phải biết, quan trọng là anh phải nghe em. Không nghe là hỏng đấy". Chiều vợ, Khánh thuê nhà mặt phố làm văn phòng hẳn hoi. Đoạn đầu thôi khỏi phải nói, rôm rả nổ trời. Mấy anh được phân làm trưởng phòng, phó phòng, sáng nào cũng tay ôm cặp đến cơ quan. Kế hoạch này, kế hoạch kia đầy ắp, sáng láng. Dần dà nhiều người không muốn làm ăn kiểu cò con này. Phải tiến tới nhận những công trình lớn tương xứng với bộ mặt công ty. Vợ Khánh thẽ thọt với chồng: "Nghe chúng nó vừa vừa. Nghe em đây này"… Nhờ xoay xở của vợ, công ty Khánh vẫn nhận đều đều các công trình. Cũng là "miếng" nhỏ thôi nhưng nuốt dễ trôi, ví như nhà tư nhân, hai ba tầng, sửa chữa vôi ve những nhà tập thể, nhà cơ quan. Một hai năm đầu, lời lộc không tú ụ nhưng chẳng đến nỗi èo uột. Gương mặt giám đốc phẳng phịa, hồng hào hẳn lên. Khánh tiếp tục nhận người vào công ty: "Ôi dào! Mấy trăm bạc lương cho họ chứ có đáng gì. Toàn người thất nghiệp…". Khánh cho sắm sanh bàn ghế văn phòng, cho mua một số máy móc cần thiết chuẩn bị điều kiện làm những công trình vừa và lớn… * * * Tiếc thay, cuộc đời không phải cứ muốn là được. Vợ chồng Khánh mở được công ty trách nhiệm hữu hạn, thì các cặp vợ chồng khác cũng chẳng dại gì không nghĩ đến chuyện đó. Thời đổi mới, các gia đình khá giả hẳn lên. Ai cũng nghĩ đến xây nhà, sửa nhà. Nghề xây dựng bỗng dưng vơ được tiền của thiên hạ. Vậy thì tại sao không mở công ty, không làm cai lâu dài… ấy thế là nháo nhác loạn xạ. Đâu đâu cũng có người đi tăm công trình. Công trình Nhà nước, công trình tư nhân. Họ hứa hẹn phần trăm, họ quà cáp phong bì phong bao đến các ông chủ, bà chủ, các "sếp". Công ty Pết-Ép-Lây chẳng những không nhận được công trình lớn, công trình vừa mà mấy cái công trình nho nhỏ cũng khó cạnh tranh với đám cai đầu dài và các công ty khác. Không khí làm ăn lắng dần. Một số người bắt đầu nghĩ đến việc rời khỏi công ty. Họ sớm nhận ra rằng: bám vào công ty thế là đủ. Không tự xoay sở rồi ăn cám. Vậy là một số lên gặp Khánh với vô vàn những lý do để rút êm. Số còn lại làm ăn cầm chừng, vừa làm chỗ Khánh vừa làm chỗ khác. Họ thương giám đốc của họ lắm. Giám đốc là một người tốt, rất tốt. Đến công trường nghe anh em thợ kêu ca, giám đốc rút tiền túi ra cho họ. Tiền mua thuốc hút cũng đủ giám đốc khốn đốn, bởi lẽ, một bao thuốc giám đốc hút một điếu thì đám thợ hút 19 điếu. Giám đốc cũng ít khi mắng mỏ ai… Nhưng họ cũng đã nhìn thấy công ty sẽ tanh bành, họ sẽ ngắc ngoải vì cái lòng tốt này của giám đốc… Một năm nữa trôi qua, đã có khá nhiều gia đình, tập thể đến la lối rằng các công trình do công ty Pết-Ép-Lây xây dựng không có chất lượng. Khánh phải cho thợ đến bảo hành, bỏ tiền ra mua nguyên vật liệu. Cán bộ, nhân viên tỏ ra nhớn nhác, làm việc được chăng hay chớ. Khánh hô hoán nâng cao chất lượng, đẩy mạnh sản xuất nhưng công ty vẫn lợm nhợm không đâu vào đâu. Công trình ngày càng ít, lời lãi không đáng kể. Khánh chiều hết mọi người. Ai bảo gì cũng nghe. Số cán bộ công nhân viên này cũng là bạn bè chí cốt. Khánh không muốn mất lòng họ. Mình cũng có tài cán gì đâu. Làm ăn có đận có lúc. Điều cốt yếu là đừng để họ ghét mình, phản mình. Đấy là cái lẽ sống của Khánh. "Khi làm cái anh công nhân quèn thì thế cũng được. Còn đã là ông giám đốc thì phải khác. Phải quyết đoán, dám chém, dám vác. Phải quản lý con người. Phải có uy, có trên có dưới". Vợ Khánh nói tỏ ra rất thành thạo công tác quản lý. Dù lên lớp, giảng giải cho chồng đến mấy Khánh vẫn đầy mặc cảm. Cũng lắm khi Khánh cố ra oai, cố ra vẻ kiên quyết, đưa ra sáng kiến. Những lúc ấy mọi người chỉ còn.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> cách bụm miệng cười. Và đáng cười hơn: sau đó, những điều Khánh "lệnh" cho mọi người thực hiện đều không đâu vào đâu. Vợ Khánh biết không thể "cải tạo" được đức ông chồng, mới nghĩ ra một mưu, nhờ người manh mối kiếm cho chồng một phó giám đốc có nhiều kinh nghiệm. Đương nhiên, chị dúi cho chồng tiền để trả lương cho phó giám đốc này. Thôi thì đã sinh ra một ông giám đốc dĩ hoà vi quý thì cạnh ông là một cấp phó sắc sảo, kiên quyết và rất mực nguyên tắc. Hai người bổ sung tính cách cho nhau là vừa đẹp. Người phó giám đốc mới là Khoán, thua Khánh một hai tuổi, được học hành chu đáo ở trường Đại học Xây dựng. Từng đi làm cơ quan Nhà nước, đi làm thuê, làm tư đủ cả. Kinh tế thị trường: chỗ nào đồng ra, đồng vào khá hơn, làm ăn dễ chịu, hợp với mình thì làm, chứ đâu phải cứ làm Nhà nước mới sang. Tiếp xúc với Khánh, với vợ Khánh, anh thấy mến cả hai người này, ít ra bề ngoài họ cũng là những con người hiền lành tử tế. Điều đáng nói hơn: qua trò chuyện, biết Khánh là lính chiến ngày xưa ở rừng khu V cũng là người cùng sư đoàn với Khoán. Nhưng sự dễ chịu đối với Khoán kéo dài không lâu, mặc dù giám đốc với anh rất niềm nở, rất tin cậy. Việc đầu tiên anh thấy cần làm là tổ chức lại công việc ở văn phòng. Hình như giám đốc muốn ban phát chức quyền cho tất thảy mọi người nên đẻ ra nhiều chức sắc. Có mỗi hai người cũng thành lập một phòng. Công ty nhiều phòng ban đến phát ngốt nhưng công việc lại không rõ ràng. Mọi cái đều dựa vào công ty, vào cái chung, vào ban giám đốc, hầu như không có bộ phận nào chịu trách nhiệm riêng về một điều gì. Lương bổng, thưởng phạt, sàn sàn như nhau. Có chênh cũng chỉ chút ít gọi là. Cơ quan thuận hoà êm thấm nhưng không kích thích nhau làm việc. Người này ỉ lại người kia. Làm cũng vậy, không làm cũng vậy, tội vạ gì làm nhiều. Cái tinh thần xã hội chủ nghĩa, làm tập thể nghe chừng mới chỉ là khẩu hiệu, hoặc ở đâu đó. Điều cốt lõi là lương. Cái đó giám đốc lo. Làm được công trình thì chia bôi nhau, không làm được đã có "quỹ" riêng của nhà giám đốc. Đã có tháng cơ quan rỗng két, giám đốc quẳng tiền cho cô tài vụ xinh đẹp phát cho mọi người, chỉ với điều kiện đừng để bà xã giám đốc biết. Một giám đốc thương cán bộ nhân viên đến thế quả là hơi hiếm. Mọi người khen trước, khen sau. Cả cơ quan ngập tràn lời khen. Khen cũng thành thói quen. Ban đầu chỉ là khen giám đốc. Thấy giám đốc vui vẻ rộng rãi hơn lại khen ông phó rồi khen qua các phòng, các ban. Ai cũng được khen. Phê thành tối kỵ. Giám đốc khó chịu. Ai cũng khó chịu. Ở một cơ quan không ai chê ai, thế mới tài. Nhưng sự thực thì không phải thế. Người ta không thể công khai đành dấm dúi thì thọt phía sau lưng. Cái sự đó làm Khoán khó chịu. Tuy nhiên! Khoán về đây không phải để khó chịu những chuyện như thế. Cái thiết yếu lúc này là làm sao tổ chức lại lực lượng, làm ra làm, chơi ra chơi chứ không thể nhùng nhằng thế này được. Công ty Pết-Ép-Lây này y hệt cung cách làm ăn kiểu hợp tác xã nông nghiệp trước đây. Cũng đất ấy, cũng người ấy nhưng gia đình xã viên nào cũng chỉ làm lấy điểm. Mùa màng vì thế thất bát liên miên. Người làm ruộng nhưng lại túa ra thành phố đi mua gạo cứu đói. Cũng đất ấy, người ấy, khi khoán đất đến hộ lao động, đất ruộng của họ khác hẳn, cây lúa, cây màu khác hẳn. Người nông dân được suy nghĩ, trăn trở, lo toan, phát huy mọi sáng kiến trên mảnh ruộng của mình. Lúa, màu không những đủ ăn mà còn dư thừa. Giá gạo rẻ đến khó tin. Đất nước có gạo, xuất khẩu vào loại nhất nhì thế giới… Khoán đã say sưa nói với Khánh những điều như thế. - Phải khoán công việc cho từng người anh ạ. Như thế mới tạo cho họ sống hết mình với công việc. Về tổ chức, anh mạnh dạn dẹp bớt các ông trưởng phó phòng ban vô tích sự kia đi. Bảy phòng ban là không cần thiết mà còn cản trở công việc. Dồn lại thành bốn thôi. Bốn phòng ban với những chức năng khác nhau. Họ tự lo liệu phần việc của mình. Vấn đề là chất lượng chứ không phải hình thức anh ạ! Giám đốc Khánh lắc đầu ái ngại: - Thôi được, để dần dần rồi tính. Khoán trút một hơi thở dài. Tuy mới về làm việc ở công ty này, mới tiếp xúc với.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Khánh ít buổi nhưng anh hiểu câu trả lời của Khánh không phải bằng lời nói kia. Cái chính là anh đã đọc được ý nghĩ trên nét mặt Khánh. Một gương mặt nhút nhát, thiếu năng động, thiếu tự tin. Cái chức giám đốc là do anh có tiền và do đó có quyền. Công ty này, thắng hay bại do anh ta quyết định. Dù mình có sáng kiến bằng giời cũng chịu thua thôi. Nhưng mình cũng có quyền của mình chứ! Mình có thể từ chối chức phó giám đốc. Thà làm một anh cán bộ bình thường, một công nhân bình thường ở đâu đó. Sáng hôm sau, ở khu tập thể công ty, Khoán đang tập thể dục thì Khánh đến. Khánh vui, điềm đạm, không nhắc gì đến những đề đạt của Khoán bữa qua. Khánh mừng rỡ báo tin cho Khoán đã nhận được hai công trình có đến chục tỷ đồng nhờ tài tháo vát của bà vợ. Hai công trình này sẽ làm rạng rỡ mặt mày cái công ty trách nhiệm hữu hạn Pết-ÉpLây. Cả hai công trình Khánh muốn giao hết cho Khoán phụ trách. Khánh nói: - Ông lo giúp tôi công trình này, đừng để sơ sảy gì về kỹ thuật. Có ông nhất định ta sẽ thắng đậm. - Anh giao cho anh Hoán - Khoán dứt khoát. Hoán cũng là phó giám đốc được mời về trước Khoán. Khoán đứng bật dậy, gương mặt khó chịu như đang phải cố nén điều gì. - Tôi chưa thể nhận bất kỳ công việc nào nếu không có sự thay đổi về tổ chức như tôi đã đề đạt với anh hôm qua. Khánh tròn mắt ngạc nhiên. Nhưng rồi Khánh hiểu. Khoán là người nóng nảy. Anh ta cũng không phải dễ bị mua chuộc bằng tiền. Không nhượng bộ anh ta, chắc chắn anh ta sẽ không cộng tác với mình. Không phải Khánh không nhận ra cái hợp lý, cái khoa học trong việc tổ chức biên chế, khoán sản phẩm, giải tán bớt phòng ban như đề nghị của Khoán. Khốn khổ cho Khánh. Sau Khánh còn biết bao nhiêu người không đồng tình việc này. Để họ tự ái, làm lẩy rồi bỏ mặc công việc, công ty sẽ nát tươm. Anh còn lạ gì cán bộ ở công ty, làm không làm nhưng muốn có phần. Được thì chung hưởng, không được thì ông giám đốc chịu. Nhiều người lĩnh lương ở đây nhưng vẫn tranh thủ đi làm ở công ty khác. Chỗ chính thì làm việc lơ là nhưng chỗ phụ lại làm việc rất nghiêm túc. Có lẽ cũng phải đưa ra khỏi cơ quan một số người thôi. Kể cũng tội. Họ sẽ đến anh ca cẩm, van xin. Rồi ra anh sẽ lại mủi lòng và chẳng quyết được gì. Nhưng thôi, dù sao cũng phải hứa với Khoán sẽ chỉnh đốn lại lực lượng lao động… Còn giải tán ban bệ khó lắm thay. Giải tán phòng ban đồng nghĩa với việc các trưởng phòng ban không còn quản lý, chỉ huy ai nữa. Gọi là phòng ban thực ra chỉ vài ba người. Lúc đầu muốn vui vẻ cả làng, tôn nhau lên thế. Ai ngờ sau thành thật. Có thể gộp vài ban lại với nhau cũng không sao. Trưởng phòng ban không chỉ là giải quyết khâu oai, mà còn hơn người khác về kinh tế. Ngoài suất lương như mọi người họ có thêm lương trách nhiệm và kèm theo là chênh lệch tiền thưởng ngày lễ ngày tết… Họ không muốn "dẹp" bớt phòng ban là thế. Họ không muốn khoán sản phẩm đến tận tay người lao động cũng là thế. Họ nói cứ để như cũ vừa ấm áp cơ quan, vừa vui vẻ cấp trên, cấp dưới, có chết ai đâu? Khánh được tâng bốc lên chín tầng mây về năng lực, về phẩm chất, về đủ mọi điều là ở chỗ Khánh chiều được tất thảy mọi người, là ở chỗ biết dựa vào mấy ông trưởng phòng ban thân thiết, to mồm. Mất lòng họ ư? Khốn! Gay lắm. Không, thà mất lòng một mình Khoán. - Những việc thế này không vội được. Có lẽ phải đưa ra công ty bàn bạc. Chấn chỉnh lại công việc cho từng người thì được, chứ bớt các phòng ban chưa chắc mọi người đã đồng ý ông ạ! - Không đồng ý là cái chắc. - Khoán gay gắt. - Có gì khó hiểu đâu. Do cá nhân thôi. Vì quyền lợi riêng mà họ không đồng tình… Ngẫm ngợi gì đó, Khoán đứng bật dậy, vung tay nói như chỉ để chính mình nghe:.

<span class='text_page_counter'>(47)</span> - Có những việc không thể đem ra bàn, rồi biểu quyết. Đã là thằng cán bộ chỉ huy, quyết không được theo đuôi quần chúng. - Quay lại trước mặt Khánh, Khoán nói tiếp. Những ai phản đối, tôi đếm cho anh nghe nhé… Và Khoán đếm từng người. Tay này quái quỷ thật - Khánh tự thú. Khoán mới về được vài tuần mà đã hiểu kỹ thế thì giỏi quá. Trong tâm khảm Khánh vẫn phục Khoán. Khoán là sĩ quan quân đội, từng qua chiến tranh, đầy đủ bản lĩnh, trách nhiệm. Về nguyên tắc tổ chức, anh không thể cãi lại Khoán. Anh chỉ phập phù lo. Đâu chỉ có sự phản đối của mấy ông trưởng phòng, ban. Dưới họ còn có những người khác. Những người trong bụng thì bất tuân, nhưng bề ngoài thì lại ủng hộ. - Nếu giải tán bớt phòng ban tôi và anh phải chấp nhận đương đầu với một số người đấy - Khánh dè dặt. - Sao lại là đương đầu. Phải vạch ra cho họ hiểu thế nào là đúng sai. Chúng ta làm việc này vì lợi ích của ai mới được chứ! Những cán bộ, công nhân lăn lộn vất vả với công việc của công ty, phải được tăng lương. Những ông cán bộ chắp tay sau đít, làm ít nói nhiều, chỉ đáo qua cơ quan để phán và lĩnh lương, cho nghỉ đi. Người trầy lưng tróc vẩy ra lao động kiếm đồng tiền về cho công ty phải được tôn vinh ưu đãi tử tế. - Cũng từ từ ông ạ! Vừa qua công ty có chút lãi rồi. Cứ bình tĩnh, không sốt ruột được đâu. Giàu ai chả muốn, công bằng ai chả muốn, nhưng trước hết phải yên ổn. Được lòng công nhân nhưng mất lòng mấy ông cán bộ - công ty sụp tiệm như bỡn. Có thể tăng cho người lao động trực tiếp chút đỉnh để họ yên lòng nhưng phải khéo. Khoán nghiến răng, tay đã định đập xuống bàn nhưng may kìm lại được. Điều anh nói đâu chỉ vì đồng tiền. Công nhân đòi hỏi sự công bằng chứ đâu dấm dúi chuyện này chuyện kia. Anh cứ còn giữ cái thói nhu nhược muốn được lòng tất cả mọi người của anh thì công ty sẽ tụt dần chứ chẳng được thế này đâu… Cũng may là những suy nghĩ ấy Khoán chưa kịp nói ra. Chiếc điện thoại di động Khánh để trên bàn đổ chuông. Anh cầm lấy nghe rồi vội vã chào Khoán đi ra khỏi phòng. Khẩn đến thế chỉ có thể là của lệnh bà. Khoán nghĩ. * * * Một tuần rồi hai tuần. Những điều Khoán nói với Khánh coi chừng không mảy may tác dụng. Anh bắt đầu chán và tiếc thời gian công sức của mình. Anh gặp giám đốc Khánh lần chót, không phải để bàn việc mà để nói lời cuối cùng. Ngày tháng cứ trôi còn Khánh vẫn cứ từ từ, nghiên cứu. Rõ là anh và Khánh không hợp nhau trong ý nghĩ, việc làm. Nghĩ như thế Khoán nhấc máy điện thoại: - Thế nào giám đốc. Ý kiến của tôi bữa trước hình như giám đốc bỏ ngoài tai. - Không bỏ, nhưng để nghiên cứu kỹ ông ạ! - Vậy xin tạm biệt giám đốc nhé! Tôi đã quá kiên nhẫn chờ đợi sự nghiên cứu của giám đốc. Và bây giờ thì không thể hơn được nữa. Xin phép giám đốc bắt đầu từ hôm nay tôi được thôi việc. Tôi thấy mình không thích hợp với công ty này. - Này anh Khoán - Giọng Khánh hốt hoảng. - Bình tĩnh nào! Đã có chuyện gì đâu? Ta vẫn sống êm ấm với nhau. Công việc vẫn bình thường cả mà! - Đúng thế! Nhưng tôi sợ sự êm ấm của các anh lắm rồi. Công việc vẫn bình thường? Thôi anh cứ yên trí với cái bình thường ấy di..

<span class='text_page_counter'>(48)</span> - Anh Khoán, nhưng anh đi đâu mới được chớ? - Anh khỏi lo. Tôi tự liệu được lấy thân tôi. - Này, này anh Khoán ơi! Tôi… Khánh cố níu kéo nhưng đầu dây bên kia máy đã úp xuống đánh cạch. * * * Tổng giám đốc công ty Clê-xi-mếch, công ty kinh doanh tổng hợp đang phất lên như ngọn cờ đầu trong việc làm ăn có lời. Ông cũng xuất phát từ hai bàn tay trắng với một khao khát làm giàu cho đất nước, giải quyết việc làm cho mọi người. Dẫu bộn bề công việc, ông vẫn lắng được những dư âm buôn bán, lời lãi, làm ăn tốt xấu của các bạn đồng nghiệp. Nghe tin Khoán rút khỏi công ty xây dựng Pết-Ép-Lây vì tính tình ngang bướng, không hợp với giám đốc, không hợp với công ty đã khiến anh chú ý ngay. Có được một công ty xây dựng nữa sẽ có hàng trăm công ăn việc làm cho con em cán bộ công nhân viên ở cái tổng công ty này. Cái đó mới là sự giúp đỡ, là lòng thương với con người. Hiềm một nỗi, anh chưa tìm ra được người tài. Mang máng nghe những lời đồn đại về Khoán, anh bỗng tò mò muốn biết con người này ra sao. Anh không sợ sự ngang bướng. Cái đó có thể bồi dưỡng giáo dục. Anh sợ nhất là sự bất tài. Cái sự cưỡng quậy của Khoán không chừng báo hiệu một tài năng. Nghĩ vậy, anh tranh thủ đi gặp Khoán ngay. Nhà Khoán khá khang trang, gần trung tâm thành phố. Trưa. Nắng loá mắt. Đất trời như nung trong lửa. Vào nhà Khoán mát hẳn. Khác với một số người hay đánh giá phẩm chất con người qua sự giản dị, bình thường. Không! Đã là anh cán bộ phải chững chạc đàng hoàng. Quần áo phải đâu ra đấy. Nhà cửa không được phép nhếch nhác bề bộn. Muốn gây dựng được một cơ ngơi bề thế cho một tập thể, trước tiên phải lo được cho thân mình, cho gia đình mình. Đương nhiên, bằng sức lao động, bằng chất xám, bằng đồng tiền chính đáng. Khách chủ ôm chầm lấy nhau: Trời ơi, thì ra họ là bạn cùng tiểu đoàn hồi đánh Mỹ. - Sao tớ nghe nói cậu vào Nam? Cả gia đình đang ở trong đó. Định nhắn tin qua truyền hình xem có tìm nổi không? - Ôi, em vào Nam ra Bắc đủ cả. Lận đận lắm. Gia đình mới ổn định mấy năm nay, nhưng công việc vẫn còn lung tung. Anh Thanh, em có biết tin anh. Cũng đôi lần định tìm nhưng thấy anh làm to quá sợ như người ta nói: "Thấy người sang bắt quàng làm họ". - Tớ biết, phần mặc cảm ít thôi, nhưng chuyện cũ cậu vẫn chưa tha thứ cho mình. Thôi, mọi chuyện cho qua nhé. Thế này là tốt quá rồi. Cậu về chỗ tớ đi. Tớ đang có ý định mở một công ty xây dựng. Khốn nỗi chưa tìm được người đứng mũi chịu sào. Có cậu còn gì bằng. Hai phó tớ đã dấm sẵn rồi. Số người còn lại, về công ty cậu tuyển tiếp. Mà không cần đông người cậu ạ. Tớ bảo đảm lương gấp bốn năm lần chỗ cậu đang làm. Khoán có vẻ thờ ơ trước lời mời của thủ trưởng cũ. Hình như tâm trí của anh chưa dứt khỏi kỷ niệm xưa. Một kỷ niệm không thật đẹp giữa anh và vị tiểu đoàn trưởng của mình. Bữa đó, tiểu đoàn anh giấu lực lượng ở một bãi bói mênh mông, bên này sông Kỳ Lam, chuẩn bị tối sẽ tiến đánh đồn Bình Long bên kia sông. Chẳng hiểu sao, mới chiều nhập nhoạng máy bay đã quần đảo liên tục. Rồi hai chiếc tàu gáo vút thẳng vào khu vực giấu quân rà sát mặt đất, bắn rốc két và đại liên vào từng chiếc hầm. Bộ đội trúng đạn bị thương rất nhiều. Một số không chịu được đã chui ra khỏi hầm. Việc tiểu đoàn bị lộ là không còn nghi ngờ gì nữa. Khoán nhảy ra khỏi hầm đi gặp Thanh xin được bắn máy bay. "Không được, không được. Manh động là tự sát. Nhiệm vụ của tiểu đoàn là tối nay vượt sông, đánh Bình Long, anh biết không?"..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> "Sao tôi không biết, nhưng còn lực lượng đâu mà bảo toàn ạ? Không nổ súng chút nữa địch sẽ đổ bộ binh xuống, nhặt không còn sót người nào đâu". "Đừng nói bậy, không được nổ súng. Cho anh em tiếp tục bí mật dưới công sự. Chỗ nào không giữ được thì lặng lẽ rút về phía bờ sông. Nghe rõ chưa?". Câu cuối cùng tiểu đoàn trưởng nói như quát rồi bỏ đi. Đời lính là thế, có những mệnh lệnh không phù hợp một chút nào nhưng vẫn phải chấp nhận. Hai chiếc tàu gáo thấy đối phương không đụng cựa gì mặc nhiên hạ độ cao, soi vào từng người găm đạn. Đã có lúc Khoán thấy quá mức chịu đựng của mình. Trường hợp này một người lính mới nhập ngũ nếu được lệnh cũng bắn cháy được máy bay. Và như thế không những bộ binh địch không thể đổ quân được mà số máy bay trực thăng như chuồn chuồn trên đầu Khoán nhiều chiếc sẽ phải bùng cháy tơi tả. Đêm hôm đó, địch chiếm được bãi bói. Bộ đội thương vong ngổn ngang bên bờ sông. Tiểu đoàn trưởng lạc một ngày sau mới tìm được. Còn Khoán cho đến nay vẫn đau đớn tiếc nuối là đã không nổ súng bắn vào những chiếc máy bay hỗn láo kia… Sau trận đánh bất thành đó, lực lượng tiểu đoàn mỏng tang. Cấp trên bổ sung cán bộ chiến sĩ còn lại cho các đơn vị khác. Sau chiến tranh Khoán có nhìn thấy Thanh trên truyền hình với cương vị là một tổng giám đốc đang nổi như cồn. Tổng giám đốc Nguyễn Thanh được coi là một trường hợp khá đặc sắc. Tổng công ty anh ra đời trong khi nhiều công ty xí nghiệp Nhà nước phải giải tán vì làm ăn thua lỗ. Tự anh đi liên hệ xin khai sinh cho tổng công ty. Tự anh lo xoay xở tìm người. Trụ sở ban đầu đi thuê. Vốn liếng ban đầu đi vay. Vậy mà chỉ mấy năm sau nó nổi đình đám như một hiện tượng kỳ lạ. Ở đâu người ta cũng tìm đến nó. Vốn cố định lớn. Cơ ngơi bề thế, khang trang. Xe cộ, máy móc vào loại hiện đại. Báo giới đua nhau tung hê. Chỗ nào cũng thấy bàn tán về tổng công ty. Lương bổng cán bộ, công nhân vào loại khá. Tổng công ty trở thành một trong những đơn vị kinh doanh giàu nhất thành phố! Nhiều người không khỏi ngỡ ngàng. Một số tổng giám đốc muốn được làm quen với anh để học hỏi kinh nghiệm và được giúp đỡ. Người lao động không mong mỏi gì hơn được làm ở một tổng công ty như thế. Nhưng đây cũng là con mắt tinh đời của một tổng giám đốc. Anh không cần nhiều người làm việc. Những người lọt mắt xanh anh không dễ. Khoán vốn ước thèm có đất để dụng võ. Nhưng về chỗ Thanh thì chưa bao giờ anh nghĩ đến. - Anh thương thằng em, vừa bị đuổi khỏi công ty Pết-Ép-Lây phải không? - Khoán nửa đùa nửa thật. - Đừng! Cậu đừng bao giờ có ý nghĩ ấy với tớ. Tớ biết, không ai đuổi cậu cả. Chẳng qua cậu chưa chọn được người đáng mặt làm việc đấy thôi. - Không dám. Thủ trưởng nói quá. - Tớ biết cậu còn thành kiến với tớ. Nhưng đời người cũng có lúc sai lầm chứ cậu! Nhờ cái sai lầm hồi đó mà sau này tớ vững chãi hơn. Thôi cậu tạo thời cơ cho tớ đi. Tớ hứa, về đây cậu sẽ được nhiều thứ. Cũng là chút thành tâm của tớ đối với cậu, đối với những sai lầm trước đây vậy. - Thủ trưởng không thích đùa đấy chứ? - Đùa thế nào, trong chuyện này? - Vậy thì tôi đồng ý. Chỉ yêu cầu thủ trưởng từ nay trở đi không cần nói với tôi về cấp chức, về lương bổng. Tôi biết chỗ thủ trưởng là thế nào chứ. Nhưng tôi nhận về vì tôi là thằng mê làm việc. Sau một thời gian, thủ trưởng cứ hê tôi đi, nếu tôi vô dụng. Còn thủ trưởng cũng cho tôi quyền được đi nơi khác nếu tôi thấy không phù hợp ở chỗ thủ trưởng. Cứ nói trước với nhau như thế cho thật sòng phẳng. Tổng giám đốc Thanh quyền uy nghiêng thiên hạ, bao nhiêu bạn bè, chiến hữu đầu.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> đơn về công ty, anh chưa thể tính đến. Vậy mà có người ngang ngược với anh như vậy. Không! Có lẽ không hẳn thế. Anh sững sờ, và có chút ngượng ngập: - Thành thật xin lỗi ông. Tôi chỉ nói đùa cho vui. Ông bỏ quá nha. Ngay cách xưng hô của Thanh cũng dè chừng hơn. * * * - Sự cố đầu tiên khi Khoán bước khỏi công ty Pết-Ép-Lây là công trình nhà văn hoá của tỉnh S. xin rút hợp đồng. - Phải hỏi xem lý do vì sao chứ? - Vợ Khánh nghiến răng kèn kẹt, tay săm soi vào mặt chồng. - Có nhiều lý do, nhưng lý do chính mà họ không nói ra, nhân lực mình mỏng quá. - Láo lếu, làm sao biết mỏng với dày. Nó không làm, phạt, phá hợp đồng đâu dễ thế được. - Ôi, ăn thua khỉ gì. Khi ký kết có ai nhắc cụ thể về cái đó đâu, giờ nó cãi, mình biết làm sao? - Ngu. Giám đốc gì ngu thế. Hợp đồng thì phải rất rõ ràng chứ. Thế còn chuyện biếu xén cả trăm triệu đồng, chịu mất luôn chắc. - Cái đó bà làm chứ sao còn hỏi. Mà khéo ra toà vì chuyện ấy đấy. Ai cho phép đi đút lót. Đi đút lót cũng có tội. Tôi đã nói với bà cả trăm lần bà không chịu nghe. Tôi ngu hay bà ngu đây? - Trời ơi là trời! Kiểu ni mất cả chì lẫn chài rồi, kiểu ni bán cả nhà không đủ trả nợ rồi… Hai vợ chồng đang chì chiết nhau thì Hoán thủng thẳng bước vào. Từ bữa Khoán bỏ đi khỏi công ty, Hoán vừa mừng vừa lo. Mừng vì Hoán không còn đối thủ để cạnh tranh, cũng là phó nhưng dưới con mắt mọi người, Khoán được nể trọng hơn. Giờ chỉ một mình dù tài hèn sức mọn Hoán cũng biết chắc mình sẽ được cưng như cục vàng. Mừng hơn nữa là công ty đang có đà. Chỉ ngạo mạn như Khoán mới đi khỏi công ty lúc này. Cùng một lúc có đến hai công trình kếch xù. Thật là nằm mơ cũng chẳng thấy. Nếu có lo là ở chỗ Hoán biết ông giám đốc chỉ giỏi đi xây. Tính toán không ra đâu. Hoán ư? Cũng không giỏi giang gì. Cờ đến tay thì phất. Phải công nhận có tay Khoán mọi chuyện sẽ ổn hơn. - E hèm… - Hoán đánh động để vợ chồng Khánh thôi hục hặc với nhau. - Anh chị đừng quá lo như vậy. Có gì ta cùng bàn bạc gỡ ra. Đay nghiến nhau chẳng giải quyết được gì đâu. - Thì đấy, giao cho anh em nhà chú. Cái nhà văn hoá ấy tôi đã bỏ một trăm hai mươi triệu rồi đấy. - Ấy, đừng bi quan quá sớm. Một trăm hai mươi triệu chưa nghĩa lý gì với công trình hàng chục tỉ. Được nhận công trình ấy, mình lời gấp hàng chục lần tiền bà chị bỏ ra. Bây giờ tôi tính thế này. Đâm lao phải theo lao. Thằng nào đã nhận tiền bà chị cho nó nhận nữa. Dùng cái đó xích nó vào hợp đồng đã ký. Chỉ có cách đó mới cứu vãn được. - Hắn đi vào Thanh Hoá mấy hôm nay rồi - Khánh rầu rĩ. - Càng tốt. "Điệu hổ ly sơn". Thuê xe vào Thanh Hoá ngay. Chộp bằng được nó. Lại đây, cả hai lại đây tôi bảo… Khi cả ba cái đầu chụm vào nhau, Hoán mới thì thào vạch một mưu kế. Theo Hoán, công trình nhà văn hoá chỉ là tiền chùa. Mấy tay thủ trưởng không cần biết chất lượng kỹ.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> thuật, độ lâu bền, hay mỹ thuật gì đâu. Họ làm phách, gây sức ép thế để moi tiền đấy. Không ai chê tiền cả. Nó ngúng nguẩy là vì muốn mình nôn ra nhiều hơn. Đấm vào mõm nó hai chục triệu. Hai thằng phó mỗi thằng chục triệu nữa. Đám đàn em mỗi đứa vài triệu. Đương nhiên tách xa chúng nó ra. Không để chúng biết mình giúi tiền cho thằng nào với thằng nào! Khi bàn, chúng sẽ ngậm tăm hết. Và rồi xem. "Công trình đố có vào tay ai ngoài anh em nhà mình…". Tiền trong tủ nhà Khánh còn nhiều, nhưng mỗi lần rút ra cũng làm vợ Khánh thắt cả ruột. Thôi đã trót thì phải chét vậy. Chị đành giao tiền cho Hoán. Hoán mang đi trăm triệu đồng. Đi hết ba ngày. Hôm về Hoán trả lại cho vợ Khánh một nửa tiền. Không biết nửa tiền kia Hoán có giao cho ai không, nhưng chủ đầu tư công trình nhà thanh niên tỉnh S đồng ý thực hiện hợp đồng đã ký. Vợ chồng Khánh mừng thôi là mừng, tin thôi là tin. "Chú ấy tốt lắm chứ. Việc êm như thế chú ấy bảo hết cả trăm mình làm gì được nào?". Rồi từ cái sự tin đó Hoán được vợ chồng Khánh giao cho việc cai quản hai công trình đã nhận. Công trình đầu tiên là cho chủ tịch H. Nhà riêng nhưng quy mô cũng chẳng kém trụ sở một cơ quan Nhà nước. Hoán đã ngửi được mùi thơm ngậy của công trình này. Chủ tịch tỉnh thì tiền nặng túi lắm, thanh quyết toán sẽ rất nhanh. Càng mừng thầm trong bụng, Hoán càng thấy sự ra đi của Khoán là rất khờ dại. * * * Công trình nhà riêng của chủ tịch H. gần kết thúc, Hoán mới ngã ngửa ra rằng, giám đốc Khánh chỉ có thể là một công nhân xây lát. Một giám đốc không chỉ có cái nhìn bao quát mà còn phải rất cụ thể. Nhận một công trình phải tính ra được sự lời lãi thế nào? Phải bỏ vào đó bao nhiêu tiền. Và làm xong anh được bao nhiêu tiền. Đằng này nhờ vợ đi "xin" công trình, còn anh ta ký ào. Theo nhẩm tính sơ sơ của Hoán, ngôi nhà của chủ tịch tỉnh H. không những không có lời mà có thể âm. Công trình nhà thanh niên cũng chẳng mầu mỡ gì. Thật ra nếu giám đốc Khánh không tính toán được thì phải chọn tham mưu giỏi, chọn được kế toán, tài vụ dốc tâm, dốc sức vào công việc. Khốn thay, bộ máy hành chính của giám đốc là một loạt người không có công ăn việc làm, đến ôm lấy chân giám đốc xin xỏ công việc. Giám đốc rủ lòng thương nhận tuốt vào cơ quan. Có những người anh không biết bố trí làm gì. Giám đốc thích vui vẻ, thích đông người để công ty có bề thế. Vậy thôi! Lúc đầu, người ta chưa đòi hỏi lương lậu gì. Nhưng được vài tháng bắt đầu thắc mắc đủ kiểu. Tiền trong túi giám đốc cũng vơi rồi, vả lại còn bao nhiêu việc lớn lao hơn, ví dụ công trình đang xây dở kia. Thế là anh tìm cách lảng tránh. Những ngày này, thậm chí anh chui lủi ở đâu không ai rõ. Mọi việc giao hết cho Hoán. Hoán thành trung tâm của con nợ. Nợ cán bộ công nhân viên cơ quan, nợ khách hàng, nợ hàng xóm, nợ họ hàng nhà Khánh… Đủ thứ nợ. Một năm cật lực làm việc cho công ty, Hoán cũng chỉ đủ tiền ăn xài, chưa gửi được cho vợ con đồng nào. Vậy nhưng bề ngoài anh lại mang tiếng là được vợ chồng giám đốc chiều chuộng, tiền lương thừa mứa. Anh biết Khánh không kẹt xẻn gì với anh. Khánh đã hứa khi xong công trình sẽ giao cho Hoán một "cục" gửi về nhà luôn thể. Không thể có cái "cục" ấy nữa rồi. Cán bộ công nhân viên có người gần cả năm nay chưa được giám đốc chi cho đồng nào. Họ ngao ngán trông đợi vào ngày bàn giao công trình. Biết công trình là con số không, họ sẽ bỏ đi, không nói là sẽ nổi loạn. Lẽ ra, Hoán phải gặp giám đốc bàn bạc. Nhưng ghét thay, vợ giám đốc lại không thích điều đó. Đến nhà, anh và giám đốc nói một thì bà giám đốc nói hai. Đi đâu, bà tính từng phút, từng giờ. Bà làm như thể ai gần chồng bà thì móc hết túi tiền hoặc xúi bẩy chồng bà làm những chuyện dại dột không bằng. Anh ít đến nhà giám đốc, ít bàn bạc với giám đốc là vì vậy. Anh vẫn ngỡ giám đốc không đến nỗi ất ơ đến thế. Khi anh biết thì mọi việc đã.

