Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) rèn luyện kỹ năng văn nghị luận cho học sinh giỏi môn ngữ văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.84 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN LỆ THỦY
TRƯỜNG THCS KIẾN GIANG
-----------------* * * * *-----------------

Sáng kiến kinh nghiệm: Rèn luyện kỹ năng văn nghị luận
cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

NGƯỜI THỰC HIỆN : NGƠ MẬU TÌNH

Năm học : 2010-2011


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn bản nghị luận là một kiểu văn bản mà việc tạo lập là vơ cùng khó đối với
học sinh THCS. Nó khơng chỉ địi hỏi phải có kiến thức chính xác sâu rộng, phong
phú; những suy nghĩ, quan điểm đúng đắn về văn chương, về đời sống xã hội, mà đòi
hỏi cả sự tư duy lơgíc, chặt chẽ, với những cách lập luận sắc sảo, thấu tình đạt lí thì
mới có thể hấp dẫn thuyết phục được người đọc người nghe.
Dạng bài mà học sinh phải tạo lập thì nhiều, mỗi dạng lại có những yêu cầu cách
thức nghị luận khác nhau. Nào là nghị luận văn chương, rồi nghị luận đời sống xã hội.
Trong đó, riêng nghị luận văn chương lại có những dạng cụ thể hơn nữa, kiến thức lại
phức tạp hơn.
Nghị luận văn chương gồm có nghị luận về một vấn đề văn học, một nhân vật
văn học, một tác phẩm hay đoạn trích văn học…Đó là chưa kể nhân vật thì có nhiều
kiểu, tác phẩm văn học thì có nhiều thể loại, với những đặc điểm khơng giống nhau.
Do vậy, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi, tơi có
tham vọng đề cập đến vấn đề rèn luyện kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học cho
học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng văn nghị luân văn học, góp phần


làm tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cấp huyện.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Điều tra khảo sát thực tế nhằm tìm hiểu thực trạng học sinh học tập làm văn phần
nghị luận văn học lớp THCS.
- Phân tích, tổng hợp và nghiên cứu lí luận để tìm hiểu cơ sở khoa học của đề
tài.
- Tổng kết kinh nghiệm dạy phân môn tập làm văn .
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Thời gian: Bắt đầu từ năm học 2010-2011
- Đề tài đề cập đến một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng làm bài văn nghị luận
văn học THCS.

Ngô Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

2


PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lý luận:
Trong nội dung chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 7- tập II, Ngữ văn 8- tập II
và Ngữ văn 9- tập II, có đưa ra những bài học về cách thức tạo lập văn bản nghị luận,
nhưng chưa đầy đủ cụ thể hệ thống để đáp ứng được việc tạo lập các văn bản mà đề ra
quá phong phú, đa dạng. Thời lượng dành cho việc học tập thực hành các dạng bài
nghị luận cũng là q ít ỏi, khơng đầy đủ ở tất cả các dạng, nhất là ở lớp 9.
Lớp 7: Gồm 14 tiết, tìm hiểu chung về đặc điểm bài văn nghị luận, cách làm bài
văn lập luận chứng minh, cách làm bài văn lập luận giải thích ( khơng kể tiết làm bài
kiểm tra).
Lớp 8: Gồm có 6 tiết, ơn tập về luận điểm và hướng dẫn cách sử dụng yếu tố
miêu tả, tự sự và biểu cảm vào bài văn nghị luận ( không kể tiết kiểm tra).

