Tải bản đầy đủ (.pdf) (164 trang)

Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi việt nam đương đại qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.12 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(QUA SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ TIÊU BIỂU)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Chuyên ngành Văn học Việt Nam

HÀ NỘI - 2013


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THANH XUÂN

VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
(QUA SÁNG TÁC CỦA MỘT SỐ NHÀ VĂN NỮ TIÊU BIỂU)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP

Hà Nội - 2013


1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn xi Việt Nam đương đại” (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu) là
cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi và chưa từng được công bố. Những
tài liệu được trích dẫn trong luận án là chính xác và trung thực.
Tác giả luận án

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

5

1. Lý do chọn đề tài ……………………………………………………………..........5
2. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ……………………………………...6
3. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………...7
4. Đóng góp của luận án ……………………………………………………………...8
5. Cấu trúc luận án ……………………………………………………………............8
NỘI DUNG
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁI TÍNH VÀ NỮ
QUYỀN TRONG VĂN HỌC
1.1.

10


Giới thuyết về phái tính và nữ quyền…………………………………………......10

1.1.1. Quan niệm truyền thống về phái tính……………………………..........................10
1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền………………………..12
1.2. Tình hình nghiên cứu về phái tính và nữ quyền trên thế giới và Việt Nam...……….15
1.2.1. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở nước ngồi……….................................................15
1.2.2. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở Việt Nam…………………………………..…….20
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ PHÁI TÍNH VÀ NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC TRUYỀN
THỐNG

31

2.1. Sự xác lập ý thức phái tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam truyền thống........32
2.1.1. Văn hoá Mẫu hệ - nền tảng của ý thức phái tính trong văn học truyền thống…….32
2.1.2. Nho giáo và nữ quyền trong văn học………………………..………......................35
2.2. Cảm quan phái tính và thân phận người phụ nữ trong ca dao ………………………37
2.3. Cảm quan phái tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam trung đại ……………….41
2.3.1. “Chuyện người con gái Nam Xương và người phụ nữ với nỗi buồn nhân thế……42
2.3.2. Cảm quan tính dục trong thơ Hồ Xuân Hương…………………………………....43
2.3.3. Cảm quan về tính dục và thân phận người phụ nữ trong văn học Việt Nam từ thế
kỷ XVIII đến cuối thế kỷ XIX ……………………...........................................................48
2.4. Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam trước năm 1975...50
2.4.1. Từ đầu thế kỷ XX – 1945……………………………………………………….....50
2.4.1.1. Phan Khôi và Manh Manh nữ sĩ: Khúc dạo đầu của phê bình nữ quyền trong
3


văn học đầu thế kỷ XX…………………………………………………………………..51
2.4.1.2. Văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX: Từ người phụ nữ mù chữ đến người phụ nữ
viết văn…………………………………………………………………………...............55

2.4.1.3. “Gái mới” trong tiểu thuyết Tự lực văn đồn - hình ảnh mới của ý thức phái
tính và nữ quyền trong văn học Việt Nam……………………………………………….58
2.4.2. Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam từ năm 1945
đến năm 1975 …………………………………………………………………………….59
2.4.2.1. Ý thức phái tính và nữ quyền trong văn học cách mạng…………...……………59
2.4.2.2. Vấn đề thân phận người phụ nữ trong văn xuôi đô thị miền Nam từ 1954 đến
1975………………………………………………………………………………………60
Chƣơng 3: Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN TRONG VĂN
XI NỮ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 DƢỚI GĨC ĐỘ NỘI DUNG

70

3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và tình hình văn học Việt Nam từ sau năm 1975………….70
3.2.

Xác lập một lối viết nữ…………………………………………………………....72

3.3.

Hành trình tìm lại bản ngã……………………………………………...................75

3.3.1. Nhân vật nữ trong sáng tác của các nhà văn nữ……………………………..........75
3.3.1.1.

Người phụ nữ và những cuộc chiến vẫn còn nhức nhối……………………...78

3.3.1.2.

Người phụ nữ và những khát khao hạnh phúc đời thường……………………86


3.3.1.3.

Tính dục như một phương thức thể hiện bản ngã……………………………..93

3.3.2. “Xét lại” thế giới đàn ông bằng con mắt đàn bà………………….………………106
Chƣơng 4: Ý THỨC PHÁI TÍNH VÀ ÂM HƢỞNG NỮ QUYỀN TRONG VĂN
XUÔI NỮ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1975 DƢỚI GĨC ĐỘ NGHỆ THUẬT

117

4.1. Khơng/thời gian nghệ thuật – bức tranh thế giới qua con mắt người phụ nữ………117
4.2. Ngôn ngữ, giọng điệu – bước đột phá về diễn ngơn phái tính…………….….........125
4.3. Khuynh hướng tự truyện như một nét đặc thù của lối viết nữ ………………..........133
KẾT LUẬN

150

THƢ MỤC THAM KHẢO

152

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Nữ nhi thường tình”, “Nữ sinh ngoại tộc”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vơ”,... là những câu nói người ta vẫn truyền đời lại cho nhau. Thái độ “trọng nam
khinh nữ” qua hàng ngàn năm lịch sử đã bám rễ rất sâu vào xã hội bị cai trị bởi tư
tưởng nam quyền, thậm chí ngay cả nhiều người phụ nữ cũng ngầm thừa nhận vai

trò thống trị của nam giới.
Cuộc đấu tranh để giành lại địa vị đã mất của nữ giới vốn âm ỉ từ lâu trong lịch
sử đã dần phát triển mạnh mẽ với tên gọi là Nữ quyền luận - Chủ nghĩa nữ quyền
(Feminism). Và cho đến nay, bình đẳng giới tính và nữ quyền vẫn thuộc những vấn
đề quan trọng nhất của thời đại. Có một điều chúng tơi muốn nhấn mạnh ở đây là
trong đa số các nền văn hóa ở cả phương Đơng lẫn phương Tây, giới thường phải
chịu nhiều bất cơng nhất trong xã hội chính là nữ giới. Do đó, tranh đấu về bình
đẳng giới tính thường đồng nghĩa với đấu tranh cho nữ quyền. Cuộc đấu tranh vì
bình đẳng giới đã đồng loạt diễn ra trên mọi phương diện của đời sống xã hội, trong
đó có văn học nghệ thuật.
Có một sự thật hiển nhiên rằng khi nhắc đến văn học nữ quyền/âm hưởng nữ
quyền/tinh thần nữ quyền/sắc thái nữ quyền trong văn chương, chúng ta hồn tồn
khơng nên phân biệt giữa nhà văn nam hay nhà văn nữ. Dõi theo tiến trình phát
triển của nền văn học thế giới vì sự bình đẳng giới, chúng ta có thể thấy rõ điều đó.
Ở Việt Nam, điều này cũng không ngoại lệ. Bằng nhiều phương thức khác nhau,
các nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình hình ảnh người phụ nữ và cuộc sống
của chính họ trong mn nẻo đường đời, tình đời, tình người với tất cả thấu hiểu,
thông cảm, sẻ chia và yêu thương.
Thời gian gần đây, người ta thường hay nhắc đến một trào lưu “văn học nữ
quyền” hoặc “văn học mang âm hưởng nữ quyền”, trong đó nhấn mạnh “văn
chương mang tính nữ” với ngụ ý đề cập đến những tác phẩm cất cao tiếng nói nghệ
thuật để đứng về nữ giới, bảo vệ nữ giới và thể hiện những đặc tính riêng, những
5