<span class='text_page_counter'>(52)</span> quá chậm. Không! Phải tìm cách lo liệu cái thân mình thôi. * * * Một mảng tường lớn ở tầng hai ngôi nhà đang xây của chủ tịch tỉnh H. mới sáng sớm tinh mơ đã đổ đánh "rầm". Các nhà bên cạnh hốt hoảng tưởng có bom nổ cạnh nhà. "Thôi rồi! Chắc khi làm không tính ngày tính tháng, không cúng bái tử tế…". Rất nhiều người đoán già đoán non như thế. Khánh, mặt, tóc, quần áo trắng bụi, chui ra từ đống gạch vữa lộn nhộn ấy: tay bóp vụn một nắm hồ rơi lả tả xuống đất: "Trộn cát với xi măng ẩu thế này không đổ sao được". Răng anh nghiến ken két, nước mắt dân dấn. "Thế anh Hoán đâu, anh Hoán đâu hả?". Khánh hỏi đám thợ. Họ cũng đang buồn nẫu ruột, trả lời nhát gừng: "Sao sếp lại hỏi chúng tôi? Cả tuần nay có gặp anh ta đâu?. Trời ơi! Lạ! Đúng lúc ấy bà xã ông chủ tịch tỉnh H. trong bộ áo váy sặc sỡ, xăm xắm bước thẳng tới trước mặt Khánh. - Anh làm ăn thế đấy phải không? Thế mà nói thì ngọt như mía lùi. Bây giờ anh định sao! Để chúng tôi còn liệu! - Chị cứ bình tĩnh, sẽ hoàn tất ngôi nhà cho chị là được chứ gì? - Được là được làm sao? Thợ thuyền anh làm ăn thế mà bảo được. Các anh đang ở đây mà đã xảy ra thế này, các anh biến rồi chúng tôi níu vào đâu hử. Trời ơi! Thế mà có ít công nợ đến đòi chèo chẹo. Khánh ngơ ngác. Ơ hay, đòi nợ là thế nào. Ngôi nhà này, công ty bỏ vốn ra đã lấy đồng nào đâu? Phải đến tận khi vợ chủ tịch dí tận tay Khánh tờ ghi nhận đã lĩnh tiền do Hoán ký nhận anh mới ngã ngửa ra. Đúng là anh đã phải cố gắng lắm mới khỏi đổ kềnh ra như bức tường kia. Cái thằng Hoán khốn nạn đã lạm dụng sự tin cậy của anh đến thanh toán số tiền xây dựng ngồi nhà này rồi. Lẽ nào nó biến như con mẹ hàng lươn. Sao lại có kẻ vô lương tâm đến vậy chớ? Sao lại có thằng phản bạn đến thế chớ! Bây giờ thì không còn cách nào khác, chính Khánh phải tay thước, tay bay ra hiện trường làm việc. Anh chỉ huy trộn xi măng với cát theo tiêu chuẩn quy định, anh giăng dây rợ, hò hét thợ cùng làm với anh. Chỉ ở công trường, con người anh mới hiện nguyên hình là anh, hoạt, năng động. Nhưng đấy cũng chỉ là những lúc sự đam mê nghề nghiệp làm anh hứng chí. Còn ra, khi nghĩ đến công nợ phải trả, nghĩ đến món tiền Hoán đã cuỗm đi, chân anh lại run, tay loắng ngoắng, mắt mờ mịt, đất trời như chao đảo. Trời đất ơi! Thế mà lại còn một công trình nữa anh đã ký. Ai sẽ gánh vác với anh? Chia sẻ với anh trong cơn hoạn nạn này? "Roắc - đùng". Cùng với tiếng gãy đổ của giàn giáo, của bức tường đang xây, người ta nghe những tiếng "rầm rầm" tiếp theo là tiếng "ối, ối". Khánh có một cảm giác rất lạ. Đứng trên giàn giáo mà anh hẫng hụt chơi vơi. Thôi chết rồi, hình như chân móng ngôi nhà đang tụt, kéo theo cả mảng tường. Khi anh kịp nghĩ được như vậy cũng là lúc không thể nghĩ được gì nữa. Anh cùng ba người nữa đã rơi từ độ cao trên hai mét xuống đất, miên man, bất tỉnh. Công trường nhộn nhạo hẳn lên. Tiếng than khóc, tiếng bước chân rầm rập, tiếng xe cấp cứu rú còi. Lúc này thật là "Hoạ vô đơn chí" đối với gia đình giám đốc Khánh. * * * Trong căn phòng làm việc sang trọng của tổng giám đốc công ty Clê-xi-mếch, có ba người đang mang ba tâm trạng khác nhau. Thanh đi đi lại lại trong phòng, mặt đăm chiêu: - Anh nói thật đi, anh Khoán, tôi hoặc công ty có lỗi gì với anh, có điều gì không đáp ứng được yêu cầu của anh?.

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - Anh đừng nghĩ như thế! Không đúng với bản chất của tôi và sẽ làm cho mọi việc nặng nề ra. Tôi vốn là một người lính, có gì tôi nói thẳng, nói thật. Anh rất tốt với tôi. Tôi không có gì phàn nàn về tổng công ty cả. Có điều Khánh cũng là bạn chiến đấu của tôi trước đây, bây giờ đang cơn hoạn nạn, tôi muốn giúp Khánh, vậy thôi. - Còn tôi, không là bạn của anh chắc. Và ai bảo đảm rằng anh đi khỏi cái công ty xây dựng này, những công trình dang dở kia không sụp đổ như bên công ty của Khánh. - Không có! Anh yên tâm đi. Công ty anh Khánh thế nào thì anh biết rồi. Anh nói đúng, cũng là bạn với nhau cả nhưng rõ ràng là Khánh đang gặp hoạn nạn, cần có bàn tay bạn bè hơn. Còn công ty xây dựng của tôi anh khỏi phải băn khoăn. - Tôi biết, tôi biết. Công ty của anh đang có uy tín, đang có nhiều công trình, đang làm ăn phát đạt… - Thanh ngắt lời Khoán, giọng có chút hờn dỗi. - Tôi không nghĩ như thế. Tôi muốn nói rằng hai phó giám đốc của công ty còn trẻ, có trình độ. Một trong hai người lên làm giám đốc thay tôi đều được cả. Và thú thật, cũng cần có chỗ để thử thách họ, để họ phát triển. Giám đốc chỉ có một cái ghế, mình ngồi miết, để họ đấy hở anh? Trong khi Khoán cố khôi hài để không khí căn phòng không tràn ngập sự nặng nề buồn tủi thì chốc chốc vẫn có tiếng thở dài não ruột của tổng giám đốc Thanh và tiếng thút thít của vợ Khánh. Mới mấy ngày mà trông chị già đi đến sợ. Tóc trổ những mảng xám trắng. Mặt hốc hác, đuôi mắt lộ rõ những nếp nhăn. Quần áo không còn được chải chuốt như trước, mà xồ xệch, lếch nhếch. Hành động cử chỉ của chị đôi lúc như của người hoá rồ. Thì đó, chị đang chạy lại tổng giám đốc, quỳ xuống, tay vái lia lịa: - Xin anh, cả nhà tôi, cả họ hàng nhà tôi cám ơn anh. Tôi chắc phải tự tử nếu anh Khoán không đến giúp chúng tôi. Chúng tôi đang sạt nghiệp vì nợ. Công trình thì tan nát thế kia mà không có ai lo liệu được… Anh hứa đi anh Thanh. Anh cho anh Khoán đi chứ. Các anh là bạn bè cũng từng sống chết với nhau cả… Chính câu sau cùng rất tỉnh táo, rất khôn ngoan của vợ Khoán làm Thanh mủi lòng. Thật ra, chịu để cho người ta rước đi một giám đốc trung thực, giỏi giang như Khoán khỏi cơ quan mình chỉ có là điên. Nhưng anh biết làm sao trong hoàn cảnh thật đáng thương này. Dẫu thế, anh cũng chỉ có thể đáp ứng một phần nguyện vọng của vợ Khánh. Anh biết hai phó giám đốc mà Khoán đào tạo có thể thay được Khoán. Những công trình, công ty đang xây dựng là vững chắc nhưng không vì thế mà anh bỏ mặc Khoán. Khoán là bạn, là đồng nghiệp, là người khởi đầu gây dựng và đưa công ty xây dựng này lên. Biết bao công lao. Lúc này là lúc công ty đang gặt hái, Khoán lại bỏ đi để hứng lấy cái "cơ đồ" đang đổ nát của Khánh, anh yên tâm sao được. - Tốt nhất là thế này - Thanh chậm rãi. - Tôi đồng ý cho anh Khoán qua đó, tính toán lại lời lãi cho công trình, xốc xách lại đội hình… Nhưng với điều kiện đi giúp thôi. Anh vẫn là giám đốc ở đây, hưởng mọi chế độ ở đây. Khi nào bên ấy yên ổn, anh lại về đây. - Anh Thanh, rất cảm ơn anh, nhưng như thế tức là anh không hiểu gì về tôi rồi. Tôi không thể không làm gì mà lại hưởng tiêu chuẩn ở đây được, dù anh và công ty không phàn nàn gì. Tôi hiểu như thế, nhưng cũng phải biết ngượng, biết áy náy khi nhận những thứ không do công sức của mình làm ra chứ? Và tôi nói thật với anh, trước đây chính tôi bỏ công ty của Khánh là vậy. Với tôi, mọi việc phải rõ ràng. Mỗi người phải gắn trách nhiệm của mình vào một công việc cụ thể, sống chết với nhiệm vụ cụ thể đó… Ở nước mình, có quá nhiều người cái gì cũng làm, cái gì cũng biết, được cất nhắc lên vị trí nào cũng nhận. Thực ra cái gì cũng lơ mơ láng máng, bổng lộc thì hưởng quá nhiều. Cần phải có một cuộc cải cách. Khi nào chấm dứt được việc này, đất nước mới có cơ khá lên được. Công ty Khánh và cả Khánh sụp đổ anh biết vì sao không? Không có nền móng.

<span class='text_page_counter'>(54)</span> vững chãi. - Ô hay - Thanh kêu lên. - Nhưng chắc gì bên ấy đã chấp thuận ý tưởng của anh? Chắc gì người ta để cho anh gây dựng một nền móng mới theo cách của anh? Vợ Khánh không còn khóc nữa. Hình như chị cũng chỉ đợi đến lúc này để nói rành rẽ, khẩn thiết về những điều chị và chồng đã bàn, đã thoả thuận với nhau. Khánh đang nằm viện, chân bị gãy chưa biết lúc nào mới đi lại được. Mà có đi lại được thì Khánh cũng sợ cái chức giám đốc lắm rồi. Anh chị sẽ dành toàn bộ sự quyết định nơi Khoán. Khoán sẽ làm giám đốc mãi mãi, sẽ có quyền tuyển người, loại người khỏi công ty. Khánh sau này có sức khoẻ cũng chỉ làm anh thợ chính, anh đốc công, đó là sự công bằng, là công việc phù hợp với con người và khả năng của Khánh… Vợ Khánh dẫn giải những điều đó với Thanh và Khoán. - Nên thế! - Thanh nói - Nếu cần một lời khuyên, tôi cũng sẽ khuyên Khánh nên thế! - Có nghĩa là anh đồng ý cho tôi đi rồi đấy nhé. - Khoán phá lên cười. - Tối nay nếu anh không bận tôi và anh vào viện thăm Khánh. - Hẳn thế rồi, nhưng đến đó tôi sẽ có một phương án, của riêng tôi. Phương án này vừa cứu vãn được Khánh, giúp sức được với anh, mà tổng công ty này lại không mất đi một người tài. - Tôi cũng ngầm đoán ra phương án của anh rồi đấy. Họ cười vui vẻ đi ra khỏi phòng. XƯA KIA CHỊ ĐẸP NHẤT LÀNG Thứ ba, 25 Tháng 9 2007 21:25 - Dừng lại đã nào… Ngày ấy, chị Túc xinh lắm. Ở vào tuổi mười tám chị tươi rói như một bông hoa. Với thân hình thon thả, bờ vai chị tròn trịa, lẳn trong chiếc áo màu nâu tươi. Không biết bao nhiêu cặp mắt si mê đã đậu vào đó. Không biết bao nhiêu lời mây gió đã thoảng qua tai chị. TẠ DUY ANH ____________ Tiếng một chàng trai đuổi theo chị như tiếng gọi khắc khoải bật ra từ nơi sâu thẳm của một lồng ngực bị dồn ép. Chị Túc từ từ quay lại. Cặp môi chín mọng của chị khẽ mở ra, để lộ một nụ cười có sức hút mê mệt. Cặp mắt giống hai miếng cau bổ khéo của chị chớp chớp nhìn xuống đất. Chị xinh đẹp nhưng chẳng tự kiêu chút nào. Đáp lại tiếng gọi, chị chờ đợi. Nhưng rồi người gọi dường như kính sợ trước một hình ảnh quá xa vời tựa cái ảo ảnh của một giấc mơ còn sót lại, cứ đứng ngây ra trước mặt chị. Chiều nào chị Túc cũng có mặt bên giếng nước. Người ta bảo con gái nết na không dám soi mình vào gương. Mỗi lần cúi xuống kéo gầu nước, chị bồn chồn với chính hình ảnh của chị tận đáy giếng. Sóng nước chập chờn, lung lay đùa giỡn với chị. Bất chợt chị ngước lên, phá ra cười một mình. Tiếng cười của chị vô tư như chính vẻ duyên dáng của chị. Thoáng cái đã thấy chị gánh hai thùng nước, chân trắng ngần bước đi mềm mại. Lại có ai đó gọi, chị Túc nghiêng mái đầu thay cho lời đáp. Trai làng lần lượt lên đường. Chiến tranh thò bàn tay vào lôi tuột đi các chàng trai mới chớm tuổi mười tám. Chị Túc sang tuổi hai mươi rồi hai lăm lúc nào chị không nhớ. Mỗi lần tiễn thanh niên lên đường là mỗi lần chị Túc khóc cạn nước mắt. Những đơn vị bộ đội ở đâu ầm ầm kéo đến làng tôi, ở lại vài tháng đủ để thương để nhớ. Rồi một buổi sáng nào đó khi chúng tôi tỉnh dậy đã biến đi như có phép. Một lần tôi thấy mẹ tôi vừa đọc thư vừa sụt sùi lau nước mắt. Mẹ chỉ bảo tôi thư của chú Kiều từng ở nhà tôi. Lúc vắng mẹ, tôi mở trộm thư ra đọc. Tôi đánh vần cho bọn trẻ cùng làng đang.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> tròn mắt ra nghe. " Cả tiểu đoàn em qua khỏi Quảng Trị chỉ còn vài chục người. Tụi nó đánh ác lắm … chị ơi! Cả một vùng đất rộng mênh mông bị cày đi xới lại đến nỗi biến thành một thứ bột màu thuốc súng…". Ở cuối thư, sau khi đã "vĩnh biệt chị và các cháu" chú Kiều còn "à quên cho em gửi lời chào đến cô Túc". Ngày ấy, chúng tôi chưa hình dung được sự khốc liệt của những dòng miêu tả đó. Chiến tranh như con ngáo ộp mà chúng tôi rất sợ nhưng sẵn sàng cợt nhả trở lại. Hôm sau mẹ tôi đưa thư cho chị Túc. Chị nằm xoài ra giường hết lật sấp lại lật ngửa tờ giấy. Dường như lời thăm hỏi kia của chú Kiều chỉ là cái vỏ. Chị muốn tìm cái "bên trong" kia! Lúc chị trả lại thư cho mẹ tôi, khuôn mặt chị thoáng một chút bần thần. Nhưng cũng giống tụi trẻ chúng tôi, chị Túc không có nhiều thời gian để mà vẩn vơ. Cả làng lại cuốn vào đủ thứ lo toan để đón một đoàn quân khác. Các chú bộ đội cỡ tuổi chị Túc thường mượn cớ đến nhà tôi đánh cờ, nhưng hễ chị Túc bước vào là bàn cờ lập tức thuộc về chúng tôi. Chúng tôi có thể tuỳ ý đổi chỗ quân tốt cho quân tướng, thậm chí có thể đút cả xe, pháo, mã… vào túi đem ra chỗ khác chơi trò lăn bánh xe… Sau mấy tháng, đơn vị bộ đội lại biến mất. Làng tôi lại hẫng đi độ nửa tháng, buồn nhớ mênh mông. Cảm giác trống vắng lây sang cả tụi trẻ con chúng tôi. Rồi cả làng lại ầm lên những tiếng hỏi nhau, tiếng bước chân chạy rầm rầm đến gõ cửa nhà nhau. Đấy là khi thư của các chú bộ đội gửi trở lại. Từng đám, từng túm quay lại hướng về ai đó đang căng lá thư ra đọc oang oang. Những gương mặt lo âu, mừng tủi, đan cài vào nhau tuỳ theo lứa tuổi. Chị Túc cũng nhận được một lá. Một lá thư đề ngoài bì dòng tên chị, viết hoa bằng nét chữ trận mạc. Ngay tối hôm đó, chị đến tìm mẹ tôi. Tuy mẹ tôi chỉ hơn chị dăm tuổi nhưng chị Túc phải gọi bằng thím. Dưới ánh lửa chập chờn của đêm tàn đông, gương mặt chị trở nên nghiêm trang sâu sắc lạ thường. Chừng lâu lâu im lặng, chị Túc lập cập lôi từ lồng ngực ra tấm phong bì tự gập. Chị liếc nhìn tôi giọng thì thào: - Thằng cu ngủ chưa? - Chơi cả ngày, đặt mình xuống là ngủ như chó - tiếng mẹ tôi. - Cháu có chuyện này muốn nói với thím - giọng chị Túc phập phồng. Tuy mắt vờ nhắm nghiền nhưng tôi biết mẹ tôi đang tóm lá thư từ tay chị Túc. Mẹ tôi kéo ngọn đèn gần lại, lật ngược lật xuôi rồi đưa trả chị: - Đọc lên xem nào! Có hai thím cháu chứ có ai mà sợ. - Thím không được hở ra với ai - Chị Túc mặc cả. - Con bé này, chuyện trẻ con! Chị Túc thở sâu mấy cái rồi bắt đầu đọc: "Quảng Trị ngày… Em yêu quý!". Chị Túc phải dừng lại để lấy hơi. - Của ai đấy? - Mẹ tôi hỏi nóng sốt. Chị Túc giả tảng không nghe thấy, tiếp tục đọc một cách khó nhọc: "Có thể chỉ lát nữa tôi không còn trên mặt đất này. Trận bom ác liệt lúc chiều đã cướp khỏi tay tôi hai chục chiến sĩ. Chắc chắn rồi sẽ đến lượt tôi. Chiến tranh là may rủi. Là cuộc chơi đỏ - đen tàn khốc nhất: phải được cả hoặc mất tất! Nhưng hãy còn một lát nữa để tôi kịp chuẩn bị lần chót cho cuộc ra đi không bao giờ biết trước. Giờ này trăng vừa.

<span class='text_page_counter'>(56)</span> lên. Thật kỳ lạ khi tôi có cảm giác tất cả đều bình yên, tuồng như chiến tranh bị đẩy lùi mãi, chỉ còn như một dư âm. Và tôi chờ đợi. Em có biết tôi chờ đợi điều gì không? Tôi… chờ em bước ra từ vầng trăng. Em sẽ băng bó những vết thương, làm nguội mặt đất, bởi vì em là vị Phúc thần của những người lính trận như tôi…". Chị Túc không sao đọc tiếp được nữa và mẹ tôi phải giằng lấy đọc tiếp phần cuối. Tôi không biết lá thư nói tiếp những gì, chỉ thấy sau đó cả mẹ tôi và chị Túc cùng im lặng. Bỗng mẹ tôi thở dài đánh sượt: - Ôi chao, bao giờ cho hết cảnh binh đao! Này, có phải của cái anh chỉ huy ấy không? - Vâng, chính anh ấy. - Nghe thư tôi đủ biết. Người cao ráo thế, thảo nào… cũng thật tội nghiệp cho anh chị. Nhưng chị Túc chợt khóc nấc lên: - Đêm chia tay… anh ấy… chỉ… xin cầm tay cháu một lần… mà không được… chắc anh ấy đau khổ lắm… hức hức… - Anh ấy sẽ càng yêu cháu… ừ, giá như… Mẹ tôi vờ cúi xuống xoay lại thế nằm của tôi. Rất nhanh tôi thấy mẹ tôi quệt tay áo lên mắt. * * * Đông Hà ngày… Khe Sanh 9 giờ ngày… Nam Lào, bên một tảng đá có khóm hoa Trinh nữ ngày… Chị Túc sắp xếp những lá thư theo thứ tự ngày tháng. Có lá gửi từ mùa hè, đến tay chị Túc đã mùa đông. Có lá dường như được viết giữa cánh rừng đước nơi tận cùng đất nước. Thảng hoặc có lá thư do bị lưu lạc quá lâu, qua quá nhiều nơi, đến mỗi trạm đều có chữ viết thêm đằng sau phong bì: "Nhanh lên đồng hương". Rồi ở trạm khác lại có dòng viết vội: "Đã duyệt và thấy cần phải lưu hành". Cho đến một trạm nào đó, dòng chữ viết còn lấp lánh một ánh mắt lính: "Tình yêu thời chiến phải thần tốc. Gửi đồng bào miền Bắc triệu cái hôn"… Chị Túc trân trọng những tình cảm trận mạc như giữ cho mình một báu vật. Trong hàng trăm lá thư nhận được, chị Túc chỉ viết trả lời được mươi người. Số còn lại không có địa chỉ. Điều đó khiến chị Túc day dứt. Nhưng điều chị khổ tâm nhất chỉ mẹ tôi biết, anh chỉ huy viết lá thư đầu cho chị, thay lời cầu hôn, không thấy thêm một lời hồi âm nào khác. Thời gian ấy mặt trận B1 đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Chị Túc là tổ trưởng tổ "phòng gian, bảo mật" của xã. Từ 7 giờ tối, đội phòng gian có quyền xét hỏi bất cứ người lạ nào qua làng. Chiến tranh lan ra miền Bắc. Những tên điệp viên cải trang dưới mọi hình thức dò dẫm vào bất cứ nơi nào nghi có lực lượng quốc phòng. Làng tôi là một điểm chú ý của chúng. Huyện vừa thông báo trường hợp lão ăn xin bị tổ dân quân của chị Túc bắt bữa trước chính là một gián điệp cải dạng. Làng xóm im lìm như sắp vào trận. Nhưng trăng thì cứ sáng, bất chấp cả chiến tranh. Ở phía đê Bộc vẳng lên từ hội gặt lúa đêm những câu hò vừa chua ngoa vừa tình tứ. Mọi đêm cùng gặt, chị Túc rất sợ tụi này. Làng chỉ toàn đàn bà nên bọn con gái trở nên bạo mồm bạo miệng. Đã có lần chị bị đám đàn em ấy bao vây, bắt phải cung khai tên tuổi người yêu. Bí quá chị Túc đành nhận "Yêu lính". Tưởng thế là xong, ai ngờ chúng cùng hét lên: - Hôn nhau chưa?.

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Chị Túc sắp ngất xỉu thì một đứa trả lời thay: - Rồi! - Cảm giác thế nào? - Như điện giật! Thế là chị Túc bỏ chạy. Trông chị lúc ấy thật tội nghiệp. Tiếng hò vẫn lúc xa, lúc gần tuỳ theo hướng gió. Chị Túc có cảm giác từng câu hỏi đang trôi bồng bềnh về phía chị. Gió phả hương lúa mát rượi vào ngực chị "có thể cả những câu hò". Chị thầm nghĩ. Chị đặt ghếch súng qua vai, mặt dõi vào biển sương mù lãng đãng… Có tiếng người bước rất khẽ trên cỏ. Dưới ánh trăng chị Túc nhận ra cái dáng cao lớn của một gã con trai. Đến gần chỗ chị Túc, bóng đen đứng im phăng phắc. Chị Túc run run xốc lại súng, khẽ hỏi bằng giọng nghiêm khắc: - Ai? - Tôi. - Tôi là ai? - Tôi là kẻ cô đơn. - Nói rõ ngay, anh làm gì ở đây, không tôi bắn. - Ngày nào Túc chẳng "bắn" tôi chưa thoả à? Giọng trả lời có vẻ thiểu não nhưng không giấu được chất nhơn nhớt của kẻ biết rõ đối tượng trước mặt. Nhưng cũng chính cái giọng ỡm ờ ấy của gã đàn ông khiến chị Túc bình tĩnh lại ngay. Anh ta ra đây vào giờ này làm gì nhỉ. Cái anh chàng luôn chải chuốt, từng xoắn lấy chị vào buổi làng mở hội thi nấu cơm. Nhớ rồi. Anh chàng Hào công tử, con ông phó Dộc. Tuy cùng lứa, cùng làng nhưng cả năm cả đời chị Túc chỉ thoáng gặp anh ta vài bận. Hầu như Hào không bao giờ có mặt trong đám trai làng. Chớm đến tuổi nghĩa vụ, lấy cớ theo học nghề của bố, Hào biến mất tăm. Rồi bất chợt anh ta lù lù có mặt ở hội thi nấu cơm, bảnh bao như một trí thức thành phố. Anh ta bám chặt lấy chị Túc khiến có lúc chị mất bình tĩnh. Tuy vậy ở vòng một: nấu cơm trên cạn - chị vẫn giật giải nhất ngon lành. Mở vung cơm ra, mùi gạo tám bốc lên nao núng cả người. Những hạt cơm, trăm hạt như một, còn nguyên hình hạt gạo, nhưng đưa chiếc đũa cả vào, bàn tay cảm nhận thấy ngay độ mềm, xốp đúng độ của hạt cơm vừa nước, chín tới. Bát cơm không khác gì bát bông! Ban giám khảo là các cụ rất khó tính, sành ăn, chỉ việc xếp chị Túc lên hàng nhất. Sang vòng hai: Nấu cơm dưới nước. Điều kiện thi thật ngặt nghèo. Người dự thi được cấp một bó mía xương gà, loại mía dòn và mềm, một chiếc nồi và một bao diêm. Mía xương gà phải nhai hít lấy nước để bã có thể cháy được. Mọi động tác không được thừa một ly, thiếu một ly. Phải tính toán thế nào để mía hết, cơm đủ chín, ngon và nhanh nhất. Thế mới đúng cái nghĩa " gái đảm hậu phương" như tên cuộc thi. Bị hàng ngàn cặp mắt đông nhất là bộ đội "chiếu tướng" chị Túc lúng túng mất lúc đầu vì chiếc "thúng" hình vỏ dưa cứ "giã gạo" trên mặt nước. Nhưng giải nhất vẫn thuộc về tay chị để tiếp tục vòng ba, cũng là vòng cuối cùng. Vẫn các điều kiện của vòng hai nhưng người dự thi từ "cô gái" của vòng một, "người vợ" của vòng hai, bắt đầu "làm mẹ" ở vòng cuối cùng. Người ta trao cho "người mẹ" một đứa bé đang tuổi nghịch. Chỉ cần đứa bé khóc một tiếng coi như hỏng thi. Chẳng biết xưa kia ai nghĩ ra cái trò này để kén con dâu? Chị Túc thẹn đỏ mặt với ý nghĩ ấy. May mà bẩm sinh cho chị có một sự hiền dịu tuyệt vời. Từ đầu đến cuối vòng thi, đứa trẻ cứ hết ôm cổ "mẹ" lại giơ tay chào "các chú bội đội", cho đến nắm bã mía cuối cùng. Cũng là lúc hơi cơm chín đẩy vung bốc ngào ngạt. Tất.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> cả những người nín thở theo dõi trên bờ hò reo như sấm khiến suýt hắt chị và đứa bé xuống nước. - Em là cô Tấm trăm phép mầu chứ không phải người trần mắt thịt. Vẳng bên tai chị là lời tụng ca không ngớt của "anh ta". Khi chị rẽ đám đông để thoát ra ngoài, "anh ta" liền bám theo như cái đuôi. Cách chị một đoạn "anh ta" lầm lì bước với vẻ đau khổ của kẻ bị bỏ rơi. Giờ đây lại chính cái giọng ấy, đượm thêm sự cầu khẩn van lơn. Chị Túc thấy trào lên chút thương hại. Chỉ có điều tại sao anh ta không ra trận? Dạo ấy lời thắc mắc như vậy là điều tai hại khôn lường cho chàng trai nào đó "tụt lại". Một là anh ta sợ chết. Hoặc nếu không, hẳn có thể anh ta bệnh hoạn, khiếm khuyết gì chăng? - Anh ra đây làm gì? - Chị Túc dịu giọng. - Vậy là cuối cùng sự kiên nhẫn của tôi không đến nỗi uổng. - Có ai bắt anh phải kiên nhẫn "ở lì" một chỗ đâu! - Chị Túc vẫn nhẹ nhàng. Gã đàn ông "có tật, giật mình" hiểu ngay ý mỉa mai của chị Túc, vội lên tiếng. - Đừng nghĩ rằng tôi sợ chết. Sáng mai tôi sẽ khoác ba lô ra trận ngay, nếu đêm nay… Chị Túc thấy lạnh sống xương. Gã đàn ông đã ở rất gần thừa cơ sán lại. - Trăng đẹp thế này mà tâm hồn Túc cứ lạnh như giá vậy ư? - Không cẩn thận tôi giải anh lên huyện đấy. - Túc không thể ban cho tôi một thời cơ để tôi thanh thản ra đi sao? Túc có biết tôi chưa ra trận vì lẽ gì không? Tôi yêu em… - Vớ vẩn! Anh không thấy xấu hổ khi đặt điều kiện ấy à? - Tôi không đi đâu cả, nếu không được một lần quỳ dưới chân em, để nghe từ miệng em lời thú nhận rằng em chưa từng yêu ai… - Nếu anh thật lòng quan tâm đến tôi như một người bạn thì tôi cũng thật lòng cảm ơn. Chỉ có thế thôi! - Chỉ có thế thôi! Trời ơi, làm sao em tàn ác thế. Em biết thừa rằng tôi yêu em, không thể thiếu em. Em biết thừa rằng đời tôi sẽ còn lại gì nếu không có em trong tất cả những gì tôi sẽ lao vào. Xin em cứ việc nguyền rủa, đánh mắng tôi như đánh mắng một con chó, chỉ cần em đừng tàn ác như lời em vừa nói, không đúng với tình hình hiện nay của em. Tự nhiên trái tim chị Túc dịu xuống bằng cái bản tính nữ giới tuyệt vời của chị. Dù sao anh ta cũng có vẻ cô đơn thật. Một người đẹp trai, sang trọng như anh ta lấy đâu chẳng được vợ giữa buổi đàn ông biến đi hết sạch này. Chị thương hại. - Anh ngồi xuống đây. Nhưng tôi xin nói trước, trái tim tôi đã trao cho một người, không còn chỗ để nhận những tình cảm tôi tin là rất chân thật của anh. - Đừng nói dối, - gã đàn ông kêu lên. - Tôi van em, tôi lạy em. Chỉ cần em nói em yêu tôi, ngày mai tôi sẽ yên trí ra trận, tôi sẽ lập công, tôi sẽ… Anh ta dừng lại vì bắt gặp cái nhìn mênh mông từ cặp mắt mênh mông. Nhưng anh ta không hiểu gì cả. Anh ta không biết lúc ấy chỉ duy nhất có một người trong cặp mắt chị Túc: "Người ấy" từng ước thấy chị ôm bó hoa quấn dải lụa xanh bước ra từ vầng trăng. Và anh ta chỉ là gã đàn ông giúp chị gợi rõ thêm hình ảnh "người ấy" của chị. Mắt chị Túc càng mênh mông dõi vào khoảng vũ trụ đầy huyền bí. Gương mặt chị có đến mấy phút bất động, đẹp như pho tượng tạc bằng loại gỗ trắng. Nhưng tất cả vụt tan biến, tất cả nát vụn trong một tích tắc. Chị Túc thấy cái khối đen trước mặt nhảy dựng lên rồi như đang rơi xuống cái hố đen ngòm. Trời sao quay cuồng ngay trước mắt chị cùng với tiếng giập lép bép của mầm cỏ bị chà xát. Chị định hét lên "buông tôi ra" nhưng bàn tay gã con trai đã.

