Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Luận văn Thạc sĩ Chủ nghĩa khoa học xã hội: Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
----------------------

ĐOÀN VĂN NAM

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

BẮC GIANG - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC
----------------------

ĐOÀN VĂN NAM

XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN
Ở TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ NGÀNH: 60 22 03 08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: PGS.TS ĐẶNG THỊ LAN


BẮC GIANG - 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ........................................................ 8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................... 9
6. Đóng góp của luận văn .......................................................................... 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ........................................... 9
8. Kết cấu của luận văn ............................................................................. 9
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN .............................................................................................. 10
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần .............................................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần .......................................... 10
1.1.2. Khái niệm xây dựng đời sống văn hóa tinh thần .......................... 22
1.2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần ..................................................................................................... 30
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần ..................................................................................................... 38
1.3.1. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước ................... 38
1.3.2. Q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố.................................. 41
1.3.3. Tồn cầu hóa .............................................................................. 43
1.3.4. Diễn biến hồ bình ..................................................................... 46
CHƢƠNG 2. XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở
TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP . 50

2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu tỉnh Bắc Giang .............................. 50
2.1.1. Về điều kiện tự nhiên và dân cư, dân tộc .................................... 50


2.1.2. Tình hình kinh tế – xã hội .......................................................... 51
2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc
Giang hiện nay ........................................................................................... 55
2.2.1. Lĩnh vực chính trị, tư tưởng ........................................................ 56
2.2.2. Lĩnh vực đạo đức, lối sống .......................................................... 60
2.2.3. Lĩnh vực tơn giáo, tín ngưỡng ..................................................... 63
2.2.4. Về lĩnh vực giáo dục – đào tạo, khoa học – cơng nghệ .............. 66
2.2.5. Lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật ...................................................... 71
2.3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh quá
trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay.. 75
2.3.1. Một số phương hướng nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay................................. 76
2.3.2. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh q trình xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay ......................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 102


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa
mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” do Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) đưa ra
đến nay vẫn là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo q trình xây
dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung

và phát huy trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X(2006) đã nhấn mạnh:
Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển
kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định:
“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần
nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”[34; 76].
Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá
nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm
sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia
đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta
đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục
vụ đắc lực sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố vì mục tiêu dân giàu,
1


nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội”[33; 106].
Hiện nay, nước ta đang tiến hành cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, then chốt. Mục tiêu cơng
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, của văn minh tin học điện tử, của q trình

tồn cầu hóa sẽ khơng đạt được nếu không chủ động xây dựng và phát triển
văn hóa một cách có hiệu quả và bền vững. Trải qua gần 30 năm đổi mới
đất nước, nước ta ở trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, mở
rộng giao lưu hợp tác quốc tế trên nhiều mặt. Bên cạnh những thành cơng
có được từ nền kinh tế thị trường cũng như q trình tồn cầu hóa, chúng ta
không tránh khỏi những tác động tiêu cực do mặt trái của chúng gây ra, nếu
khơng có sức mạnh của đời sống văn hóa tinh thần, khơng có định hướng
vững vàng thì sự tồn tại của con người cũng như chế độ chính trị nước ta
cũng khó giữ gìn.
Đặc biệt, đời sống văn hóa tinh thần giúp con người tự nhận thức
chính mình, hướng con người tới sự hồn thiện. Đời sống văn hóa tinh thần
cịn giúp con người chống lại sự tha hóa trong mơi trường của sản xuất
hàng hóa, của chủ nghĩa tiêu dùng, chiến tranh và tội ác. Vì vậy song song
với nhiệm vụ phát triển kinh tế, tất yếu là nhiệm vụ xây dựng văn hóa, cơng
tác xây dựng đời sống văn hóa tinh thần trở thành một nhiệm vụ cấp thiết
trước một thế giới đang biến đổi nhanh chóng như hiện nay.
Trước sự tác động mạnh mẽ của tồn cầu hố, bên cạnh những thời cơ
thuận lợi không tránh khỏi những tác động tiêu cực ảnh hưởng trực tiếp đến
cá nhân, tổ chức, thậm chí sự vong tồn của một quốc gia. Đó là cơ hội để
văn hoá Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình, đó là sự
hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của nhân loại với giá rẻ hơn,
tiện nghi thuận lợi hơn. Tuy nhiên đi cùng với đó là vấn đề giữ gìn cơ cấu

2


và giá trị nội sinh của văn hoá dân tộc, đó là vấn đề tha hố lối sống, nhân
cách, rối loạn những giá trị xã hội, quan hệ xã hội.
Chiến lược “diễn biến hồ bình” là âm mưu cực kỳ thâm độc của các
thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam trên tất cả các lĩnh

vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá – xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh. Để thực hiện chiến lược "diễn biến hịa bình", các thế lực thù địch tìm
mọi cách du nhập lối sống, đạo đức, văn hóa khơng lành mạnh vào nước ta,
làm cho văn hóa của chúng ta đi chệch mục tiêu, lý tưởng yêu nước và chủ
nghĩa xã hội, phá hoại, làm xói mịn nền tảng và các giá trị đạo đức, văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, làm tha hóa một bộ phận cán bộ, đảng viên, đặc
biệt là thế hệ trẻ, nhằm tạo ra một thế hệ mất gốc, thích ăn chơi, thực dụng,
vụ lợi, vị kỷ, đua địi, hưởng lạc, kích thích các tệ nạn xã hội phát triển.
Cùng chung với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc của đất nước, vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở các
địa phương cần được nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn. Đặc
biệt ở khu vực trung du và miền núi trong quá trình chuyển mình phát triển
cùng với sự phát triển chung của đất nước, khu vực và quốc tế, vấn đề xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một trong
những vấn đề trọng tâm đối với hoạt động văn hóa hiện nay là phát huy vai
trị của văn hóa ở cấp cơ sở tại các địa phương làm cho văn hóa thực sự trở
thành nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế –
xã hội trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Bắc Giang là tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống (trong đó
8 dân tộc có số dân trên 1.000 người), cùng với đó sự đa dạng về tơn giáo,
tín ngưỡng. Nhân dân các dân tộc tỉnh Bắc Giang cịn lưu giữ, bảo tồn
nhiều giá trị văn hố văn nghệ đặc sắc, cần được duy trì và phát triển.
Sinh ra và lớn lên tại Tỉnh Bắc Giang, được thừa hưởng những truyền
thống quý báu, được tiếp thu những giá trị truyền thống của cha ông. Điều
này là vinh dự hết sức to lớn đối với tơi. Hịa chung với sự phát triển khu
3


vực cũng như cả nước, Bắc giang đang tiếp tục chú trọng phát triển cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân

tộc.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, tạo điều kiện để khu vực miền núi phát triển đồng đều và
vững chắc, đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu chung của đất nước trong
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước tình hình đó, vấn
đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở cơ sở là vấn đề mang tính thời sự,
cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Nhận thức được ý nghĩa của vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần là vơ cùng quan trọng, tơi lựa chọn vấn đề: “xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết
học của mình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho
tỉnh nhà, cho quê hương vào một lĩnh vực hết sức rộng lớn nhưng vơ cùng
hấp dẫn và mang tính thời sự hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Chủ nghĩa Mác – Lênin khi bàn về văn hóa đã khẳng định đó là một
trong những động lực để phát triển xã hội. Trong quá trình đổi mới của đất
nước, sự biến đổi đời sống tinh thần đã được các nhà khoa học nghiên cứu,
xem xét trên những bình diện khác nhau, đến nay chúng ta có thể chỉ ra
những cơng trình tiêu biểu theo các nhóm sau đây:
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa và xây dựng văn hóa, xây
dựng đời sống văn hóa tinh thần
- Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm hiểu về bản sắc văn hố Việt Nam: Cái
nhìn hệ thống loại hình, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. Trong cuốn sách,
bằng các phương pháp khoa học tác giả đã cung cấp cho người đọc một bức
tranh tổng quan về văn hóa Việt Nam với cách trình bày hết sức rõ ràng và
mạch lạc. Đó là cấu trúc văn hóa với những đặc trưng và chức năng, các
4



loại hình văn hóa (những vấn đề văn hóa học đại cương) để từ đó xác định
tọa độ và con đường phát triển của văn hóa Việt Nam. Đi vào các yếu tố
văn hóa, tác giả tập trung khảo cứu lĩnh vực văn hóa nhận thức dựa trên cơ
sở triết lý âm dương, mơ hình tam tài, ngũ hành của phương Nam (trong đó
có Việt Nam) và chỉ ra sự khác biệt của chúng với con đường phát triển tư
duy phương ắc (chủ yếu là Trung Hoa) cũng đi từ triết lý âm dương (được
gọi là lưỡng nghi ) đến mơ hình tứ tượng, bát qi. Về văn hóa t chức
cộng đ ng, tác giả đi vào hai lĩnh vực: đời sống tập thể (với các tổ chức từ
nông thôn đến đô thị và quốc gia) và đời sống cá nhân (tín ngưỡng, phong
tục, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật ngơn từ – thanh sắc – hình khối). Từ cấu
trúc văn hóa nêu trên, tác giả phân tích cách ứng x c a người Việt với môi
trường tự nhiên (ăn, mặc, ở, đi lại) và môi trường x hội (sự giao lưu văn
hóa với các giá trị ngoại lai du nhập vào Việt Nam: các tơn giáo, các nền
văn hóa

n Độ, Trung Hoa, phương Tây...) và sự đối phó, dung hợp văn

hóa Đơng–Tây.
- Hồng Vinh (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hoá ở nước ta, Viện Văn hố & Nxb Văn hố Thơng tin, Hà Nội. Cuốn
sách đã nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở – bước đi ban đầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc – đưa văn hóa thâm nhập vào cuộc sống thường ngày của
nhân dân.
- Trường Lưu (1999), Văn hóa – một số vấn đề lý luận, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã xem xét văn hóa trong mối quan hệ thống
nhất hữu cơ với môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội, từ đó đặt ra u
cầu trong hoạt động xây dựng mơi trường văn hóa cần có sự kết hợp hài
hòa, đồng bộ với nhiệm vụ xây dựng môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội nhằm phát triển tồn diện con người, qua đó tác động tới sự phát triển

của văn hóa và xã hội.