khát khao hạnh phúc của “phái yếu” và những người cầm bút chính là những người
phụ nữ.
Có nhiều nhà phê bình cho rằng chúng ta cần nói về văn học nữ, nhưng
không phải trong ngữ cảnh “phân chia” thành văn học nam hay nữ, mà chỉ nên
ngầm hiểu đó là “sự mở rộng di sản văn học khi khẳng định tính độc đáo và cá tính

sáng tạo của những người phụ nữ viết văn”. [145]. Nhà nghiên cứu O.Gavrilina gắn
khái niệm “văn học nữ” với hai ý nghĩa cơ bản: “… trong nghĩa rộng, đó là tất cả
những tác phẩm được viết bởi phụ nữ, không phụ thuộc vào việc tác giả khi sáng
tác đứng trên quan điểm nữ quyền hay vẫn tuân theo những truyền thống phụ
quyền. Trong nghĩa hẹp, đó là nhóm những văn bản trong đó thể hiện cái nhìn riêng
của phụ nữ đối với những vấn đề truyền thống của nhân loại (sự sống và cái chết,
tình cảm và nghĩa vụ, mối quan hệ qua lại giữa con người với thiên nhiên, gia đình
và nhiều vấn đề khác)”.[145].
Ấp ủ khao khát khám phá đặc trưng giới về loại hình và thi pháp của một số nhà
văn nữ đương đại tiêu biểu từ những năm cuối thập kỉ 80 thế kỉ XX tới nay như Lê
Minh Khuê, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo,
Võ Thị Xuân Hà, Lí Lan, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Hoàng Diệu, Phong Điệp,
Nguyễn Ngọc Tư,... nhằm tìm hiểu “lối viết nữ” riêng ở họ, tơi quyết định lựa chọn
đề tài nghiên cứu “Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xi Việt
Nam đương đại” (Qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu biểu).
2. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Trong luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu ý thức phái tính và
âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi nữ những năm gần đây. Xác định đối tượng
nghiên cứu như vậy, phạm vi nghiên cứu chính của luận án là tác phẩm của các tác
giả Lê Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Trần Thuỳ Mai, Thuận, Lý Lan, Dạ Ngân, Y
Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ
Hoàng Diệu, Phong Điệp, Nguyễn Ngọc Tư,… Trong đó, đối tượng khảo sát chủ
yếu là truyện ngắn.
6


2.2. Về nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi xác định, thứ nhất, bằng việc tổng
hợp tư liệu, chúng tôi tái hiện khái niệm phái tính và sự vận động của ý thức phái
tính theo tiến trình lịch sử trên những phương diện chính là văn hố, xã hội, văn
học để từ đó bước đầu phác thảo những nét cơ bản của tiến trình phát triển ý thức

phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam từ truyền thống đến hiện
đại. Thứ hai, thông qua việc lựa chọn tác phẩm của một số tác giả nữ tiêu biểu,
chúng tơi xác định cho mình nhiệm vụ nghiên cứu chính là: Soi sáng những cơ sở
lý luận- triết học của việc phân tích nữ quyền luận và tường giải tác phẩm; Xác
định loại hình văn xi nữ trên cơ sở bản sắc giới và đặc điểm cá tính sáng tạo của
một số nhà văn nữ tiêu biểu; Lý giải cốt truyện và xung đột tâm lý xã hội trong tác
phẩm của các tác giả nêu trên như là sự phản ánh bằng nghệ thuật cấu trúc giới của
xã hội hiện đại; Khám phá đặc trưng thế giới nội tâm của các nhân vật, những mơ
típ ứng xử thể hiện đặc điểm về phương diện giới của văn xuôi nữ hiện đại; Khám
phá đặc trưng về mặt ngôn ngữ, giọng điệu của văn xi nữ và vai trị của nó trong
việc tạo dựng bức tranh thế giới dưới cái nhìn về giới.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài luận án, chúng tôi vạn dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
3.1. Vận dụng phương pháp lịch sử - phái sinh nhằm nhìn nhận lại quá trình
biểu hiện của ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong tiến trình văn học nghệ
thuật.
3.2. Vận dụng phương pháp hệ thống trong việc hệ thống hố những quan
điểm về phái tính và nữ quyền, sự vận động và biểu hiện của ý thức phái tính và âm
hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại.
3.3. Vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các tác phẩm văn học
với các tài liệu về nhân chủng học, văn hố học, tơn giáo, triết học, và giữa các tác
phẩm của nhà văn nam với nhà văn nữ… nhằm tìm ra tương quan đối ứng giữa
hồn cảnh xã hội, nền tảng văn hố, giai đoạn lịch sử đã tác động như thế nào đến

7


văn học trong phạm vi biểu hiện của ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
sáng tác của một số tác giả nữ tiêu biểu.
3.4. Vận dụng phương pháp tiếp cận theo hướng thi pháp học nhằm làm sáng

tỏ những đặc điểm, dấu hiệu mang màu sắc phái tính và âm hưởng nữ quyền cả về
nội dung lẫn hình thức nghệ thuật trong sáng tác của một số cây bút nữ đương đại;
qua đó khẳng định những đóng góp riêng của họ trong tiến trình văn học Việt Nam.
3.5. Vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm soi sáng một số luận điểm khi giải
quyết vấn đề về khuynh hướng tự truyện như một nét đặc thù của lối viết nữ trong
văn xuôi nữ đương đại.
3.6. Vận dụng phương pháp liên ngành làm cơ sở phương pháp luận cho đề
tài nghiên cứu, trong đó có Lý thuyết về giới (Giới học), Tâm lý học, Ngôn ngữ
học. Phương pháp tiếp cận tổng hợp, liên ngành sẽ giúp chúng tôi thấy được bản
chất tư tưởng, thẩm mỹ của tác phẩm, tiến tới việc phân tích, lý giải những sáng tác
của các cây bút nữ đương đại.
4. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp mới sau đây:
4.1. Hệ thống và lý giải một cách cơ bản những vấn đề lý luận về phái tính
và nữ quyền trong văn hố và trong diễn ngôn văn học.
4.2. Bước đầu chỉ ra được ý thức về phái tính và nữ quyền trong văn học
đương đại như một bước tiến/ hệ quả của tiến trình dân chủ hố xã hội và văn học.
4.3. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu văn học và
cho công tác giảng dạy về phái tính và nữ quyền trong văn học.
5. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung của luận án được chúng tôi triển khai thành 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề phái tính và nữ quyền trong
văn xi Việt Nam đương đại
Chương 2: Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học truyền thống
8


Chương 3: Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi của một số tác
giả nữ tiêu biểu từ sau năm 1975 dưới góc độ nội dung

Chương 4: Ý thức phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn xuôi của một số tác
giả nữ tiêu biểu từ sau năm 1975 dưới góc độ nghệ thuật