<span class='text_page_counter'>(59)</span> bịt lấy miệng chị. Anh ta trườn như con bò sát khổng lồ trên cơ thể chị, đôi tay tham lam đang bóp vụn tất cả những gì lọt vào nó. Chị thấy ngạt thở và muốn nôn. Toàn thân chị co dúm lại. Vầng trăng vỡ oà ra, ứa máu. Nhưng vào giây phút ấy, cái giới hạn của sự thiêng liêng bị đẩy đến mép bờ vực ô nhục đang ở tích tắc cuối cùng có một sức mạnh nào đó, chưa từng có ở chị bởi còn tiềm tàng mãi nơi đáy lòng tin, nơi tận cùng của điều thâm nghiêm phải giữ bằng mọi giá đã giúp chị lật sấp người xuống. Tiện thể chị co chân đạp một cái thật mạnh vào khối đen đang mất hướng, khiến anh ta rống lên một tiếng như con chó bị đánh. Chị chồm bật dậy, chộp khẩu súng, đứng lùi xa một đoạn. - Mày tỏ tình kiểu ấy phải không? - Giọng chị Túc sắp bật thành lửa. - Tao sẽ trả lời mày theo kiểu của tao. Gã đàn ông còn ôm bụng lăn lóc chán để nghe tiếp lời tuyên án: - Thì ra mày trốn lủi cái chết để định tạo ra những cái chết khủng khiếp khác phải không? - Tôi chỉ chứng tỏ tình yêu của tôi. - Tình yêu của quỷ sứ! Cút ngay khi tao còn chưa kịp lên đạn. Gã đàn ông lồm cồm bò dậy, quần áo tả tơi, cắm đầu đi qua họng súng đang chĩa về phía anh ta. Đi một đoạn anh ta quay lại, nói vớt vát: - Thèm chết cha còn làm bộ… - Phải, tao thèm, tao rất thèm một gương mặt đàn ông nhưng không phải một con quỷ như mày. - Dù sao đây cũng đã… là thằng đàn ông đầu tiên… Giọng gã đàn ông tráo trở đến khả ố. Thay cho lời đối lại. Chị Túc kéo quy lát đánh "roát" cùng với bước nhảy cỡn lên của gã đàn ông. Chị mím môi rê nòng súng theo bóng đen đang chạy thục mạng. Khi đầu súng đã dính chặt vào lưng gã, chị liền nhắm mắt lại. Nhưng tay chị lả dần xuống cùng với ý nghĩ chợt loé lên "cứ để cho nó sống. Loại người đó sống còn khổ hơn chết". * * * Tôi không còn nhớ đã bao nhiêu lượt đơn vị bộ đội dừng chân ở làng tôi. Có thể vài chục lần. Những người lính trẻ măng ra đi ngày ấy đều hẹn ngày nào sẽ trở lại. Chiến tranh đang một mất một còn nên cái "ngày nào đó" thật xa vời. Hàng chục năm sau vẫn không thấy một ai trong số hàng vạn chiến sĩ đã từng ở làng tôi trở lại. Nhưng lần nào cũng vậy, vẫn cái điệp khúc bi tráng: "Ngày nào đó…". Cũng vài chục lần làng tôi háo hức chờ những lá thư. Có lá ra đến miền Bắc, người viết nó không còn. Có lá viết nguyệch ngoạc vài ba câu hỏi thăm như lời hấp hối vội vã. Người nhận được nhiều thư nhất, tất nhiên vẫn là chị Túc. Có thể có người chưa kịp đọc lời yêu thương của chị đã thịt nát xương tan ở một cánh rừng nào đó. Nhưng tất cả những người lính ấy đều không thể không mang hình ảnh chị trước lúc ngã xuống để lại cho người đời hàng ngàn bí ẩn về chiến tranh. Chị Túc bước sang tuổi ba lăm đúng vào năm hàng triệu người cười, khóc vì mừng tủi. Mẹ tôi và chị Túc cứ gặp nhau là ghì nhau xuống giường, chan nước mắt lên ngực nhau. Rồi chị Túc bắt đầu sợ những nơi ồn ào. Cùng với niềm vui chiến thắng những giọt nước mắt của chị Túc lẫn cả vào nỗi tủi hờn của tuổi ba lăm! Khi tỉnh táo lại, chị lặng lẽ đến bưu điện lục tìm điên cuồng trong đống thư gửi từ miền Nam. Chị câm lặng làm cái việc "mò kim đáy bể" ấy suốt cả tháng ròng. Vẫn không thấy dấu hiệu nhỏ nào của những người từng hẹn "ngày nào đó". Lẽ nào chiến tranh đã ngốn hết sạch họ? Ở làng bắt đầu rì.

<span class='text_page_counter'>(60)</span> rầm bàn tán. Những người bằng tuổi chị, chỉ may mắn hơn do chồng đui, điếc, để có cả một bầy con, dè bỉu chị điên rồ, lãng mạn, dở hơi… Trong hàng mớ lý lẽ thực dụng của họ không phải vô lý cả. Họ cho rằng có bao nhiêu làng quê trên đất nước này từng là nơi người lính dừng chân. Vả lại sau chiến thắng còn ti tỉ thứ khiến anh nghĩ đến trước. Anh ta cũng có bố, mẹ và một vùng quê. Họ cho rằng, mỗi người có một bổn phận. Bổn phận của chị Túc là phải làm vợ ai đó còn sót lại để làm tròn nghĩa vụ của trời trao cho người phụ nữ. Chị chờ ai, chờ cái gì và điều đó đem lại cái gì? Một thân phận héo mòn, cô đơn. Chả nhỡn tiền ra đấy ư? Khối kẻ sau chiến thắng liền quên phắt mình đã từng sống được nhờ lời ước hẹn thuỷ chung của ai đó, tự cho mình một cái giá cực đắt để vỗ tuột tất cả? Những ngày đó, những lời đó khiến chị Túc sống gần như nghẹt thở. "Lẽ nào anh ấy lại cũng trong số những kẻ đó. Anh có còn chờ em bước ra từ vầng trăng nữa không nếu anh còn sống?". Rồi cả làng lại thấy chị Túc ra đi, âm thầm như con vạc lẻ đàn. Lần này chị đi là đi một biệt. Khắp làng, như mọi khi, lại bùng lên từng đợt đủ thứ bàn tán. Kẻ rỗi mồm nhiều vô cùng nên cũng nhiều chừng ấy những lời đồn tai quái. Người này cho rằng chị bị loạn tình do thèm khát đàn ông. Người kia cho rằng chị Túc không chịu nổi những tiếng pháo nổ liên miên mùa cưới. Tiết trời heo may, hun hút thế này với một người đàn bà ba lăm! Chị Túc đi được mấy tháng thì anh Hào về. Không ai ngờ anh còn sống kể từ cái đêm suýt chết trên đê Bộc và sáng hôm sau bị áp giải lên huyện theo lời đề nghị của tổ trưởng tổ phòng gian bảo mật. Anh Hào về, có lẽ là sự kiện quan trọng nhất làng tôi. Anh đeo lon thiếu tá, phóng một chiếc hon đa "sáu bảy" đen trũi, cuốn bụi mù mịt. Chó của cả làng sủa váng lên chạy theo. Bọn trẻ con ùa ra đón anh. Trên cái đèo hàng, một kiện gì đó to bằng một chiếc tủ khiến những cặp mắt "cổ hủ" làng tôi bị cái hình ảnh hiện đại ấy làm cho loá mắt. Mọi người quên nghe chuyện chị Túc để hướng về anh Hào. Anh vạm vỡ, hồng hào tựa như chiến tranh chỉ là một trò chơi rất bổ ích. Anh cười nói oang oang, bẹo má đám con gái bị dồn về một xó. Nhà cụ phó Dộc trở thành điểm thu hút trí tò mò mạnh mẽ nhất. Người ta kéo đến để "vì tình làng nước" hút một điếu ru-bi, chê khét như lông chó, sờ tay vào con búp bê Nhật biết mở mắt nhắm lại, để hỏi "tình hình miền Nam, thấy bảo" trong đó "hàng hoá vứt bừa bãi như ta vứt rác ngoài này", để "xem thằng Hào làm gì mà vơ được lắm của thế?". Vả, tất nhiên, "để mừng cụ phó Dộc có cậu con leo đến hàm tá!". Anh Hào trở thành thần tượng làm khuôn mẫu cho mọi lời giáo huấn hay nhất từng có ở làng tôi. "Cứ trông thằng Hào đấy". "Cũng là mang nặng đẻ đau, con người ta vừa "đỏ ngực" vừa khuân của thiên hạ về dưỡng bố" v.v… Đáng nghe hơn cả là những lời kể từ miệng anh Hào. Anh kể về chiến tranh như các bà ở chợ nói về giá cả. Nào là những hầm rượu Pháp còn chưa có chủ nhận, ai lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nào là một tổng kho nào đó có thể tặng bất cứ ai vào thăm một chiếc đồng hồ mạ vàng, còn loại xe tàng tàng như anh đi thì nhà nào cũng có dăm ba chiếc cho trẻ đi học. Tất cả những điều đó anh Hào kể rất hào hùng, tuồng như việc hy sinh cả triệu người kia chỉ để cho những người như anh tha hồ đe nẹt bọn tư bản, địa chủ, để cần gì là được ngay thứ đó như trong chuyện cổ tích. Khi "cao trào" thăm hỏi đã giảm xuống thì đến lượt các loại khách ở nơi khác đến. Những ông khách này ra vào im lặng, trao đổi bằng mắt phần nhiều và khi ra đã có người nhà làm "cọc tiêu" ở ngõ. Cụ phó Dộc bỏ hẳn nghề đục đẽo, thứ bẩy, chủ nhật lại "xách một túi" đi đâu không biết. Tất cả không qua được con mắt tò mò của làng tôi, họ còn biết cả rằng anh Hào chưa biết lấy đường ngắm cơ bản! (Tin này thì chính xác vì làng tôi có đội dân quân, thấy bảo đã có lần rước anh Hào làm thầy). Anh Hào đã quá phép ba ngày. Cụ phó Dộc đâm ra ủ ê vì lý do anh không chịu lấy vợ. Riêng việc vì sao anh nấn ná chưa đi thì cụ phó và cả làng không ai biết. Anh Hào chờ chị Túc. Anh còn mối hận năm xưa với chị trên đê Bộc. Nhưng trong ký ức anh, khuôn mặt thiên thần của chị vẫn là mối thách đố, không chịu được. Nó át đi cả ý nghĩ trả.

<span class='text_page_counter'>(61)</span> thù vẫn nung nấu trong sự suy nghĩ của anh. Cần thiết anh vẫn cứ quỳ xuống như thường. Sự chậm phép của anh cũng không uổng. Còn hai ngày nữa là trọn một tuần anh ở "rốn" lại thì hôm sau chị Túc về. Mười phút sau "đề tài chị Túc" lại át mất "đề tài anh Hào" trong chương trình "thời sự làng tôi". Anh Hào có ý không rời bộ quân phục tá, nổi bật lên đôi quân hàm đỏ chói. Bỗng anh giật mình khi thấy đứa trẻ con nào đó bi bô "bà Túc", đến mức mồ hôi anh vã ra. Ừ nhỉ! Người đàn bà ấy đã sắp sang tuổi bốn mươi. Tại sao anh quên khuấy mất điều đó. Khỉ thật! Mình đã uổng công chờ một phụ nữ đã tàn phai tất cả những gì khiến mình say mê, khiến mình phải sống bằng mọi giá, bằng mọi giá để trở về. Thì cũng nên biết "cô ta" thế nào! Anh Hào lại chọn đúng cái điểm từng bị chị Túc bắn doạ năm xưa làm nơi chờ chị đi qua. Anh sợ không nhận ra chị từ xa nên thuê một đứa bé điếu ru-bi để nó làm hộ điều ấy. Rồi người anh đợi cuối cùng đã xuất hiện. Khi đứa trẻ "báo động" "cô ấy kia kìa" tim anh khẽ nhảy lên một nhịp khác thường. Cô ta kia ư? Làm sao anh ta có thể tin được. Điều quan trọng nhất là không cho cô ta biết mình là ai. Toàn thân anh vã mồ hôi khi người đàn bà da mặt xanh xao, hơi có dấu hiệu phù nề cứ tiến thẳng về phía anh. Không kịp chạy nữa rồi. Và anh thở phào khi người đàn bà ấy câm lặng đi qua. Thế là thoát! Cần phải chuồn thật nhanh! Anh không biết rằng có một lần người đàn bà đưa mắt qua vai, nhìn chiếc cổ béo núng của anh, không mảy may xúc động. Sáng hôm sau, anh Hào đi từ gà gáy. Chó của cả làng đuổi theo xe anh ra tận đê Bộc. Con đường chi chít vết chân trâu khiến chiếc xe nhảy chồm chồm. Từ đấy đến huyện, không một lần nào anh Hào ngoái lại. Nhật ký của chị Túc Ngày… Mình đã lục gần hết đống thư khổng lồ ở bưu điện Hà Nội. Mấy cô nhân viên thật tốt bụng. Hàng ngày họ phải đáp ứng đủ thứ yêu cầu rắc rồi, lại thêm cả yêu cầu quái đản của mình. Vẫn không thấy anh ấy đâu. Kìa, Kiều nào kia? Nếu chính là anh Kiều năm xưa có thể biết chút ít về anh ấy. Tim mình đập loạn lên. Làm sao thế này? Mình run run lật đi lật lại tấm phong bì. Khỉ quá! Cô Kiều chứ không phải anh Kiều. Có mấy người cũng lục tìm như mình, thỉnh thoảng một người lại rú lên rồi chạy như hoá điên ra phố. Bao giờ cho đến lượt mình?... Thế là đã hai ngày mình biến khỏi làng Hạ. Giờ này không biết mọi người nghĩ gì về mình. Một con điên! Thì mặc xác họ. Mình chỉ thương Lê. Lê khổ quá. Lê lấy chồng bảy năm không có con, chịu mọi đòn búa của dư luận. Rồi cả lão bố chồng tai ác, một con quỷ hình người. Chính lão lập mưu để con trai lật giường đuổi Lê ra khỏi nhà giữa đêm mưa bão. Nào ngờ kẻ mò đến ngôi miếu đầu tiên lại chính là lão bố chồng ấy. Lê chưa kể cho mình cách lão ta van xin thế nào. Nhưng mặt Lê đủ đoán ra Lê vừa trả được mối thù bằng cách hiến thân cho lão bố chồng. Có lẽ Lê tin bằng cách đó cô sẽ xé toạc tấm màn đạo đức giả của gia đình nhà chồng. Cô bắt họ chịu cầm tù trong cái mê cung vô luân, để như một dòng họ nào đó để đến lúc tuyệt diệt. Làng Hạ ngày nay khác nhiều quá, người ta bắt đầu tập thói quen dưng dưng với mọi chuyện. Ngày… Vẫn không thấy anh ấy. Tổng cộng tới bốn mươi Mạnh nhưng không có Mạnh nào của mình. Hay anh bắt mình sang thế giới bên kia vẫn lang thang tìm anh, để thử thách lòng chung thuỷ. Thật là gở! Mình vẫn tin, nếu còn sống nhất định anh sẽ trở lại. Trăng dịp này đang xanh… Ngày….

<span class='text_page_counter'>(62)</span> Mình chợt nảy ra ý định ấy khi nhìn thấy một anh thương binh ngồi lẻ loi trên ghế đá. Hình như thế giới náo nhiệt xung quanh không tới được anh? Sao anh ấy buồn thế? Anh bị cụt một chân, một tay và chi chít vết thương trên mặt. Khuôn mặt khắc khổ của anh im lìm lạc vào trời chiều. Cặp mắt anh không hướng về cái gì cụ thể. Ngoài mình ra có ai để ý đến người tàn tật kia không nhỉ? Cách chỗ anh mấy mét, đôi trai gái đang vờn nhau như mèo. Trời ơi, họ làm gì thế kia khi trời chưa kịp tối… Mình muốn bỏ chạy vì không thể còn gì ghê tởm và tàn ác hơn… Ghê tởm… vì… (Hay là mày ghen với người ta đấy hả Túc?). Nhưng độc ác thì quá chừng. Ít ra họ cũng nên biết có một kẻ mất mát gần hết đang cô đơn ở ngay bên cạnh họ. Mà lạ chưa! Ngay cả điều đó cũng không tới được anh. Anh vẫn ngồi câm lặng, mắt nhìn những ngôi sao cũng đang muốn chạy trốn. Trông anh như cái bóng trong bức tranh đen trắng. Bất chợt anh ngước nhìn mình. (Sao lại nhìn mình?). Trời ơi, mình làm sao đủ sức để chịu đựng cặp mắt buồn mênh mông, như từ đó đang ùa ra từng mảng tối sẫm trong khu vườn đầy ánh trăng… của anh. Đến lượt mình ngồi bất động. Hai con người của thế giới hiện đại kia đã xong việc, mệt mỏi và chán ngắt. Họ sẽ kéo nhau vào một tiệm ăn nào đó để "tái sinh" cái gánh nặng đè lên hai chân họ. Hình như họ mới là những kẻ cô đơn! "Tối rồi!". Mình giật bắn mình, sợ hãi ngước nhìn anh đã ở bên cạnh từ lúc nào. "Vâng, tối rồi". - Mình đáp như cái máy - "Anh chờ ai ở đây?". "Không ai cả! Chỉ do tôi thích được ở riêng một mình một thế giới!". "Ngày nào cũng thế?". "Đã nửa năm… và sẽ đến hết đời". Chiếc chân gỗ nện xuống mặt đá lộc cộc và cứ thế xa dần cho đến khi tấm lưng của anh hoà tan vào màn đêm. Ôi biết đâu "anh ấy" của mình cũng giống như anh thương binh kia? Biết đâu "anh ấy" cũng tưởng tượng ra cảnh mình đi lấy chồng có một đàn con, để hành hạ chính anh bằng cái hồi ức về quá khứ? Không, em sẽ tìm anh. Sẽ tát cho anh một cái trước khi chan nước mắt lên ngực anh. Ngày… Tất cả mười tám trại thương binh nặng mình đã đến, đều không có anh. Những thương binh ở đủ mười tám trại, khi trả lời mình họ đều nói một câu gần giống nhau: "Có thể, anh ấy đã chết". Tại sao họ lại nói như vậy về đồng đội? À, có lẽ họ nói về chính họ. Họ tự cho họ có quyền thay mặt đồng đội thử thách mình. Không, điều đó chứng tỏ anh ấy còn sống, đang đau khổ nghĩ về mình ở cái trại thương binh cuối cùng mà mình chưa kịp đến. "Làm sao em biết hết đất nước này có bao nhiêu trại thương binh". Mình thấy giận anh ấy quá chừng. Ngày… Hôm nay thì mình tin anh ấy đã chết, hoặc đúng hơn, anh ấy còn mãi mãi. Không hiểu ai xui cho mình lang thang vào viện bảo tàng chiến tranh. Ôi, cuộc đời thật trớ trêu! Vì tất cả những "kỷ vật" kia mà mình tin và chờ đợi. Nhưng chính nó lại ngầm thông báo có biết bao nhiêu chàng trai đã ra đi và ngã xuống. Mình buồn bã ngắm một bức hoạ, màu loang lổ. Trời ơi, sao lại có hình mình treo ở đây? Rõ nhận vơ! Chắc là một cô du kích anh hùng nào đó. Lớp bột hoà tan từ chất diệp lục khiến bức hoạ như được xếp bằng hàng ngàn chiếc lá. Nhưng sao, nhưng sao… mình muốn bỏ chạy ngay tức khắc để thoát khỏi cặp mắt trên bức vẽ. Tiếng hô thuyết minh chợt vang lên (may quá!): - "Đây là một trong những kỷ vật đặc sắc nhất của chiến tranh mà chúng tôi kiếm được trên thi thể một chiến sĩ ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn. Có lẽ anh đã mang tấm hình cô gái này trong tim suốt thời chiến tranh, bởi vì xin các vị chú ý dòng chữ nhỏ bên.

<span class='text_page_counter'>(63)</span> dưới "thần chiến thắng". Có lẽ anh nảy ra ý định vẽ lại người yêu vào một đêm trăng… Một vị khách của nước bại trận đã đặt giá cả triệu đô la để có được kỷ vật đã đem về Mỹ. Mình bỏ chạy vì không đủ sức dối mình. Nhất định đây là một cô gái khác. Nếu đấy là mình… "chúng tôi tìm thấy trong thi thể một chiến sĩ… "Không, không thể như thế được. Anh vẫn còn sống ở nơi cuối cùng mình chưa kịp đến. Nhưng cái nốt ruồi ở mép dưới cô gái trong tranh, cái nốt ruồi, trời ơi sao mình chưa bao giờ biết mình có cái nốt ruồi ở mép dưới… mình đã đập tan chiếc gương dối trá"… Ngày… Đã ba tháng mình lang thang bằng nỗi vô vọng và cái niềm cay đắng. Mình trở lại và ngồi trên chiếc ghế đá hôm nào. Vẫn anh thương binh ấy, thêm ba tháng nữa vào cái sáu tháng "một mình một thế giới" trước đây của anh. Cách đấy mấy mét không phải đôi "hiện đại" bữa nọ, mà là bông hoa ai đó để quên. Bông hoa tím sẫm lại dưới trời chiều, như vết máu loang. "Tối rồi!". "Vâng, tối rồi!". "Chị tìm gì ở đây?". "Không - gì - cả! Chỉ là sự trở lại". "Tôi tin thế!". "Anh tin gì cơ?". "Tôi tin chị sẽ trở lại". "Thật kỳ lạ!". "Phải, lạ lắm. Lạ, nhưng tại sao cả tấm sắt thép đè lên tôi nhưng tôi vẫn cứ sống để trở về. Bởi vì - tiếng anh đau đớn - tôi biết thế nào cũng có người không tìm cái gì như chị!". "Và một người không - chờ ai như anh?". "Không, cả tôi và chị, chúng ta đều nói dối. Chị đang đi tìm cái đã mất, mà với chị, không gì thay thế được, nên cuộc đời này không còn gì đáng cho chị tìm. Còn tôi, tôi chờ một người". "Tôi cũng chờ một người, nhưng anh ấy đã chết. Có lúc tôi nghĩ anh ấy cũng giống như anh. Liệu có khi nào anh nghĩ một người phụ nữ cũng giống như tôi, đang chờ anh không?". "Khi tôi hăm hở lao vào cuộc chiến, tôi chưa kịp đính ước với ai cả. Lúc đó tôi mới mười tám tuổi và có lẽ điều đó là một nỗi may lớn. Không ai trên đời vì tôi mà lương tâm cảm thấy bị vò xé, ngay cả bây giờ. Tôi xin chị, chị hãy đi ngay khỏi nơi này. Giấc mơ chỉ nên để nó thoáng qua. Kéo dài mãi sẽ là nỗi chịu đựng. Vả lại tôi cũng không còn sống được bao lâu nữa". Anh loạng choạng đứng dậy, người lệch sang một bên. Tiếng lộc cộc xa dần, xa dần cho đến khi chỉ còn lại tiếng tim mình đập hối thúc, buốt nhói trong lồng ngực. Ngày… Anh đã trở lại, vẫn những tiếng lộc cộc, lộc cộc quả quyết và kiêu hãnh. Đến lượt mình nhắc lại lời anh hôm trước. "Em tin thế nào rồi anh cũng sẽ trở lại". "Thật ư?" "Lẽ nào anh bỏ em một mình khi chính anh bảo em "tối rồi?"..

<span class='text_page_counter'>(64)</span> Anh nhìn sâu vào mắt mình, gương mặt bừng sáng như trẻ thơ. Không hiểu sao, phút đầu tiên mình trao cuộc đời cho anh, mình lại khóc dữ dội đến thế. Cả anh cũng khóc… Lúc đó mình tin rằng, chỉ cần nước mắt của anh hoà vào nước mắt mình, những thiên thần ở đó sẽ bước ra. Ngày… Chưa bao giờ mình được ngắm một khuôn mặt đàn ông kỳ lạ đến như vậy. Một chút cuồng nộ trong đáy mắt, với cái gì đó gần như nỗi khổ ải ở khoé miệng anh. "Thật ư?". "Những một tháng mà!". Anh ngồi lặng đi, tay rờ rẫm lên những mạch máu li ti của mình. Chẳng biết anh có nghe thấy gì không. Còn mình thì mình thấy rõ tiếng hồi âm từ một thế giới xa xôi báo hiệu có cái gì như sự cộng hưởng của hai trái tim, đang nhoi nhóp, trường tồn và vĩ đại. "Có thật!" hàm răng anh lấp lánh. "Vâng, có thật!". Anh vùng dậy, hú hét như hóa dại. "Có thật! Có thật!". Tiếng chiếc chân gỗ nện xuống mặt đá dồn dập như tiếng bản nhạc hành khúc. Ba ngày sau anh chết vì một cơn tái phát dữ dội. * * * Giờ đây có ai về làng Hạ, hỏi đến chị Túc sẽ được mọi người trả lời thế này: "Chị Túc chửa hoang phải không? Cả làng ai còn lạ? Một dạo chị ấy điên tình bỏ đi lang thang rồi đem về một đứa con, chẳng hiểu sao từ bấy đến nay sống im lặng như người câm. Của đáng tội thằng bé mới đẹp chứ, cứ như từ trong bức tranh bước ra ấy. Ôi chao, hồng nhan bạc phận. Giá như hồi ấy đừng bắc bậc làm cao, cứ lấy béng anh Hào bây giờ chả sướng một đời"! Làng tôi được mỗi anh ấy là khá. Đi bộ đội, một trận không qua, một viên đạn không bắn mà đến được hàm tá! Bây giờ thử hỏi đã ai sướng bằng anh ấy. Tuy vợ gàn dở, xấu xí nhưng con nhà quyền thế, của nả như nước. Anh ấy cứ việc bám áo bố vợ mà tiến vù vù. Vâng, cứ hỏi "chị Túc chửa hoang" thì cả làng chẳng ai lạ! Không mấy ai còn nhớ xưa kia chị Túc xinh đẹp và tài đảm nhất làng. T.D.A COCKTAIL Thứ sáu, 14 Tháng 9 2007 21:51 Tôi kể lại câu chuyện này mà các tình tiết của nó chẳng liên quan gì đến “Chuyện tình nơi quán rượu”(1) với nam tài tử Tom Cruise trong vai anh chàng pha rượu bảnh trai có cái lắc hông khiến cả nửa dân số thế giới dán mắt vào vô tuyến. Cũng không hề dính dáng tới những bữa tiệc cocktail của giới thượng lưu, nơi các quý ông ngày ngồi đếm phong bì tối đến đứng tụm lại thành vòng tròn bàn chuyện nên mua hòn đảo nào giữa đại dương, và các quý bà vai trắng nõn nà bận rộn với việc bắt tay hơn là uống champagne. Câu chuyện của tôi xảy ra cách đây tám năm và nó gây cho tôi một phản xạ có điều kiện khi cứ mỗi lần uống một ly cocktail vào lúc 11 giờ đêm (thói quen tôi không thể bỏ) là phải soi tận đáy cốc qua cái ánh đèn kềnh kệch trong quầy bar. Và đôi mắt nàng, vẫn hiện hữu như thể 2920 ngày mới chỉ là hôm qua. Truyện ngắn. DI LI _______________.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> …Năm ấy tôi hai sáu tuổi, chưa từng có việc làm. Hai cái chữ “thất nghiệp” đeo bám trong đầu tôi đến nỗi tôi đâm thù ghét tất cả mọi cuộc gặp gỡ xã giao với những câu hỏi được đúc khuôn như phát ra từ một chiếc đĩa hát thu sẵn “Thế bao giờ mới cho bọn tớ ăn bánh kẹo đây? Đang làm ở đâu rồi? Lương lậu thế nào?”. Dần dần tôi hình thành thói quen hễ cứ thấy bóng người quen là vờ tuột dây giày hoặc quên gì đó phải quay hướng ngược lại. Một lần gã anh họ của tôi đến chơi sau hơn mười năm sống lưu vong ở nước ngoài. Gã trịnh trọng chia các vi dít cho cả sáu thành viên trong gia đình tôi, trên đề chức danh chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn Tư vấn thương mại. Gã vỗ vai tôi bồm bộp “Cậu phải đi theo học hỏi tớ. Hai bằng đại học như cậu mà vẫn ăn cơm mẹ nấu là không ổn đâu”. Tôi ngượng chín người. Cái điều vẫn lẩn khuất trong tiềm thức được gã nói trắng ra trước thanh thiên bạch nhật khiến cả nhà tôi gật gù. Gã ngoáy mũi rồi chùi luôn vào vạt áo com lê “Bằng cấp mà làm đếch gì. Giáo sư tiến sĩ còn đang thất nghiệp đầy ra nữa là các cậu”. Mẹ tôi bê nước trà đến trước mặt gã mà quên mất mười năm trước bà cấm tiệt không cho anh em tôi giao du với ông anh họ quý hóa. “Thì bây giờ anh em bảo ban nhau mà làm ăn. Gia đình ta neo người nên thím giao nó cho anh. Anh có việc vặt gì sai bảo nó cũng được”. Nghiễm nhiên tôi có việc làm. Dù không ưa lắm tay anh họ ruột thịt nhưng giữa chúng tôi cũng có điểm chung. Tôi thù ghét từ “thất nghiệp” còn gã thù ghét từ “bằng cấp”. Nỗi khổ tâm làm chúng tôi dính lấy nhau như hình với bóng. Gã luôn giới thiệu tôi với đám khách hàng “Chú em tôi giỏi lắm. Hai bằng đại học, tiếng Anh nói như gió, việc gì cũng thạo. Có gì cần các anh cứ bảo chú ấy.” Thật tình thì tôi làm sang cho gã cũng như những bức tranh treo ở phòng khách công ty mà khách khứa đều phải khâm phục trí sáng tạo phong phú của chủ nhân, bức tranh Phật bà treo cạnh poster in mẫu Cadillac ba khoang đời mới nhất, kế tiếp là tấm ảnh khổ lớn gã chụp cùng một quan chức trong chính phủ tại một buổi lễ cắt băng khánh thành và kề ngay đó là chân dung cô gái tóc vàng có vòng một vừa được mua bảo hiểm hai triệu đô la. Cái việc cần mà gã anh họ nói với các ông khách nước ngoài mắt một mí được trịnh trọng giao phó cho tôi. Những ngày đầu tôi tháp tùng gã và mấy ông khách kia đi ngoại giao tại các quán karaoke ruột của gã trong thành phố. Trên đời có hai thứ tôi chưa từng được đụng đến dù có mục sở thị, đó là rượu và phụ nữ. Trước nay tôi vẫn được khen sáng dạ, song lần này gã anh họ khẳng định “Chú tối lắm. Tao thấy lạ khi thím tao khai giới tính cho chú mày trong giấy khai sinh”. Gã cười khìn khịt “Đấy, bằng cấp mà làm đếch gì. Hôm nào cắp sách đến tao chỉ cho vài đường cơ bản”. Kết quả những ngày đi làm đầu tiên của tôi là những cơn buồn nôn thường trực. Đến độ chẳng cần mùi whisky hay mùi nước hoa sộc ra từ những bộ ngực không che đậy tôi cũng đã đủ gợn cổ họng vào mỗi sáng như đàn bà ăn dở. Hết tháng đầu gã anh họ tuyên bố “Từ nay công tác ngoại giao tôi giao cậu quản lý.” Tôi phản ứng yếu ớt “Hay anh chỉ định người khác. Em chưa quen việc”. Gã cười nhạt “Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?”. Nói đoạn gã dỗ dành “Thôi, tao giao cho chú công việc nhẹ nhàng nhất, chỉ việc ăn với chơi. Đấy là tao nể thím lắm. Đối tác họ thích chú vì mặt mũi hiền lành lại nói được tiếng Anh. Chú làm tốt thì tháng sau tôi bổ chú làm trưởng phòng đối ngoại”. Dĩ nhiên là tôi vẫn tồi như thường. Đối tác của gã phàn nàn liên tục và lần cuối cùng trước khi đoàn khách thứ bảy về nước, gã gọi tôi lên phòng “Mày ăn gì vào mồm mà ngu thế?”. Tôi cứ ngắm mãi mũi giày. Gã càng tức “Sao mày dám đánh khách hàng của tao. Mày có biết hợp đồng tiền tỉ nằm ở đấy không.” Tôi cắt ngang “Em chỉ lỡ tay xô lão thôi. Tại lão tát con bé trong quán”. Gã nhìn tôi như thể nhìn con bệnh ung thư giai đoạn cuối “Mày để tình thương của mày cho thím tao ấy, người đã nuôi báo cô mày mấy chục năm. Còn loại đàn bà kia không thằng này tát có thằng khác tát. Thôi từ mai chú mày lại về nhà ăn cơm mẹ nấu, nhá”. Câu sau cùng này.