5


- Trần Văn ính (1998), Văn hóa trong q trình đơ thị hóa ở nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách, tác giả đã bàn
đến vai trị của văn hóa trong q trình đơ thị hóa ở nước ta hiện nay, đồng
thời đi sâu nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc và thực trạng văn hóa trong
q trình đơ thị hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm xây dựng nền văn
hóa dân tộc.
- Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng mơi trường văn hóa cơ sở, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả tiếp cận văn hóa như một tổng thể
chiều sâu, bề rộng, tầm cao của các giá trị mang tính nhân văn cao cả. Từ
đó tác giả đã đặt ra yêu cầu nhận thức và vận dụng đúng đắn những vấn đề
phương pháp luận trong quá trình xây dựng mơi trường văn hóa ở cơ sở.
Tác giả đã bước đầu đưa ra phương pháp luận nghiên cứu về văn hóa và
phương hướng thực hiện thằng lợi cuộc vân động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” ở nước ta hiện nay. Cuốn sách tiếp tục khẳng định
quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc “vừa là mục tiêu, vừa là động lực” thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
- Hồ Bá Thâm (2003), Bản sắc văn hoá dân tộc, NX Văn hố Thơng
tin, Hà Nội. Ở đây, văn hóa cũng được tiếp cận dưới góc độ: tiếp cận hoạt
động, tiếp cận giá trị, tiếp cận phát triển, tiếp cận cơng nghệ. Tác giả cho
rằng “văn hóa là tổng hịa các giá trị vật chất và giá trị tinh thần theo tính
chân, mỹ, thiện, do hoạt động của con người sáng tạo ra, thông qua các
phương thức sinh tồn của đời sống xã hội, và ngày càng phát triển. Văn hóa
là sự phát triển, tiến bộ và phát triển, tiến bộ là văn hóa”
- Đỗ Huy (2001), Xây dựng mơi trường văn hố ở nước ta hiện nay từ

góc nhìn giá trị văn hố, Nxb Văn hố Thơng tin, Hà Nội. Cuốn sách đã
tiếp cận văn hóa theo thước đo giá trị lịch sử – xã hội, làm hiện diện bản
chất của mơi trường văn hóa như một di sản quý báu mà các thế hệ nối tiếp
phải giữ gìn và phát triển.
6


- Phạm Minh Hạc (Chủ biên) (2003), Về phát triển văn hố và xây
dựng con người thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Cuốn sách tập trung trình bày những nội dung cơ bản về tư
tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người, mối
quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới, phát triển con người
và xây dựng lối sống đạo đức và chuẩn mực giá trị mới,… Đồng thời cuốn
sách cũng đã đưa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề
trên.
Các cơng trình này cũng đó đề cập đến đặc điểm, vai trị của văn hóa
và văn hóa tinh thần cũng như đề cập đến các giải pháp bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên các cơng trình khoa
học đó nghiên cứu trên một phạm vi rộng, đề xuất những giải pháp ở tầm vĩ
mơ.
2.2.

Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa Bắc Giang

- Ngơ Văn Trụ (chủ biên) (2011), Văn hóa Bắc Giang – một góc nhìn,
Nxb Văn hóa – Thơng tin. Cuốn sách là những suy nghĩ, đánh giá, trao đổi
có tính học thuật, nghiệp vụ về văn hóa các dân tộc thiểu số trong địa bàn
Tỉnh Bắc Giang, về lễ hội tiêu biển, về văn hóa – du lịch cũng như những
nghiên cứu thực tế về cơng tác văn hóa tại Tỉnh Bắc Giang.
- Ngơ Văn Trụ (chủ biên) (2006), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, Nxb

Văn hóa dân tộc. Cuốn sách là một nghiên cứu về lịch sử, phong tục, tập
quán, lối sống của một dân tộc cụ thể sống trên địa bàn Tỉnh Bắc Giang.
Ngồi một số các cơng trình trên cịn có các bài viết in trên các
báo và tạp chí như: Đỗ Huy (2001), “Xây dựng mơi trường văn hóa ở nước
ta từ góc nhìn giá trị học”, Văn hóa nghệ thuật, (4); Thu Linh (1994), “Mơ
hình làng văn hóa ở nơng thơn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, (6).
Các bài viết này đã khai thác ở một vài khía cạnh của đời sống văn hóa
tinh thần, khẳng định vai trị của văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần là
động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
7


Nhìn chung các tác giả đều khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng
và phát triển văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần; cho thấy sự quan trọng
của văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần trong quá trình phát triển của đất
nước. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống về
vấn đề xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở một số vấn đề lý luận chung về xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần, luận văn làm rõ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở
Tỉnh Bắc Giang hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian
tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ
sau:
+ Thứ nhất, làm rõ khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa tinh
thần, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần.
+ Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở

Tỉnh Bắc Giang hiện nay.
+ Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh
Bắc Giang hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu giới hạn trong phạm vi đời sống văn hóa tinh
thần ở Tỉnh Bắc Giang; Phạm vi về thời gian: từ khi đổi mới (1986) đến
nay.
8


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa. Những quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về
văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần và có kế thừa những giá trị
của các cơng trình nghiên cứu có liên quan đã cơng bố.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phân
tích - tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa, so sánh…Các phương pháp trên
được sử dụng linh hoạt phù hợp với từng nội dung của đề tài luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Với việc đi sâu nghiên cứu thực trạng đời sống văn hóa tinh thần ở
Tỉnh Bắc Giang hiện nay, đề tài giúp chúng ta hiểu rõ hơn thực trạng đời
sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang hiện nay. Trên cơ sở đó đề tài
bước đầu đưa ra một số phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đời

sống văn hóa tinh thần ở Tỉnh Bắc Giang trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận c a luận văn
Luận văn góp phần làm rõ một số nội dung cơ bản về đời sống văn hóa
tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta hiện nay nói
chung và ở tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn c a luận văn
Luận văn là sự vận dụng những kiến thức đã được học vào nghiên
cứu thực tế. Là tài liệu tham khảo phục vụ cho học tập, nghiên cứu, cơng
tác quản lý, xây dựng, hoạch định chính sách về văn hóa cho các cá nhân,
đơn vị, tổ chức có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 4 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Danh mục tài liệu
tham khảo. Riêng phần Nội dung bao gồm 2 chương với 6 tiết.