9


Chƣơng 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ PHÁI TÍNH VÀ
NỮ QUYỀN TRONG VĂN HỌC
1.1. Giới thuyết về phái tính và nữ quyền
Hẳn nhiên, khi lồi người biết phân biệt đàn ơng và đàn bà thì ý niệm về phái
tính đã xuất hiện. Phái tính chỉ sự liên kết giữa giới và những bản tính đặc trưng
cho từng phái riêng biệt và nó khơng ngừng được nhận diện trong đời sống cũng
như trong tất cả các ngành khoa học. Trong hệ thuật ngữ liên quan đến phái tính,
chúng tơi tạm đưa ra cơng thức dịch: Phái tính = phái (gender) + giống/giới/giới
tính (sex). Như vậy, phái nam = nam giới (the male sex) + masculinity (tính
nam/bản tính nam); phái nữ = nữ giới (the fair sex) + femility (tính nữ/bản tính nữ).
Đến nay, trong từ điển tiếng Việt cũng như một số từ điển ngoại ngữ khác khơng hề
có một thuật ngữ nào với hàm nghĩa khái quát như thế. Mặc dù vậy, phái tính và ý
thức phái tính đã, đang và vẫn sẽ luôn hiện hữu trong mọi lĩnh vực của đời sống
con người.
1.1.1. Quan niệm truyền thống về phái tính
1.1.1.1. “Đàn bà được sinh ra từ chiếc xương sườn của đàn ông…”
Theo Kinh thánh, Thượng Đế sáng tạo ra thế giới trong vòng 7 ngày
với đủ biển cả, ao hồ, sông suối, chim muông. Trong ngày thứ 7, Người nghĩ thêm
ra một loài động vật mà Người cho là “sẽ hoàn hảo nhất trong các loại động vật”.
Và chàng Adam xuất hiện từ đó. Để tránh cho Adam khỏi buồn bã nơi vườn Địa
Đàng, Thượng Đế đã dùng một “cái xương sườn thừa của ông Adam” (do thiếu
nguyên liệu!) [1, tr.321] để tạo nên con người thứ hai là Eva làm bạn đồng hành.
Mắc lỗi lầm do ăn “trái cấm” ở vườn Địa Đàng, Adam và Eva bị Đấng tối cao đày

xuống mặt đất, bắt sống cuộc sống như những sinh vật khác (sẽ phải tự kiếm ăn, sẽ
già đi, sẽ bị bệnh tật rồi trở về với cát bụi). Và hình phạt lớn nhất mà Thượng đế
đặt lên Eva là hàng tháng sẽ phải mất đi một lượng máu từ trong cơ thể, sẽ phái
mang nặng, đẻ đau,…
10


Với những suy tư trên phương diện triết học, đại triết gia Aristote xác quyết
rằng đàn bà tự bản chất đã thấp kém hơn đàn ông. Aristote cho rằng đàn bà chỉ là
vật chất, phát triển một cách bừa bãi, hỗn loạn nếu khơng có đàn ơng, nhờ có
những hạt giống của họ, mang đến cho các vật chất này hình thái, mặt mũi:
“Giống cái (female) là giống cái do thiếu thốn các đặc tính nào đó; chúng ta
nên xem bản tính giống cái như bị đau buồn vì sự khiếm khuyết tự nhiên” [1,
tr.321].
Kể từ sau Aristote, có rất nhiều triết gia, thần học gia, trí thức, văn sĩ,… đã
lặp đi lặp lại ý kiến trên như thể là một định đề tốn học hay một định luật hóa học,
vật lý. Chính vì là “phần phụ”, “phần thừa ra” từ thân thể Adam nên các Eva luôn ở
thế lệ thuộc, phải phục tùng đàn ông, trở thành “phái yếu” (the weaker sex). Trải
qua bao thăng trầm của lịch sử, một nửa nhân loại tự mệnh danh là “phái mạnh”
(the stronger sex) đã xây dựng một mơ hình xã hội theo sở thích, nhu cầu và quyền
lợi của riêng mình. Dĩ nhiên, trong cái trật tự và khuôn khổ của một xã hội theo
“hình ảnh người đàn ơng” này thì khơng có chuyện bình quyền về phái tính. Phụ nữ
ln là người chịu nhiều thiệt thòi, bị chèn ép, khinh miệt và bị bóc lột. Ở phương
Tây, tín đồ Do Thái không bao giờ khởi đầu một nghi lễ phụng tự khi xung quanh
chưa hội đủ bảy người đàn ông mặc dù có sự hiện diện của cả trăm ngàn người phụ
nữ tại đó; cịn ở Pháp, chỉ cách đây vài thế kỷ, người phụ nữ thượng lưu vẫn còn bị
cột chặt trong cái “vòng đai trinh tiết”; và thậm chí ở một nước dân chủ tiên phong
như Hoa Kỳ thì quyền bầu cử của phụ nữ cũng chỉ được áp dụng từ đầu thể kỷ XX
mà thôi.
Sự phân biệt phái tính khơng chỉ tồn tại trong tư duy và trong đời sống xã hội

mà còn được thể hiện ngay trong ngơn ngữ. Nền văn hóa phương Tây được nhiều
nhà nghiên cứu đánh giá là nền văn hóa gia trưởng, trọng nam. Nền văn hóa ấy
được thể hiện rất rõ qua cấu trúc ngôn ngữ thông qua các cặp đối lập. Người ta có
thể thấy ngay một sự thật hiện hữu là ngôn ngữ chỉ phụ nữ phái sinh ngay trên bề
mặt, kết cấu ngôn ngữ chỉ nam giới. Trong tiếng Anh, chữ “man” vừa có nghĩa là
11


đàn ơng vừa có nghĩa là nhân loại. “Man” là gốc, từ đó nảy sinh ra nhánh “woman”
(đàn bà); Mr (ơng) là gốc, từ đó nảy sinh ra Mrs (bà); và cuối cùng, “male” (nam)
phái sinh “female” (nữ). Như vậy, khởi nguồn từ cặp nam – nữ, trong ngôn ngữ
châu Âu hình thành những cặp đối lập tương ứng như trật tự - hỗn loạn, hiển ngôn
– im lặng, hiện diện – vắng mặt, nói – viết, sáng – tối, lành mạnh – nguy hại, thuần
lý – phi lý,… trong đó tất cả những mỹ từ đều thuộc về đàn ông, dành cho đàn ông.
1.1.1.2. “Đàn bà và tiểu nhân thật khó ni dạy…”
Ở phương Đơng, Khổng Tử và hàng ngàn lớp Nho gia kế tiếp vẫn một mực
khẳng định “nữ nhân nan hóa”. Họ cho rằng “đàn bà thật khó dạy” bởi quan niệm
người phụ nữ khơng có khả năng tiếp thu cái hay, cái mới và mặt khác rất khó bỏ
tính nết xấu. Đạo Khổng khốc lên người phụ nữ một cái áo cố hữu của bản chất
ngu dốt, thiếu năng lực và ý chí cầu tiến. “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”
cũng xuất hiện từ đó. Có lẽ vì vậy, trong hệ thống Nho giáo, người phụ nữ suốt đời
bị lệ thuộc và phải phục tùng. Nho giáo kìm chân người phụ nữ bên chiếc cối xay,
bên xó bếp sau những lũy tre làng bởi tam tòng tứ đức. Quan niệm trọng nam khinh
nữ theo thời gian, dần ăn sâu vào tâm thức người dân phương Đông. Thực tế, Nho
giáo không chỉ biến phụ nữ thành món đồ sở hữu của phái nam, trở thành những
“con ở” khơng cơng mà cịn hạ thấp phẩm giá, năng lực của người phụ nữ bằng
những quy định hà khắc: không cho phép phụ nữ đi học, tham gia Khoa cử và đặc
biệt là không thể làm quan. Và như vậy, sự nông nổi, thấp kém, ngu muội, dốt nát
của đàn bà không phải là do yếu tố cá nhân mà nằm sâu ở vấn đề “phái tính”.
Sự phân biệt phái tính cũng được thể hiện rất rõ trong ngơn ngữ phương