<span class='text_page_counter'>(66)</span> khiến tôi suýt khuỵu xuống. Có ông Maslow nào đó đã cho rằng trong Năm Nhu cầu (2), nhu cầu sinh tồn là nhu cầu đầu tiên và mạnh mẽ nhất. Lần này tôi thấm nhuần mớ lý thuyết của Maslow hơn lúc nào hết. Sáng sớm hôm sau, tôi bê một tách cà phê thơm phức và xẹt lửa vào điếu thuốc cho vị cứu tinh của tôi. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt ti hí sát sống mũi của gã “Anh cho em tiếp tục đi làm. Việc hôm qua em sai rồi”. ... Một năm sau, tôi là cục cưng của cả công ty. Hợp đồng tôi kéo về đủ để tôi muốn gì được nấy. Giờ không những chai lì với mùi whisky và nước hoa, tôi còn có thể thẩm định được tất cả các dòng rượu mạnh trong quầy bar cũng như thuộc lòng ý thích của từng khách hàng. Gã buôn phế liệu tàu biển người Nhật Bản thích rượu gin và con gái da ngăm đen phốp pháp. Thằng cha Mễ Tây Cơ lai Tàu kinh doanh bất động sản lại chỉ thích rum trắng và phụ nữ dong dỏng cao. Còn tay giám đốc Đài Loan vừa gặp chân ướt chân ráo đã uống Brandy(3) tì tì như nước lã và vỗ mông bất kỳ cô gái nào đi qua bàn của hắn. Mỗi lần như vậy tôi cũng cười hềnh hệch hưởng ứng, rồi gọi cô gái kia lại để hắn nhét tiền vào khe áo. Các đối tác của gã anh họ mê tôi như điếu đổ. Đến nỗi mỗi lần xuống sân bay, từ đầu tiên họ nhắc đến là tên tôi rồi mới đến câu chào và chuyện làm ăn. Thế rồi tôi quen nàng trong một quán bar, hay đúng hơn trong một chuyến công tác vào phương Nam. Năm ấy khủng hoảng kinh tế Châu Á. Lượng khách hàng của gã anh họ ít dần. Họ rút hết vốn đầu tư lại để dồn sức cho công ty mẹ trong nước. Gã anh họ thức thời không biết cũng sắm sanh được ở đâu hai bằng đại học giống như tôi, rồi lần hồi có cả bằng tiến sỹ. Gã được bổ nhiệm vào một Vụ quan trọng. Khởi đầu là chuyên viên, nhưng một ngày nọ gã trịnh trọng gọi tôi lên “Tôi được thăng chức rồi. Chức giám đốc công ty tôi trân trọng giao lại cho chú”. Tôi thành giám đốc, đương nhiên, chỉ trên giấy tờ. Lần đó tôi dẫn một khách hàng đi khảo sát thị trường phía Nam. Sau giờ làm việc, tôi với hắn lại rúc vào một quán bar. Hắn chỉ cô gái đang quấn lấy chiếc cột inox bằng động tác của một con mèo hoang “Đẹp lắm”. Tôi hét lên át tiếng nhạc “Tao có thứ này còn hay hơn”. Đôi mắt một mí của hắn sáng lên “Thật à”. Tôi ra ngoài và dẫn vào một cô gái có đôi môi trễ nải ướt át. Tôi trao đổi vài câu với cô gái bằng tiếng Việt và với hắn bằng tiếng Anh. Hắn cảm ơn tôi rồi vui vẻ khoác vai cô ta đi ra ngoài. Tôi thở phào, gọi cho mình một ly Margaritta và ngay khi vừa chạm môi vào viền muối trên cốc, có vật gì đó chạm nhẹ vào tôi “Anh mới vào nghề à?”. Tôi trố mắt nhìn cô gái trước mặt qua ánh sáng mờ ảo quyện khói thuốc, cảm thấy vừa ngượng vừa tức. Hẳn cô ta tưởng tôi là một tên ma cô chuyên nghiệp. Tôi cuống cuồng rút chiếc các vi dít từ trong ví ra, chẳng màng nhìn lại quần áo xem có ra dáng một giám đốc không. Cô gái mỉm cười vẻ hối lỗi “Em chỉ… tưởng nhầm nên báo anh cảnh giác với tụi chuyên nghiệp ở đây. Tụi nó dữ đòn với những ma mới lắm.” Cô gái nói giọng Bắc. Đôi mắt đen đến ngạc nhiên. Nhìn chung khuôn mặt cô không có vẻ gì ấn tượng ngoài đôi mắt với hàng mi dày rợp dễ khiến những gã đàn ông như tôi quên mất ly cocktail hấp dẫn trước mặt “Tối nay em rảnh chứ?”. Tôi đặt tay lên vai cô gái. Bất ngờ cô đứng phắt dậy, hàng mi nhướng lên “Em không phải là… Em là một bartender(4)”. Tôi ngồi lại đến một giờ sáng. Trước khi định gọi một chiếc taxi về khách sạn, tôi đi tới đi lui trước quầy bar rồi cuối cùng cũng cất lời “Em mắt đẹp ơi. Cho anh xin lỗi chuyện hiểu lầm ban nãy nhé. Mới đầu em cũng hiểu lầm anh còn gì. Một đều được chưa. Mà em pha Margaritta ngon lắm”. Cô gái đang thoăn thoắt đôi tay với bình shaker, đôi mắt tươi rói trong khi khuôn miệng hơi trĩu xuống giận dỗi “Margaritta chào đón anh lần sau”. Sau lần ấy, những chuyến bay về phương Nam của tôi dày hơn. Thậm chí chẳng cần dẫn khách đi ngoại giao tôi cũng tự mình mò đến quán bar của Margaritta. Tôi đặt tên cho nàng bằng tên loại cocktail tôi yêu thích, cũng là tên cô đào hồng nhan bạc mệnh được.

<span class='text_page_counter'>(67)</span> một tay bartender vô danh nào đó gắn lên thứ nước pha cồn diệu kỳ này. Tôi chỉ được gặp nàng vào ban đêm. Đó cũng là lý do cho đến những năm về sau, mỗi lần tôi nhìn thấy nàng trong những giấc mơ không màu, chỉ đôi mắt nàng là có thật và đen hơn cả màn đêm. Tôi không biết nhiều về nàng. Cho dù sau vài lần bị từ chối khi có nhã ý đưa nàng về, tôi đã cất công đứng ngoài cửa đến tận 3 giờ sáng để bám theo nàng về nhà. Nhưng lần nào cũng hướng ấy, con đường ấy, nàng mất hút vào một xóm nhỏ ven nội, như thể nàng mãi là bóng đêm, trên đường phố, trong quầy bar, trong những giấc mơ đen trắng và cả ký ức rặt một màu bóng đêm của tôi nữa. Có lần tôi gọi ly Margaritta thứ chín trong một buổi tối và hỏi nàng “Trước em học trường nấu ăn à?”. Nàng mỉm cười dịu dàng, lấy cho tôi vài tờ giấy ăn để thấm vết ướt trên cà vạt “Không, trước em học dược. Sau này vì kiếm sống mà phải học pha cocktail thôi”. Trước nay tôi vẫn coi cocktail là một thứ làm mát cổ họng sau khi dạ dày được tưới đẫm whisky. Nhưng những lúc nhìn ánh loang loáng của bình shaker trên đôi tay nhỏ nhắn, nhìn cách nàng đổ rượu vào ly đầy điệu nghệ, nhìn nụ cười khi nàng đặt ly Margaritta lên quầy bar, lần đầu tiên tôi cảm nhận vị mặn của muối hòa quyện với hơi cay từ vỏ chanh và hương thơm lan tỏa của rượu tequila trên đầu lưỡi. Nó cũng ám ảnh chẳng khác nào đôi mắt đen hơn bóng đêm của Margaritta. “Học dược khó nhất điều gì em”. Nàng thái vỏ chanh vào một chiếc ly mà không nhìn tôi “Khó nhất là phân biệt những nguyên tố để riêng thì vô hại mà kết hợp với nhau thì thành độc tố”. Tôi giơ chiếc ly đã uống cạn “Như Margaritta phải không. Để riêng muối, chanh và tequila thì chẳng ai muốn uống nhưng hòa vào nhau thì thành độc dược chết người. Uống rồi không sao quên được”. Tôi nhìn nàng đầy ý nghĩa. Chút tequila chẳng đủ làm tôi say nhưng tôi thấy mặt nóng bừng. Margaritta cũng nhìn tôi luống cuống. Nàng suýt đổ nhầm nước sốt Tabasco vào ly Tom Collins. Lần khác tôi hỏi nàng “Sao em không làm nghề dược” - “Em bỏ học giữa chừng” “Tại sao?” - “Em sang Nga” - “Còn sau đó?”. Nàng vờ bận pha cocktail không trả lời. Tất cả những gì tôi biết về nàng chỉ có thế. Nàng mãi là một bí ẩn như những dải đêm phía sau Thiên Hà. Nhiều lần sau, tôi vẫn gắng gợi chuyện “Anh họ anh cũng ở bên Nga hơn mười năm”. Nàng nhướng mi “Vậy à, anh họ anh làm gì ở bên ấy” - “Anh không biết. Anh ấy không nói. Cũng như em vậy”, tôi giận dỗi. Quả thật, tôi cũng không biết sau mười năm lưu lạc xứ người, gã anh họ tôi đã làm gì để kiếm được ngần ấy tiền. Thời gian này, tôi chỉ gặp gã những lúc trao đổi công việc cần thiết. Dù mối làm ăn với đối tác nước ngoài ít dần, gã vẫn tuồn công việc ra ngoài nhờ vào chiếc ghế mới. Một lần gã gọi tôi lên phòng, chốt cửa cẩn thận, đôi mắt sít vào sống mũi “Không xong rồi. Lão cốp này đưa gì cũng không nhận”. Tôi xòe lửa cho gã “Cả thứ kia cũng không à?”. Gã rít thuốc khổ sở “Nó không thích hàng chợ” - “Hàng tinh vậy” - “Cũng không được”. Tôi văng tục “Thế vụ giấy phép này hỏng mất à. Sếp ơi, dạo này làm ăn khó lắm. Em vất vả lắm mới kéo được hợp đồng này về đấy”. Gã vò điếu thuốc, tay dò số điện thoại “Biết rồi. Mày đừng làm tao cuống. Thằng trợ lý của lão nói lão này chỉ thích hàng độc”. Tối hôm đó, gã hẹn tôi ở một khách sạn ngoại ô. Gã đi cùng một cô bé trạc 20 tuổi mà tôi đã gặp vài lần. Gã từng tâm sự với tôi rằng cô bé sinh viên quê mùa ấy chính là điểm dừng tuyệt vời của cuộc đời gã, rằng gã sẽ giữ cho cô nguyên vẹn đến tận ngày cưới. Lúc đó tôi cho rằng chính khuôn mặt như Đức Mẹ đồng trinh của cô bé đã khiến gã ngụy tạo một điều mê tín hoang tưởng. Gã thì thào với tôi “Tao phải đi đây. Lão kia sắp đến. Tao giao phó cho mày.” - Tôi kinh hoàng “Em không làm được”. Gã rít lên “Vậy thì ai làm? Tao làm? Mấy con thư ký õng ẹo kia hay thằng tài xế?”. Mặt gã đỏ tía “Mà việc này không chỉ mỗi giấy phép thôi đâu. Lão này đã nắm hết mấy phi vụ trước của mày rồi. Mày làm. Mày ký. Mày là giám đốc. Mày thích tự tử thì cứ về trước đi”. Tôi thề rằng gã anh họ ruột thịt kia chưa hề tham vấn ông Maslow nhưng đã đánh gục tôi khi đụng đến cái nhu cầu thứ hai. Tôi yếu.

<span class='text_page_counter'>(68)</span> ớt “Vâng ạ. Em sai rồi”. Những ly Margaritta nhẹ như nước khoáng chẳng thể làm tôi quên đôi mắt ngơ ngác trên khuôn mặt Đức mẹ. Tôi còn bị gã gửi gắm “hàng độc” thêm vài lần nữa và sau mỗi bận, tôi đều bay hai nghìn cây số chỉ để xin nàng vài ly Brandy. “Anh có chuyện căng thẳng à? Thứ này không tốt như Margaritta đâu”. Nàng đẩy ly Brandy của tôi ra xa. Tôi ngước nhìn nàng như con chiên thú tội trước Đức cha. Nàng đâu biết rằng tôi đã trở thành một tên đồ tể chính hiệu. Có một lần tôi dẫn gã anh họ đến quán bar của Margaritta. Vừa thoáng thấy bóng nàng tôi vẫy tay, định sẽ giới thiệu nàng với người thân duy nhất mà tôi có thể đưa vào thành phố này. Nhưng nhìn thấy tôi, khuôn mặt nàng tái lại và phút chốc biến mất trong bóng tối phía quầy bar. Đận ấy tôi không gặp được nàng cho dù tối nào cũng hứa với gã anh họ nhất định sẽ giới thiệu nàng, người đầu tiên khiến tôi cảm nhận vị ngọt ngào của những ly cocktail. Chuyến công tác kề sau đó, nàng chủ động gặp tôi với một vẻ bồn chồn hiếm có ngay khi tôi vừa bước chân vào quán. “Người đi cùng anh hôm nọ là ai vậy” “Anh họ anh. Anh đã kể với em rồi. Sao mấy hôm đó em mất tích lâu thế?”. Nàng không trả lời, vội vã đi pha cho tôi một ly Margaritta, không quên hỏi gã nước ngoài cao lớn đi bên cạnh tôi uống gì. “Tequikalu”, gã dụi bàn tay đầy lông lên cằm, nheo mắt thích thú. Margaritta đặt hai ly cocktail lên quầy bar, đôi mắt nàng lộ rõ vẻ căng thẳng. Gã đối tác lông lá của tôi chồm qua quầy bar túm chặt cổ tay nàng, khèn khẹt cái giọng Mỹ miền Tây “Tao muốn uống Tequikalu theo kiểu Mexico”. Tôi uống cạn ly cocktail để đẩy cơn điên dại tụt xuống dạ dày, cố gắng giải thích cho gã khốn kiếp kia hiểu trong lúc ra hiệu cho nàng lẩn ra phía sau. Gã càng hăng tiết “Gọi người quản lý ra đây. Tequikalu phải uống thế nào hả, lũ lừa cái.” Gã trỏ tay vào mặt nàng, rút xấp tiền xanh lè in hình ngài Franklin huơ huơ như lên đồng. Tên quản lý xanh mắt, rít lên với nàng “Làm đi”. Trước khi tôi kịp định hình được chuyện gì xảy ra, trước khi tôi kịp phang nắm đấm vào giữa mặt thằng cha lông lá và trước khi tôi kịp ngỏ lời yêu nàng, câu nói mà hàng trăm ả đàn bà cố moi từ miệng tôi, Margaritta lạnh lùng dằn mạnh ly tequikalu xuống mặt bàn. Màu nâu sẫm của rượu Kahlua từ từ hòa lẫn ánh vàng rượi của tequila như những xấp hợp đồng mà gã anh họ ruột thịt đã nhuộm đen cuộc đời tôi. Margaritta thản nhiên kéo vạt áo lên. Nếu là lúc khác, trong một hoàn cảnh khác tôi đã có thể ngắm nhìn và tôn thờ món quà tặng tuyệt vời mà tạo hóa đã ban cho nàng. Nhưng khi ấy, tôi kinh hoàng nhìn Margaritta thản nhiên áp bộ ngực màu ngà voi lên cái mặt lông lá đang ngửa sẵn chờ đợi và từ từ đổ thứ cocktail đen ngòm kia vào mồm gã. Cả quán bar đã dừng mọi hoạt động, nhạc tắt, các cô vũ nữ ngừng quấn lấy cây cột inox, những ly rượu mạnh nằm yên lặng trên mặt bàn. Tôi có thể nghe rõ tiếng nuốt ực khi những giọt cocktail cuối cùng trườn vào cái cổ họng khả ố. Tiếng vỗ tay dậy lên hưởng ứng. Gã kia cười thỏa mãn, nhét xấp tiền vào ngực nàng “Cô khá lắm.” Tôi gặp nàng ở cửa sau quán bar “Em làm cái trò gì vậy?”. Nàng không nhìn tôi “Em cần việc”. Tôi khổ sở “Anh sẽ cho em công việc khác, tốt gấp trăm lần ở đây”. Nàng bỏ vào trong, kiên quyết “Em cần làm việc ở đây”. Tôi mãi mãi không hiểu nàng. Cả cho đến bây giờ nữa. Hôm sau Margaritta gọi điện cho tôi “Em sẽ bỏ việc ở đây. Nhưng anh mời anh họ anh đến một lần để em pha cocktail đãi anh ấy”. Khỏi phải nói tôi mừng rỡ đến mức nào và lấy tình cảm keo sơn ruột thịt mấy năm trời nay để thuyết phục gã anh họ rời chiếc ghế sa lông một ngày vào gặp nàng. Tôi nháy mắt với nàng và ngay lập tức, hai ly Margaritta được đặt trước mặt chúng tôi. Gã anh họ như thường lệ, cho dù là rượu mạnh, cocktail hay trà đá đều uống cạn một hơi ngay khi vừa mang ra. Nàng mỉm cười “Chào anh. Em là bạn gái của em họ anh. Dạo này anh khoẻ chứ?”. Vừa nhìn thấy đôi mắt màu bóng đêm của nàng, cái miệng rộng ngoác của gã bỗng cứng lại, rồi khó khăn lắm mới thốt lên được “Tại sao cô… lại ở đây...?”. Chưa nói được hết câu, gã ôm chặt lấy cổ họng rồi nện cả thân hình kềnh càng xuống mặt sàn đầy vết rượu. Đôi mắt bé tí dãn ra.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> ngoài sống mũi và kinh hoàng nhìn thẳng lên trần nhà. Cả quán bar nhốn nháo. Sau đó giám định pháp y tìm thấy trong mớ hỗn độn ở dạ dày gã một hợp chất cực độc nhưng không rõ chất tạo thành. Nhiều ngày liên tiếp tôi phải ở phòng thẩm vấn. Người ta khoanh vùng những thức ăn gã tống vào tối hôm đó và mọi mối quan hệ của gã từ trước đến nay, nhưng cả hai thứ đều lộn xộn và bí hiểm như nhau. Margaritta của tôi cũng bị hỏi đến, song từ lúc nhìn thấy ly cocktail cuối cùng do nàng pha, tôi không còn được gặp nàng nữa. Giữa ánh sáng chói chang nơi thành phố đầy nắng và gió, nàng biến mất như bóng đêm không để lại dấu vết. Tay chủ quán bar đắt khách tìm mọi cách lo lót để đầu mối của cuộc điều tra lái về một hướng khác. Một tháng sau, tôi tìm thấy một mẩu giấy trong túi chiếc áo vét mặc hôm cuối cùng gặp nàng và gã anh họ. Một dòng chữ nắn nót, nhưng hơi run rẩy, chứng tỏ người viết ra nó không vội vàng gì “Hãy tin em, ly Margaritta của anh ngày hôm nay chỉ có muối, tequila và nước chanh. Vĩnh biệt anh”. Mãi mãi, tôi không thể đoán được gã anh họ tôi đã làm hại gì nàng, đến nỗi, để sắp xếp kế hoạch cho một ly Margaritta chết người, nàng sẵn sàng từ bỏ lòng tự trọng khi đổ rượu vào mồm tên khách bỉ ổi, sẵn sàng từ bỏ cuộc sống tuyệt đẹp dưới ánh sáng mặt trời và, sẵn sàng từ bỏ tôi, người mà nàng biết sẽ uống bất kỳ ly cocktail nào nàng pha, cho dù trong đó có thứ gì đi nữa. Vụ ngộ độc của gã anh họ tôi vẫn là điều bí ẩn. Những cái tít giật gân trên mặt báo rồi phai đi, những cuộc thẩm vấn thưa dần và gia đình tôi cũng thôi không nhắc đến gã. Có người nói rằng những vụ án giết người thế nào rồi cũng được tìm ra, cho dù không còn chút manh mối nào. Đấy là linh hồn của những người bị chết oan đưa đường chỉ lối cho người điều tra. Nhưng tôi tin rằng, ở dưới kia có những linh hồn tốt, nhưng cũng có những linh hồn xấu, hoặc nửa tốt nửa xấu, như dưới ánh mặt trời kia, có những người nửa tốt nửa xấu, như tôi và nàng vậy. DÒNG SÔNG TẬT NGUYỀN Thứ sáu, 14 Tháng 9 2007 21:33 1 B ây giờ đang là cuối đông, những trận gió mùa tràn về dứt từng chiếc lá cuối cùng trên cây bàng già nua bao năm đứng trân trân chịu trận bên bờ sông. Cây bàng có từ bao giờ tôi cũng không biết, nhưng quanh năm suốt tháng, mỗi khi từ đồng về, người ta lại đem bầy trâu buộc vào mấy cái rễ trót mọc trồi lên trên mặt đất. Chỗ đất buộc trâu lúc nào cũng nham nhở, nhầy nhụa, lở loét, khai và khăn khẳn mùi phân. Những ngày nắng ráo còn đỡ chứ phải ngày mưa không một ai dám đặt chân vào, đất ở đấy sủi bọt lục bục như lỗ trạch lòng mương nước. Từ những vũng trâu đằm, mùi khắm, khai, thối, bốc lên theo gió loang xa cả một vùng sông nước. Rồi nước từ những vũng trâu đằm ấy chảy xuống sông, hòa vào nước mặc người đôi bờ hì hụi gánh về đổ bể lấy nước ăn. Những ngày như thế, cha thường bắt tôi chèo thuyền ngược lên hướng thượng nguồn mới cho nổi lửa nấu cơm. Truyện ngắn. PHẠM THANH KHƯƠNG _________________________________ Mùa hè, từ mờ sáng cho đến nửa đêm, lũ trẻ trâu tóc cháy đỏ hoe râu ngô, người ngập ngụa mùi bùn tanh nồng trèo đầu cưỡi cổ, vặt lá bẻ hoa, lần theo mấy cái cành đua ra mặt nước, hò nhau nhảy xuống. Đôi khi lũ trẻ nhoai người hái bàng chín, gặp phải cành yếu, rơi từ trên cao xuống, máu mũi, máu miệng chảy đỏ ngoe đỏ ngoét theo nước lẫn vào màu da đen cháy. Đối diện phía bên kia bờ là bến nhà tôi, nơi cha tôi thường neo thuyền lại nghỉ ngơi sau mỗi lần đi xa về. Nói là bến nhà tôi cho oai chứ thực ra chả của ai cả, chẳng qua là thuyền nhà tôi thường về đậu ở khúc sông này, lâu ngày thành quen rồi tiện mồm cứ gọi thế cho dễ nhớ, dễ hình dung. Tôi cũng không thể nào nhớ nổi tôi đã đi đến bao nhiêu con sông trong vùng đồng đất mà.

<span class='text_page_counter'>(70)</span> người ta cứ cho nó là vựa thóc của đồng bằng sông Hồng. Ai muốn gọi thế nào cũng được vì nó chẳng ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhà tôi. Bản thân tôi cũng không có nơi sinh chứ nói gì chỗ cắm sào là của mình. Biết mình không có nhưng ai hỏi vẫn phải nói có. Nhiều khi tôi nghĩ, khổ nhất ở đời này rõ ràng không nhưng cứ tự nhận mình có, nếu không nó thèn thẹn, xâu xấu thế nào ấy. Những chuyện như thế, cha tôi nghe thấy, nếu ông đang ngồi thường nhấc đít lấy tay phủi phủi mông kiểu người ta phủi bụi, còn đang đứng, thế nào ông cũng chạy ra mui thuyền vạch quần đái rồi khạc nhổ quá bằng có cục đờm to đút nút lấy cổ. Năm nay trời lạnh cá cũng không chịu đi ăn đêm, và khi người khôn của lại hiếm. Cứ như hiện nay, các loại cá sông có đẻ hằng đêm thì cũng khó mà duy trì được giống. Để đánh bắt con người không từ bỏ một thủ đoạn hay phương pháp nào. Trước kia, những gia đình sống bằng nghề sông nước tuy không ai quy định nhưng mọi người đều ngầm thống nhất các loại vó lưới dày mau không dùng vì còn để cá lớn. Nhưng nay thì khác, vó lưới dùng loại dày, rồi kích điện, đánh mìn, hóa chất. Cộng thêm vào tệ đánh bắt không cần biết hậu quả về sau, thuốc sâu từ đồng ruộng chảy xuống, nước thải từ các nhà máy công nghiệp chảy vào, từ các khu dân cư vô tư đổ đến. Một thời sông trong trẻo, thơ mộng cho những ai yêu văn thơ tha hồ sáng tác, còn nay sông một màu đùng đục xam xám đen tang tóc. Hầm cá trong lòng thuyền nhà tôi ngày xưa lúc nào cũng nhung nhúc, chiếc sạp lát sàn đêm đêm cá quẫy nước bắn ướt đầm phải lên mui mới ngủ được, còn bây giờ hôm nào nhiều chục con, ngày ít hai ba con. Ngày ấy, khi cá còn dễ đánh bắt, kho nấu cá bao giờ cha tôi cũng chặt vứt bỏ khúc đầu, đuôi chỉ lấy khúc giữa. Ông thường bảo tôi rằng, ở đời ăn uống từ đầu chí cuối mất cả phần con cháu, đồ phàm phu tục tử, không đáng sống. Mặc ông nói thế nào tôi cũng kệ, thực ra tôi nghĩ chẳng qua là do ông làm nghề chài lưới, kiếm con cá con tôm không vất vả khó khăn như những người khác nên thế thôi. Mà lạ lắm, tất cả các món ăn chế biến từ cá ông thích nhất là món kho mể. Món kho mể chẳng có gì cầu kỳ phức tạp, người làm cá chỉ mỗi việc mổ cá, để nguyên cả máu rồi cho vào nồi đất, đổ nước xăm xắp cho lên bếp đun, bao giờ cá chín nhừ là bắc ra ăn, múc cả khúc cá với nước cá kho còn nóng nghi ngút khói. Nước kho cá chan cơm ăn còn ngon gấp mấy lần nước mắm đầu nong đầu nia, nước mắm cất. Thích thế nhưng dẫu có ngon đến mấy, ông chỉ ăn một bữa còn lại đem đổ hết xuống sông, không bao giờ để lại ăn bữa thứ hai. Có một lần tôi thấy cá ngon, tiếc của giời đem cất đi tối lấy ra. Vừa nhìn thấy, ông chẳng nói chẳng rằng quăng luôn cả nồi cá xuống sông, xong chửi, bảo tôi là đồ khốn, giống hệt tính cái con mẹ đẻ ra tôi. Những gì ông không thích, những khi ông bực, ông lại chửi tôi như thế. Lúc ấy tôi rất sợ, nghe giọng ông chửi, tiếng rít qua kẽ răng, người tôi cứ co rúm lại, chân tay tự nhiên run bần bật, không thể nhúc nhắc, chẳng khác gì người ta đem dây trói chân trói tay tôi lại. Tối qua trước khi đi ngủ cha tôi nói như giao hẹn: - Sáng mai nhổ neo, liều liệu tính toán cơm nước mà đi sớm - Ông lầm bầm - Cứ thế này rồi không có cả cứt mà đổ vào miệng. Chả cần biết mọi người có nghe thủng việc không, ông lấy vò rượu, đổ đầy bát tô, uống cạn một hơi rồi chui vào khoang thuyền trải chiếu nằm ngủ. Nghe ông nói, tôi hãi im thin thít làm theo, không dám ho he gì. Cô Hến cũng thế, cun cút dọn dẹp các thứ cho vào cái hòm đựng đồ bằng sắt tây đã hoen gỉ. Biết tính ông chỉ nói một lần, không nhắc lại, sáng nay mọi người dậy sớm để chuyển thuyền lên khúc sông trên. Tôi quên không nói, nhà tôi hiện tại có ba người. Tôi, cha tôi và người đàn bà cha nhặt ở bến Trầm, còn người đàn bà sinh ra tôi đã bỏ dòng sông cùng những chuyến phiêu bạt gió sương đi đâu không rõ. Việc bà bỏ tôi và cha ra đi có một phần lỗi thuộc về tôi, còn cha tôi, từ ngày bà bỏ đi, cứ uống rượu là ông chửi mặc dù không hề nhắc đến tên ai nhưng tôi biết,.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> người ông nguyền rủa, thâm thù, cay đắng không ai khác chính là bà, người được ông nhặt lên từ mó bỏ mồi cá ngày nào. Cũng sau ngày bà bỏ đi, đến bến nào, nghỉ ở khúc nào, miễn là nơi chiếc thuyền có thể cắm sào, gặp người đàn bà nào có thể nhặt được là ông nhặt. Rồi như con thuyền, cắm sào một chốc một lát nhổ neo đi, người đàn bà ông nhặt ấy sau một vài ngày cũng bị ông vứt trả lại bờ không thương tiếc. Mờ sáng tôi dậy thu xếp chài đem buộc lên cái cọc cắm ở đầu thuyền như cây nêu để phơi, công việc này trước đây là của mẹ tôi, còn bây giờ, tất cả những người đàn bà kia, những người ông nhặt sau bà đều không được làm. Khi tôi lụi cụi phơi chài, cô Hến hì hụi nhóm lửa phía cuối thuyền thổi cơm. Tôi đang đứng trên mui giũ chài thì thấy loảng xoảng rồi tùm tũm xoong nồi, rổ rá và cả chiếc kiềng gang ba chân theo nhau rơi xuống sông. Đuổi theo tiếng đồ vật rơi là tiếng chửi của cha tôi, tiếng chửi nhằm vào cô Hến chứ không vô chủ như mọi lần, lời chửi gay gắt và độc địa. - Đồ ngu, nhóm bếp thế thằng bố mày ngủ được à. Không biết làm sao gì hơn việc cong tưỡn cái mông lên hay sao? Khốn nạn. Sự khốn nạn đến tận cùng, nhưng người đàn bà cha tôi nhặt trên bến sông Trầm vẫn không hé răng nói lấy một lời, cô nhẫn nhịn chịu đựng, nem nép chui qua khoang nhà thuyền ra phía đầu mũi ngồi lặng lẽ lấy vạt áo chấm chấm mắt. Khổ quá, ở thuyền sáng mai ra đàn bà con gái không bao giờ được ra mũi thuyền ngồi, vừa ăn chửi xong lại ra đấy không chừng vớ cái đạp lộn xuống sông bây giờ. Nghĩ thế tôi bỏ dở công việc len lén tụt xuống kéo cô lên mui ẩy về cuối thuyền trong khi cha tôi chui lại khoang trùm chăn ngủ tiếp. Cô Hến không biết rằng, khi ngủ, bao giờ bố tôi cũng cắm hai sào, một phía mũi, một ở cuối để phòng khi đêm trở gió thuyền không xoay ngang xoay dọc làm mất giấc. Sáng ra, khi nấu cơm phải nhổ sào tháo dây phía cuối thuyền để cho thuyền ngược hướng gió thì khói mới không vào khoang. Vì không biết nên cô Hến đã để khói bay vào khoang, mà khoang nhỏ thì có khác gì hun chuột. Bài học vỡ lòng đời thuyền không xong chắc không sớm thì chày cô Hến lại được cha tôi vứt lên bờ như những người đàn bà khác. 2 Những người đàn bà đi qua cuộc đời cha tôi đều là những người ông nhặt được trên sông và trên bờ từ những chuyến đi kiếm ăn lênh đênh sông nước. Người đàn bà đầu tiên và cũng là người sinh ra tôi là người ông nhặt được từ một mó bỏ mồi cá. Người làm nghề chài lưới trên sông không phải ai cũng có nghề như nhau mà thực ra mỗi người, mỗi vạn chài có một nghề riêng. Có người cả đời sông nước chỉ sống độc một nghề thả câu, có người buông lưới, có người quăng chài, có người đi te hay đóng đăng, đóng túi. Cũng như cha tôi, cả đời chỉ có một nghề đánh chài mò. Trong các nghề sông nước, nghề chài mò là nghề vất vả nhất. Người làm nghề chài mò phải có sức khỏe, khả năng lặn sâu, lâu, chịu được sức ép của nước, ai không có sức khoẻ làm nghề này rất nguy hiểm đến tính mạng. Đã có một vài người tưởng nghề chài mò dễ kiếm ăn lao vào, hôm trước hôm sau phải bỏ vì không chịu được. Độ sâu để đánh chài mò thường phải từ hai mét trở lên. Mỗi khi quăng chài, người đánh phải lặn xuống, dùng chân dận cho bốn xung quanh mép chân giềng chài ngập sâu vào bùn mà phải làm nhanh nếu không cá sẽ theo mép chân giềng chui ra ngoài. Người chịu được không sao, người nào yếu, khi làm xong việc đó, lúc nổi lên mặt nước ộc máu mồm máu mũi, nếu ai chảy máu tai coi như cầm chắc cái chết. Trước đó, người đánh phải lặn xuống sông lấy tay hoặc chân gạt lớp bùn non, đào một cái hố sâu (gọi là mó) khoảng hai mươi đến ba mươi phân, rộng bằng cái thúng rồi bỏ mồi vào..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Mồi để đánh thường làm bằng cám rang, trộn với thóc, phân người tươi, phân trâu bò và các loại xác giun, cào cào châu chấu. Sau khi đã trộn các loại đó với nhau, người ta lại đem trộn với bùn rắn hoặc đất thịt cho thật nhuyễn rồi chia ra thành nhiều phần, mỗi phần to bằng cái ấm chuyên pha trà bỏ xuống một mó. Ngày còn bé, mỗi khi cha tôi làm mồi thường bắt tôi phải ị vào cái vại sành để lấy phân trộn mồi. Hôm nào không muốn đi phải rặn đến đỏ cả mặt nổi gân nổi guốc. Những lần như thế ông thường chửi tôi là đồ toi cơm, vô tích sự rồi đuổi tôi ra và kéo quần ngồi luôn vào đấy làm công việc cung cấp nguồn nguyên liệu làm mồi. Mà cũng lạ, cái giống cá chép sông sao thích loại mồi có phân người tươi thế không biết. Mồi gì thì mồi, có làm thơm đến đâu mà không trộn phân tươi là không hấp dẫn được nó. Năm ấy mùa đông như kéo dài hơn, rét nhiều hơn, cá mú dường như cũng ít hơn và con người sống cũng ít tốt hơn. Ấy là theo cha tôi nói thế chứ tôi lúc đó còn đang ở bờ tre gốc dứa nào chưa biết. Sau khi đã uống cạn bát nước mắm trước khi xuống nước, ông quăng chài, nhưng chả hiểu sao, đáng lý phải quăng chài bảy, nghĩa là chài dài sải ba (bảy thước bắc bộ, mỗi thước bốn mươi phân, chài bảy chiều dài bằng hai mét tám) ông lại quăng chài chín. Vì chài chín quá dài, cá dễ lặn xuống bùn chui qua giềng ra ngoài nên ông quăng chài xong sực nhớ ra vội vàng xuống sông ngay. Sau khi lặn dận chân giềng ông có cảm giác không có cá, vì như mọi lần, khi lặn dận chân giềng là thế nào cũng chạm cá lao ra. Giống cá chép, khi bị động thường tìm một chỗ bùn lõm để ép mình vào đó tránh. Đánh chài mò, quăng chài xong phải xuống dận chân giềng để cá khỏi ra ngoài và cũng là để cho cá rúc xuống chỗ chân vừa đi, chính chỗ đó đã có các túi lưới, cá vào đó rồi thì không thể nào ra được. Đấy cũng chính là thói quen chết người của bầy cá chép sông, cứ tưởng tránh được cái chết ai ngờ tự chui đầu vào chỗ cho người làm thịt. Linh tính mách bảo thế nào, nếu như mọi lần, sau khi lặn dận chân giềng xong thường phải lên thuyền ngồi chờ mươi mười lăm phút, đợi cho cá rúc chân giềng mới xuống mò thì ông lại xuống mò ngay. Lặn mò hết cả một vòng chân giềng không thấy cá lao ra động chân giềng ông bèn lặn vào kiểm tra mó mồi. Và ông đã thấy người đàn bà sau này sinh ra tôi nằm cuộn tròn trong mó. Chẳng nghĩ ngợi gì, ông để chài đấy đưa bà lên bờ, dốc ngược hai chân vào vai, đầu chúc xuống đất chạy huỳnh huỵch mấy vòng. Tuổi thơ của tôi là những ngày lênh đênh sông nước, nay đây mai đó, không có điểm dừng. Nơi cha tôi thả mồi và nhặt được bà từ mó cá không bao giờ ông cho thuyền về đó đậu. Đêm đêm ngày ngày tiếng cá quẫy lòng thuyền là niềm vui của gia đình, nhiều khi cái âm thanh tù túng, vây hãm của bầy cá trong khoang làm tôi toét miệng cười. Tiếng cười, nét mặt tôi khi đó như thế nào không rõ nhưng mỗi khi như thế cha tôi thường nhăn mặt có vẻ khó chịu. Năm tôi lên bảy tuổi, có một lần mẹ rắng với cha. - Con nó năm nay đến tuổi đi học rồi đấy, ông xem gửi con vào đâu cho nó học kiếm cái chữ kẻo rồi lại vất vả cả đời như cha mẹ, nó lại oán trách sau này. Vẫn giữ nguyên nét mặt đầy khó chịu, cha bảo, giọng rít qua kẽ răng. - Thằng bố nó không học có chết đâu, vẫn sống nhăn răng ra đấy thôi. Học vào rồi mà nứt mắt tý tởn. Không ăn mới chết chứ không có chữ chưa thấy ai chết bao giờ. Nghe ông nói, nét mặt mẹ đang tươi như hoa bỗng xịu xuống chẳng khác gì gặp trận gió quét, rũ xuống, bã bời, tơ tướp. Không phải đi học tôi càng thích. Tôi nhẩy cẫng lên, để nguyên cả quần áo tôi lao rầm xuống nước, lặn một hơi bơi ra rõ xa mới ngoi đầu lên. Túm tóc đuôi gà bết nước cuốn chặt lấy cổ. Mẹ tôi thấy thế giấu mặt vào sau tay áo. Cuộc sống nhà tôi cứ thế, đều đặn diễn ra. Sáng mẹ lấy vợt xúc cá dưới khoang thuyền mang đi chợ bán đong gạo, mua rau dưa, dầu đèn và các thứ linh tinh khác. Chiều cha làm mồi rồi chờ chập choạng mang ra bỏ mó, đợi khi trăng lên hay gió nổi hây hẩy, mẹ chèo thuyền cha đứng đầu mũi nhẹ nhàng lướt đến chỗ chiều cha bỏ mồi. Bao giờ mũi thuyền.