9


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN VÀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần và xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần
1.1.1. Khái niệm đời sống văn hoá tinh thần
1.1.1.1.Khái niệm văn hoá, văn hóa tinh thần
Trong thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu về văn hóa đã tiếp tục đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Phan Ngọc, cho đến nay đã có
trên 400 định nghĩa về văn hóa. Điều này cho thấy "mảnh đất" văn hóa để
cày xới, thâm nhập, tiếp cận rất rộng, đa dạng và phong phú. Trong bản

tuyên bố chung tại Hội nghị quốc tế ở Mexicơ do UNESCO chủ trì họp từ
26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta chấp nhận một quan niệm về văn hóa như
sau: Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về
tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội
hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng"[86; 5].
Nhờ có văn hóa mà con người thể hiện được phẩm chất, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành , đặt ra để
xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tịi khơng biết mệt những "ý
nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những cơng trình vượt trội lên bản thân
mình".
Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà
nghiên cứu Hồng Vinh đã có quan niệm xác đáng rằng: Văn hóa là tồn
bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong q trình hoạt động thực tiễn
xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông
10


qua vốn di sản văn hóa và hệ ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá
trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng
xã hội, nó có khả năng chi phối đời sống tâm lý và một họat động của
những con người sống trong cộng đồng xã hội ấy"[102; 43].
Hoạt động sáng tạo văn hóa vật chất và tinh thần của con người là
nhằm hình thành nên các giá trị văn hóa để từ đó cộng đồng người nói
chung và mỗi con người nói riêng soi vào nó để chiêm nghiệm, đối chiếu
và phấn đấu để đạt được những chuẩn mực giá trị cần thiết mà mỗi cá nhân,
gia đình, xã hội địi hỏi. Vì vậy, có thể hiểu: Văn hóa là q trình vận động
đặc biệt làm biến đổi liên tục và sâu sắc đến năng lực sáng tạo của cá nhân
và cộng đồng nhằm ngày càng hoàn thiện nhân cách và xã hội, vươn tới sự

thống nhất cao giữa mỗi cá nhân – gia đình – cộng đồng làng xã và tồn xã
hội vì sự tồn tại và phát triển tiến bộ của con người và xã hội.
Ngày nay một quan niệm đầy đủ về bản chất của văn hoá ngày càng
được xác định. Nếu trước đây khái niệm văn hoá chỉ được hiểu theo
nghĩa hẹp trong giới hạn các hoạt động văn học, nghệ thuật thì ngày nay
văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là tổng thể các hệ thống giá trị bao
gồm các mặt tình cảm, tri thức, vật chất và tinh thần của xã hội do con
người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn – lịch sử của mình, trong mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội.
Như vậy, điểm thống nhất trong những quan niệm trên là đều xem lao
động sáng tạo là cội nguồn của văn hóa. Và, chính văn hóa đã đem lại cho
con người khả năng suy xét về bản thân, làm cho chúng ta trở thành những
sinh vật đặc biệt mang tính nhân bản sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và
dấn thân một cách có lý trí và tình cảm trong khát vọng vươn tới chân –
thiện – mỹ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hoá thế giới đã đưa ra quan điểm về văn hố như sau: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
11


ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó, tức là văn
hố. Văn hố là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu
hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời
sống và địi hỏi của sự sinh tồn” [70; 431]. Như vậy từ trong quan niệm
của Hồ Chí Minh tốt lên một cái nhìn vừa toàn diện, vừa sâu sắc về
nguồn gốc lịch sử của văn hoá, về phạm vi rộng lớn của văn hoá, về mặt
biểu hiện của văn hoá trong đời sống và tồn bộ sinh hoạt của con người.

Hồ Chí Minh soi xét cả hai mặt vật chất và tinh thần của văn hóa.
Về mặt vật chất đó là những cơng cụ của sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc
ở và các phương thức sử dụng những công cụ ấy. Về mặt tinh thần đó là
ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn học nghệ
thuật… Đó là hai mặt cơ bản thống nhất biện chứng của văn hóa. Văn
hóa tinh thần được nâng cao bao giờ cũng dựa trên nền tảng văn hóa vật
chất và khơng có văn hóa vật chất nào của con người lại khơng chịu sự
tác động của văn hóa tinh thần. Quan điểm tồn diện và sâu sắc của Hồ
Chí Minh về văn hố có ý nghĩa cực kỳ lớn lao trong sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khi
mà Đảng ta xác định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội".
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu rằng văn hóa được
hình thành và phát triển trong quan hệ thích nghi giữa con người với thiên
nhiên, giữa con người với con người. Trải qua hàng ngàn năm thích nghi và
cải tạo thế giới, những kinh nghiệm mà con người tích lũy được đã trở
thành nền tảng cơ bản cho sự phát triển của văn hóa.
Văn hóa khơng chỉ bó hẹp trong quan hệ cá nhân gia đình và cộng
đồng mà cịn mở rộng trong mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Văn hóa hình thành trong q trình tiếp xúc, giao lưu, sàng lọc,
cải biến giữa văn hóa bản địa với những nền văn hóa khác. Do đó, văn
12


hóa bao giờ cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú nhưng luôn mang những
nét độc đáo của dân tộc, đồng thời bao hàm tiềm ẩn những giá trị chung
của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác – Lênin xem “văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã
hội – lịch sử, tiêu biểu cho trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội”
[64; 507].