Đơng. Nền văn hóa Âm – Dương này coi những gì thuộc Dương là đàn ơng, cịn
những gì thuộc Âm là phụ nữ. Những cặp từ phái sinh tương ứng như mặt trời- mặt
trăng, ngày – đêm, nóng – lạnh, lửa – nước, chủ động – bị động,… cũng chính là
kết quả của lối tư duy thống trị bởi nam giới.
1.1.2. Ý thức phái tính và sự xuất hiện của Chủ nghĩa nữ quyền
1.1.2.1. Ý thức về bản sắc nữ - khởi đầu của việc xác lập nữ quyền luận
12


Như chúng tôi đã đề cập ở trên, những quan niệm mang tính truyền thống về
phái tính ở cả phương Đông và phương Tây đã khiến cho người phụ nữ trở thành
kẻ lệ thuộc. Tư tưởng phụ nữ là “phái yếu”, là “kẻ phụ thuộc”, là những kẻ dốt nát,
ngu muội và “khó dạy” khơng phải chỉ là “cái trịng” mà chế độ nam quyền gắn vào
cổ những người phụ nữ, mà đơi khi do chính người phụ nữ cơng nhận, tự đặt nó lên
cổ mình. Khơng phải ngẫu nhiên mà ở trên tận thiên đàng, những người phụ nữ
phương Tây vẫn không dứt ra khỏi “nghiệp chướng” của đời mình là trở thành kẻ
phục vụ, phục tùng nam giới. Ở phương Đông, cũng không phải ngẫu nhiên mà
những luật lệ hà khắc của Nho giáo như những sợi dây vơ hình siết chặt đời sống
người phụ nữ cả về thể xác lẫn tinh thần (Trung Quốc, Việt Nam,…) và rồi để cả
thế giới nhìn nhận và coi đức tính “tùng – thuận” là hình ảnh tiêu biểu, đặc trưng
của người phụ nữ (Nhật Bản).
Bước sang cuộc sống hiện đại, khi đa số phụ nữ đi làm, giá trị của người phụ
nữ dần dần tỉ lệ thuận với những đóng góp của họ về kinh tế, văn hóa đối với gia
đình và xã hội. Họ bắt đầu ý thức về bản thân mình, nhìn nhận lại mình và đi tìm
lại bản sắc.
Trong giới nghiên cứu hiện tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ
bản sắc. Bản sắc (identity) là một khái niệm quan trọng trong các ngành khoa học
xã hội nói chung. Tựu chung lại, người ta đưa ra hai cách hiểu phổ biến về bản sắc,
quy về việc giản hóa luận khái niệm này trong lĩnh vực tâm lý học hoặc xã hội học.
Trong cách hiểu thứ nhất, bản sắc được nhìn nhận như là một đặc tính cố

định của con người, có thể đồng nhất con người quá khứ với con người hiện tại và
tương lai.
Ngược lại, bản sắc trong cách hiểu thứ hai là một khái niệm linh động, nó
được nhìn nhận như là một thành quả con người đạt được trong quá trình xã hội
hóa hoặc tồn cầu hóa những ngun tắc xã hội được áp đặt lên họ.
Các nhà nữ quyền luận đã tìm cách dung hịa cách hiểu hai khái niệm này.
Họ thừa nhận sự tương tác phức tạp giữa các quá trình tâm lý bên trong với những
13


tác động bên ngoài xã hội. Họ chú ý đến vấn đề phái tính, chủng tộc và đồng tính
luyến ái.
Cơng cuộc đi tìm bản sắc nữ kết thúc bằng lời khẳng định bất hủ của nữ văn
sĩ người Pháp Simone de Beauvoir trong tác phẩm “Le Deuxième Sexe” (Giới thứ
hai) được xuất bản vào năm 1949: “On ne nait pas femme, on le devient” (Người ta
không bẩm sinh là đàn bà, mà trở thành đàn bà). Theo nhiều nhà nghiên cứu thì tác
phẩm này chính là một mũi tên bắn trúng vào thành trì của bản thể luận cho rằng
“phụ nữ sinh ra đã là phụ nữ”. “Giới thứ hai” có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong
việc thúc đẩy sự phát triển của Chủ nghĩa nữ quyền trong xã hội hiện đại.
1.1.2.2. Ý thức về diễn ngôn của phụ nữ - một bước tiến của Chủ nghĩa nữ quyền
Có thể chia phong trào nữ quyền trên thế giới thành ba giai đoạn: Giai đoạn
thứ nhất được đánh dấu bằng sự kiện xảy ra vào tháng 10 năm 1789 khi một nhóm
phụ nữ xơng vào trụ sở Quốc dân đại hội ở Paris, địi quyền bình đẳng nam nữ ngay
sau khi Đại cách mạng Tư sản Pháp bùng nổ. Từ đó, nhiều phong trào địi quyền
bình đẳng nam nữ diễn ra liên tiếp ở nhiều nơi trên thế giới cho đến tận đầu thế kỷ
XX. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến khoảng đầu thập kỷ 60 khi
các lý thuyết nữ quyền xuất hiện, phát triển sơi động và kết quả của nó là đại đa số
các nước trên thế giới đều xác định nam nữ bình quyền trong Hiến pháp. Giai đoạn
thứ ba là giai đoạn từ khoảng cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 đến nay với sự
phát triển mạnh mẽ của lý thuyết phê bình nữ quyền, địi bình đẳng nam nữ trên

nhiều phương diện của đời sống xã hội từ chính trị, kinh tế đến văn học, nghệ thuật.
Trong văn học, các nhà nữ quyền thuộc “thế hệ thứ ba” đã cố gắng xác lập
những cách thức, phương pháp viết và đọc văn chương cho riêng phụ nữ. Barbara
Johnson cho rằng “Vấn đề giới tính thực chất là vấn đề ngôn ngữ” [36]. Trường
phái nữ quyền Anh – Mỹ thời kỳ này chú trọng đến nền văn chương của chính nữ
giới với việc đề cao người đọc, người viết là nữ giới và về nữ giới. Các nhà phê
bình nữ quyền luận Pháp lại chú ý đến vấn đề cấu trúc luận. Ở đó, họ tìm kiếm
những cách thức khả thể cho cách viết của nữ giới, đặt trọng tâm vào một lối viết
14