<span class='text_page_counter'>(73)</span> cách mó bỏ mồi chừng sải tay, mẹ dựng mái chèo cho thuyền đứng lại. Cha trên đầu mũi, hơi xoay, vặn người về sau rồi cũng rất diệu nghệ, ông tung chiếc chài lên nở bồng trên mặt sóng, đường chân giềng đã được kẹp chì bung đều vòng tròn, chụp xuống chỗ đã bỏ mồi. Tiếng chân giềng chạm mặt nước chỉ nghe cái rụp. Chỉ bằng một cú quăng ấy lũ cá trót dại vào ăn trong mó khó lòng thoát khỏi bàn tay của cha. Trong khi chân giềng chìm dần từ mặt nước xuống chạm lớp bùn dưới đáy, nếu là mùa đông, cha bưng bát nước mắm đặc sánh uống một hơi rồi nhẹ nhàng như con rái cá ông lao xuống sông. Bao giờ đường chân giềng chắc chắn đã được giấu sâu trong bùn khi đó mới thấy ông ngoi lên mặt nước. Mỗi lần quăng như thế cha thường phải lặn lên lặn xuống từ năm đến sáu lần. Một đêm, cha thường bỏ ít mười mó, hôm nào thấy có nhiều tăm ông làm mười bốn mười lăm mó. Những hôm như thế, tiếng cá tranh phần nước lấp sấp trong lòng khoang thuyền lục cục cả đêm. Và tôi phải lên trên mui ngủ, còn cha tôi sẽ lên trên mũi, mẹ tôi, bà phải xuống ngủ phía đuôi, nơi cạnh bếp để sáng mai cơm nước sớm cho cha và chuẩn bị đi chợ. Chẳng biết có phải vì làm nghề chài mò lặn nhiều hay không mà ngực cha tôi vồng lên, những thớ thịt căng đầy cuồn cuộn những cơ là cơ. Vồng ngực căng đầy của cha tôi theo năm tháng làm nghề chài mò lép dần, lép dần không gì níu giữ được. 3 Đến bây giờ thỉnh thoảng tôi vẫn ước giá không có cái buổi chiều khốn khó đó thì đã không mất mẹ, cuộc sống của cha con tôi cũng có khi vẫn chung niềm vui ăm ắp tiếng cá quẫy hằng đêm trong lòng khoang thuyền rộn rạng. Mẹ tôi sáng sáng vẫn te tái cơm cơm nước nước lo cho cha và tôi cùng lời nhắc nhở trước khi cắp chiếc rổ lên bờ đi chợ. Rằng hai cha con ở nhà chờ bà chợ về cơm nước, đừng sợ muộn mà tự nấu nướng lấy rồi cả nhà lại phải ăn cơm sống. Và tôi, từ lúc mẹ bước lên bờ sẽ leo lên mui ngồi ngóng bà chợ về mua cho bơ bò hạt dưa người ta nhuộm phẩm nhấm nhắt cho đỏ môi. Còn cha, bà sẽ mua cho lạng thuốc lào. Nhận gói thuốc từ tay bà, ông vân vê, vuốt vuốt từng sợi, viên viên hạt bi đặt nhẹ nhàng vào chiếc nõ đã được lấy mũi dao nhọn khoét, gọt, gạt những bớn khói thuốc bám đen xung quanh, tay gẩy gẩy chiếc đóm ruột tre ngâm phơi khô, hơ hơ trên miệng điếu rồi hút một hơi thật sâu, tiếng nõ nổ tanh tách. Đoạn, ông ngửa cổ, chụm môi nhẹ nhàng nhả từng sợi khói phơ phất bay mỏng mảnh như dây chỉ trắng lên trời. Cha quay ra khen: Hôm nay bà nó mua thuốc lào của ai mà hút có hậu thế. Nói có khi chưa xong câu, ông đã nằm quay ra sàn thuyền lơ mơ nghĩ những gỉ những gì không biết và bật cười. Mẹ nghe thế nguýt cha một cái rõ dài, tủm tỉm cười theo. Tôi thực lòng chẳng hiểu đầu đuôi thế nào cũng lăn xuống sàn, giơ hai chân lên trời giẫy giẫy cười hùa theo. Đêm ấy không có gió, thuyền nhà tôi cũng bồng bềnh, dập dềnh nô giỡn với sóng, trăng và nước. Ấy là ước giá thế thôi chứ cái cảnh đó bây giờ nó đã quá xa với tôi rồi. Tôi cũng không còn nhớ là đã phải xa nó năm năm hay sáu, bảy năm gì nữa, xa như tiếng cá quẫy lòng khoang thuyền của cha con tôi bây giờ vậy. Nhiều hôm thấy tôi ngồi bần thần ông chửi. - Nhớ nhớ nhung nhung cái gì. Cái mặt mày rồi lại như con đẻ mẹ mày, quân ăn cháo đá bát. Loại người gì sống không bằng loài chó. Mà chó nó cũng không bao giờ bỏ con như cái con mẹ mày đâu. Ngồi đấy mà thuỗn cái mặt rặn ỉa ra cho ngứa mắt. Ông chửi thế tôi phải chịu chứ thực lòng, không phải tôi không có lúc giận mẹ. Cái ngày đầu tiên tôi có tháng, thấy máu tự nhiên chảy ra tôi lo đến thắt gan thắt ruột. Tôi học cách người ta cầm máu, vơ không biết bao nhiêu là lá, nhai rồi đắp đến mỏi cả mồm, căng cả bụng nước mà nó vẫn cứ chảy. Bực mình, tôi phải lấy cả một vạt áo cuộn nút lại mới được. Tháng đầu tiên của người con gái tôi phải mất cả cái áo cánh trắng chĩ chụm chắt bóp mãi mới có được. Cũng may, sau đó hơn tuần cha tôi nhặt được một người đàn bà ở trên bến Sủi, bà đã bảo.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> cho tôi biết. Người đàn bà này cũng chỉ kịp bảo cho tôi biết cách làm thì cha tôi đã lại vứt trả bà lại bờ. Giá tôi có mẹ thì làm sao tôi phải mất oan cái áo như thế, làm sao phải để một người đàn bà lạ hoắc dạy bảo tôi chuyện đó. Những lần như thế tôi giận mẹ lắm, chỉ có điều, tôi giấu cái giận vào trong lòng. Giận thì giận nhưng tôi vẫn nhớ bà nhiều lắm. Giận mẹ một tôi căm thằng chủ cai thầu thợ đấu gấp mười, thậm chí cả trăm lần. Chính nó đã làm tôi mất mẹ và cũng chẳng biết bây giờ mẹ tôi đang phiêu bạt nơi nào. Sau lần ấy nó đã giũ áo bỏ đi để mặc mẹ tôi gánh chịu. Cũng chính nó làm tôi bây giờ nhìn mặt bất cứ thằng đàn ông nào trên đời cũng thấy gian gian, đểu đểu, không thể tin được. Tôi luôn cảm thấy sự khốn nạn ẩn chứa sau vẻ mỹ miều, ngon ngọt, chả biết có đúng thế không. Năm ấy khúc sông Ghềnh sao nhiều cá đến thế, cha tôi đánh cả tháng mà tăm vẫn sủi lên như bong bóng mưa. Không mấy khi gặp được nơi như thế, cha quyết định dừng thuyền ở đấy chứ không như những lần khác, chỗ nào nhiều nhất cha cũng chỉ cắm sào hai đến ba hôm là cùng rồi lại nhổ neo đưa thuyền sang khúc khác. Theo ông, đánh bắt mãi một chỗ cá chẳng kịp lớn rồi ra chẳng còn cửa mà làm ăn. Sống nhờ cá mà không biết cho con cá kịp lớn, kịp sinh đàn dài lũ thì cũng là quân vô ơn bạc nghĩa. Những chỗ đã đánh bao giờ cha tôi cũng phải đợi hai ba năm sau mới quay lại. Có nhiều khúc sông, khi thuyền nhà tôi quay lại tôi còn không nhận ra nơi ấy đã từng neo đậu vì cảnh vật thay đổi quá nhiều, mặc dù sự thay đổi thường là chán đi chứ chẳng mấy chỗ đẹp lên. Chỗ thì làng mạc tiêu điều xơ xác, cây cối chẳng còn xanh tốt như ngày đến. Chỗ thì bãi lở vào sâu nhôm nhoam, ghẻ lở. Nơi hàng chục chiếc tàu hút cát hùng hục đào bới, tiếng máy nổ rồi khói, váng dầu xả ra đen đặc cả khúc sông. Cái sự mưu sinh của con người cũng ghê gớm, tham lam vô cùng, chẳng biết thế nào cho đủ. Gặp những cảnh như thế, cha tôi thế nào cũng chửi đổng vài câu rồi mới cho chèo thuyền đi khúc sông khác. Cũng vì nhiều cá cha tôi cho thuyền neo lại lâu nên việc sáng sáng mẹ tôi đi chợ cũng thành thói quen của nhiều người gần bến. Có một lần mẹ cho tôi theo đi chợ. Từ bến đậu thuyền nhà tôi đến chợ cứ theo con đường nhựa chả biết làm từ bao giờ nhưng đến nay nó đã trốc mặt, những hố là hố, có nhiều cái to hơn cả mó bỏ mồi của cha tôi. Hai bên đường, dọc theo con ngòi, người ta thi nhau đẩy thuyền, những chiếc thuyền nan đầy đất quật thành từng ô vuông vức lấp mấy đoạn ngòi. Mẹ bảo tôi người trên bờ đất chật người đông nên không còn đất để ở phải lấy đất dưới lòng các con ngòi rồi quật cao làm nền nhà. Sống mỗi người mỗi nhà nhưng chết phải chung nghĩa địa, cái lý của người trên bờ là thế. Mẹ thở dài. - Bao giờ nhà ta mới có tấc đất cắm dùi. Sống không có đất ở, chết không có đất chôn. Nghe mẹ than thở nhưng thực lòng lúc ấy tôi chả hiểu gì chỉ nghĩ nhà tôi cần gì đất làm nhà. Cả nhà sống trên thuyền, ăn nước sông, uống nước sông, sống nhờ sông. Khúc sông này còn cá thì ở, hết cá thì đi, nhổ con sào đẩy một cái là đã đến chỗ khác. Ở nhà thuyền, mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm, con cá con tôm lúc nào cũng tươi, nhẩy tanh tách chả sướng gấp mấy lần trên bờ phải chen nhúc chật chội hay sao. Mẹ tôi ước làm gì cho khổ. Nhìn những người lặn ngụp, ngâm mình dưới nước vác từng tảng đất vất lên thuyền rồi lại phải quật cao thành gò thành ụ để làm nhà sung sướng nỗi gì. Mẹ bảo tôi những người ấy là thợ làm đấu. Những người này ăn khoẻ lắm, vì thế mới có câu ăn đấu làm khoán. Cả ngày ngâm mình dưới nước nên lúc nào cũng đói. Chả trách cha tôi mỗi bữa ăn bảy tám bát vẫn kêu đói. Tôi len lén nhìn những người thợ đấu, người nào người nấy vâm váp, bắp tay, cơ ngực cuồn cuộn như dây chão, dây lèo giằng chèo, kéo cột dựng buồm. Khi hai mẹ con tôi đi qua chiếc lều bạt dựng cạnh đường, nơi có chiếc xe máy mầu đỏ dựng bên cạnh thì có ai đó gọi: - Này cô chài, có cá tươi bán cho mấy mớ. Nghe tiếng gọi, mẹ tôi tong tả đến trước cửa lều, đặt rổ cá xuống đon đả:.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> - Hôm nay em có mấy mớ cá còn tươi lắm. Mấy anh xem mua cả giúp em cho gọn. Từ trong lều đi ra là một người đàn ông cao ráo, khuôn mặt vuông vức, hàng râu mờ mờ xanh bao kín cả hai bên má xuống cằm. Đi sau anh ta là ba bốn người nữa. Một người trong đám nghe mẹ tôi nói thế cười, sán đến, ngồi xuống bên cạnh. - Cá của em thì tươi rồi nhưng có lạ không em? Mấy người đi theo cười hô hố, nhe cả hàm răng to như bàn cuốc, đen thui đít nồi. Mẹ tôi đỏ mặt xấu hổ. Người đàn ông cao ráo có khuôn mặt vuông vức lừ mắt, mấy người kia vội im bặt. - Cô đừng giận, họ hay đùa tếu táo thế thôi. Hôm nay tôi có nhiều thợ làm. Cô lấy bao nhiêu để tôi mua cả. Cá nhà cô là cá sông, mấy hôm trước tôi mua của cô, kho mặn mà ai ăn cũng khen ngon, thịt thơm lắm. Giọng người đàn ông nhẹ nhàng, thủ thỉ nghe ấm áp: - Người xinh thì cá cũng ngon phải không cô. Hôm nào có cá cứ mang đến đây tôi mua cả cho không phải đi chợ bán nữa, vất vả người bán mà cá cũng mất tươi. Mẹ tôi lại đỏ mặt, lấy tay kéo vành nón giấu khuôn mặt đang hồng lên sau lời khen. Hôm ấy hai mẹ con tôi đi chợ không phải lo bán cá nữa nên có thời gian cho tôi đi chơi, mua sắm các thứ. Mẹ mua cho cha và tôi mỗi người một bộ quần áo mới. Vui quá tí nữa thì hai mẹ con tôi quên đến giờ về nấu cơm trưa. Tôi vui ra mặt, nhảy chân sáo suốt đường về. Còn mẹ, tôi đoán, chắc mẹ cũng vui nên thỉnh thoảng cười tủm, hai má hồng hồng dưới vành nón. Một quãng mẹ lại gỡ nón nhìn nhanh vào chiếc gương nho nhỏ mà người ta khéo léo gài phía trong áp chóp. Thuyền nhà tôi cắm sào ở lại khúc sông này đã lâu mà nhìn xuống nước vẫn thấy tăm cá nổi lên. Sáng ra, cha bảo mẹ mang hết cá ở khoang chứa đi bán, không cần để dành làm gì, đánh tối nay nữa rồi đi. Mẹ tôi bảo ông đang đánh được tại sao lại đi vội thế. Ông lừ mắt nhìn mẹ giọng chì chiết: - Cá đánh lắm cũng hết, người ở lâu dễ hư. Ma quỷ yêu quái chẳng qua là ở mãi một chỗ mà thành. Mèo già hoá tinh thành cáo, chó dữ nuôi lâu phát rồ. Đi hay ở cô không phải nói nhiều, tôi khắc biết. Nói đoạn, ông chui vào khoang lấy bộ quần áo mẹ mua cho hôm có tôi đi cùng mặc vào. Sau khi đã lên bờ ông quay lại nói vọng xuống thông báo ông đi ăn cưới ở vạn chài khúc sông trên trưa nay không về. Ông còn dặn ở nhà hai mẹ con chuẩn bị sẵn mồi chờ ông về để bỏ mó. Mẹ bắt hết chỗ cá đi chợ, còn tôi, mấy đứa trẻ trâu xóm bãi rủ đánh trận giả rồi chơi trò trốn tìm. Tôi lật mấy tấm ván đầu mũi thuyền chui nấp vào trong đó, xong lắp lại như cũ. Tôi nấp ở đây tài thánh cũng không ai có thể tìm được. Nằm cuộn trong khoang mũi trốn, tụi trẻ xóm bãi rà đi rà lại tìm mấy lần không thấy chúng bỏ đi nhưng tôi nghĩ chúng nó giả vờ để lừa tôi ra bắt nên cứ yên trí nằm trong đó mặc cho chúng nó đi tìm. Đánh trận giả đã thấm mệt bây giờ nằm trốn trong khoang mũi nên tôi lúc đầu chỉ nghĩ lim dim một chút cho đỡ mệt ai ngờ ngủ béng đi mất. Khi tôi đang ngủ thì thuyền tròng trành làm đầu tôi đập vào khung xương gá ván tỉnh giấc. Tôi chưa kịp lật ván chui ra thì đã nghe thấy tiếng thở dốc của mẹ và giọng nói nhẹ, ấm rất quen thuộc, rằng mẹ làm ông ta mệt quá. Tôi hé mắt qua khe ván, chiếc xe máy mầu đỏ đang dựng bên vệ đê lối xuống bến. Tôi cứ nằm trong khoang mũi chờ cho mẹ và người đàn ông bước đến chỗ xe máy tôi mới lật ván chui ra, ngồi bệt xuống mặt sàn. Khi mẹ trở lại thuyền thấy tôi ngồi sẵn đó, bà ngồi xuống cạnh hỏi có phải vừa ở trong khoang mũi không. Tôi không trả lời mà tự nhiên òa lên khóc, gạt bà ngồi ra xa. Câu chuyện vỡ lở, tôi tưởng cha sẽ đánh cho mẹ một trận hay phải gầm lên chửi mắng. Nhưng không, cha bắt mẹ đến xin người đàn ông ấy một đồng tiền mà không cần biết tiền to hay nhỏ. Sau khi mẹ mang về đưa cha, ông vuốt cho phẳng phiu rồi cất kỹ vào một chỗ. Cũng.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> từ hôm ấy, ông giặt chài phơi phóng thật khô cho vào chiếc hòm sắt khóa lại, không làm nghề chài mò nữa. Đến bữa, trước khi cả nhà ăn cơm, ông lại lấy tờ tiền ấy ra, đặt lên mâm và bảo tôi, giọng rất nhẹ nhàng nhưng tôi vẫn nhận ra tiếng gió rít nhẹ trong kẽ chân răng: - Con cứ ăn đi. Từ nay nhà ta không ai phải làm gì nữa, đã có mẹ con đi làm kiếm tiền về nuôi bố con mình rồi. Một tuần ròng rã, tôi nghe mẹ van xin cha nhưng ông vẫn tịnh như không nghe thấy gì. Mỗi bữa ăn là nước mắt mẹ lưng tròng chan cơm. Rồi một sáng, mẹ cắp rổ đi chợ và không bao giờ trở lại nữa. Đến tối, cha không thấy mẹ quay về, ông chèo thuyền đúng ba ngày ba đêm đưa tôi sang khúc sông khác. Ông làm nghề chài mò trở lại nhưng cũng từ đấy ông đổi tính đổi nết, hay uống rượu và thường đưa những người đàn bà lên thuyền, rồi sau đó một hai hôm ông vứt trả lại bờ. Cá đánh được ông không cho mang lên chợ bán, ai muốn mua xuống bến nói cần con to hay nhỏ, nặng bao nhiêu là ông chui vào khoang, lật tấm ván lát thuyền bắt mang lên. Bây giờ ngồi nhớ lại, tôi vẫn thấy căm thù mấy đứa trẻ trâu xóm bãi đã rủ tôi chơi trò trốn tìm. Tôi muốn đập nát cái khoang mũi để cho tôi nằm trốn trong đó. Tôi hận với chính tôi đang chơi lại lăn ra ngủ và tại sao lại tỉnh giấc vào lúc ấy. Liệu hôm đó tôi cứ lang thang chơi với lũ trẻ trâu xóm bãi bắt cào cào châu chấu hay trò ném pháo đất thì mẹ có phải bỏ tôi đi như thế không? Và nữa, nếu cha không căn vặn tôi vì sao lại khóc, bỏ cơm không chịu ăn để tôi phải nói cho cha biết? Nếu tôi biết nói dối? Nếu cha không ném đồng tiền năm nghìn xanh lét xuống mâm trước mỗi bữa ăn cùng câu nói mười lần như một thì mẹ có ở lại với cha và tôi không? Mẹ bỏ tôi mà đi có một phần do lỗi của tôi? Mẹ ơi, giờ này mẹ đang phiêu bạt nơi nào. Thương mẹ, nhớ mẹ, tôi chỉ dám gọi thầm trong bụng. 4 Có một chiều chỉ có hai cha con ngồi ăn cơm trước khi ông đi bỏ mồi, tôi hỏi. - Tại sao lại có sông hả bố? Vừa bưng bát cơm lên và, ông nói giọng còn lụng bụng trong miệng. - Vì đời sinh ra bố. Nghe ông nói thế tôi không dám hỏi thêm kẻo bát cơm ông đang bưng trên tay có cánh bay sang mặt tôi. Mấy năm trước, cha tôi cũng nhặt được một người đàn bà trên bờ đưa xuống thuyền. Cô này nói luôn mồm, thấy cái gì cũng hỏi mà hỏi đến cu ty tỷ muội. Một lần cũng trong bữa ăn, cô hỏi bố tôi về chuyện tại sao con sông này có tên gọi là Bo, con sông kia có tên là Mã, con sông nọ có tên là Sứ. Sau mấy câu trả lời ậm ừ, cô ấy cứ hỏi mãi. Chẳng nói chẳng rằng, ông ném luôn bát cơm đang bưng trên tay vào mặt, chửi. - Miệng thối như cứt mà ăn cơm cứ nói lắm. Bọt phun phè phè ra hết mâm còn ai dám ăn. Cô về hỏi thằng bố cô ấy. Dứt lời, ông đứng lên bế thốc cô ném thẳng lên bờ, nhổ neo đẩy thuyền đi tịnh không thèm ngoái đầu nhìn lại. Tính ông là thế, không thích lằng nhằng, làm chài thì cứ việc giỏi bỏ mồi bắt cá, ông chúa ghét thói lính canh ngó chuyện triều đình, đầu không ra đầu mà cuối cũng chẳng ra cuối, vạ rách chuyện. Ăn cơm mốc nói chuyện tám thơm. Biết tính ông thế nên tôi thôi. Ừ, thì cứ coi ông là dòng sông đi. Sông cũng có khúc lở khúc bồi, khúc trong khúc đục, có tội lỗi, có tật nguyền như con người trên bờ kia, cũng có kẻ này người nọ, nếu không làm sao mẹ bỏ tôi khi mới hơn mười tuổi đầu mà ra đi cho được. Để giúp cô Hến nhóm lửa nấu cơm, tôi nhẩy xuống sông mò tìm lại mấy thứ cha tôi vừa quăng xuống nước. Với tôi, không nói khoác, là con gái thật đấy nhưng chuyện bơi, lặn khó có thằng trai trên bờ nào thắng nổi. Có một lần duy nhất trong đời cha nói vui với tôi. Ông bảo tôi sau này lấy chồng, nếu nó léng phéng con cứ lôi nó xuống sông mà dần. Ăn cơm nước xong cả nhà đang chuẩn bị nhổ sào chuyển đi khúc sông khác thì chả hiểu.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> sao, cô Hến múc nước rửa bát ngã xuống sông. Tôi còn đang mải thu dọn các thứ, sắp xếp cho gọn, vì trong ngôi nhà thuyền rộng năm, sáu mét vuông nếu không biết cách sắp xếp thì đến chỗ đặt chân cũng chẳng có. Thực ra công việc này là của cô Hến vì dù muốn hay không cô cũng là người phụ nữ nhiều tuổi nhất trong nhà, thương cô nên tôi làm giúp. Mới lại, không biết cô có tồn tại bên cha tôi được lấy ba bảy hai mốt ngày không hay lại như những người đàn bà trước đây, lâu thì một ngày, nhanh thì một đêm đã bị ông quẳng lại bờ cùng mấy tờ bạc nhàu nhĩ tanh mùi cá. Dẫu sao, tôi cũng là người biết tính biết nết của cha và đã quen với sự sắp đặt trong khoảng không gian chật chội này rồi. Mải làm nên khi cô ngã xuống sông tôi không để ý và với những người nhà chài như cha con tôi, ngã xuống sông là chuyện vặt. Rơi xuống rồi thì bám vào thành thuyền mà trèo lên. Người nhà chài có ai chết đuối bao giờ. Còn cha tôi, khi cô ngã ông biết nhưng mặc. Với ông, muốn ở nhà chài thì phải biết tất cả những gì của đời chài cần có, cho dù nó vất vả, khốn khó đến mấy, bằng không, quy luật cuộc sống sớm muộn nó cũng đào thải. Con người ăn, uống vào rồi cũng phải thải ra, không thải ra được sẽ chết. Nhìn thấy cô ngã song ông vẫn ngồi điềm nhiên hút thuốc. Đời chài động một tý là chạm nước, không những thế, tất tần tật những gì gọi là sự khắc nghiệt của thiên nhiên người chài phải chịu hết. Từ nắng mưa đến bão gió, người làm chài phải hứng chịu nguy hiểm hơn người trên bờ vì không được nương tựa vào đâu. Rồi hơn thế, vào mùa lũ, người trên bờ làm ầm ĩ lên nhưng thực ra cũng chỉ nói cho to, đứng để xem chứ có làm được gì. Người làm chài thì khác, phải trực tiếp đối diện với nó. Lũ, năm nào chả thế. Lũ đến rồi đi, dăm bảy lần cũng chả nhằm nhò, hề hấn gì. Lũ là việc của trời, còn chúng tôi, đánh chài bắt cá là việc của chúng tôi. Trời có lúc nắng lúc mưa thế thôi. Để tồn tại được những người sống trên sông nước phải tự thích nghi với cuộc sống. Ngày mới lên hai, để có thể tồn tại được với cuộc sống sông nước, cha ném tôi xuống sông mặc tôi chìm nổi tập bơi, giẫy giụa quẫy đạp trong nước chỉ đến khi nào sắp chìm mới lấy vợt xúc lên. Những ngày đầu tôi uống căng bụng nước, ông cầm hai chân dốc ngược rồi quay vòng tròn cho nước tháo ra ngoài. Mẹ tôi thắt gan thắt ruột nhưng không thể làm trái ý ông. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cứ chiều chiều là ông quẳng tôi xuống nước. Lúc đầu chân tay còn quềnh quàng như chó, lũm bũm đập nước để ngoi lên, sau rồi quen dần, tôi tự học được cách bơi như thế nào cho nhanh, cho đỡ tốn sức. Những đứa trẻ dân chài lên hai phải biết bơi, lên ba đã phải tập chèo thuyền, vá lưới, phân biệt chài năm, chài bảy hay chài chín. Lên bốn tập nhìn sóng biết gió, nhìn nước biết độ nông sâu. Năm tuổi, nhìn tăm biết cá, biết mùa đi đàn tìm nơi sinh sản. Sáu tuổi, đêm nằm ngửa mặt lên trời biết mai nắng mưa hay bão gió, bấm đốt ngón tay tính được ngày con nước. Bảy tuổi đã trở thành dân chài thực thụ, một mình có thể xoay sở tự kiếm sống, xòe bàn tay chai dày như người làm rèn, đánh búa. Cha bảo tôi, chẳng có trường lớp nào bằng cuộc sống đang bày ra trước mắt, để sống con người phải tự biết làm gì. Kẻ ở rừng phải biết cưỡi ngựa bắn cung. Kẻ làm ruộng phải biết cày, bừa, cấy lúa. Kẻ sông nước phải biết bơi lặn, quăng chài. Khi chợt nhớ ra cô Hến là người trên bờ làm sao biết bơi như tôi thì cô đã chìm dưới nước không còn thấy cánh tay giơ lên quờ quạng cầu cứu. Từ trên mui thuyền tôi lao vội xuống sông, lúc này chắc cha tôi cũng nhận ra cô Hến không phải người chài, ông phóng mình từ trong khoang lao xuống không khác gì con nhái. Tôi không nghĩ sau sự việc xảy ra cô Hến lại là người chủ động ra đi mà không cần cha tôi quăng trả cô lại bờ như những người đàn bà khác. Trước lúc đi, cô nói với cha giọng thật nhẹ nhàng mà sao nghe tha thiết lạ: - Em biết rồi anh cũng ném trả em lại bờ như những người đàn bà khác. Để anh làm điều đó anh vừa mang tiếng mà em cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì, một ngày nên ngãi, em xin đi để giữ tròn điều tiếng cho anh. Trước khi xa anh và con, em chỉ xin nói với anh một điều,.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> hận thù chỉ làm cho con người tăm tối. Rồi còn con nữa, nó sẽ sống ra sao khi cuộc đời chỉ một màu đen của lòng căm giận. Nghe cô nói cha không có phản ứng gì. Ông ngồi bất động, tay xoay xoay chén nước trà mà cô Hến vừa pha cho. Chén trà đặc, nóng khi uống còn đăng đắng trong cổ, uống xong mới thấy vị ngọt và hương thơm của trà, thói quen, ý thích của cha như hút thuốc lào ngon vậy. Nói xong, cô đưa tay kéo tôi vào lòng, vuốt nhẹ lên tóc. Vô tình, ngón tay cô vướng vào mấy sợi tóc rối. Cô lấy hai tay giẽ giẽ ra rồi khẽ khàng luồn vào như chải thêm một lần nữa. Tự nhiên tôi ép đầu vào ngực cô. Từ ngực cô, tôi nhận thấy có một mùi rất quen mà tôi đã ngửi thấy lâu lắm rồi, không thể nhớ nổi. 5 Cô Hến bỏ đi chả hiểu sao cha cũng từ bỏ ý định di chuyển sang khúc sông khác như dự kiến ban đầu. Ông cũng nghỉ làm chài mấy hôm, chỉ ngồi hút thuốc lào và uống nước chè mặc tôi làm gì thì làm. Lấy cớ nhà hết gạo, rau ăn tôi xin phép cha đi chợ mua sắm. Cắt đường tôi tìm về bến Trầm. Cô Hến đón tôi niềm nở trong ngôi nhà ba gian mái ngói nằm khuất sau rặng tre gai cuối xóm. Ngôi nhà quạnh vắng, âm ẩm, vôi trên các bức tường tróc loang lổ để lộ ra những đường mạch xây lở loét. Ngay chiếc bàn gỗ uống nước kê ở gian giữa khi chạm tay tôi có cảm giác lành lạnh. Tất cả các đồ đạc trong nhà được xếp đặt ngăn nắp chứng tỏ chủ nhân của nó là người chỉn chu và rất sạch sẽ. Ôm tôi trong lòng nước mắt cô rơi lã chã. Nép đầu vào ngực cô, tự nhiên tôi lại bắt gặp mùi quen quen mà tôi đã gặp ở đâu đó lâu lắm rồi còn lưu lại trong tiềm thức. Cô luồn tay vào trong tóc tôi, nhẹ nhàng gỡ những chỗ tóc gió làm rối khi tôi đi đường. Nói cái gì, bảo cái gì cô đều gọi tôi là con. Cô hỏi cha tôi mấy hôm nay như thế nào, sức khỏe ra sao rồi tất tần tật các chuyện ăn uống, sinh hoạt hàng ngày từ khi mẹ tôi bỏ đi đến nay. Mới có ba bốn hôm mà cô hỏi cứ như đã xa cả năm, cả tháng. Và tôi không thể tin được những điều cô kể, sự thật đấy nhưng sao nó đến nhanh và bất ngờ quá, một sự thật đến phũ phàng, tàn nhẫn. Nhà cô có hai chị em. Mẹ cô sinh ra cô thì chết do băng huyết. Bố cô một mình làm lụng nuôi hai chị em đến khi cô lên năm thì ông đổ bệnh và cũng mất. Người chị lên bảy, người em lên năm phải sống dựa vào sự đùm bọc cưu mang của bà con lối xóm. Thời gian cứ trôi đi, cuộc sống cũng dần dần ổn định khi cả hai chị em đã lớn. Để có thời gian lo toan cho người em ăn học mong sao có ngày ngẩng mặt nhìn đời, chị cô đã từ chối tất cả những chàng trai trong xóm đến cầu hôn. Rồi người em cũng học xong trung cấp sư phạm và lên dạy trên vùng cao. Người chị ở lại nhà, sau thời gian nuôi em ăn học lúc này tuổi cũng đã lớn. Nhà quê, con gái hai lăm hai sáu tuổi đã chẳng có người con trai nào để ý. Rồi một ngày có một người trai làng bên đến ngỏ lời yêu thương, người chị đã dồn tất cả tình cảm của mình cho người đó. Khi biết mình có mang, người chị nói cho chàng trai đó biết. Không ngờ, khi nghe chị cô thông báo, chàng trai đó đã từ chối và tìm cách lảng tránh. Lo lắng cùng quẫn, sợ điều tiếng, người chị đã bỏ nhà đi đến khúc sông làng bên rồi tự tử những mong rửa sạch nỗi nhục nhã mà đời mang lại. May mắn người chị được một người làm chài trên sông cứu sống. Nghĩ đấy là duyên phận trời định và cũng để trả nghĩa, người chị đã ở lại làm vợ người đó. Bao nhiêu năm người chị đã phải giấu giếm thân phận và sự thật để sống một cuộc sống không phải của mình. Nhưng rồi vì người đàn ông đó tính tình khô khan, cuộc sống sông nước không có hy vọng, gặp quá nhiều khó khăn lại vô tình gặp một người đàn ông khác, nói năng cư xử không như người chồng, kinh tế lại khá giả được người đó chiều chuộng nên đã sa ngã. Biết đó là nỗi nhục của cuộc đời, người chị đã cố gắng làm mọi việc mà ông yêu cầu để mong cứu vãn gia đình. Nhưng người chồng đã không tha thứ, mỗi khi đến bữa ăn, ông lại đem đồng tiền mà người vợ ông bắt xin của kẻ đối địch về bỏ xuống mâm. Nhục nhã ê chề, người vợ đã dứt ruột bỏ con ở lại để đi.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> tìm cái chết. Trước khi chết, người đàn bà ấy đã viết thư nói toàn bộ sự việc cho người em đang làm giáo viên trên miền ngược và nhờ cậy cô trông nom con gái và người đàn ông đã cứu sống mình. Thương chị, người em đã bỏ dạy về để đi tìm. Một lần ra bến sông, cô vô tình nhìn thấy người con gái con ông thuyền chài đang tắm có cái bớt đỏ bên vai trái như lời người chị dặn lại. Và cô đã trở thành người đàn bà ông nhặt được ở bến Trầm này. Người ấy chính là cô Hến và người chị không ai khác là người đàn bà mà cha đã nhặt được ở mó bỏ mồi cá ngày nào, người đã sinh ra tôi. Kể xong cô Hến đưa tôi đến trước tấm gương tủ, kéo vai áo trái tôi xuống. Chiếc bớt đỏ tròn như đít bát nằm ngay đầu xương bả vai trái, chiếc bớt đã có bao năm rồi mà tôi không hề biết. Cô đưa tôi đến trước bàn thờ, kéo tấm vải che. Trên bàn thờ có ba tấm ảnh, hai người đàn bà và một người đàn ông. Trong hai người đàn bà ấy có một người là mẹ tôi. Nhìn sâu vào tấm ảnh của bà, hình như bà đang khóc, một vệt trắng mờ chảy dài xuống má. Bất giác tôi gào lên: Mẹ ơi. Tôi ngã quỵ xuống. Tôi lao ra ngoài, theo cánh đồng trước mặt cắm đầu chạy. Tôi không biết chạy đi đâu, chỉ biết rằng chạy thật xa, xa thật nhanh sự thật mà cô Hến vừa cho biết. Trên cánh đồng đang chờ đổ ải, những thửa ruộng đất phơi nắng vỡ dưới chân, bàng bạc trắng, bước chân tôi trật truội, xiêu vẹo vô định giữa một khoảng không gian mênh mông... Một toán đánh dậm quây tròn, tru tréo như bầy sói săn vớ được mồi. Chúng dằn tôi xuống triền đê. Tiếng cúc áo đứt, tiếng xé vải áo, tiếng lột quần... Trong ánh sáng nhờ nhờ và tiếng thở đứt quãng, tôi nhận ra có một khuôn mặt đứa trẻ chăn trâu ngày trước chuyên rình, nhìn trộm tôi tắm dưới sông. Có cả mùi máu tanh tanh bọn con trai leo cành bàng ngã rơi xuống sông ngày nào bị gãy tay. Khi tất cả đã mệt nhoài vì no nê, thỏa mãn, chúng hè nhau đứa cầm tay, thằng túm chân ném tôi xuống sông... Theo dòng chảy tôi trôi xuôi, đôi tay quờ quạng, giật mình nhận ra đang nằm trong mó bỏ mồi cá mà lớp bùn chưa kịp lấp đầy và cứ nằm đó, rất muốn nằm đó thật lâu cho dòng nước xoa dịu nỗi cồn cào như sóng cắn dứt ở trong lòng. 6 Khi tôi tỉnh lại thấy mình nằm trong lòng thuyền, cô Hến đang hì hụi ở bếp cuối đuôi thuyền. Còn cha, ông ngồi cạnh bậu cửa phía khoang mũi, hai chân buông dưới sạp, tay vê vê điếu thuốc lào, như ngày nào mỗi khi mẹ đi chợ về mua cho ông lạng thuốc, ông quay người lại khen mẹ mua thuốc ngon. Đêm qua, cha tôi ngồi im phắc, chong chong đèn, thức trắng đêm. Ông nhìn tôi xanh lướt, bấy dậy như cua lột gặp bão. Ngọn đèn chai lù mù hắt bóng ông lên vách cong mui thuyền, chập chờn. Tôi nằm gọn như con mèo vào lòng cô Hến, không còn nước mắt mà khóc nữa. Nhưng cha tôi thì lại khóc, khóc lúc gần sáng. Tôi thấy ông hai lần lén nâng tay áo chùi nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi, lần đầu tôi nhìn thấy trên mặt người cha. Sáng trắng. Cha tôi không đem mồi đi đánh chài. Ông rút sào, giọng nói chắc nịch không biết nói với tôi hay với cô Hến: - Từ nay, nhà ta chuyển thuyền về bến Trầm. Dứt khoát không về đây đậu thuyền nữa. Có tiếng ai đó gọi phía bờ bên kia, nơi cây bàng già nua có những cái rễ mọc trồi lên làm chỗ buộc trâu: - Bác chài ơi. Sáng mai có cá để lại cho tôi mấy con nhá. Tôi nhoài người ra nhìn về phía bên kia bờ, ngước lên cây bàng. Cây bàng đã trút sạch lá, phía đầu chót cành có những chiếc búp nhỏ mầu sâm sẫm nâu. Cây bàng đang vào mùa thay lá mới. Tôi nhìn xuống dòng sông. Trên mặt nước, một vài đám bèo tây trôi lững lờ, thỉnh thoảng lại có vài ba đám rều, rác trôi theo. Những dòng sông cha và tôi đã đi qua, có con sông rộng, có đoạn sông hẹp, có lúc nước trong, có mùa nước đục, có nơi nhiều cá, có khúc ít cá. Con.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> sông thưỡn thẹo nằm thườn thườn mệt mỏi, vô hồn. Nếu dòng sông là cuộc đời thì những người làm chài sẽ có hai cuộc đời, một cuộc đời của người và một cuộc đời của sông. Trong cuộc đời ấy, những căn nhà thuyền, những chiếc máy sùng sục ngày đêm hút bùn, đào bới, khoan khoét, những rều rác phải chăng là vết sẹo năm tháng còn hằn sâu đời sông. Dẫu trong hay đục, dẫu mùa mưa hay mùa khô, dẫu là gì đi chăng nữa thì sông vẫn cứ là sông. Nơi ấy tôi đã sinh ra. Tôi chỉ cần biết thế. Và sông ơi, còn những điều khác nữa, sông hãy giấu giùm tôi sông nhé, những khiếm khuyết tật nguyền của cuộc đời. Đời đã sinh ra cha để cho những dòng sông, còn tôi, sông đã sinh ra để cho những cuộc đời như cha, mẹ và cô Hến. P.T.K ĐÁO BỈ NGẠN Thứ sáu, 14 Tháng 9 2007 21:26 N gười khách cuối ngày vẫn chưa chịu về dù ông đã từ chối viếng thăm bằng im lặng. Hắn tới “xin ý kiến anh” nhưng thật ra để thăm dò ông còn bao lâu chết. Mặt hắn phủ đầy bóng mây buồn bã nhưng không che giấu được tia nắng nhảy nhót trong đáy mắt khi sắp được thay ông làm giám đốc. - Mẹ thằng Nhất! Ông gọi vợ bằng cái giọng của đứa trẻ buồn ị gọi mẹ khiến hắn phải ngừng lải nhải, đứng dậy: - Em về! Gắng anh nghe! Vợ ông tất tả lấy bô nhưng ông mệt nhọc khoác tay bảo đừng và nhắm mắt lại. Truyện ngắn. QUẾ HƯƠNG ______________________ Lượng khách đến thăm ông giảm dần theo thời gian. Đầu đông như hội. Sau lác đác. Có người ông tiếp bằng nụ cười héo hắt. Có người ông nhắm lại. Ông nói ít, hầu như chỉ trả lời: có - không. Cái nhìn trống rỗng. Bước chân ai ra cửa cũng nhẹ nhõm vì không phải mình sắp chết. Ngay cả bà vợ tận tụy của ông giờ cũng đã quen với chuyện ông sắp ra đi và những đứa con đến thăm đã hồn nhiên nói cười như thể việc ấy chẳng can sự gì đến cuộc sống chúng nó. Khi mở mắt ra, ông bực mình thấy một vị khách ngồi trên chiếc ghế bên giường. Lão ta trông lạ hoắc, vào khi nào không hay. - Mẹ thằng Nhất! - Gì thế mình? - Mời khách ra! - Có ai đâu? - Bà ngạc nhiên? - Đui à? - Có ai đâu?- Bà lặp lại. Lão ta vẫn ngồi trên ghế, giương mắt nhìn ông. Một gương mặt lạ lẫm, không gian hoạt, đớn hèn khúm núm hay vênh vang tự đắc như những khuôn mặt ông thường gặp mà bình lặng đến phẳng lì! - Ông là ai? Im lặng. Kẻ im lặng là kẻ yếu hoặc mạnh. Vợ ông hoảng hốt khi thấy ông không bình thường. - Mình nói với ai thế? - Không có ai trong phòng thật sao? - Thật. Ông quay mặt vào tường. Một luồng khí lạnh phả ra làm lưng ông lạnh buốt. Ông quay ra. Lão vẫn ngồi đó..