Thơng thường người ta chia văn hóa thành văn hóa vật chất (kỹ thuật,
kinh nghiệm sản xuất, giá trị vật chất) và văn hóa tinh thần (khoa học, nghệ
thuật và văn học, triết học, đạo đức, giáo dục...). “Văn hóa là một hiện
tượng lịch sử, phát triển phụ thuộc vào sự thay thế các hình thái kinh tế –
xã hội” [64; 505].
Là sản phẩm đặc trưng của con người, văn hố có hai dạng tổng qt:
văn hố vật chất và văn hố tinh thần, chúng có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tuy nhiên việc phân chia này cũng chỉ mang tính tương đối. Thực tế,
trong các sản phẩm văn hoá vật chất, dưới cái vỏ vật chất là năng lực sáng
tạo, thẩm mỹ, là dấu ấn văn hoá của người làm ra chúng. Ngược lại, nhiều
sản phẩm văn hoá tinh thần lại thể hiện thông qua dưới dạng vật chất cụ thể
nào đó.
Văn hố tinh thần bao gồm các sản phẩm tinh thần mang giá trị văn
hoá, do con người sáng tạo ra nhằm thoả mãn những nhu cầu tinh thần của
con người, mà trước hết là các hình thái ý thức xã hội như: hệ tư tưởng,
chính trị, đạo đức, khoa học, tín ngưỡng, phong tục, tập quán… Các sản
phẩm văn hóa tinh thần do hoạt động sản xuất văn hoá tinh thần sáng tạo
ra. Tuy nhiên, so với sản suất các sản phẩm vật chất, sản xuất các sản phẩm
tinh thần có đặc điểm: Nó là quá trình phản ánh hiện thực khách quan
thơng qua nhận thức của con người, tái tạo hiện thực trong tư duy và thể
hiện thơng qua những hình thức, phương pháp khác nhau (khái niệm, phạm
trù, quy luật, hình tượng nghệ thuật); quần chúng nhân dân suy cho cùng là
13


người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần, nhưng việc sản xuất ra các
giá trị văn hoá tinh thần địi hỏi phải có năng lực, có kiến thức, có kinh
nghiệm kỹ năng, vì vậy, lực lượng chủ yếu sáng tạo ra các giá trị văn hoá
tinh thần, nhất là các sản phẩm văn hoá tinh thần mang tính “bác học”
thuộc về đội ngũ trí thức.

Bản thân sản phẩm văn hố tinh thần cũng gồm hai loại: vơ hình và
hữu hình. Sản phẩm văn hố vơ hình là những sản phẩm khơng có hình thể,
nó tồn tại dưới dạng giá trị, được ghi trong ký ức xã hội như huyền thoại,
truyền thuyết, tín ngưỡng, truyền thống dân tộc. Sản phẩm văn hố hữu
hình là những sản phẩm hữu thể, tồn tại dưới dạng vật thể như bức tranh,
bức tượng, tác phẩm văn học, di tích lịch sử...
Ngồi ra UNESCO cũng phân chia văn hóa thành hai lĩnh vực, đó là:
“Văn hóa hữu thể và văn hóa vơ thể. Việc phân chia này cần thiết để có
cách nhìn tồn diện, tổng thể về văn hóa. Tuy nhiên ranh giới của sự phân
chia này cũng chỉ mang tính tương đối, không thể tách bạch tách rời các
lĩnh vực, bởi lẽ ngay trong văn hóa hữu thể lại có văn hóa vô thể” [105;
100].
Thời đại ngày nay là thời đại giao lưu rộng rãi giữa các quốc gia, dân
tộc, những nhận thức mới về văn hóa ln được bổ sung thêm những nội
dung mới, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của nhân loại. Trong bối
cảnh tồn cầu hóa, khu vực hóa q trình giao lưu văn hóa giữa các quốc
gia dân tộc, kể cả những nước có chế độ chính trị khác nhau đang diễn ra
trên quy mơ rộng lớn và tốc độ nhanh. Sự biến đổi văn hóa của các dân
tộc do đó cũng diễn ra nhanh chóng. Bên cạnh những thời cơ lớn, giao lưu
quốc tế khiến cho nhiều nước, nhất là các nước chậm phát triển về kinh tế,
có nguy cơ bị chèn ép và đồng hóa về văn hóa. Do đó, vấn đề giữ gìn, bảo
vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc chống nguy cơ đồng hóa về văn
hóa là một trong những thách thức lớn đối với các quốc gia, đặc biệt đối với
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
14