“thân thể” với những đặc trưng chỉ nữ giới mới có, để phân biệt với nam giới.
Thuật ngữ “Écristure féminine” (lối viết nữ) được coi là diễn ngơn chính thức của
nữ giới trong thời kỳ này. Các tác giả nữ dùng ngơn ngữ như một phương tiện hữu
hiệu để tìm lối thốt, để “cởi trói” và để khẳng định vai trị của mình trong đời sống
xã hội và trong nghệ thuật.
1.2. Tình hình nghiên cứu về phái tính và nữ quyền trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở nước ngồi
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu về phái tính và nữ quyền ở một số nước Âu – Mỹ
- Về Học thuyết Phân tâm học của Sigmund Freud (1856 – 1939) và Phân tâm học
cấu trúc của Jacques Lacan (1901 – 1981):
Sigmund Freud là nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XX, một trong những người
khổng lồ của lịch sử Phân tâm học. Học thuyết của Freud ngay từ khi mới ra đời, đã
nhận được rất nhiều ý kiến tranh luận. Những khám phá của ông về vô thức và
chứng rối loạn thần kinh đã giúp đỡ rât nhiều cho y học hiện đại, nhưng nó lại vấp
phải sự phản đối kịch liệt của những nhà phê bình nữ quyền.
Học thuyết của Freud đề cập đến một giai đoạn trong đời người gọi là giai
đoạn Oedip. Phức cảm Oedip của Freud định ra đặc trưng trong tính cách của hai
phái nam và nữ. Nam giới sau giai đoạn Oedip nổi lên với đặc tính chủ động và
chiếm lĩnh, trong khi nữ giới trở lên bị động và phụ thuộc.

Những quan điểm nêu trên của Freud đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của
các nhà nữ quyền luận ở cả Pháp và Mỹ. Các nhà nữ quyền đã tiến hành “đọc lại”
lý thuyết này của Freud.
Cơng trình của Jacques Lacan là một sự diễn giải lại và phê bình chủ nghĩa
Freud cổ điển dưới ánh sáng của lý thuyết cấu trúc và hậu cấu trúc.
Lacan đã thay thế bộ ba cổ điển của phân tâm (theo học thuyết của Freud)
gồm Cái ấy (Id), Bản ngã (Ego) và Siêu ngã (Superego) bằng các cấu trúc gồm Cái
tưởng tượng (Imagiari), Cái biểu trưng (Symbolic), và Cái thực tồn (Real) để đại

15


diện cho các giai đoạn trong sự trưởng thành về tâm lý của con người. Theo Lacan,
dương vật biểu trưng cho quyền lực tính dục.
Khác với Freud, Lacan đã định ra hai khái niệm là Trật tự tưởng tượng và
Trật tự biểu trưng để thay thế cho thời kỳ Oedip và hậu Oedip mà Freud đưa ra.
Lacan cho rằng, Trật tự tưởng tượng bị quy định bởi sự liên hệ khép kín với người
mẹ, cịn Trật tự biểu trưng là thế giới của người cha. Trật tự biểu trưng mang tính
phụ hệ, nhất qn; cịn Trật tự tưởng tượng mang tính mẫu hệ và lỏng lẻo.
Về lý thuyết phê bình nữ quyền:
- Về lý thuyết phê bình nữ quyền, chúng tơi chọn dịch chủ yếu từ cơng trình của
M.H. Abrams, cuốn Chú giải về thuật ngữ văn học.
M.H. Abrams phân loại thuyết phê bình nữ quyền thành hai giai đoạn, lấy
mốc là những năm 1970 làm ranh giới phân chia. Trong hai giai đoạn đó, chủ yếu
là giai đoạn thứ hai, chúng tơi nhận thấy có sự phân định giữa cách thức phê bình
nữ quyền thuộc trường phái Anh – Mỹ và cách thức phê bình của Pháp. Tựu chung,
họ đều có một số điểm chung trong cách tiếp cận. Đó là quan niệm cho rằng nền
văn minh phương Tây tràn ngập tính gia trưởng. Trong nền văn minh đó, vai trò
của người phụ nữ bị hạ thấp. Bản thân người phụ nữ trong q trình xã hội hóa
cũng tự hạ thấp giá trị của mình. Và hơn thế, tư tưởng phụ quyền còn lan tràn trong

những sáng tác được coi là kiệt tác văn chương của nhân loại, mà ở đó, chủ yếu vẫn
là do đàn ơng viết về đàn ơng.
Lý luận phê bình nữ quyền bắt đầu thịnh hành từ đầu thập niên 70, một mặt,
như một nỗ lực lý thuyết hoá các phong trào tranh đấu cho nữ quyền rầm rộ trong
xã hội Tây phương lúc bấy giờ; mặt khác, như một bước phát triển mới những phát
hiện táo bạo của hai nhà văn nữ nổi tiếng khá lâu trước đó: Virginia Woolf và
Simone de Beauvoir.
Tác phẩm A room of One’s Own (Căn phòng riêng) được viết năm 1929 của
Virginia Woolf được coi như một tác phẩm có tính “mở đường” cho tư tưởng nữ
quyền Anh – Mỹ đương đại [43]. Tác phẩm này giống như một bức phác họa về
16


hình ảnh người phụ nữ trong văn chương dựa trên ý tưởng về sự khác biệt của phụ
nữ được miêu tả trong tác phẩm của họ. Sau này, tư tưởng của Woolf được các nhà
nữ quyền Pháp phát triển thành “Écristure féminine” (lối viết nữ), tiêu biểu như
Lèlène Cixous, Luce Irigaray.
Tác phẩm Le Deuxième Sexe (1949) của Simone de Beauvoir đã làm nghiêng
ngả thành trì bản thể luận của tất cả những tư duy triết học, ngôn ngữ học, phân tâm
học trước đó bằng lời khẳng định quyết liệt “On ne nait pas femme, on le devient”.
Từ “devient” (trở thành) hàm chỉ kết quả của một quá trình bị giáo huấn và cũng là
kết quả của quá trình tự định hướng. Người ta không sinh ra là đàn bà mà trở thành
đàn bà cho thấy sự khu biệt giữa hiện hữu và sinh thành, giữa hiện thể và chuyển
biến, giữa giống (sex) và phái (gender). Simone de Beauvoir nhận ra người phụ nữ
dưới một cái nhìn mới, đó là những khu biệt thuộc về văn hóa chứ khơng phải tự
nhiên. Bà cho rằng sự khác biệt sâu sắc của một số hiện tượng sinh lý ở nữ giới như
có kinh nguyệt, thai nghén và sinh con không hề là nguyên nhân khiến cho người
phụ nữ lệ thuộc vào đàn ông mà chính yếu tố văn hóa, đặc biệt là văn hóa nhận
thức đã quyết định điều đó.
Sau khi cơng trình Giới thứ hai của Simone de Beauvoir ra đời vào năm