<span class='text_page_counter'>(81)</span> - Ông là ai? - Ông hoảng hốt. - Bạn. - Tôi không biết ông. - Ta đồng hành với người từ khi sinh ra. Có khi gần đến nỗi giơ tay là chạm… - Ông là…? - Không dám nói tên ta ư? Có khởi đầu là có kết thúc, không kết thúc mới là bi kịch. Mọi người sinh ra để biết nỗi kinh hoàng khốc liệt này - ai cũng phải chết. Chịu khó thôi! Lão quét cái nhìn lạnh như nước đá lên người ông khiến ông đông cứng trong nỗi sợ hãi. Vẫn biết cái chết sẽ ập đến với mọi cuộc đời nhưng khi người khác chết, điều ấy ở ngoài ông, mơ hồ xa xôi. Giờ đến lượt ta - ông nhắm mắt lại. Khi mở mắt ra, ông vẫn còn sống mà lão đã đi. Ghế trống trơn. Ông không nhìn thấy gương mặt trơ lì cảm xúc của lão nữa. Nhưng thấy nó - cơn đau lì lợm, dai dẳng, quen thuộc. Nó đang thong thả dạo bước trong xương thịt ông. Giữa nó và Lão, ai dễ chịu hơn? * - Đêm bà có nghe thấy gì không? - Thỉnh thoảng ông rên. - Tôi mơ chuột gặm ngón chân mình và ai đó hát đều đều bên tai. - Hát gì? - Một bài vè tôi nghe ở Đồng Tháp mấy năm trước: “Cái đồ gặm nhấm. Cắn huỷ cắn hoài. Mặt dạn mày dày. Cắn hoài cắn huỷ…”. - Tại tâm ông bất an đấy thôi! Giấc ngủ ông giờ cũng bệnh, đầy ác mộng. Chân dài thơm phức, ngực vun như núi kéo vào lòng da thịt nõn nường mọc lông mọc lá. Sơn hào hải vị bỏ vào mồm biến thành đất cát. Những tòa nhà lẩy bẩy như âm binh không đủ ngày tháng đổ ập xuống người ông… Không ngủ, càng khổ. Tiếng chuông gọi hồn của lão cứ rõ mồn một dọc hành lang bệnh viện. Gọi ai hôm nay. Gọi ai ngày mai? Giờ thì ông đã nhận ra lão qua những hồi chuông báo tử vọng từ xa thẳm. Có khi chuông rung khi tiếng cười chưa dứt, cái chết xé gió mang hình nụ cười, không kịp đớn đau, kinh ngạc. Có khi cái chết đến từ mọi phía, dữ dằn gớm ghiếc, chuông gióng giả từng tràng át cả tiếng con chim sắt xé nát bầu trời, tiếng bom nổ, cây đổ, đất đá rào rào. Diện mạo cái chết khác nhau nhưng chuông gọi hồn bao giờ cũng thế. Mồn một và đĩnh đạc. Suốt ngày ông nghe văng vẳng tiếng chuông. Từ quá khứ vọng về. Hiện tại vọng đến. Nhét bông vào tai vẫn nghe. Tôi muốn về nhà - ông thều thào. Vợ ông chưng hửng rồi chìu. Vả lại, bệnh viện ung bướu trong nước và cả bệnh viện Thái Lan đều đã lắc đầu trước lá gan mục nát. Từ khi thấy lão, ông biết cuộc chiến đấu với thần chết đã vô vọng. Tiền và sự tiến bộ của khoa học không cản được bước chân lạnh lùng của lão. Về thôi! Kẻ đón ông cuồng nhiệt đến ứa nước mắt ngay từ ngõ là con Vàng. Nó rên ư ử như giận dỗi vì sao ông đi lâu thế, rối rít chạy theo cáng, chui tọt xuống giường đánh đuổi cũng không chịu ra. Lão cũng có mặt. Áo choàng đen tối hơn huyệt mộ. Cái bị bắt hồn phồng to. “Người này thế mà đi trước ngươi!” - lão ngó người em họ hồng hào khỏe mạnh mới trên bốn mươi. “Còn gã này cũng theo ngươi - vì nhậu!” - lão chỉ tay trưởng phòng kế hoạch vừa ló.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> mặt. Lão vuốt con Vàng bằng bàn tay xương xẩu khiến hắn như bị điện giận sủa ổng lên: “Không thể sống thiếu chủ!”. Căn phòng lạnh và tối hẳn khi có lão. Nắng vàng vọt. Gió lẩy bẩy. Nỗi sợ hãi làm tóc tai ông dựng đứng. Không, ông không muốn chết. Ông có trong tay mọi thứ - quyền lực, tiền bạc, những mảnh đất đẹp như mơ “ăn” từ các dự án, những em chân dài xinh như mộng… “Ta đi rước 5 thằng nhóc chán sống đèo nhau trên một chiếc xe. Sinh tử như hơi thở vào ra của vũ trụ nên lúc nào ta cũng có việc”. Lão vụt ra như làn khói còn ông nhìn tay trưởng phòng kế hoạch đang nói huyên thuyên, hình dung hình hài béo tốt ấy sẽ dán vào giường như mình. Cuối cùng lão chộp được tất. Có ai thoát đâu! Lão đến để kết thúc mọi cuộc đời, chỉ sớm hay muộn. Sợ cũng vô ích. Nhưng còn mẩu thời gian bé tẹo này, nó vẫn là của ông, không phải của lão. Ông sẽ mút nó như mút viên kẹo cuối cùng. Đúng là lão đã đi. Ông cảm thấy đỡ buốt giá. Nghe tiếng thở của con chó dưới gậm giường. Tiếng lá rơi ngoài cửa sổ. Có nhẹ nhàng không nhỉ lá ơi! Xôn xao một đỗi rồi lặng im. Vợ ông đút cho ông vài muỗng sữa Ensure nhưng ông đẩy ra: - Tôi muốn ăn bánh nậm bà làm! Người vợ ngẩn người kinh ngạc. ở bệnh viện về mấy hôm nay ông không ăn được, chỉ uống sữa hoặc truyền, làm sao ăn bánh nậm? Cũng dễ đã trên 20 năm ông không ăn món ruốt ruột của bà. Các món bánh lá, bánh canh ấy đã nuôi sống gia đình những năm khó khăn nhất rồi bị lãng quên không thương tiếc khi cuộc sống thay đổi. Đúng là chồng bà sắp ra đi! Cho ổng ăn, ổng gửi những gì ổng thích còn hơn sau cúng ruồi. Bà tất cả đi chợ mua lá, bột gạo, tôm tươi, chuẩn bị tỉ mỉ từng chút như để tặng ông món quà cuối cùng. Đích thân bà chấy tôm, làm chả, dáo bột, gói bánh, sống lại một quãng đời cũ, vừa làm vừa chậm nước mắt. Bà biết ông sắp ra đi. Những kẻ sắp chết thường rất lạ lùng. Mùi bánh hấp chín nhẹ nhàng đưa vào tận phòng người bệnh khiến ông ứa nước bọt. Đã lâu lắm rồi mới ngửi lại mùi hương thanh đạm rưng rưng của quá khứ. Xa xa như từ kiếp trước, tiếng rao lanh lảnh của bà dội vào tim ông: “Bánh canh, bánh lọc, bánh nậm nóng hổi đây…!” Lúc ấy lão đến. Lão tò mò nhìn chiếc mẹt tre mới toanh còn thơm mùi đồng nội. Trên mẹt để đĩa bánh lá sắp theo hình rẻ quạt, châu đầu vào quả ớt đỏ tỉa hoa. Đầu mỗi chiếc bánh đội một chiếc chả tôm hồng nhạt cắt theo hình trăng khuyết trông như chiếc vương miện. Chén nước mắm vàng nhạt trong vắt điểm mấy lát ớt đỏ thắm. Đúng kiểu quà Huế, thanh đạm mà tinh tế. Bà đỡ ông ngồi tựa vào gối, mở lòng lá nóng hổi, xắn đút cho ông từng mẩu nhỏ như đút cho em bé. - Ăn cái cho biết! Không ai qua mặt bà ấy về món này! - Ông buột miệng mời. - Mình nói với ai thế? - Với tôi. Lão nhón một miếng chả tôm hình trăng khuyết bỏ vào cái mồm tối thui không răng say mê nhóp nhép. Thấy lão ăn ngon lành ông thều thào: - Chả… Kệ. Thích cứ chìu. Bác sĩ bảo không còn hy vọng nữa - Bà tự nhủ rồi xắn đút cho ông mẩu chả tôm nhỏ. Ông ngậm trong miệng nhưng mùi cuộc sống vẫn không đánh dạt vị.

<span class='text_page_counter'>(83)</span> ốm đau nhàn nhạt. Đắng nghét. Lão vừa đi. Ông nôn thốc tháo. * Ông đối mặt với cái chết đang nhích lại gần với vẻ tò mò. Ông từng chứng kiến nhiều cái chết - nóng hổi, tươi rói, dịu dàng, bạo liệt. Với ông, lưỡi hái của lão cùn hay sắc? Một người bạn năm xưa tới thăm khuyên ông tập thở bụng. Phình bụng thít vô. Thóp bụng thở ra. Gạt mọi phiền não, chỉ kiểm soát hơi thở vào ra để biết mình đang sống. Khi cơn đau quen thuộc bên sườn trỗi dậy, lì lợm, bướng bỉnh, ông làm theo bạn, chuyên chú vào nhịp thở. Hớp căng đầy ngụm không khí, đẩy vào tận mọi ngõ ngách, đối đầu với cái đau và có khi đánh dạt được cả nó. Đúng là gần chết mới biết thở. Gần chết mới nhận ra cái đẹp lạ lùng của trần gian mà mình sắp xa lìa. Cây bàng bên bờ tường đối diện cửa sổ phòng ông ở đấy từ lâu mà tâm hồn hoang mạc của ông có bao giờ thấy? Giờ nằm đợi chết mới có dịp ngắm. Sắc vàng nâu trầm tĩnh chuyển qua đỏ lộng lẫy như trút hết sinh lực đẹp lần cuối rồi nhẹ nhàng lìa cành nhường cho chồi biếc, mầm non. Kết thúc cái này là để bắt đầu cái khác. Không kết thúc mới là bi kịch. Lão đã bảo thế. Cái chết xâm chiếm ông từng ngày, nhưng cũng theo từng ngày, một sự sống khác lại quẫy cựa, trồi lên. Dường như có một thằng bé chui ra từ hình hài mục ruỗng của ông, đái lên trái tim khô của ông làm nó ướt đẫm. Hắn giẫm lên tâm hồn băng giá của ông khiến băng tan chảy thành buồn thương, xấu hổ. Hắn nhìn mọi thứ bằng cặp mắt ngạc nhiên và lạ lẫm. Hắn nhảy nhót và hát: Ta bị nhốt quá lâu. Trong tấm thân máu lộn mỡ. Trong cái đầu ma quái. Đầy mưu ma chước quỷ. Trời xanh trong thế này ư? Hoa đẹp thế này ư?... Ông khước từ thăm viếng, quà cáp. Chiến đấu với đớn đau bằng sự dũng cảm và trầm tĩnh. Trên gương mặt in dấu thần chết, đôi mắt lại sống, da diết thiết tha. Sự bình thản của ông làm bầu không khí nặng nề của ốm đau chết chóc vơi nhẹ. Ngôi biệt thự mang dáng dấp một mái nhà bình yên. Không tiếng đóng sập cửa xe, tiếng giày nện quyền uy, tiếng quát tháo, tiếng thì thầm xin xỏ, biếu xén. Cổng đóng. Chuông điện tắt. Cây cỏ im lặng xanh. Con Vàng gần như túc trực trong phòng. Hơi thở của nó hòa với hơi thở người bệnh và ông lắng nghe với sự thương cảm. Gần chết ông mới hiểu tấm lòng của một con chó. Hất củi, quát tháo mà vẫn lăn xả vào thương. Gần chết mới biết dịu dàng với người vợ hiền tận tuỵ. Dịu dàng đến nỗi bà khóc. Đúng là chồng bà sắp ra đi. Bà không còn nhận ra ông trong những ngày này. Ai đó đã nhập vào người chồng độc đoán của bà, người mà mỗi cái liếc mắt, quát tháo, ra lệnh đều thể hiện quyền lực tối thượng của một ông chủ. Người đã chê bà già, không đầu ấp tay gối, không đi cùng, không chia sẻ. Người ấy hôm nay lại cầm tay bà, dịu dàng săm soi bàn tay đầy vết chai sần, lổm ngổm gân xanh. Cái nhìn day dứt, ấm áp. - Sao bà không sai chúng nó, làm chi cho khổ? - Người khác làm tôi không yên tâm. Chỉ tôi mới thuộc hết những gì ông thích. - Bà có oán tôi không? - Tôi chỉ ước mình đau thay ông. Đàn bà chịu đựng giỏi hơn đàn ông. - Người ta chỉ được sống một lần, sai không làm lại được. - Có thể chết và sống lại trong từng khoảng khắc. Lúc này ông đang sống lại đấy thôi. Ông của ngày xưa và của tôi… Người đàn ông mạnh mẽ, quyền uy giờ bất lực, yếu ớt như một đứa trẻ và hoàn toàn của bà. Bà bón cho ông từng giọt sống, vỗ về ông khi đau, lau mình mẩy ông nhẹ nhàng.

<span class='text_page_counter'>(84)</span> như lau em bé - tẩn mẩn từng vết sẹo, từng cái nốt ruồi, nốt ghẻ thân thuộc. Bà nâng niu thằng nhỏ ỉu xìu héo quắt trong tay, hôn lên nó và để rơi những giọt nước mắt tủi thân. Khi nó khỏe, nó là của ai chứ không phải của bà. - Tha lỗi cho cả hai thằng bà ạ! - Ông thì thầm. - Nó có vẻ tươi dần trên tay tôi ông ạ! - Bà cũng thì thầm. - Có bà bên cạnh, cái chết bớt đáng sợ hơn. Da tôi vàng dần nhưng hồn tôi xanh lại, bà có thấy không? - Có. Xanh ngăn ngắt - Bà nhìn sắc da vàng nghệ ứa nước mắt. - Bà lại khóc? Đừng khóc! Từng phút quý giá còn lại không dành cho nước mắt! Này, bà mua cho tôi một con chó cái. - Làm gì? - Để con Vàng có bạn, khuây khỏa mà sống. Có những con chó chủ chết nhịn ăn chết theo bà ạ! Nó thương tôi lắm đấy! Nghe nhắc tên, con Vàng đang nằm dưới chân đứng dậy vẫy đuôi kêu ư ử. * Lão tạt qua, ngạc nhiên thấy ông có vẻ nhẹ nhõm, bình tĩnh. Lão bảo: “Tốt. Chết cũng phải học. Quẳng hết. Về tay trắng. Giờ ngươi như đứa trẻ tập đi, phải tự bước, không ai bước thay. Đừng sợ ngã. Không ngã nữa. Chỉ bay, nếu nhẹ như hạt bụi”. Và ông đã bay trong những cơn mê. Tấm thân nặng nề khi quẳng hết hỉ nộ ái ố, thoát khỏi những trò chơi khốc liệt của cuộc đời, nhẹ như phù vân. Ông bay vào những đám mây xốp màu sáng bạc, màu của hư vô bát ngát. Tắm gội linh hồn thanh sạch bằng tiếng ngân dài bay bổng của Sơn Ca, giọng rừng nguyên thuỷ mang theo tiếng suối reo, thác đổ của Chích Chòe lửa. Bay qua tán rừng xanh lục, nơi ông gửi lại một chặng đời trong trẻo tươi xanh khi lòng còn tinh khôi chưa lốm đốm u sần của tham vọng gian dối. Tuổi trẻ ông nhìn ông xa lạ còn đồng đội không nhận ra ông. Họ nằm lại giữa màu xanh và tiếng chim, linh hồn nhẹ như mây, làm sao nhận ra cái lão bụng phệ ăn đất và sắt thép này là chàng thủ kho xanh rớt ngày nào sẵn sàng ăn sắn nhường cơm cho đồng đội? Ông bay qua nơi nào mình tạo ra dâu bể - khách sạn, nhà hàng, quán nhậu mọc như nấm sau mưa trên dải đất nước trước kia là thôn xóm, ruộng vườn yên ả. Những ngọn lúa, ngọn rau bị vùi dưới đất lớp xi măng cốt thép ngóc dậy nhìn theo. Bay qua hội chợ phù hoa - Phòng VIP, rượu ngoại, cờ bạc, chân dài như ngọn lửa dịu êm thiêu đốt nhân cách và làm mục nát gan mình. Ông đảo lại lần cuối trên tòa nhà 3 tầng, công ty xây dựng và phát triển nhà ở. Phòng giám đốc, hắn đang ngồi. Hắn có ngồi tù thay ông, kẻ hạ cánh an toàn xuống cái chết? Ông cố tìm trong lô xô, bé tẹo dưới kia những mảnh đất mình “ăn” qua các dự án nhưng tất cả như những mảnh ghép hình trong thành phố đồ chơi. Người ông chợt sà xuống như diều đứt dây và ông nghe lão quát: “Về thôi!”. Ông rơi vùn vụt xuống hố thẳm không đáy, muốn mở miệng kêu mà không kêu được. Thân xác này không còn của ông nữa. Nó đã bị cái chết xâm chiếm. Ông nghe văng vẳng tiếng khóc gào, tiếng tụng niệm. Thấy mình nhấc bổng lên và tiếng Lão dõng dạc hô to: “Đáo bỉ ngạn!”(1) * Theo ước nguyện sau cùng của người đã khuất, di chúc mở ra có sự chứng kiến của. (.

<span class='text_page_counter'>(85)</span> gia đình và đại diện chính quyền. Trong di chúc có đoạn: Đến cuối đời tôi mới nhận ra lương tâm là quyền lực lớn nhất. Dưới quyền lực ấy, tôi xin để lại cho vợ và hai con những gì do sức lực, trí tuệ mình làm ra trong mấy năm gồm... Xin trả lại những gì do mưu ma chước quỷ tôi chiếm đoạt được gồm... Xin tha thứ cho tôi... Vừa qua giỗ đầu, thằng Nhất bảo: - Mẹ bán nhà chia cho tôi! Nhà này tôi cũng có phần. - Bán rồi ở đâu? - Ra nghĩa địa hỏi ổng. Trâu chết để da, người ta chết để của. Tự dưng đem khai ra rồi trả. Ngu! Cha mẹ ngu con khổ! Tui còn sống là còn oán ổng. Vì ổng ngu mà con cái xuống đời! Người ta ăn đầy ra đấy có ai tự nguyện trả đâu! Miếng đất ở ngã tư giờ phải mấy tỉ, xây khách sạn 3 sao tui đâu có thành thằng ma - cà - bông! Còn miếng ở đường… xây nhà hàng cho con Thanh làm chủ, hắn đâu có đi làm cực nhọc mà lương chỉ hơn triệu bạc. Cha mẹ ngu con khổ!... Ngu! Đại ngu! Rượu vào là cậu quý tử đem mỗi chuyện ấy ra nhấm nháp lai rai. Bà nuốt nước mắt ngước nhìn trời. Bà tin đám mây trắng nhẹ thênh bay ngang qua nhà là ông. Hình hài tan rã, tham sân gửi lại, chỉ còn linh hồn lãng du theo mây trắng. Từ khi ông mất, bà bỗng sinh chứng nhìn mây, khóc với mây. Chuyện con cái xâu xé nhau của cải. Chuyện chúng đã quen làm cậu ấm cô chiêu, tiêu xài như nước, gì cũng có người lo giờ tự đi không được. “Bay đi ông ơi! Đừng nhìn! Đừng nghe!” Những giọt nước mắt vô hình vẫn nhỏ trúng tâm hồn bà. Bà thì thào: “Ông khóc đấy ư?”. Năm sau ngôi nhà vườn tuyệt đẹp biến thành quán Hương Huế chuyên bán bánh nậm, bánh lọc, bánh bèo, bánh canh. Khách ngồi dưới bóng cây râm mát, ăn những thứ ăn dân dã nóng hổi, trình bày tinh tế, đẹp mắt. Bánh nậm xếp theo hình quạt, 10 cái một đĩa. Mở lòng mỏng mảnh, phơi dạ trắng ngần, điểm nhuỵ tôm hồng, chấm với nước chấm ngọt thanh, ăn kèm chả tôm cắt hình thoi, xếp thành đóa hoa vàng, gắp cứ tần ngần vì quá đẹp. Đĩa bánh ướt nhuỵ tôm cũng 10 cái, uốn cong thành 10 cánh hoa. Bánh bèo chén để trên mẹt tre, rắc nhuỵ hồng, điểm tóp mỡ giòn, ăn bằng chèo tre vót mảnh… Bắt mắt nhất là tô bánh canh Nam Phổ. Tô nhỏ để vừa say, chưa ngán, hòa quện tinh tế sắc màu và hương vị. Rẻ, ngon, đẹp mắt, lịch sự, khách vô quán nườm nượp, làm không kịp bán. Cuối ngày, khi xong việc, bà lại thắp lên bàn thờ một cây nhang thì thầm kể chuyện: “Hôm nay thằng Nhất có phụ tôi đôi chút ở quán! Nó hết đòi bán nhà rồi! Tôi đang tập cho nó đi. Khi nó bước vững vàng trên mặt đất tôi sẽ về với ông, ông ạ! Không có ông, cõi đời với tôi thật trống vắng!”. Tàn hương uốn cong như lời đáp. Đốm lửa như mắt người, lung linh đỏ… CHUYỆN Ở BẢN PIAT Thứ sáu, 14 Tháng 9 2007 21:15 Tôi được tăng cường lên Piát để chỉ đạo sản xuất. Một anh cán bộ chân trắng ở Phòng Nông nghiệp huyện, xuống cơ sở chỉ đạo sản xuất, nghĩ cũng kỳ lạ. Tôi toan từ chối, nhưng lại tặc lưỡi, cứ thử xem sao, thế là mới có chuyện. Nói là chân trắng thì cũng chưa hẳn, bởi mình xuất thân nông dân đồng xuôi, nên việc cấy, việc cày, việc bừa… tay vốn quen làm. Cứ xuống bản, chả chỉ đạo thì cứ xắn tay lên mà làm. Dân chúng ở đâu cũng ghét đám chỉ tay năm ngón. Truyện ngắn. VŨ XUÂN TỬU.