1.1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
“Đời sống” là một khái niệm rất rộng, trong mỗi khía cạnh xem xét lại
có cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có thể hiểu đời sống là tình trạng

tồn tại của sinh vật như: đời sống của cỏ cây, đời sống của súc vật, đời sống
của con người. Cũng có thể hiểu đời sống là lối sống của cá nhân hay tập thể
như: Đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm. Tuy nhiên trong khuôn khổ của
luận văn, tác giả hiểu: Đời sống là khái niệm dùng để chỉ sự hoạt động của
con người trong từng lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt là lĩnh vực văn hóa.
Khái niệm “đời sống văn hóa” có thể hiểu đó là tất cả những hoạt động
của con người tác động vào đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống
xã hội để hướng con người vươn lên theo quy luật của cái đúng, cái đẹp, cái
tốt, của chuẩn mực giá trị chân, thiện, mỹ, đào thải những biểu hiện tiêu
cực tha hoá con người.
Đời sống văn hóa là q trình diễn ra sự trao đổi thơng qua các hoạt
động văn hóa nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. Đó là q
trình các yếu tố văn hóa mà con người tiếp thu được tác động vào đời sống
vật chất để con người biến đổi môi trường tự nhiên tạo lập môi trường nhân
văn, làm ra được nhiều sản phẩm vật chất cho xã hội; tác động vào đời
sống tinh thần để con người thỏa mãn nhu cầu chủ quan đáp ứng các yêu
cầu về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống; tác động vào đời sống xã hội
để xây dựng một hệ thống các giá trị chuẩn mực xã hội; tác động vào chính
bản thân đời sống cá nhân, điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân và cho
cá nhân phương thức lựa chọn hướng đi tốt nhất cho chính cuộc đời mình.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính kế thừa. Kế thừa các giá trị
truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước tạo ra sự ổn định và tiền đề
khẳng định những giá trị mới.
Đời sống văn hóa bao giờ cũng có tính đổi mới, bởi lẽ con người ln
ln có khát vọng vươn lên cái tốt đẹp, chỉ có mạnh dạn sáng tạo, mạnh

15


dạn cải đổi mới mong đáp ứng nhu cầu càng cao về vật chất và tinh thần

của con người.
Đời sống văn hóa là một bộ phận trọng yếu c a đời sống tinh thần.
Đời sống văn hóa được quan niệm là toàn bộ phương thức sinh hoạt tinh
thần; là một phạm trù phản ảnh một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội,
dùng để chỉ tồn bộ q trình sản xuất và tái sản xuất ra các giá trị văn hóa;
là tổng thể các dạng hoạt động của con người trên các lĩnh vực: tư tưởng,
đạo đức, nghệ thuật, khoa học, giáo dục – đào tạo, thẩm mỹ, sinh hoạt tơn
giáo, tín ngưỡng, thể dục thể thao... hướng tới cái chân – thiện – mỹ. Do
đó, xây dựng đời sống văn hóa cũng phải được xác lập trong cái nhìn tổng
thể, bao qt tồn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ của đời sống xã hội, thể hiện
trong mọi lĩnh vực và các yếu tố cấu thành; chất lượng của đời sống văn
hóa cao hay thấp đều phụ thuộc vào năng lực sáng tạo của con người để tạo
ra các sản phẩm văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa bao giờ cũng phải
gắn với một bối cảnh, một phạm vi không gian, một cộng đồng dân cư nhất
định, tức là phải gắn liền với cơ sở được xác định. Đời sống văn hóa của
tồn thể xã hội thực thể chỉ tồn tại thơng qua đời sống văn hóa cơ sở, thơng
qua đời sống văn hóa của từng cá nhân và cộng đồng trong xã hội. Từ
những quan niệm trên, tác giả mạnh dạn khái quát khái niệm “Đời sống văn
hóa tinh thần” như sau:
Đời sống văn hóa tinh thần là t ng hòa sống động các hoạt động sản
xuất, trao đ i, tiêu dùng các giá trị văn hóa tinh thần làm cho các giá trị đó
thẩm thấu sâu vào từng con người, từng cộng đ ng người trở thành yếu tố
khăng khít c a tồn bộ đời sống hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng
nhu cầu văn hóa tinh thần đa dạng và khơng ngừng tăng lên c a mọi thành
viên trong xã hội.
Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần là một khái niệm rộng để chỉ tồn
bộ các thành tựu có ý nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương
thức, cách thức mà con người sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày.
16