1949 thì ngay lập tức ở châu Âu đã có hàng trăm cơng trình nghiên cứu khoa học
khác nhau bàn về nữ quyền (chẳng hạn quyền được đi học, quyền được ly hôn,
được làm chủ kinh tế, được tự do bầu cử và tham gia chính trường,…) xuất hiện.
Cuốn A handbook of Critical Approaches to Literature (1979) (Sổ tay các
khuynh hướng tiếp cận văn học) của các tác giả Wilfred L. Guerin, Earle Labor,
Morgan do Nhà xuất bản Oxford ấn hành được coi là cơng trình nghiên cứu có giá
trị học thuật cao. Cơng trình này đã trình bày cụ thể và chi tiết về khuynh hướng
phê bình nữ quyền trên các khía cạnh: khái niệm phê bình nữ quyền, các khuynh
hướng phê bình nữ quyền chủ yếu và mối quan hệ giữa phê bình nữ quyền và
những nghiên cứu về giới, những vấn đề đáng chú ý và giới hạn của phê bình nữ
quyền,…
17


Cơng trình nghiên cứu The New Feminist Criticism (1985) (Lý thuyết phê
bình nữ quyền mới) của Elaine Showalter đã tập hợp hơn 300 bài tiểu luận và bài
nghiên cứu có giá trị theo hướng phê bình nữ quyền ở Mỹ. Cơng trình nghiên cứu
này được chia thành ba phần bao gồm: Phần 1 - Những mục tiêu mà các nhà phê
bình nữ quyền muốn hướng đến: các vấn đề học thuật và điển phạm; Phần 2 –
Những khuynh hướng phê bình nữ quyền và nền văn hóa nữ giới; Phần 3 – Sáng
tác của các tác giả nữ và lý thuyết phê bình nữ quyền.
Vào năm 1986, nhà nghiên cứu Robert Con Davis đã tuyển chọn những bài
nghiên cứu quan trọng về các trường phái phê bình văn học hiện đại trong cuốn
“Contemporary Literary Criticism” (Phê bình văn học hiện đại), trong đó tác giả
đưa những bài viết có nội dung nữ quyền vào phần “The sexual dualectic” (Biện
chứng giới).
Cuốn The Bedford Glossary of Critical and Literary Terms (Từ điển thuật
ngữ phê bình và thuật ngữ văn học) xuất bản năm 1990 và tái bản năm 2003 đã
trình bày khá kỹ về khái niệm và các đặc trưng cơ bản của lý thuyết phê bình nữ
quyền; so sánh phê bình nữ quyền với phê bình giới.

Những năm gần đây, khuynh hướng phê bình nữ quyền ở châu Âu và Mỹ
thiên về sưu tập, nghiên cứu những tác phẩm tự truyện (autobiography) của các nhà
văn nữ. Trong tự truyện, các nhà văn nữ kể về chính mình bằng cái nhìn nội quan
và xem mình là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Lý luận văn học gọi đây là hiện
tượng “tự ăn mình”. Tự thuật vừa là việc thể hiện sự trải nghiệm, vừa là điểm nhìn
để từ đó, các cây bút nữ khái quát hóa và tái hiện đời sống hiện thực của nữ giới
trong muôn mặt của đời sống đương đại. Cuốn Feminism and Autobiography (Nữ
quyền và tự truyện) do Tess Cosslett, Celia Lury và Penny Summerfield biên soạn
được xuất bản lần đầu năm 2000 tại Anh, Mỹ và Canada là một cơng trình có giá
trị, được coi là một “tiêu chí về sự hiểu biết về nữ quyền” [87, tr.3]. Sau đó, vào
năm 2001, cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Taylor and Francis đưa lên Thư
viện điện tử ebook.com để bán bản mềm cho những người muốn tiếp cận tác phẩm.
18


1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu về phái tính và nữ quyền ở một số nước châu Á
Từ châu Âu, lý luận phê bình nữ quyền cũng đã lan rộng sang các nước châu
Á. Tại Trung Quốc, một quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của tinh thần Khổng
giáo, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, nhiều trí thức vùng “văn hóa Hán” đã tiến
hành phê phán nhiều giá trị truyền thống phương Đơng, trong đó có Nho giáo.
Trong các xu hướng phê phán Nho giáo, có một xu hướng phê phán Nho giáo như
một “học thuyết nam quyền đàn áp nữ quyền” [42, tr.58] mà tiêu biểu là Lỗ Tấn,
Lâm Ngữ Đường. Trong những bài viết của mình, Lỗ Tấn và Lâm Ngữ Đường
thường dẫn câu nói nổi tiếng của một nhân vật Tống Nho là Trình Di: “chết đói là
chuyện rất nhỏ, thất tiết là chuyện rất lớn” [42, tr58] như là một bằng chứng điển
hình nhất về sự đàn áp của Nho giáo đối với phụ nữ.
Tư tưởng nữ quyền thực sự được dấy lên vào những năm 80 của thế kỷ XX
và nhất là sau khi Đại hội phụ nữ thế giới được tổ chức tại Bắc Kinh năm 1995.
Thậm chí, nhiều người cho rằng những năm cuối thế kỷ XX là “thế kỷ của nàng”
với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ nổi đình nổi đám như Thiết Ngưng, Vệ

Tuệ, Miên Miên,… Thế hệ các nhà văn nữ này đã có những đóng góp rất lớn cho
văn học Trung Quốc và vị trí của họ trên văn đàn cũng được nhìn nhận xứng đáng.
Ở Nhật Bản, sau cuộc cách mạng về chính trị, kinh tế thời Minh Trị Duy Tân thì
những nghiên cứu về nữ quyền và vai trò của người phụ nữ cũng chưa được cải
thiện một cách đáng kể. Người phụ nữ Nhật Bản chiều chuộng và nhường nhịn phái
nam, do bản năng, tình cảm, truyền thống và thơng niệm xã hội. Người vợ Nhật
đón chồng đi làm về bằng câu: "Anh muốn ăn tối ngay hay đi tắm trước?". Người
phụ nữ Nhật Bản dùng một thứ ngôn ngữ riêng, đa phần là những kính ngữ, những
từ ngữ đặc biệt nhu thuận, mềm mỏng, hạ mình xuống, và nâng người đàn ông của
gia đình lên. Tư tưởng Nho giáo ở Nhật khơng có ảnh hưởng mạnh trong tập tục xã
hội như ở Trung quốc và Việt Nam, vậy mà người phụ nữ Nhật Bản lại có vẻ hành
xử đúng tam tịng, tứ đức hơn bất cứ phụ nữ châu Á nào. Trong bối cảnh như thế,
khó mà tìm được những tác gia Nhật Bản có tiếng nói mạnh mẽ về vấn đề nữ
19