Lớp 9: Gồm có 14 tiết, hướng dẫn về về phép lập luận phân tích và tổng hợp,
cách làm bài nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống; về một vấn đề tư tưởng đạo lí;
về một bài thơ đoạn thơ và về một tác phậm truyện hoặc đoạn trích.
So lượng kiến thức bài học tập làm văn với lượng thời gian hướng dẫn học trên
lớp cho học sinh lớp 9 như vậy là quá ít. Mỗi dạng lớn chỉ được học chung chung
trong ba bốn tiết học.
Do vậy, học sinh rất khó hình thành cho mình những kỹ năng nghị luận văn học
cần thiết để đáp ứng với việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Sách giáo khoa khơng có những bài hướng dẫn cụ thể cho cách làm bài văn lập
luận như cảm nhận, phân tích, bình luận, chứng minh…hay cách làm các bài văn với
đề mở, đề có tính chất tổng hợp cho từng đối tượng nghị luận riêng. Đặc biệt, khơng
có bài hướng dẫn cụ thể cách làm bài lập luận phân tích hay cảm nhận về từng đối
tượng cụ thể như: về một nhân vật văn học, về tồn bộ tác phẩm (đoạn trích), về một
phương diện yếu tố nội dung, nghệ thuật…của tác phẩm (đoạn trích); khơng có bài
học hướng dẫn cách làm bài lập luận bình luận hay giải thích, chứng minh về một vấn
đề tư tưởng đạo lí, chỉ hướng dẫn chung theo phương pháp bình luận;….
- Có ba bài viết văn hồn chỉnh, thì cũng chỉ có thể lựa chọn được ba dạng bài ra
cho học sinh làm. Nếu làm nghị luận về hiện tượng đời sống thì khơng làm nghị luận
về vấn đề tư tưởng đạo lí. Cịn khi làm nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích,
bài thơ hoặc đoạn thơ thì chọn đối tượng này lại mất đối tượng kia (Đối tượng ở đây
là cả bài, cả đoạn hay chỉ một phượng diện khía cạnh nào đó).
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

3


Nhưng đề thi khảo sát chất lượng văn hoá, đề tuyển sinh lớp 10, nhất là đề thi
học sinh giỏi Ngữ văn các cấp thì lại phong phú đa dạng hơn những gì các em được
trang bị qua chương trình sách giáo khoa, đề ra lại còn ngày càng mới lạ, vì ai ra đề

cũng khơng muốn lặp lại đề người khác ra rồi, năm trước làm rồi… Viết một bài nghị
luận đã được học đã khó, viết một bài khơng được hướng dẫn cụ thể trong chương
trình lại càng khó hơn.
4. Học sinh hiện nay nói chung đa số không ham muốn học tập môn Ngữ văn,
nhất là ngại làm những bài văn. Thời gian các em chủ yếu đầu tư cho việc các môn
thuộc khoa học tự nhiên. Có lẽ ngồi ngun nhân khách quan từ xã hội, thì một phần
cũng do làm văn q khó, lại mất nhiều thời gian. “Công thức” làm văn cho các em
lại khơng được hình thành cụ thể. Các em khơng phân biệt rõ các thao tác nghị luận
chính mà mình sử dụng. Càng ngày, kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh càng kém
hơn, và rất hiếm có những bài văn nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi
cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm luận cứ…Bài viết
của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với
nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ, đề bài yêu cầu cảm nhận các em lại làm như một
bài phân tích, thiếu cảm xúc, thái độ tình cảm; đề bài yêu cầu nghị luận về một nội
dung của tác phẩm các em lại nghị luận về tồn bộ tác phẩm đó; các em không không
phân biệt được viết như thế nào là bài bình giảng, viết như thế nào là bài phân tích
một đoạn thơ bài thơ; hoặc khi nghị luận kết hợp giải quyết một ý kiến nào đó liên
quan tới tác phẩm, các em lại quên mất việc giải quyết ý kiến đó (qn giải thích ý
kiến, qn xốy vào tác phẩm để làm rõ ý kiến) mà cứ sa vào nghị luận toàn bộ tác
phẩm…
Nguyên nhân mấu chốt là học sinh thiếu kĩ năng hoặc còn non kém về kĩ năng
làm bài văn nghị luận.
Vậy nên, việc nâng cao mở rộng, luyện tập thêm cho học sinh kĩ năng lm bi
vn ngh lun l rt cn thit.
II.Kĩ năng làm các dạng NGH LUN VN HC:
* K nng lm bi nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ

1. Kĩ năng chung
- Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ để nắm được nội dung và nghệ thuật cơ bản
- Nắm được những thơng tin xuất xứ: tác giả, hồn cảnh ra đời bài thơ. Đặc biệt

phải thấy được sự chi phối của phong cách nghệ thuật của tác giả và hoàn cảnh ra đời
đến giá trị bài thơ, đoạn thơ.
- Nghị luận về bài thơ, đoạn thơ thường phải bám vào các đặc điểm riêng của thơ
ca nhất là đặc trưng về nghệ thuật để khai thác làm rõ nội dung nghị luận. Đó là thể
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