Tiêu chí căn bản để xem xét đánh giá đời sống văn hóa tinh thần của
một con người hoặc một cộng đồng người: Trình độ được vun trồng của
con người là sự phát triển của các mặt chân - thiện - mỹ của mặt đời sống,
hoạt động và quan hệ thực tiễn của con người hay cộng đồng đó.
Đời sống tinh thần có cái hay, cái dở, cái tốt, cái khơng tốt, nhưng đời
sống văn hố tinh thần chỉ có cái hay, cái tốt. Đời sống văn hoá tinh thần là
biểu hiện và là một bộ phận của đời sống tinh thần nhưng không đồng nhất
với đời sống tinh thần. Bởi vì, nói đến văn hố là nói đến những giá trị cao
đẹp mà sự hưởng thụ nó giúp con người phát triển, hoàn thiện theo hướng
chân – thiện – mỹ. Mọi con người, mọi cộng đồng xã hội đều có đời sống
tinh thần. Nhưng trên thực tế, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội, cộng
đồng xã hội cao đẹp, lành mạnh, có đời sống tinh thần của nhóm xã hội,
cộng đồng xã hội thấp kém. Đời sống tinh thần là khái niệm chỉ tất cả các
bộ phận, các lĩnh vực hoạt động tinh thần, còn đời sống văn hố tinh thần là
khái niệm nói lên mặt chất lượng của đời sống văn hoá tinh thần, của các
hoạt động tinh thần. Đời sống văn hoá tinh thần là bộ mặt tinh thần của xã
hội, nói lên trình độ đạt được của một cá nhân, cộng đồng, một xã hội về
văn hoá. Đời sống văn hoá tinh thần của một dân tộc được sàng lọc, kết
tinh thành hệ giá trị văn hố tinh thần, nói lên trình độ, đặc điểm, phẩm
chất, bản sắc của dân tộc đó.
*Cấu trúc đời sống văn hóa tinh thần
Đời sống văn hóa tinh thần không chỉ ở một lĩnh vực mà bao quát rất
nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội như: tư tưởng, nghệ thuật, khoa học,
giáo dục, tín ngưỡng, tơn giáo.
Hoạt động tư tưởng: Nhằm hình thành thế giới quan khoa học. Thế
giới quan khoa học bao gồm không chỉ tri thức, nhận thức, quan niệm mà
cịn cả tình cảm, niềm tin. Thế giới quan khoa học vì vậy được coi là cốt lõi
của văn hố, văn hố tinh thần, có vai trò định hướng hoạt động và quan hệ
giữa con người với nhau và với thế giới xung quanh, là kim chỉ nam cho

17


hành động. Chính nhờ đó mà tư tưởng, đạo đức, lối sống ln đi liền nhau,
kết dính với nhau tạo thành lĩnh vực then chốt của đời sống văn hoá tinh
thần. Ngay khi cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời, Hồ Chí Minh yêu cầu mở ngay một chiến
dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân. Trong hoàn cảnh mới, Hồ Chí Minh
ln nhắc nhở phải khơng ngừng học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập
suốt đời bởi vì: “khơng có lý luận thì lịng tịng như nhắm mắt mà đi”. Theo
Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là rèn luyện một thế giới
quan, một phương pháp tư duy khoa học, là vận dụng những chân lý phổ
biến của chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta một cách
sáng tạo nhằm giải quyết những cơng việc thực tế. Vì lẽ đó nên Hồ Chí
Minh ln u cầu lý luận phải gắn với thực tiễn. Học tập chủ nghĩa Mác –
Lênin, thấm nhuần tư tưởng Mác – Lênin nhằm chống lại những hành động
xuyên tạc và tiến công của bọn phá hoại vào đường lối của Đảng, đấu tranh
chống ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại. Có thể nói, chủ nghĩa Mác
– Lênin đã chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và
trở thành hệ tư tưởng của tồn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đời sống văn
hoá tinh thần mới của nhân dân ta. Nó là hoạt động chủ đạo, quy định
phương hướng, trình độ và phẩm chất của tồn bộ đời sống văn hoá tinh
thần cũng như từng bộ phận của nó, đảm bảo cho đời sống văn hố tinh
thần phát triển đúng hướng, có cơ sở, có gốc rễ vững chắc, lâu bền và có
chất lượng thật sự.
Hoạt động văn hoá nghệ thuật: Văn hoá nghệ thuật là đỉnh cao của
đời sống tinh thần, là hình ảnh của tâm hồn dân tộc. Trong các xã hội trước
đây, nghệ thuật được coi như một loại hình giải trí, mua vui. Những nghệ sĩ
chỉ được coi là lũ xướng ca vơ lồi”. Nhưng hiện nay lại có quan điểm
khác hẳn, những người người nghệ sĩ rất được coi trọng. Nghệ sĩ biết sử

dụng ngịi bút của mình như “vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phị chính trừ
tà” là những người có lập trường chính trị đúng đắn, để phục vụ nhân dân,
18


đồng thời phục vụ tinh thần quốc tế. Bởi vì, dân tộc bị áp bức thì văn nghệ
cũng mất tự do, văn nghệ muốn tự do phải tham gia cách mạng.
Hoạt động nghệ thuật phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân. Chỉ có
thực tiễn đời sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vơ tận cho văn
nghệ, thực tiễn ấy cung cấp những chất liệu không bao giờ cạn cho văn
nghệ sĩ, từ đó họ có thể tạo nên những tác phẩm có tác dụng nâng cao tư
tưởng, tình cảm của quần chúng, bồi dưỡng đời sống tinh thần con người,
hướng con người đến những giá trị cao đẹp nhất. Đó phải là những tác
phẩm mơ tả vừa hay, vừa chân thật, vừa hùng hồn, phải là những tác phẩm
cá tính tư tưởng và tính nghệ thuật cao, thể hiện ở nội dung và hình thức
của tác phẩm.
Hoạt động khoa học: Hiện nay chúng ta cũng rất quan tâm và chú
trọng bởi đây là một bộ phận rất quan trọng góp phần nâng cao đời sống
văn hố tinh thần của nhân dân. Đó là hoạt động sáng tạo và phổ biến tri
thức cần thiết cho con người và xã hội, đáp ứng yêu cầu chinh phục tự
nhiên, cải tạo xã hội và hoàn thiện con người theo hướng đạt tới chân,
thiện, mỹ.
Khoa học đi sâu vào đời sống sẽ nâng cao trình độ dân trí, xố bỏ
những phong tục, tập quán lạc hậu. Khoa học bản thân nó là một bộ phận
hữu cơ của đời sống văn hoá tinh thần. Những tư tưởng sáng tạo của nhà
khoa học, những thành tựu và kết quả nghiên cứu khoa học, những phát
minh khoa học là những giá trị văn hố.
Để có những hoạt động khoa học, nghệ thuật, thì con người ai cũng
cần phải học tập, vì vậy cần phải có một nền giáo dục. Giáo dục chính là
hoạt động nhằm trang bị những tri thức cho con người trên mọi lĩnh vực