<span class='text_page_counter'>(86)</span> ________________________ Từ phố huyện, đạp xe nửa ngày, gửi nhà dân ven đường, rồi đi bộ, trèo ba ngọn đèo, lội bảy con suối thì đến. Tôi hỏi mấy anh cán bộ xã, Piát có nghĩa là gì? Họ bảo, tức là ruộng dốc thoải. Tôi được giới thiệu đến ở nhà Khấu. Khấu, tiếng Tày nghĩa là lúa. Anh ta làm khỏe như trâu, ăn khỏe như hùm. Bố mẹ Khấu chỉ sinh được một mình Khấu thì khuất núi. Tôi ở cùng Khấu từ khi trăng khuyết, đến ngày trăng tròn thì kết tồng. Theo phong tục người Tày, một khi đã kết tồng thì sống tết, chết giỗ, hai người coi nhau như anh em. Tôi thấy mặt trời trước được làm anh. Tuy làm anh, nhưng lại rất ngớ nghết, làm cái gì thằng em cũng phải chỉ bảo cho. Sáng sáng, mỗi khi kim đồng hồ Pônjốt đeo tay chỉ bảy giờ là tôi ra gốc cây bưởi ở đầu sàn, đánh kẻng hợp tác. Khấu là đội trưởng sản xuất nhưng lại hay ngủ quên. Người ăn khỏe cũng thường ngủ khỏe. Mỗi khi nghe kẻng đánh vào tai, Khấu mới vục dậy, ra cầu thích bắc loa tay gọi ồi ồi: “Đi làm thôi lố”. Gọi lấy lệ vậy, chứ các nhà ở cách mấy quả đồi, lại bị sương mù bao phủ, thì làm sao nghe hết được. Cán bộ xã khen Khấu tích cực. Hợp tác xã Piát ở ngay gần trụ sở Uỷ ban Hành chính xã, nên coi là trung tâm. Tôi để ý thấy có cô Phái, nhà ở bên kia đồi, nhưng hôm nào cũng đến tập trung đi làm sớm nhất. Phái là gái chưa chồng, không xinh lắm, nhưng nước da trắng, nên nom cũng ưa mắt. Theo tiếng Tày, Phái có nghĩa là bông. Nhưng mỗi khi chấm công là Khấu khắt khe với Phái nhất: - Cào cỏ cải tiến là phải hai tiến, một lùi. Sao cô chỉ có một lùi, một tiến? Phạt ba điểm, còn bảy điểm. - Cán bộ bảo làm thế. Khấu nhìn tôi như dò hỏi. Tôi lúng túng phân bua: - Hồi ở làng, bọn tôi cũng làm thế, cào đi cào lại nhiều, gốc lúa lốc cả lên. Mà cái kiểu này cũng nên bỏ. Khấu thở dài ngao ngán, gấp sổ, gài bút máy Trường Sơn vào túi áo sơ mi trứng sáo, quên đóng nắp bút nên mực thấm ra ngực áo. Phái thấy vậy, kêu lên: “À lúi”. Khấu lặng lẽ rút bút ra cài lại và vằn mắt lên nhìn. Phái sợ hãi thụt cổ, lè lưỡi quay đi. Hồi ấy, ra khỏi nhà đã là rừng. Những chú lợn rừng sọc dưa còn lon ton chạy vào ăn cám với lợn nhà. Gà rừng còn vào gầm sàn, kiếm ăn với gà nhà. Nhưng tự dưng, không biết đàn khỉ ở đâu kéo về phá ngô dữ lắm, nên cái việc chỉ bảo hệ trọng đầu tiên của thằng em là cách làm súng. Khấu lấy về một đoạn thép tròn, dài hàng mét, to như ngón tay cái, bảo làm súng. Tôi ngớ ra, trần đời, chỉ thấy súng nòng rỗng, chứ chưa bao giờ thấy nòng đặc như cái thuốn thế này. Khấu chừng như hiểu ý, nhưng chỉ cười cười. Khấu làm cái gì, tôi cũng làm theo. Hai chúng tôi vần một khúc gỗ to như cái cối xay chôn xuống gầm sàn làm giá đỡ, rồi néo chặt đoạn thép vào cho chắc và khoan nòng. Việc khoan nòng, quan trọng nhất là phải khoan cho thẳng, nếu lệch, khi bắn nhiều, đạn sẽ làm cho nòng mòn vẹt như vạc ống dầu. Bởi thế, Khấu giữ mũi khoan, còn tôi thì cò cưa cái cần khoan buộc dây da trâu. Phôi thép bắn ra, nóng như cám rang. Chiều chiều, cứ đi làm hợp tác về, hai chúng tôi lại xúm vào khoan. Bọn thanh niên trong bản cũng xúm đến xem và kéo khoan đỡ tôi, nhưng Khấu thì khư khư giữ mũi khoan, không giao cho ai bao giờ. Có hôm cô Phái đến đọ sổ công điểm, mũi khoan chợt nảy nên, lao bổ xuống bàn chân, máu chảy chan hòa. Cô Phái sợ hãi kêu thét lên lấy tay bưng mặt, Khấu xoay người, thò tay vào cạp quần, rứt ra một túm lông rịt vào vết thương, cầm máu. Cô Phái vô tình nhìn thấy, lại kêu rú lên: “À lúi” và chạy vụt đi. Đám thanh niên cười hà... hà..

<span class='text_page_counter'>(87)</span> - Hỏng rồi! - Sao? - Chưa thấy máu thú đã thấy máu người, khỉ chưa chạy mà chân đã thủng rồi à. Khẩu súng rồi cũng làm xong, nom oách như súng trận. Chọn ngày lành, hai anh em lên đồi bắn thử. Chúng tôi nằm phục ở rìa nương, tìm tảng đá con khỉ đầu đàn thường ngồi chỉ huy làm đích. Một lúc, mấy con khỉ mò ra nháo nhác nhìn quanh, rồi lũ khỉ buộc dây rừng quanh bụng, ào ạt xông vào bẻ ngô. Khấu giương súng, bóp cò đánh “đoàng” một cái. Nòng súng không có đường khương tuyến, lại bắn đạn K44 của dân quân, viên đạn ra khỏi nòng thì xoay ngang, xé gió kêu ngoao ngoao như tiếng ma, nghe rợn tóc gáy. Lũ khỉ rụng rời chân tay, nằm chết giấc. Tôi toan trói mấy con về thịt, Khấu bảo, đừng làm thế, khỉ giống người mình. Một lúc sau, lũ khỉ tỉnh dậy, lểu thểu lê bước vào rừng. Từ đó, chúng không dám bén mảng về phá ngô nữa. Một hôm tôi lên họp giao ban trên xã về thì không thấy Khấu đâu, chỉ có cô Phái cầm cuốn sổ công điểm gia đình đang ngồi ở ngoài. Thấy đầu cầu thang có treo con cá chép rất to, tôi lấy làm lạ. Cô Phái lí nhí nói: - Em sang đối chiếu công điểm tháng trước… Liếc nhìn con cá đang ngáp ngáp, cô khẽ nói: - Bố bầm em bảo, mang cho các anh con cá. Bố em mới quăng chài ở vực Cọn, chỗ anh Khấu hay ra tắm. - To thế! Tôi chỉ định khen con cá, nhưng cô Phái lại cúi nhìn xuống ngực mình, mặt ửng đỏ như mào gà. Tôi đưa cô Phái về, con đường mòn vắt qua đồi yên ngựa. Chiều xuống, từng đàn chim hối hả bay về tổ. Thỉnh thoảng, cô Phái lại ngoái lại hỏi: - Cán bộ đã học được nhiều tiếng Tày của món em chưa? - Bọn thanh niên đang dạy, nhưng cũng đủ để đi đường: “Kin hy” là đi đường rậm, “Kin vày” là quay trở lại. Cô Phái ôm bụng cười ngặt nghẽo, ngã lăn cả ra vệ cỏ ven đường. Cái váy đen lật lên để lộ ra bắp đùi trắng như đọt măng. Cuốn sổ công điểm văng ra bên cạnh, cũng cuộn tròn như bẹ măng. Cái khăn đội đầu tuột ra, làm cho mái tóc đổ tràn trên cỏ như một đống móc. Tôi lúng túng không biết sự tình thế nào, cũng nhệch mồm ra cười theo. Bên đồi, vẳng tiếng mõ trâu lốc cốc, lòng bồi hồi như lúc nghe tiếng mõ chùa làng. Khói lam chiều đang tỏa trên những mái nhà sàn dưới bản Piát, thấy nao nao nỗi nhớ quê nhà. Hồi lâu, cô Phái lồm cồm ngồi dậy và nghiêng đầu, đưa tay vấn tóc. Bầu vú vổng lên ngồn ngộn như quả bưởi, núm vú lồi sau lớp vải áo, nom như quả mận thóc. Tôi ngượng, quay mặt đi, chợt nghe cô Phái bảo như ra lệnh: - Cán bộ lấy giúp cái khăn đi! Tôi ngập ngừng cúi xuống, lấy cái khăn vuông đưa cho cô. Bàn tay cô ấm mềm, nắm lấy tay tôi. Đôi mắt cô long lanh, đôi lông mày ươn ướt, dựng ngược: - Sổ công điểm nữa đi! Tôi quỳ xuống, nhặt cuốn sổ công điểm đưa cho cô. Thế là hai tay cô nắm lấy hai tay tôi, rồi từ từ ngả người lên bãi cỏ kéo tôi nằm sấp lên tấm thân mềm mại hầm hập như lò lửa... Bất chợt cô đẩy tôi ra. Tôi ngỡ ngàng chưa hiểu ra sao, cô lại vụt lật nghiêng, vùng dậy. Bỗng có vật gì đó rất nặng rơi bụp xuống lưng tôi, những viên đạn đổ ra tung tóe trên bãi cỏ. Tôi giật mình, nhận ra cái túi đạn của Khấu. Ngước nhìn lên, thấy Khấu đang ôm súng, ngồi thu lu trên chạc cây, bảo là để rình khỉ. Nhưng khỉ đã cao chạy xa bay từ lâu.

<span class='text_page_counter'>(88)</span> rồi kia mà? Tôi bẽ bàng ngồi dậy. Cô Phái vùng chạy như ma đuổi, vứt lại khăn đầu và sổ công điểm. * Khấu đi bộ đội, để lại ngôi nhà sàn và khẩu súng ma kêu cho tôi. Nhà thì tôi ở, nhưng súng không bắn bao giờ. Trên cột cái gần bếp chủ có dán cái đuôi cá chép của cô Phái. Cái đuôi xoè to như quạt giấy, ôm nửa thân cột. Trên Phòng Nông nghiệp, thấy tình cảnh như thế thì cho tôi xuống hẳn xã. Trước đây tôi cứ ngỡ đi tăng cường dăm ba tháng thì trở về, ai dè lại kết tồng, bám rễ ở Piát đến thế này? Piát đúng là ruộng dốc thoải. Bản nằm ngay dưới chân đồi cũng dốc thoải, bên cạnh là ruộng lúa. Người Tày sống theo kiểu “thượng cư hạ điền” là vậy đây. Trên đồi trồng cọ, lấy lá lợp nhà. Hôm đầu đến bản, tôi thấy ngoài cánh đồng có con gì to lắm, lông mốc thếch như bìm bịp, chốc chốc lại bay lên, đậu xuống, lại kêu: “ụp, oà... ”. Tôi tò mò đến gần xem, hoá ra là cái cối giã gạo nước, làm kiểu dã chiến. Người ta lợp mấy tàu lá cọ khô lên đầu cần cối để che nắng, che mưa cho cối gạo. Những mái nhà sàn lợp lá cọ ẩn khuất dưới bóng cọ. Mỗi khi có mưa, rừng cọ lại xao động tấu lên bản nhạc ồn ã, khiến lòng người cũng bồn chồn xao động. Tôi chưa thấy nơi đâu, mỗi khi trời đất giao hòa lại kinh động như ở chốn này. Thảo nào, bản Piát, nhà nào cũng đông con và các cô gái thì đa tình. Từ khi xảy ra cái việc khăn rơi, đạn đổ thì cô Phái lánh mặt tôi, cả khi Khấu lên đường cũng không thấy bóng. Một hôm, tôi đánh bạo đến nhà tìm, từ trên lưng đồi đã nghe tiếng đàn tính tẩu thánh thót và giọng Phái du dương hát loàn: Loàn tôi lìa đám, dạ bồi hồi Én lìa nhạn để lòng thương nhớ Ong lìa ong da diết cùng hoa Sang năm, loàn có còn gặp hoa nữa… Tôi ngơ ngẩn trở về, lấy gỗ kháo quang vót cần đàn, lấy quả bầu khô làm tẩu, cứ dài chín nắm cần thì ba nắm đàn. Đàn nữ kéo ba dây. Rồi tôi băng đồi yên ngựa mang đàn sang cho cô Phái. Cái đàn ấy là cái tình, đã đưa cô Phái về ăn cùng mâm gỗ, ngủ cùng chiếu cọ với tôi. Một chiều, cùng đi sửa cọn nước ngoài suối, Phái hỏi: - Anh có biết tại sao anh Khấu??? Tôi nhướng mày, lặng im. - Anh ấy thương em, anh ấy đã ngỏ lời khi hợp tác làm cọn nước này. Nhưng bố bầm em sợ, nhà anh ấy hay chết non... - Nhưng sao cứ thấy chú ấy hay cáu gắt với Phái? - Tính anh ấy thế mà. Tôi đăm đăm nhìn lên vực Cọn. Thảo nào, lâu lắm rồi, tôi rủ mấy, Khấu cũng không ra tắm vực Cọn nữa. Năm sau, có anh bộ đội về bản trao quân tư trang của liệt sĩ Khấu. Biên bản ghi: “Áo may ô cũ: 2 cái, quần đùi: 3 cái (2 cũ, 1 mới), khăn mặt cũ: 1 cái, giầy vải cũ loại II: 1 đôi, balô cũ loại II: 1 cái. (Tổng cộng 5 thứ) ” Tôi ký nhận và buột mồm hỏi: - Không có quần áo dài à? Anh bộ đội lặng im một lát mới bồi hồi nói:.

<span class='text_page_counter'>(89)</span> - Đơn vị chúng tôi ở chiến trường C, núi rừng còn hiểm trở hơn Piát nhiều. Tuy chiến đấu gian khổ, ác liệt, nhưng đồng chí nào cũng dũng cảm và nặng nghĩa tình đồng đội. Trước khi ra trận, quân phục mới để lại hậu cứ cho đồng đội. Còn mình chỉ mặc quân phục cũ và cầm súng ra đi. Tôi ứa nước mắt. Phái gào lên thảm thiết. - Đồng chí Khấu rất gan dạ và khéo tay. Khẩu súng nào hỏng hóc, đều chữa được hết. Có một đêm, đơn vị chúng tôi tấn công vào cứ điểm của địch. Chúng bị thiệt hại nặng nề, nhưng phía ta cũng có hy sinh. Mấy hôm sau, chúng tôi mới bò vào được để lấy tử sĩ ra. Đồng chí Khấu bảo chúng tôi phải buộc dây dù vào, kéo thử đã, đề phòng địch gài mìn dưới thi hài liệt sĩ. - Món rắn độc! - Quả nhiên, chúng tôi vừa kéo mạnh một cái, tức thì quả mìn nổ tung, ngay bên cạnh... Lúc khiêng tử sĩ, thì đồng chí Khấu cứ xin khiêng sau. - Chú ấy luôn đi đầu cơ mà? - Tử sĩ để lâu ngày, đã rữa ra, lúc khiêng lên dốc... dốc ngược, còn hơn cái núi bên kia ruộng Piát, thì nước vàng chảy theo đòn khiêng xuống vai, cứ phải lấy lá mà quệt đi, cho khỏi thấm vào áo. - Chết thôi, khổ thế à? Phái lại gục đầu, nức nở khóc. Tôi bồi hồi, khẽ hỏi: - Thế, chú ấy hy sinh trong trường hợp nào? - Lần ấy, chúng tôi được lệnh tiêu diệt toán thám báo Ngụy đang tụ tập trong rừng sâu. Đường hành quân qua đường mòn độc đạo. Khi chuẩn bị lội suối, đồng chí phân đội trưởng đã cảnh giác, ném một khúc gỗ xuống hòn đá ven bờ. - Để làm gì? - Bọn thám báo cũng quỷ quyệt lắm. Chúng hay gài mìn ở những chỗ người ta thường bước chân vào. Tuy không động tĩnh gì, nhưng khi đồng chí Khấu vừa nhảy xuống, thì hòn đá lật nhào, quả mìn nổ bùng lên. Đồng chí Khấu ngã vật xuống dòng suối. Máu loang đỏ nước. - Bầm ơi! Phái lại kêu lên đau đớn. Đơn vị đã mai táng, lập mộ chí, vẽ sơ đồ để sau này quy tập. Phải đưa anh Khấu về thôi. Người Piát phải về Piát. Anh bộ đội mời bà con mỗi người một điếu thuốc lá Thạp Luông, hút cũng thấy thơm thơm, nhưng người Piát chỉ quen hút thuốc lào. Cái điếu ục cứ chuyền tay nhau, vòng đi vòng lại mãi theo câu chuyện về những kỷ niệm của bà con dân bản với Khấu. * Bây giờ, cái bản dốc thoải của tôi đã khác xưa. Ngoài đồng không còn cối giã gạo nước kiểu con bìm bịp nữa. Nhà tôi đã mua máy xay xát về nghiền ngô, xát gạo cho cả bản. Rừng cọ cũng không còn tấu nhạc mưa, nên mỗi nhà chỉ đẻ từ một đến hai con. Cọ đã bị phá đi để trồng keo, theo dự án xây dựng nhà máy bột giấy. Trong nhà tôi, cây đàn tính tẩu cùng treo cạnh khẩu súng tự tạo, trên vách cạnh bàn thờ. Giữa thân cây cột cái, trên đuôi cá có dán thêm tấm bằng “Tổ quốc ghi công” của liệt sĩ Khấu. Tôi hỏi Phái, tại sao không lồng trong khung cho trang trọng? Phái bảo, làm thế cho chắc. Ông chủ thì tựa vào cột chủ. Ban đêm, Phái ngồi cán bông bên bếp lửa, chợt thấy đom đóm bay đầy ngoài vườn, khẽ nói:.

<span class='text_page_counter'>(90)</span> - Sắp đến mùa trồng bông rồi. - Phải “thìn khấu, dậu phái” mà. Phái thảng thốt nhìn tôi, hỏi: - Anh cũng biết câu ấy của người Piát à? - Anh cũng là dân Piát, làm sao không biết, ngày con rồng trồng lúa thì tốt, ngày con gà trồng bông thì nên. Từ ngoài suối, vọng về tiếng cọn nước kêu ken két giữa đêm thanh, nghe như tiếng khoan nòng súng thuở nào. Trại sáng văn học Văn nghệ Quân đội. Đại Lải, 18 - 21/3/2005 GIỮA CƠN MƯA TRẮNG XÓA Thứ sáu, 14 Tháng 9 2007 18:43 1 Con đường đất dài hun hút, đất đỏ quạch và mù mịt bụi. H’Linh bước từng bước vất vả. Giày cao, đường mấp mô và lởm chởm đá sỏi, ổ trâu ổ voi, có chỗ còn sềnh sệch bùn. Đi mãi chẳng đến nơi mà chân đau ê ẩm. H’Linh tháo giày xách trên tay, chân rát buốt nhưng bước đã nhanh hơn. Quen và lạ. Gần gũi và xa xăm thế nào ấy. H’Linh nhìn về phía trước, con đường mỏng và nhỏ như sợi chỉ nâu vắt ngang giữa thung lũng hẹp. Thung lũng cỏ lau trắng ngợp mắt. Truyện ngắn. NIÊ THANH MAI _________________________ Chợt, bàn chân H’Linh dẫm lên thứ gì nóng, ướt và nhão. Phân bò. Cô kinh hãi nhảy sang bên đường, chùi chân lên vệ cỏ, chùi mạnh đến nỗi những móng chân sơn màu đỏ chuyển sang màu xanh rớt. Cái mùi hăng hăng xộc lên mũi, H’Linh hắt xì mấy cái liên tục. Bao nhiêu năm rời khỏi làng, cứ hễ nhìn thấy bò là cô sợ. Những con bò cổ ngắn, lông vàng. Lừ đừ đi. Chậm rãi nhai cỏ xanh. Mắt bò hình như lúc nào cũng nhìn chòng chọc khi H’Linh đi ngang. H’Linh lợm giọng. Ngửi mùi mồ hôi bò, mùi phân bò không quen nữa rồi. Thung lũng lúc trời sậm tối. Vo vo vô vàn tiếng muỗi kêu và đập cánh. Trăm ngàn con bù mắt ném mình vào mặt mũi. Rát buốt. Có con xông thẳng vào cổ họng. Buôn làng ơi! Bao nhiêu nhớ thương là thế này đây. H’Linh rẽ khỏi đường, tìm lối về làng. Cô cắm mặt đi tắt qua đồng cỏ tranh rậm rì. 2 Suối Đroăl chắn ngang trước mặt. Khối đá hình cái ché ngay tầm mắt H’Linh. Người làng gọi khối đá này là Ceh ÊKei. Ceh ÊKei nghĩa là ché đực. Vẫn cũ như núi rừng, chẳng đổi thay, Ceh ÊKei đứng trơ trơ nguyên vẹn hình dáng, nước chảy mãi thế mà chẳng mòn, cũng chẳng sợ nắng mưa. Ceh ÊKei đá này mà đặt ở vườn nhà H’Linh đang ở dưới phố thì hồng hoang, nguyên thủy lắm đây!? Người Ê Đê của H’Linh dùng ché để trong nhà ủ rượu từ gạo nếp và men làm từ lá rừng. Nhà nào cũng có ché, nhà nghèo thì mới đầu có một. Nhưng thấy ché cũng như người. Đến tuổi cũng cần có bạn có đôi. Nên cũng phải tìm bạn đời cho ché. Nhà khá hơn, giàu hơn có khi có trong nhà tới mười tám cái ché. Ché Tuk đổi được mấy trâu mấy bò, ché Tuk tám tai đổi được cả voi đực voi cái. Ché gắn bó với người nhiều đời nên ché có hồn, thành ché linh. Vậy mà, ché phải đứng phơi mưa nắng dãi dầu thế kia! Nước róc rách. Trong suốt. Nhìn thấy được những viên cuội trắng đủ hình thù. H’Linh vụm tay vốc nước lên mặt. Mát lạnh. Bao nhiêu mệt nhọc đi đường tan biến hết... Rì rầm... rì rầm... - Ceh Mniê đã về rồi!.

<span class='text_page_counter'>(91)</span> - Ché cái đã về rồi! - Vui quá lũ làng ơi! Ai như tiếng Ceh ÊKei thì thầm reo. H’Linh nhớ lại... và ngao ngán, buồn... Tiếng gió u u trong miệng đá. Người già kể rằng, từng có một trận lũ lớn làm cho buôn làng người họ Kdăm bên kia thung lũng tan hoang. Lũ tràn từ trên núi, tràn qua buôn và cuốn đi mọi thứ. Kéo sập cột nhà của người nghèo. Người già lóp ngóp giữa nước, con nít khóc thét. Người làng thòng cây xuống vớt người lên, nhưng còn những thứ có trong nhà ấy bị nước cuốn phăng phăng đi mất. Cặp ché men sành cũng bị cuốn trôi ra suối. Nước cuộn ầm ào như thế, lao vùn vụt qua mọi nơi như thế, nhưng lạ thay cặp ché cứ lềnh bềnh trôi bên nhau. Cây tươi, củi mục, cành xanh úa rũ cũng không chia lìa được cặp ché. Càng trôi đi càng gặp thác, gặp ghềnh. Ché đực lặn ngụp trong làn nước siết, hốt hoảng trông chừng ché cái. Nước chảy xiết quá. Nhìn mãi, nhìn mãi mà không còn thấy ché cái nữa. Ché đực đau đớn cất tiếng gọi tìm ai oán. Tiếng âu sầu u u phát ra từ miệng ché lan trên mặt nước, lặn xuống lòng sông. Nghe não lòng. Rồi nước cũng rút. Ché đực bị mắc lại ở mép suối Đroăl. Rừng vắng, cây cối ngả nghiêng hoang tàn và thảm thương như qua cơn đại hồng thủy. Nhưng cũng là lúc ché đực nghe văng vẳng đâu đó giọng hát rất quen. Giọng ché cái. Ché cái đã trôi lạc vào nhà tù trưởng giàu có nào đó cách suối Đroăl không xa. Ché cái đã không nghe tiếng gọi của ché đực hoặc cố tình không muốn nghe nữa. Ché đực đau đớn. Tiếng hát của ché cái đang rì rầm tâm tình với một ché đực men sứ nào đó trong nhà tù trưởng. Ôi chao, ché cái đã gửi linh hồn vào cõi giàu sang rồi... Đứng chờ, gọi một ngày. Chờ gọi năm đêm. Đứng chờ, gọi cả tháng... Một hôm nào đó, ché đực men sành không khóc được nữa. Ceh ÊKei đã hoá thành đá trong nỗi tức tưởi. Những đêm mưa trắng xóa, những đêm trăng ngàn dát vàng rười rượi, những ngày động trời mưa bão, người làng Yanghao vẫn nghe thấy tiếng đá ché đực u u khản cổ gọi bạn tình... Bao nhiêu đêm Khan. Chập chờn. Hư ảo. Câu chuyện tình ché đực và ché cái men sành, H’Linh đã nghe, nay hiện lên trước mắt. Vụm tay, vốc bao nhiêu nước vã vào mặt, H’Linh cũng không thấy hết bức bối trong lòng. Nước suối trong chẳng tưới mát được câu chuyện tình sự, phản trắc lại thuộc về phái đẹp. 3 Bất chợt, có cái bóng loang loáng trên mặt nước. Như là bóng chim bay qua lướt qua. Như là hình khối đá Ceh ÊKei đổ bóng. H’Linh run run. H’Linh thảng thốt ngước nhìn lên. Yàng ơi! Hóa ra là anh rể. Như ở trên trời rơi xuống, anh rể đột ngột hiện ra bên ché đực. Anh rể đang cầm chĩa đâm cá suối... H’Linh sững sờ. Anh rể cũng sững sờ. Mắt anh rể có lửa lóng lánh. H’Linh ngượng ngùng ngước mặt lên. Cái áo pun khoét rộng cổ hở một vầng ngực trần trắng lấp loáng. Ánh nắng cuối ngày cháy lên bỏng rẫy. H’Linh vội vàng kéo cổ áo che vầng ngực vun đầy có nhiều vết tím sẫm. Anh rể lỏng bàn tay, cái chĩa đâm cá rơi xuống tảng đá dưới chân. Cái chĩa kêu cạch... cạch, nhảy tung tăng trên những mỏm đá lô nhô dưới lòng suối. Anh rể thân thuộc. Gần gũi. Ngực nở vồng. Bắp tay nổi dây thừng. Bắp đùi cuộn dây trão. Da anh rể mịn màu đồng hun. Khố nâu nhô cao, căng phồng lên. Khỏe khoắn. Vâm váp. Gió ngàn thoảng mùi mồ hôi mằn mặn lẫn mùi cỏ dại. H’Linh xa vời. Lạ hoắc. Áo pun vàng in đậm dòng chữ For get me not màu đỏ. Quần Jin xẻ te tua như rễ si rừng. Giầy cao gót chính hiệu France. Tóc xoăn xoăn ngọn tơ hồng đã ép suôn dài xõa vai, nhuộm vàng hoe màu hoa cúc quỳ. Mùi nước hoa ngoại ngàn ngạt át cả hương hoa dại núi rừng. Mừng quá! Lại thẹn thùng. Những câu chào, hỏi, trả lời không ra đầu ra cuối, chẳng ăn nhập vào nhau. Nhưng qua câu chuyện H’Linh cũng biết hầu như hôm nào anh rể cũng ra suối đâm cá. 4.

<span class='text_page_counter'>(92)</span> H’Linh và anh rể về đến nhà. H’Linh đứng sững dưới cầu thang. Cha đang ngồi bệt trên hiên nhà hút thuốc. Trông thấy H’Linh thì run run đứng dậy, như nửa muốn bước tới nửa muốn quay vào nhà. H’Linh đánh rơi ba lô bụi xuống đất khi nhìn thấy cha. Năm tháng khó nhọc mài mòn thịt mòn da cha rồi. Thời gian đã lấy màu tóc xanh đen, lấy gân săn, lấy bắp thịt căng da của cha mang đi rồi. Cha như cây cỗi đang rụng dần hết lá. Cha khóc. Nước mắt người già đùng đục. Nước mắt rịn ra từ khóe và lăn thật chậm xuống gò má đen sạm xếp đều nếp nhăn. Thì con gái cha đã về nhà rồi mà. H’Linh chớp chớp mi và nước mắt cũng trào ra. Anh rể leo lên cầu thang trước. Anh rể kéo bổng H’Linh từ bậc thang trên chót lên hiên nhà. Bàn tay anh rể to dầy, thô ráp, nóng ấm. Bàn tay H’Linh nhỏ nhắn, mềm mát. H’Linh thoáng nhìn thấy đôi mắt anh rể rưng rưng, ngấn nước... Người làng cũng nhận ra H’Linh. Khó khăn. Và mất công mới nhận ra đứa con gái làng. Có lẽ người ta nhận ra H’Linh vì đôi mắt. Đôi mắt vừa được H’Linh tháo bỏ đôi mi giả dài, dày, cong ra. Đôi mắt bồ câu to tròn quen thuộc làm mê mụ bao trai làng ngày nào mới hiện lên. Nhưng thôi rồi Yàng ơi! Đôi mắt trong veo, lông mi rậm xanh đen đâu rồi? Đôi mắt H’Linh giờ sáng quắc và đảo quanh. Lũ trẻ con nép sau cha mẹ. Chúng nhìn H’Linh bằng sự tò mò xa lạ. Người làng bảo nhau, như tiếng chiêng lan từ nhà này đến nhà kia. Người làng kéo đến phần thì thăm phần thì xem, ngồi đông quá, vai chật vai. Nhà sàn ấm và ồn ào. H’Linh ngồi giữa đám đông. Lũ trẻ con xúm xít ngoài hiên chia nhau kẹo bọc giấy bạc và sô cô la. Chúng tranh nhau. Tiếng trẻ con khóc nhanh nhách. H’Linh thấy ngại ngùng quá. Không biết người lớn có chê kẹo và sô cô la của H’Linh không? Mấy cô gái tóc xoăn ngồi trong góc nhà sàn bấm nhau cười khúc khích. Vài chàng trai mới lớn chân tay đang thành bắp; ngực chưa đủ vồng đứng vón vào nhau. H’Linh lia mắt và bắt gặp vài cái nhìn vội, bối rối. Chỉ còn vài cô gái mặc yên([) dệt bằng thổ cẩm. Còn lại đã mặc quần theo lối người Kinh. Ngắn hoặc lửng trên mắt cá. Quần chắp vá nhiều miếng vải khác màu, cũ, mới. Lòng H’Linh chợt buồn se sắt. Lại chống chếnh vì vắng vắng ai đó. “Mày về vì nhớ nhà hay có việc gì?” Giọng cha khàn khàn trong cổ họng. Bóng cha đổ trên vách. Già nua. Còm cõi. H’Linh không nhớ cha bao nhiêu tuổi. H’Linh nhìn sững, rồi vội vàng cười. Kiểu cười gượng gạo: “Cha đừng nói thế. Con nhớ nhà, nhớ bà con. Bao nhiêu năm rồi còn gì”. Ừ, bao nhiêu năm rồi còn gì. Lúc mới gặp H’Linh không ai nhận ra được. H’Linh khác hồi ở làng quá. H’Linh nhớ khi ấy có người làng nhìn tận mặt H’Linh, người nắn bắp tay, người vỗ vai thân mật. Nước da H’Linh nâu mịn khỏe khoắn đâu mất rồi? Màu trắng mai mái xanh đâu phải nước da con gái buôn làng. Cái má đầy phấn hồng thế kia cũng không phải má rám nắng của con gái gùi nước, đi rẫy. Cái môi đỏ loe thế này không giống màu hoa móng rồng. Ai cũng thấy H’Linh xa lạ. Ai cũng ngại ngùng nhìn H’Linh. Lúc ấy, chỉ có anh rể nhìn H’Linh gần gũi, ấm áp và lặng im. Nhưng người làng không lặng im. Người làng hỏi nhau: Con bé H’Linh về hẳn để nối dây với thằng Y Thi à? Ờ! Thằng Y Thi xuống núi về thành phố tìm con H’Linh mấy lần mà con H’Linh cứ tránh mặt. Tội nghiệp cái thằng Y Thi quá, chiều nào cũng ra bến suối chỗ ché đực ấy đâm cá và chờ con H’Linh về. Ờ! Cái thằng rể đâm hết cá suối Đroăl rồi con H’Linh mới về. Người làng cũng bảo: Sao cứ để thằng Y Thi phải ở rể không công mãi thế? ờ! Con H’ Lan chết đã qua lễ bỏ mả rồi... H’Lan là chị gái H’Linh. Chị có dáng đi khòm khòm. Mẹ cũng có dáng đi khòm khòm. Mà đàn bà con gái Ê Đê, ai chẳng có dáng đi đầu chúi, lưng cúi khòm xuống thế. Quê H’Linh lắm dốc đồi, dốc núi, dốc đường đi, đến cái rẫy trồng mì cũng dốc. Cái dốc cứ bắt con gái Ê Đê đời này qua đời khác khòm lưng và chân to. Chân chị gái to. Chân mẹ to. Chân H’Linh cũng to. Chân càng to thì lưng càng khòm. Phụ nữ Ê Đê mặc yên ngắn đến bắp chân để đi rừng lên rẫy cho tiện. Người Ê Đê của H’Linh mang cái gì cũng bằng gùi. Gùi nước. Gùi măng. Gùi bí ngô. Gùi mì. Gùi thổ cẩm... Cái gùi gùi đồ ăn thức uống đè nặng trên lưng từ lúc tóc cháy nắng hoe hoe vàng. Cái gùi gùi thời gian đến tận lúc tóc bạc trắng ra nhà mồ. Cái gùi, cái dốc làm con gái Ê Đê.