quyền, mà thường chỉ thấy có những lời ca thương cảm hay mạnh lắm thì cũng chỉ
là phản kháng đối với xã hội hiện đại.
Trong cuốn biên khảo “Tổng quan Lịch sử Văn học Nhật Bản”, nhà nghiên
cứu và dịch giả văn học Nhật Bản Nguyễn Nam Trân nhấn mạnh rằng khi văn học
Nhật Bản nhìn ra thế giới thì: "Từ năm Showa 50 (1975) trở đi, trong bầu khơng
khí của phong trào tìm cách nới rộng quyền sống phụ nữ, các nhà văn nữ đã có
những hoạt động đáng kể. Đó là dịng văn học tranh đấu cho nữ quyền, hay mạnh
mẽ hơn nữa, thiên trọng phụ nữ”. [44, tr.318]. Điển hình cho dịng văn học này là
các nhà văn như Kono Taeko "từ chối mẫu tính", đào sâu chủ đề "thế giới của
những dục vọng thầm kín và lệch lạc của con người", hay Tsushima Yuko về "hình
ảnh người đàn bà đơn độc nuôi con",...
1.2.2. Vấn đề phái tính và nữ quyền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, ý thức phái tính đã được manh nha hình thành trong lý luận phê
bình văn học đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, phải từ năm 1986 trở đi, âm hưởng nữ

quyền trong văn học mới thực sự được các nhà văn, nhà phê bình và độc giả chú ý.
Lịch sử nghiên cứu về vấn đề phái tính và nữ quyền của lý luận phê bình văn học
Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là từ những năm đầu thế
kỷ XX đến năm 1998; giai đoạn thứ hai là từ năm 1999 đến năm 2005; và giai đoạn
thứ ba là từ năm 2006 đến nay.
Ở giai đoạn thứ nhất, theo nhiều tài liệu nghiên cứu mới đây, ý thức phái
tính được đánh thức bởi chính các “nữ sĩ tiên phong cổ xúy phong trào nữ quyền
qua hoạt động báo chí và văn học” như Hằng Phương, Sương Nguyệt Anh, Phan
Thị Bạch Vân [26]. Tuy nhiên, những bài viết có tính chất tìm hiểu mối quan hệ
giữa văn học với phụ nữ chỉ bắt đầu xuất hiện từ những năm 1929, 1930 trên tờ
Phụ nữ tân văn, khi Phan Khôi mở chuyên mục “Văn học với nữ tánh”. Đấy là lần
đầu tiên trong lịch sử nước nhà, phụ nữ trở thành trung tâm của cuộc bàn luận văn
chương. Phan Khơi khẳng định phải có một nền văn học của nữ giới, tuy nhiên
khẳng định của ông mới dừng lại ở cấp độ định đốn: “Theo trình độ tiến hóa của
20


lồi người ngày nay, thì về phe phụ nữ ta cũng phải có một nền văn học. Bởi vì trải
xem cái tình thế trong các nước hiện thời, lồi người đã gần đến ngày bình đẳng
rồi, bên nam bên nữ cũng đều gánh vác công việc với xã hội như nhau, thì sự học
vấn tri thức, có lẽ đâu chỉ để riêng cho đờn ông mà thôi hay sao?” [20]. Theo Phan
Khôi, viết văn cũng là một thiên chức của đàn bà, vì đàn bà “có nhiều tư cách rất là
thích hiệp với văn học” như “tánh trầm tĩnh, nhẫn nại”, hơn nữa, “văn học chuyên
trọng về đường tình cảm” mà đàn bà “là giống có tình cảm nhiều hơn đờn ơng”
[21]. Ơng nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai khái niệm “nữ tánh” “nghĩa nó là giống
đàn bà (sexeféminin)” với “cái tánh của đàn bà” (caractère de femmes) [22]. Sự
phân biệt ấy giống như sự phân biệt giữa khái niệm “phái tính” và “nữ tính” sau
này. Có thể nói, những bài viết của ông mở ra một giả thuyết văn học thú vị và có
sức khai phá. Tuy nhiên, qua cách đặt tên và tiêu đề bài viết: Về văn học của phụ
nữ Việt Nam, Văn học với nữ tánh, Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh… chúng

ta thấy với Phan Khôi: phụ nữ, nữ tánh đứng ở vế sau của văn học, nó mới chi phối
văn chương chứ chưa phải là chủ thể sáng tạo văn chương.
Năm 1990, bài viết “Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự
lực văn đồn” (Tạp chí Văn học, số 5) , nhà nghiên cứu Trương Chính đã bước đầu
thể hiện những kiến giải của mình về ý thức nữ quyền trong tiểu thuyết của Tự lực
văn đồn. Bài viết chủ yếu nhìn nhận vấn đề nữ quyền trên phương diện nội dung
tư tưởng.
Năm 1996, trên Tạp chí Văn học số 6, trong chuyên mục Trao đổi ý kiến đã
thực hiện cuộc bàn luận của các nhà nghiên cứu (Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào,
Phạm Xuân Nguyên, Vương Trí Nhàn, Đặng Minh Châu,…) về sáng tác của các
cây bút nữ trên nhiều phương diện: điểm mạnh và điểm yếu của các nhà văn nữ;
phụ nữ với nghề văn; gương mặt những cây bút nữ; đóng góp của những cây bút
nữ; tiềm năng của những cây bút nữ,… Đặc biệt, các nhà nghiên cứu đã tập trung
bàn luận nhằm lý giải hiện tượng nở rộ sáng tác của các nhà văn, nhà thơ nữ. Tuy

21


nhiên, trong khuôn khổ một cuộc trao đổi ngắn, các ý kiến đưa ra chỉ mang tính
chất khơi gợi, chưa đào sâu phân tích vấn đề nữ quyền một cách thấu đáo.
Năm 1988, trong Tổng quan văn học miền Nam, Võ Phiến nhận ra sự xuất
hiện và lấn át của văn học nữ miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 với chất giọng đặc
thù. Lần đầu tiên, ông sử dụng khái niệm “phái tính” để chỉ sự khác biệt của các
cây bút nữ. Đến giai đoạn này phụ nữ không còn đứng ở vế sau của văn học nữa mà
họ đã xuất hiện với tư cách là những chủ thể đông đảo trong sáng tạo văn chương.
“Đứng về phương diện phái tính, văn học Miền Nam thời kỳ 54-75 càng ngày càng
nghiêng về nữ phái… Thoạt đầu trên văn đàn nghe tiếng ồm ồm, cuối cùng nghe ra
éo éo” [135]. Theo Võ Phiến, các nhà văn nữ thời 1954-1975 ở miền Nam đều hơi
ồn, Nguyễn Thị Hoàng “ồn trong cái yêu”, Nhã Ca thì khởi xướng một trường phái
“bù lu bù loa”, giọng nói ấy “sau này thành ra là một đặc trưng của giới nữ thời đại:

cái giọng sôi nổi, nhiệt liệt, cực đoan”. Thực ra, ngay trong nhận định này của Võ
Phiến đã chứa đựng thành kiến về phái tính. Hiển nhiên, cái giọng như vậy cũng có
trong tác phẩm của nam giới. Vì thế, đến Võ Phiến, vấn đề phái tính trong văn học
nữ vẫn chưa được xác định rõ. Sau đó 10 năm, bài Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn
sĩ [26] của Phương Lựu hướng sự chú ý về phái tính ở khía cạnh bản thể sáng tạo –
nữ giới. Theo Phương Lựu, diện sống “không được sâu rộng” của nữ giới quy định
“mầu sắc tự truyện” và đề tài chủ yếu của họ là tình yêu. Quan điểm này tìm ra
được nét khái quát nhất của văn học nữ đương thời nhưng tự thân nó khơng có
được tính khu biệt rõ ràng.
Giai đoạn thứ hai bùng nổ từ giữa năm 1999 với nhiều chun đề liên quan
đến phái tính trong văn học có sức lan tỏa rất nhanh trên văn đàn, nhất là ở ngồi
nước. Do có sự tiếp xúc với chủ thuyết nữ quyền, dịng văn học hải ngoại có bước
đột phá rất ngoạn mục trong việc nghiên cứu về phái tính. Những chun đề như
Tình u, tình dục và phái tính trong văn học, Tình u tình dục của Tạp chí Việt,
chuyên đề Văn học nữ quyền, chuyên đề Giới tính trên trang DaMau.org… liên tiếp
mở ra nhiều khám phá.
22