của đời sống giúp họ có được những phẩm chất và năng lực cần thiết để
sáng tạo những giá trị mới cho cuộc sống, trong đó có giá trị tinh thần. Chỉ
thơng qua giáo dục thì mới có thể bảo tồn những giá trị tinh thần, những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu, phát triển những giá trị mới.
19


Vì vậy, ngay sau khi chính quyền về tay nhân dân, việc xây dựng một nền
văn hoá giáo dục mới đó chính thức được đặt ra như một trong những
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là một nhiệm vụ cấp
bách phải tiến hành ngay, không thể chậm trễ.
Để xây dựng một nền giáo dục mới phải đào tạo những con người mới
vừa có đức, vừa có tài, để đúng góp tích cực vào cơng cuộc kiến thiết đất
nước. Học không phải để chạy theo bằng cấp, mà phải có thực học. Vì thế,
muốn xây dựng được đời sống văn hoá tinh thần mới xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải học nhiều, phải cố gắng học. Nếu khơng chịu khó học thì
khơng thể tiến bộ được. Xã hội càng phát triển, cơng việc càng nhiều, máy
móc càng tinh xảo. Mình mà khơng chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị
đào thải. Tự mình đào thải mình, học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời.
Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế, học tập phải kết
hợp với lao động. Và quan trọng nhất, học ở mọi nơi, mọi lúc, học mọi
người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại.
Hoạt động giáo dục đã góp phần to lớn trong việc hình thành một nền
giáo dục mới, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho cụng cuộc xây dựng đời sống
văn hoá tinh thần mới ở nước ta ngày ấy và bây giờ.
Hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo
Bên cạnh những yếu tố trên, một yêu tố hết sức nhạy cảm đó là hoạt
động tín ngưỡng, tơn giáo. Đây là một hoạt động có ảnh hưởng rất lớn tới
đời sống tinh thần con người, nó hướng về một thế giới siêu nghiệm với
niềm tin tuyệt đối, khơng thể chứng minh, nhưng có ảnh hưởng chi phối

mạnh mẽ, sâu sắc đến đạo đức và lối sống của người theo đạo và có tín
ngưỡng, tơn giáo.
Cần sự tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tự do khơng tín ngưỡng,
khơng được có sự phân biệt đối xử giữa tôn giáo này với tôn giáo khác,
giữa người có đạo và người khơng có đạo. Đồng bào lương hay giáo đều là

20


người Việt Nam, đều là người lao động và sự nghiệp cách mạng là việc lớn,
là sự nghiệp chung không phải chỉ của một, hai người.
Đó là xét dưới góc độ các dạng, các hình thức hoạt động văn hóa cụ
thể. Cịn xét dưới góc độ vận động và phát triển đời sống văn hố tinh thần
là một q trình vận động qua năm khâu: nhu cầu văn hóa tinh thần; sản
xuất giá trị văn hoá tinh thần; bảo quản các giá trị văn hoá tinh thần; trao
đổi chuyển giao các giá trị văn hoá tinh thần; tiêu dùng các giá trị tinh thần.
Nhu cầu văn hoá tinh thần bao gồm nhu cầu hưởng thụ và nhu cầu
sáng tạo các giá trị văn hoá tinh thần nảy sinh ở con người, cộng đồng
người do tác động của hoàn cảnh sinh sống. Nhu cầu văn hoá tinh thần
khác với nhu cầu tinh thần nói chung. Chỉ những nhu cầu tinh thần nào
hướng tới các giá trị cao cả và sự đáp ứng góp phần phát triển con người
theo hướng lành mạnh, tiến bộ mới được coi là nhu cầu văn hoá tinh thần.
Sản xuất văn hoá tinh thần là hoạt động tìm tịi, phát hiện, phản ánh,
sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần
của con người.
Bảo quản văn hoá tinh thần là các hoạt động bảo lưu, giữ gìn, cất giữ
các giá trị văn hoá tinh thần do con người sáng tạo ra như hoạt động bảo
tồn, bảo tàng, lưu trữ…
Trao đổi văn hoá tinh thần là hoạt động giao lưu văn hoá, trao đổi qua
lại những sản phẩm văn hoá tinh thần giữa người với người, giữa các thế

hệ, giữa các cộng đồng người. Sự trao đổi văn hoá tinh thần cũng là sự
thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hoá.
Tiêu dùng văn hoá tinh thần là quá trình con người, cộng đồng người
lựa chọn, tiếp nhận và hưởng thụ các giá trị văn hoá tinh thần của quá khứ
để lại và của đương thời tạo ra đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo các
giá trị văn hoá tinh thần.

21


×