<span class='text_page_counter'>(93)</span> khòm lưng và chân to. Đàn bà con gái Ê Đê khổ lắm! 5 Người Ê Đê của H’Linh không biết đúc cồng, chiêng; phải mua của người Kinh dưới xuôi. Nhưng người Ê Đê biết chỉnh cồng chiêng, biến những dáng hình thô mộc, âm thanh cái nọ lẫn cái kia trở thành xinh xắn và mỗi cái có giọng nói riêng. Không phải người Ê Đê nào cũng được thần linh chọn giao cho công việc sửa giọng chiêng đâu. Cả vùng Yanghao này chỉ có cha nói chuyện tâm tình được với cồng chiêng, và bây giờ cha già cha truyền cho con rể. Buổi chiều đầy gió. Lá vông vang chao chác rơi vàng dưới gốc. Anh rể ngồi chỉnh chiêng ngoài hiên nhà. Chạt chạt.... chật. Chạt chạt... chật. Búa gõ chỉnh hai nhịp một phách đều đều, nghe vui tai quá. Bọn con trai làng thường rủ nhau đến xem và lấy cớ tụ tập. Có cô giáo người Kinh về cắm ở làng dạy học đã bảy năm rồi cũng đến. Cô giáo uốn tóc xoăn xoăn, mặc yên như người Ê Đê, nói tiếng Ê Đê như giọng con gái làng Yanghao. Ngực cô giáo vun đầy, cao. Vú cô giáo to mẩy nưng nức, tròn đều như hai quả đồi cỏ gianh non đầu mùa. Cô giáo ngồi chống tay xuống hiên, không chớp mắt nhìn anh rể. Cái nhìn đắm đuối quá đi mất. H’Linh khó chịu nhất là thỉnh thoảng cô giáo lại rót nước mang đến cho anh rể. Lại đưa khăn tay mùi xoa cho anh rể lau mồ hôi nữa chớ... Bọn con trai bảo: “H’Linh ơi! H’Linh còn nhớ bài dân ca nào không? H’Linh hát đi?” Chúng nó cười, chẳng để ý xem thái độ H’Linh thế nào, ríu ran: Ướt váy em mắc cành cây tung Ướt khố, anh phơi cành cây riêng Ướt người ta cùng sưởi bên lửa hồng. Mai em về đường xa còn nhớ mặt Mai xa nhau tên em anh có quên Ước gì mình bên nhau Nước uống chung một bầu Thuốc hút chung một điếu... Anh rể dừng tay, thả búa. Nắm tay anh rể cuộn chặt gõ vào vú chiêng. Vai anh rể ngất ngư. Mắt đờ đẫn chìm lút vào cõi âm thanh của thần linh. Cô giáo người Kinh cũng lắc lư người theo nhịp hát. Hát mà đôi mắt vẫn đăm đắm nhìn anh rể không rời một phút. H’Linh giả vờ đi đi lại lại. H’Linh cố tình chạm chân vào đống chiêng xếp cao ngang bụng. Chiêng đổ, cái nọ cái kia vung ra lăn lóc. Bài ca tắt lịm giữa chừng. Anh rể ngại ngùng, mắt bối rối... 6 Cơm tối xong. Anh rể lại vác súng đi săn. Nhà sàn bếp vẫn đỏ lửa. Nhà ám mồ hóng, cột cái đen, cột con cũng đen. Nhà sàn già hơn tuổi cha. Bếp cũng đỏ lửa trước lúc cha sinh ra. “Mày không thương mẹ, thương chị gái mày à?...” Cha ngập ngừng rồi nói tiếp: “Mày cũng phải thương đứa cháu gái mày chớ”. “Cha đừng nói thế. Con thương cả nhà. Cha đừng nhắc đến mẹ và chị để con đau lòng. Con chưa quên cái gì đâu”. H’Linh chưa kịp quên cái gì, chỉ sắp quên thôi. Trận lũ năm ấy kinh hoàng quá. Mẹ và chị gái đi rẫy về nửa đường lội qua suối Đroăl thì bị lũ cuốn đi. Cha và anh rể đi dọc suối ba ngày mới tìm được xác. Cái làng.

<span class='text_page_counter'>(94)</span> này cứ ba bốn năm lũ lại lấy đi một vài người xấu số. Cha lặng im. Vẻ mặt đăm đăm. Cha đứng dậy phủi đít quần, đốt đuốc lồ ô rồi đi ra hiên. Trước lúc xuống cầu thang, cha còn quay lại dặn: “Tao lên chòi coi rẫy. Dạo này động rừng, cứ sáng sớm là khỉ về bẻ bắp. Đêm nay tao coi đỡ cho thằng Y Thi. Nó vất vả như con trâu vì cái nhà này lâu quá rồi”. “Hay cha cho con cùng đi” “Không! Mày ngủ với con bé H’Thê. Mấy năm nay mày có gùi cháu mày được lần nào đâu. Mẹ chết còn dì còn cậu, mày là dì nó mà”. H’Linh đành im lặng. Bóng cha phật phờ theo ánh đuốc lồ ô đang bừng sáng. H’Linh biết cha giận. Bao nhiêu năm rời làng, không liên lạc gì về nhà cha giận cũng phải. Thực lòng, H’Linh rất thương cha, muốn ở nhà gùi nước suối cho cha rửa mặt, dệt bông may khố cho cha mặc. Nhưng H’Linh sợ quay về phải ngửi mùi đất, mùi phân bò. Đêm khuya yên tĩnh quá. Cây rừng thôi rì rầm, không ngủ. Nai không tác bên suối vắng. Chim treo mình trên cây ngủ. H’Linh thao thức. Lòng bồn chồn quá. H’Linh ngồi dậy kéo cánh cửa đan bằng nứa sang một bên. Gió nhẹ thoảng tê tê nơi cổ. Gió quấn quýt vào mặt. Mát rượi. Lâu lắm rồi H’Linh mới thấy mặt mình mát rượi như thế. H’Linh ngẩng đầu nhìn ra ngoài. Cửa nhà sàn thông thống mở. Ánh trăng đổ tràn lên hiên chờ cầu thang. H’Linh ngỡ ngàng bắt gặp anh rể đi lên cầu thang. Sàn nhà cọt kẹt kêu. Anh rể ngồi xuống bếp lửa cời cời bếp. Lửa sáng bừng lên. Củi khô nổ lách tách. Đầu tóc, vai anh rể ướt đẫm sương đêm. Anh rể sừng sững như tượng gỗ lim. Ngực vồng. Tóc xoăn, xõa xuống vai trần. Khổ thân Y Thi! Từ ngày chị gái H’Linh mất, anh rể vẫn ở vậy... H’Linh dụi mắt ngồi dậy. “Dì H’ Linh lạ nhà khó ngủ à?” Lạ nhà. Khó ngủ. Nhà mình đây chứ đâu mà anh rể hỏi thế. H’Linh chợt buồn. “Con bé H’Thê cứ cựa mình luôn”. Nói rồi H’Linh với tay lấy cái áo trên vách khoác lên vai anh rể. Anh cầm tay H’Linh giữ lại. “Cái áo này anh không mặc được, dì H’Linh à”. H’Linh chợt nhận ra sự nhầm lẫn. H’Linh vô tình đưa cái áo khoác của mình cho anh rể. H’Linh rụt tay lại, nhưng bàn tay anh nóng ấm vẫn nắm chặt. Mắt anh rể lấp lánh ánh lửa. H’Linh thấy ngực dềnh lên, nghẹt thở, hai chân khuỵu xuống như muốn ngã... Có tiếng trở mình bất chợt và tiếng nói ú ớ trong mơ của con bé H’Thê. H’Linh choàng tỉnh và gỡ tay anh rể khỏi vai mình. H’Linh chạy vội đến nằm xuống ôm gọn con bé vào lòng. Con bé vẫn ú ớ mơ và ôm chặt lấy dì... Tự nhiên nước mắt H’Linh trào ra, ướt tóc xõa trên gối bông. Chát... chát... Tiếng búa gõ chỉnh chiêng dưới gầm sàn. Liên tục. Dồn dập. Chứ không nhịp nhàng hai nhịp một phách như buổi chiều. Yàng ơi! Anh rể chỉnh chiêng ban đêm. Lại đến nông nỗi này. Chát... chát... từng nhát búa đập tang chiêng như đập vào tai H’Linh... H’Linh ôm chặt đứa cháu vào lòng như cố chạy trốn tiếng búa đập xuống chiêng. Tóc con bé cháy nắng khen khét xộc vào mũi H’Linh. Con bé gầy, cổ cao ngẳng. Hai bàn tay thô và ráp, hai bàn tay nó còn nhỏ quá mà đã cầm dây dắt bò. Khổ thân! Một căn nhà sàn to, cửa thông thống mở, ba cha con ông cháu nuôi nhau... Con bé vùi mặt vào ngực H’Linh. Nhồn nhột. Buồn buồn. Rồi dễ chịu. Ấm áp quá. Thân thuộc quá. Một tình cảm gần gũi trào dâng trong lòng H’Linh. Như là ruột thịt. Như là mẹ con... H’Linh thấy má mình nóng... Ôm đứa cháu gái vào lòng không giống cảm giác dạy dỗ đứa con gái nhà chủ dưới phố. Một đằng là tình thương, một đằng là nghĩa vụ làm việc ăn lương. Ông chủ người Ê Đê có nhà, vườn giữa lòng thành phố. Bà chủ người Kinh bỏ đi nước ngoài đã tám năm chưa về. Ông chủ buôn đồ cổ và quyết làm giàu để rửa cái nhục vợ bỏ vì đói nghèo. Đấy là nghe người ta nói, H’Linh nghe đâu bỏ đó. Nhưng có lúc lại nghĩ, hay ông ta nhặt mình về để trả thù vợ. Ông chủ gặp H’Linh trong một quán hát Karaôkê. Ông chủ có cảm tình. H’Linh là của lạ. Bọn đàn ông, ai cũng thích H’Linh. Cũng lắm vui nhiều buồn. Vài ba bận nữa hát cùng nhau, thế rồi H’Linh về ở hẳn nhà ông chủ. H’Linh không phải lao động nặng. Chăm vườn cây cảnh và dạy con bé học tiếng.

<span class='text_page_counter'>(95)</span> Ê Đê... 7 Sớm mai! H’Linh vẫn nằm nhắm mắt lim dim không ngủ. Có tiếng láo xáo dưới sân. Sao Y Thi chỉnh chiêng suốt đêm thế? Có người muốn lấy chiêng gấp à? Tao nghe tiếng chỉnh chiêng không giống mọi khi mà. Yàng ơi, sao cái đầu mày bạc trắng thế?... H’Linh giật mình, mở mắt ra bắt gặp cái nhìn chăm chăm của đứa cháu gái đang chống cằm trước mặt. Có lẽ nó nhìn rất kỹ khi H’Linh còn đang nhắm mắt. Con bé bỏ chạy xuống cầu thang khi H’Linh nhỏm dậy. Lưng ê ẩm vì lâu lắm rồi H’Linh, nay mới nằm trên sạp nứa. Sạp nứa nhà sàn dập dềnh và thông thống lạnh. Cái lạnh của gió lồng từ bên dưới gầm sàn. H’Linh đã quen với nệm dầy, loại nệm có gai để mát xa lưng. Anh rể vội vã chạy lên: “Cháu nó chưa quen dì” Anh rể với tay lấy thịt khô treo trên vách và bắc nồi lên bếp. Giọng anh rể ngập ngừng và không dám quay lại nhìn H’Linh: “Dì đỡ mệt chưa. Sáng nay anh nấu cơm nếp. Không biết dì có còn nhớ mùi nếp làng mình nữa không?” H’Linh giật thột. Qua một đêm mà tóc anh rể bạc trắng rồi. H’Linh nói như người mếu: “Em nhớ chứ sao không, em chẳng quên thứ gì cả”. Rồi H’Linh bẽn lẽn, cười. Nụ cười hơi gượng. (Từ lúc đặt chân lên nhà, nụ cười của H’Linh lúc nào cũng thế. H’Linh thấy xa lạ trong chính nhà của mình). Cha đã kể chuyện chị gái và mẹ mất. Cha bình thản nói về cơn lũ đã cuốn hai người thân biệt tích. (Hình như cha đã quen quá với nỗi đau ấy nên giọng cứ ráo hoảnh. H’Linh ngẩn người. Không hiểu sao chẳng thấy buồn. Chỉ thấy lòng trống hoác). Anh rể và con bé sống với cha như thế đã gần bốn năm. Cha bảo từ ngày mẹ và chị H’Lan mất, cha chẳng làm được gì. Tiếng búa chỉnh chiêng trễ nải, tay lỏng dần, nhẹ dần rồi không cầm được nữa. Cha chỉ quanh quẩn ở nhà làm việc lặt vặt. H’Linh gặng hỏi cha bị bệnh phải không. Cha lắc đầu. Thốt nhiên cha nhìn H’Linh. Cái nhìn vừa thương cảm vừa giận. Chưa bao giờ H’Linh chịu cái nhìn như thế. Cha nói ngắt từng đoạn: “Tao bị Yàng phạt... vì không... dạy được con rồi”. H’Linh định xin lỗi cha. Nhưng nhìn mắt cha đọng nhiều sợi máu đỏ, H’Linh thấy sợ. Lúc này nhìn anh rể, nhìn kỹ tóc anh, H’Linh thấy thương quá. 8 Anh rể đưa H’Linh ra bờ suối nơi mẹ và chị gái bị lũ cuốn trôi. H’Linh tìm tàu lá chuối nguyên vẹn đang lật phật bay, vung dao phát một cái, tàu lá chuối đáp xuống mặt đất thật nhẹ. Anh rể nhìn H’Linh có vẻ bằng lòng vì nhát dao sắc ngọt. Anh đưa cho H’Linh nắm nhang. Khói trắng nghi ngút bay quấn vào người H’Linh, bay trên mái tóc anh rể mới bạc trắng đêm qua. Nhang không thơm. Gió cuộn khói lên mặt H’Linh, mắt cay cay nhòe. Anh rể quỳ xuống đất, khóc bài khóc dài và não lòng. Tiếng khóc ngân dài như tiếng hát. Nhìn người đàn ông khóc rất tội. H’Linh thấy lòng mình trĩu nặng và thương người đàn ông trẻ bạc tóc gửi rể hơn mười mùa rẫy. H’Linh thấy Y Woan đứng bên kia bờ suối. Chàng trai một thời quấn dây tơ hồng, buộc chỉ cổ tay. Y Woan cười tươi rói, sung sướng vì gặp lại người bạn gái thân yêu. Chỉ thế thôi rồi Y Woan quay lưng, thoắt cái đã biến mất giữa rậm rịt những cỏ gai ngút đầu người. H’Linh sửng sốt, thấy lạ. Y Woan biến mất chứ không đi. Hai vành tai H’Linh lạnh buốt. “Anh rể à, anh rể thấy Y Woan ở cuối làng ta ấy, lấy vợ chưa?” “Chết rồi”. “Chết rồi!”. H’Linh thảng thốt nhắc lại lời anh rể. Anh nói mà không ngẩng đầu lên. Giọng giằng dỗi: “Y Woan nó giận dì lắm đấy. Dì bỏ đi mà không hẹn ngày về. Người làng cười nó bị dì chê”. H’Linh nghe anh rể nói, lòng rối bời..

<span class='text_page_counter'>(96)</span> “Nó đợi dì ba năm. Dì không về, nó nối dây với người bên nhà dì nó đấy.” H’Linh gục mặt xuống đất, hai tay thõng xuống. Tiếng anh rể cay cay: “Nó không yêu vợ. Suốt ngày không lên rẫy, đi rừng; chỉ uống rượu thôi. Rượu say, nó nghêu ngao hát. Nó còn yêu dì. Nó cũng hận dì”. H’Linh ù tai, chóng mặt. Những hình ảnh xưa cũ lướt nhanh đến, biến mất đi rồi lại hiện về trong đầu H’Linh. Y Woan hát rất hay. Y Woan hay hát bài hát buồn “Khi anh chết rồi bến nước mình đây có còn mãi như vậy, nhưng chết dưới sông dưới suối anh vẫn nhớ mãi em đứng nơi này. Em ơi!” H’Linh giận Y Woan vì lời hát buồn điềm gở. Nhưng Y Woan cười bảo đến chết vẫn không bao giờ hết yêu H’Linh. Y Woan nặng lòng với H’Linh quá chừng. Vậy mà H’Linh cứ bỏ làng đi biền biệt không về. Một ngày mưa năm trước, anh rể và Y Woan đi tìm H’Linh. Lưng gùi chiêng đã chỉnh xuống núi, thả vào mấy cửa hàng quen bán thổ cẩm, cồng chiêng, ché rồi đi kiếm chị người cùng làng làm ở thành phố. Chị đưa anh rể và Y Woan đến quán Karaôkê H’Linh đang làm. Cái chị người làng ấy hơn H’Linh đến chục tuổi. Chị ta hết duyên rồi, ghen ăn tức ở với H’Linh. Cái chị người làng ấy bày cho anh rể và Y Woan cùng vào hát chung phòng. Hát để nghe ngóng theo dõi, bắt tận tay day tận mặt H’Linh đấy mà. Hôm ấy, H’Linh say khướt, mặt đỏ như con gà chọi. Con gái Ê Đê mà mặt đỏ như con gà chọi thì chẳng ra gì. H’Linh lại còn bám chặt vai người đàn ông tóc bạc dìu, dặt dẹo ra xe ô tô nữa chứ. Anh rể và Y Woan chạy đến giằng H’Linh lại. Hai chàng trai Ê Đê to khỏe cũng không chống đỡ nổi bọn bảo kê giỏi võ Karatê. Anh rể và Y Woan bị quẳng ra ngoài đường như ném hai thân cây chuối hột. H’Linh nhìn thấy cổ anh rể có một vệt máu đỏ cháy lên qua màn kính ô tô. Trước lúc xỉu vì rượu, H’Linh còn thấy hình ảnh anh rể và Y Woan mờ nhòe, thất thểu trên đường phố giữa cơn mưa trắng xóa... H’Linh tự nhủ, thôi không nhớ chuyện cũ nữa. Đắng lòng lắm. Chuyện cũ càng nhắc càng buồn rơi nước mắt. Anh rể về nhà trước. Anh không thèm nói cho H’Linh vì sao Y Woan chết. H’Linh cũng không mở miệng hỏi được. Có lẽ lúc này anh đang giận H’Linh. Mà anh rể giận cũng đúng. H’Linh lại chợt nhớ vẻ mặt vừa sửng sốt vừa buồn, vừa vui của Y Woan ẩn hiện khi nãy. Thấy bần thần. Buồn tê tái. Khi H’Linh mải vui và kiếm tiền ở chốn phố phường thì làng bao nhiêu người nhớ nhung, chờ đợi. Sao chưa khi nào H’Linh nóng ruột nóng tai thương nhớ đến ai. 9 H’Linh đi một mình ra nghĩa địa. H’Linh chẳng bao giờ sợ hãi khi đi một mình. Khi rời làng và xuống thành phố cũng một mình như thế. Nhưng bây giờ bước đến nghĩa địa cảm giác rờn rợn lại sồng sộc trong óc. Khi còn bé chẳng bao giờ H’Linh đến đây. Người làng không bao giờ cho trẻ con đến chốn này. Không phải ngày làng có việc thì nghĩa địa lạnh lẽo và âm u lắm. Nghĩa địa chỉ đông người khi có người bỏ về với tổ tiên, hoặc có nhà ai đó làm lễ bỏ mả. Tên Y Woan khắc nghệch ngoạc trên phiến gỗ chữ nhật. Mộ Y Woan tím ngắt một màu hoa mắc cỡ. Những cánh lá mắc cỡ xanh vội vàng co khép lại. Như là lánh mặt đi. Như là hờn dỗi. H’Linh ném vào ché chôn dưới đất trước mộ Y Woan đồng tiền năm ngàn. Đồng tiền leng keng và nằm sâu dưới đáy ché. Giận dỗi thì sự cũng đã qua rồi Y Woan ơi! Con người trước sau cũng phải qua một lần bỏ mả. H’Linh cũng sẽ đến một ngày bỏ mả. Nhưng H’Linh có lỗi gì với người trong mộ này? Mộ Y Woan có nhiều tượng khỉ, gương mặt khỉ nào cũng rầu rĩ đường nét nhăn nhó, sầu đau. H’Linh đi chậm rãi qua các ngôi mả khác có mái che xộc xệch. Cảm giác ghê ghê người khi chạm phải các bức tượng bằng gỗ. Những vết rạn trên bức tượng mặt người sầu não. Đường rạn trên thân chim công đầu ngẩng kiêu hãnh. Gương mặt người nào ẩn chìm vào gương mặt tượng nào? Kiếp phù sinh và thế giới bên kia cái nào hấp dẫn hơn? H’Linh đến thắp nhang cho mẹ, cho chị gái và Y Woan trước khi quay về nhà. Nhang tắt nửa chừng. Thắp mấy lần cũng đều tắt. Trời nhiều gió và sắp mưa. 10.

<span class='text_page_counter'>(97)</span> H’Linh muốn ra khỏi nhà. Ngoài trời sầm sầm muốn mưa. Anh rể nhìn H’Linh mặc áo khoác mà không hỏi H’Linh đi đâu. Vài ngày nay, anh chỉ nhìn mà không hỏi han gì. Lúc này, H’Linh nghe tiếng anh rể thầm thì với con bé dưới sàn nhà. H’Linh thấy thương anh rể quá. H’Linh nói với cha: “Con đi đây cha à. Mai mốt rảnh con lại về”. Cha bảo: “Mày cứ ở nhà. Mày không muốn thì tao không ép mày nối dây với thằng Y Thi đâu mà”. Không phải thế cha à. Có trăm ngàn tiếng kêu trong lòng H’Linh. Con cũng thương Y Thi lắm chứ. Nhưng con phải đi, cha ơi. Cha không đáp, cũng không ngước lên. H’Linh bước chân xuống cầu thang. Lúc ấy, anh rể mới chạy theo, nói khẽ: “Dì mang áo mưa theo. Trời mưa đấy”. H’Linh nhìn anh rể, con mắt biết nói lời cảm ơn. H’Linh bước vội đi trước. Anh rể rảo bước theo sau tiễn một đoạn. Con bé đã bén hơi H’Linh cũng lon ton chạy sau cùng. Dừng lại bên suối Đroăl, chỗ khối đá hình ché đực đứng nhẫn nại, im lìm. H’Linh kéo tay anh rể, nhét vào tay anh xấp bạc mới cứng. Anh rể không nhận. H’Linh nằn nì: “Anh rể cầm cho em vui. Nhà mình đang cần tiền. Cha chưa hết giận em, anh đừng nói cho cha biết”. Anh rể lắc đầu: “Bao nhiêu năm không có dì, nhà mình sống cũng được H’Linh à”. Mặt H’Linh đỏ bừng, cô giấu mặt vào ngực con bé. Nó ngước đôi mắt tròn to ngân ngấn nước nhìn, bàn tay cứ níu chặt vạt yên của H’Linh. H’Linh gỡ tay con bé ra, ném cái nhìn vào khoảng không trước mặt. H’Linh mà nhìn vào mắt anh rể, nhìn mắt đứa cháu là H’Linh không thể đi được. Trời ngả sang chiều. Mới đi được một quãng ngắn H’Linh đã thấy chân mình nặng trĩu. H’Linh nhớ đến ánh mắt buồn buồn và nhẫn nhịn của anh rể khi nãy. Anh muốn nói điều gì đó, nhưng không hiểu sao cứ câm lặng. H’Linh ra đến nghĩa địa làng thì trời tầm tã mưa. Mưa không thấy cây rừng. Bàn chân lạnh và nhớp nháp. Chắc dẫm phải phân bò. H’Linh ghét mùi phân bò, ghét thứ nhão nhoẹt ấy. Nhưng giờ này, H’Linh không thể dừng lại để rửa sạch chân. Mặc kệ nước mưa. H’Linh lay, nhổ bức tượng khỉ mặt sầu và bọc lại bằng bao tải. Tượng nặng trĩu như muốn ghì lại. H’Linh vác bao tải bằng bàn tay có những móng sơn màu hoa móng rồng đỏ. H’Linh lần dò ra đường cái. Chỉ cần ngoắt tay là một chiếc xe dừng lại, H’Linh xuống núi. 11 H’Linh trở về nhà ông chủ. Nhà ông chủ giữa thành phố. H’Linh thấy nhẹ nhõm khi xe đỗ xịch trước cổng. Nhìn thấy bức tượng gỗ gương mặt khỉ nhàu, ông chủ rất xúc động. Khu vườn thênh thênh, nhiều cây cảnh trở nên sinh động khi H’Linh tẩn mẩn đặt bức tượng gỗ vào. Ông chủ săm soi những vết nứt, vết nhăn. Cười thỏa nguyện. Có lẽ ông chủ đang nghĩ đến bữa tiệc tuần tới mời toàn các ông bạn sang trọng. Họ sẽ sững sờ khi ngắm nhìn bức tượng gỗ nhà mồ thực sự được đẽo gọt bởi bàn tay nghệ nhân làng Yanghao, chứ không phải là thứ băm chém sơ sài giả tạo bán nhan nhản ngoài tiệm mỹ nghệ với cái giá cắt cổ. H’Linh thích nụ cười ông chủ. Cả cái nhìn dịu dàng của con bé đang học chữ Ê Đê rất vào. H’Linh kín đáo nhìn xoáy vào mắt con bé học trò váy ngắn chân dài đang tựa vào lan can tầng hai và chúm chím cười. H’Linh nhận lời khen tặng của ông chủ rồi thở ra nhẹ nhõm. Xuống núi lần này, nhiều đêm H’Linh không ngủ được. Đêm nào căn phòng H’Linh cũng cộc cộc tiếng gõ. H’Linh uể oải bật đèn, hé cửa. Tuyệt nhiên không có ai. H’Linh thấy rờn rợn, vùi mặt vào chăn đệm cố dỗ giấc ngủ, khi mơ màng thì lại nghe tiếng gõ cửa. Đều đều và dai dẳng. H’Linh nhớ cái dạo mới về đây, phải đến gần mười ngày, ông chủ bảo: “Tôi là thằng đàn ông đàng hoàng. Tôi muốn em tự nguyện dâng hiến”. “Nhưng em có.

<span class='text_page_counter'>(98)</span> còn trinh trắng dành cho ông đâu”. Ông chủ bảo: “Em đừng nói điều đó với tôi. Chỉ cần biết em yêu tôi là đủ.” Vâng! Thế thì yêu. Nóng hôi hổi. Cồn cào. Lăn lộn. Nhưng “Sao thế ông chủ ơi! Ông đùa giỡn với em?”. “Xin lỗi em! Thằng đàn ông trong tôi hỏng mất rồi.” Càng bất lực, ông chủ càng cấu xé, giày vò. Đêm hôm trước càng nhiều vết răng tím thẫm trên ngực vú, trên đùi non H’Linh; sáng hôm sau ông chủ càng nói nhiều lời xin lỗi. Có lần ông chủ bảo: “Em tự nguyện về đây, thì em cũng cứ tự nguyện đi nếu em không thích”. “Vâng!” Nhưng thế này thì ê chề quá. Khổ ải quá. H’Linh đang là con gái tuổi hai mươi. Con gái Ê Đê phồn thực, mắn đẻ lắm mà. 12 H’Linh bần thần, ngẩn ngơ như người mất hồn vào mỗi buổi sáng. Dạo này hình như không còn tiếng gõ cửa đêm. Hay H’Linh quen với cái âm thanh dai dẳng và đều đều ấy cũng không biết nữa. Nhưng vẫn không ngủ được. Đêm nào H’Linh cũng thấy ngực mình nặng trĩu, và đau rát cả đùi non. Đêm đêm gương mặt đen sạm xếp đều nếp nhăn của cha cũng chập chờn, ẩn hiện. Cha lo lắng, cha dỗi hờn. Nước mắt cha thẫm ướt lăn dài trên má nhăn nheo. Rồi lại hình ảnh ông chủ lúc đến lúc đi. Mắt trắng. Người béo phệ, ục ịch, èo uột. Những cái răng cửa răng nanh nhọn. Vết răng tím bầm trên ngực, vú và đùi non... H’Linh sợ. Tự dưng H’Linh hay nhớ về anh rể. Lâu lắm rồi H’Linh mới nhớ về một người đàn ông với nỗi nhớ thầm kín. Hôm nào đó, xa lắc, H’Linh theo anh rể đi đâm cá suối ban đêm. Đêm, cá hay ra chỗ mặt nước trống đớp trăng. Anh rể dạy H’Linh thử lao chĩa. Cái tay phải cầm thế này này. Cái tay trái cầm thế này này. Bàn tay anh rể nóng ấm quá. Tim H’Linh bồi hồi đập dồn dập trong ngực. H’Linh phóng chĩa xuống con cá gần nhất. H’Linh mất đà lao tùm xuống suối. Anh rể lao theo. Vòng tay anh ôm chặt ngang ngực H’Linh. Ngực con gái mới lớn căng tròn mây mẩy và phập phồng... Chị gái thấy H’Linh lướt thướt lên cầu thang. Yên, áo ướt dán vào da thịt. Chị gái mắng: “Lại trượt chân, ngã xuống suối à? Mày lại bỏ anh Y Thi ở một mình dưới suối rồi.” H’Linh lặng im. Sáng hôm sau, anh rể giấu cái nhìn đi nơi khác... 13 Đêm thành phố ngột ngạt. Xa lạ quá. H’Linh khóc. Tiếng khóc dấm dứt từ ruột gan và trút vào mặt rát buốt. H’Linh vật mình cả đêm. H’Linh uống rượu bằng chiếc ly trong suốt, rượu ngoại. Thốt nhiên H’Linh nhớ mùi nồng nồng của thứ rượu cần ngọt lịm đầu lưỡi ở làng. Thứ rượu gạo tê ngái lồng ngực và thơm dịu nhẹ. H’Linh thấy miệng mình tanh tanh. Rượu trong chiếc ly pha lê Italia trở nên cay xè, đắng ngắt. H’Linh khóc khi thứ nước cay xè ấy đã trôi tuột xuống cổ họng... H’Linh nghe tiếng cha hờ hờ. Tiếng giã gạo... H’Linh nghe tiếng anh rể đập búa chỉnh chiêng. H’Linh nghe tiếng cô giáo người Kinh hát dân ca... H’Linh trông thấy Y Woan mở to mắt buồn bã, trách móc. H’Linh nhìn thấy hình ngươi bay ngang trời, lơ lửng giữa cơn mưa trắng xóa. Hóa ra là anh rể, anh nhổ bức tượng khỉ mặt nhàu, sầu thảm ở vườn nhà ông chủ vác lên vai. H’Linh chạy ra giằng giữ lại, ôm chặt lấy tượng. Nước mắt mặt khỉ sầu não lẫn nước mưa chảy xuống mặt tái xanh lạnh ngắt của H’Linh. Nước mắt tượng khỉ, nước mắt H’Linh nhiều như mưa giữa trời đêm. Trắng xóa và tê buốt. Rồi ánh chớp! Và tiếng sét xé toạc không gian. Xồng xộc mùi phân bò hòa lẫn nước mưa. Anh rể đang vác tượng gỗ mặt khỉ mặt sầu đau đi giữa cơn mưa trắng xóa. Trại sáng tác Văn nghệ Quân đội Đà Nẵng, tháng 9.2006.

<span class='text_page_counter'>(99)</span> ([1]). Váy..

<span class='text_page_counter'>(100)</span>

×