Năm 2000, chuyên đề Tình yêu, tình dục và phái tính trong văn học đi đầu và
cũng là chuyên đề tập trung hơn cả về phái tính. Với bài Phụ nữ và văn chương
[130], Châm Khanh vừa đặt lại vấn đề của Phan Khôi nhưng lần này, phụ nữ được
đưa lên vị trí hàng đầu, vừa tiếp tục triển khai nhận định của Võ Phiến, rằng trong
văn học có sự xuất hiện ngày càng đông của tác giả nữ. Tác giả tỏ ra ngần ngại
trước một vấn đề quan trọng: Cách viết của phụ nữ so với nam giới có gì khác? Sự
khác biệt lớn nhất thực chất là vấn đề nữ quyền. Hồng Ngọc Tuấn viết Dục tính
trong văn chương và vấn đề đạo đức, Nguyễn Hoàng Đức viết Nữ giới, nữ văn sĩ
và văn giới [11], Nguyễn Hữu Lê với Tình dục trong văn học Việt Nam dưới cách
nhìn của đạo lý hồn nhiên và của đạo lý học thuyết [133], Đỗ Minh Tuấn với Thúy
Kiều và khát vọng giải sex… đều đề cập đến cuộc giải phóng phụ nữ, giải phóng

tình dục. Đàn bà có quyền phát biểu khát vọng dục tính của mình. Thậm chí, có
những nhà văn nữ đã xây dựng những tiểu thuyết trong đó đàn bà sử dụng đàn ơng
như cơng cụ phục vụ dục tính. Hồng Ngọc Tuấn chỉ ra thái độ trả thù phái tính ấy
chỉ là hệ quả của tinh thần phản kháng bồng bột thời kỳ đầu, về sau, các nhà văn nữ
càng ngày càng tỏ ra sáng suốt và bình tĩnh hơn trước vấn đề giải phóng ý thức phụ
nữ khỏi những ràng buộc phái tính và dục tính để suy nghĩ đến những ý nghĩa rất
bình thường trong cuộc sống: những ý nghĩa về bản thân, hạnh phúc, gia đình, phái
tính, trách nhiệm, tình u, chiến tranh, tự do, đạo đức… Đấy mới là mảnh đất màu
mỡ bộc lộ phái tính.
Những bài viết có tính dẫn nhập lý thuyết còn chỉ ra sự khu biệt nam – nữ về
ngơn ngữ. Trong Văn tự và phái tính [152], Tú Ân dẫn giải giả thuyết về sự xuất
hiện văn tự của bác sĩ Leonard Shlain: Theo Leonard Shlain, nam tính đã trở thành
một đặc trưng của xã hội kể từ ngày một phần đông dân số học đọc và học viết.
Chữ viết vốn gắn liền với tư duy phân tích và tư duy phân tích lại gắn liền với bán
cầu bên trái của não bộ. Trong khi đó nữ tính lại gắn liền với bán cầu bên phải. Bán
cầu bên phải phối hợp cảm xúc, ghi nhận hình ảnh và thưởng thức âm nhạc. Vì thế,
tục thờ nữ thần, các giá trị mang nữ tính và quyền lực của phụ nữ nảy nở tương ứng
23


với sự tràn ngập của các hình ảnh. Tục thờ nam thần, các giá trị nam tính cũng như
chế độ phụ hệ nổi lên cùng lúc với chữ viết. Coi chữ viết chủ yếu là sản phẩm của
nam giới là sự thừa nhận của hầu hết các tác giả khi dẫn lại những nghiên cứu về
ngôn ngữ học và văn hóa học phương Tây. Phan Việt Thủy dẫn ra sự kỳ thị phái
tính trong ngơn ngữ: “ngơn ngữ mà chúng ta hiện đang sử dụng, với tư cách là một
hệ thống (linguistic system) cũng như với tư cách là một hoạt động (linguistic
performance), chủ yếu là sản phẩm của nam giới, trong một xã hội phụ quyền, phản
ánh những giá trị và những chuẩn mực văn hóa của đàn ơng” [32]. Trong bài viết
Chuyện hiếp dâm và vấn đề phái tính trong văn học Việt Nam, Nguyễn Hưng Quốc
có sự phân tích rất sắc sảo khi biến một vấn đề của dục tính, chuyện hiếp dâm, trở

thành một vấn đề của phái tính, với nghĩa kép: chuyện giải phóng tình dục: hiếp
dâm hay là thơng dâm?; chuyện giải phóng ngơn ngữ: ngơn ngữ phái tính hay ngơn
ngữ bị xun tạc? Ông cho rằng “trong văn học, hiếp dâm không được mơ tả như
một tội phạm. Nó chỉ đơn thuần là một sự kiện, một thứ tai nạn, hay có khi, lạ lùng
hơn, một thứ “may mắn” đối với nạn nhân. Rõ ràng đây là một cách nhìn đầy kỳ thị
về phái tính… Một cách vơ ý thức, cái đọc của phụ nữ cũng bị nam hóa đi: họ đọc
như là những người đàn ông đọc, cho nên không nhận ra cả những cách nhìn đầy
bất cơng trong đó chính mình là nạn nhân. Do đó, cái chúng ta thiếu khơng phải chỉ
là những tác giả nữ mà là những người đọc nữ” [137]. Như vậy, sáng tạo của người
viết nữ là phải biết giải phóng mình ra khỏi ràng buộc của sự kỳ thị phái tính trong
ngơn ngữ. Đọc họ, chúng ta phải có những tiêu chí đánh giá mới, thốt khỏi sự chi
phối của hệ thống ngơn ngữ phụ quyền.
Ngồi ra, có những bài nghiên cứu dẫn nhập rất chi tiết lý thuyết về chủ
thuyết phụ nữ, văn học nữ quyền, hoặc cũng đang trong q trình tìm tịi như: Lí
luận phụ nữ: Từ Simone de Beauvoir dến Judith Butler của Đặng Phùng Quân, Nữ
quyền luận của Nguyễn Hưng Quốc, Dày dày đúc sẵn một tòa… văn chương của
Đinh Từ Bích Thúy, Tiếng cười của nàng Medusa của Mary Klages…Với tính chất

24


×