4


thơ, là hình ảnh, ngơn từ, giọng điệu, các biện pháp tu từ…Vì vậy, có thể đặt các câu
hỏi sau để định hướng cho việc nghị luận
+ Nội dung chủ yếu của bài thơ, đoạn thơ là gì?
+ Có thể chia bố cục của bài thơ, đoạn thơ không?
+ Bài thơ, đoạn thơ sử dụng những từ ngữ nào hay, độc đáo? Giá trị biểu đạt là gì?
+ Biện pháp tu từ nào được sử dụng có hiệu quả và hiệu quả như thế nào?
+ Trong bài thơ, đoạn thơ có những hình ảnh nào cần phân tích? Phân tích ra sao?
+ Giọng điệu chủ đạo của bài thơ, đoạn thơ như thế nào?
+ Bài thơ, đoạn thơ gợi liên tưởng đến đoạn thơ, bài thơ nào?
+…
- Tuỳ theo yêu cầu về thao tác nghị luận và đối tượng nghị luận cụ thể để có cách
khai thác, lập luận và diễn đạt phù hợp. Khi làm bài có thể vận dụng phép so sánh đối
chiếu với những câu thơ, đoạn thơ khác của tác giả hoặc của tác giả khác. Nếu là đề
mở, cần vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận phù hợp, có hiệu quả, nhất là thao
tác giảng bình.
2. Kĩ năng làm bài nghị luận về một đoạn thơ
- Khi nghị luận cần đặt đoạn thơ trong mạch cảm xúc chung của tồn bài để có
những lí giải phù hợp.
- Sau khi phân tích, bình giá những khía cạnh nội dung và nghệ thuật, cần đánh
giá vẻ đẹp riêng của đoạn thơ đó và vai trị vị trí của đoạn thơ đối với cả bài. Thậm
chí từ một đoạn thơ, cần bước đầu thấy được phong cách nghệ thuật của tác giả.

- Dàn bài :
a. Mở bài:
+ Giới thiệu khái quát về tác giả (chỉ nên giới thiệu vị trí văn học của tác giả,
khơng đi sâu vào các phương diện khác)
+ Giới thiệu về bài thơ
+ Dẫn đoạn thơ cần nghị luận và nêu khái quát những ấn tượng chung về đoạn
thơ đó ( hoặc nên khái quát nội dung đoạn thơ)
b.Thân bài: Tiến hành nghị luận về các yếu tố nghệ thuật, các phương diện nội
dung của đoạn thơ. Chú ý làm nổi bật và nhấn mạnh hơn ở những đặc sắc về nội dung
và nghệ thuật. Mức độ phân tích, đánh giá, nhận xét, và bày tỏ cảm xúc, tình cảm của
mình về đoạn thơ cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu về thao tác nghị luận
cơ bản của từng đề ra.
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

5


c. Kết bài: Đánh giá vai trò ý nghĩa của đoạn thơ trong việc thể hiện chủ đề tư
tưởng của toàn bài. Nêu những cảm nghĩ, ấn tượng sâu đậm nhất về đoạn thơ.
3. Kĩ năng làm bài nghị luận về một bài thơ
Các đối tượng của đề bài nghị luận về một bài thơ là rất phong phú đa dạng. Có
thể nghị luận về tồn bộ bài thơ, có thể nghị luận về một phương diện của bài thơ:
một nhân vật trữ tình, một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật tiêu biểu…Mỗi đối
tượng ấy cũng có một số kĩ năng riêng . Cụ thể:
Dạng 1: Nghị luận về toàn bộ bài thơ
- Cần phát hiện mạch cảm xúc của bài thơ và mạch cảm xúc ấy chi phối bố cục
bài thơ như thế nào? Nắm vững nội dung từng phần, từng đoạn một cách cụ thể.
- Vì là nghị luận cả bài nên ở nhiều câu, nhiều đoạn không bắt buộc phải khai
thác kĩ như nghị luận về một đoạn. Người viết cần biết lướt qua, tóm lược ở những
đoạn, những câu khơng góp phần nhiều vào việc thể hiện giá trị của bài thơ.

- Cần thấy được vị trí của bài thơ đối với sự nghiệp của tác giả, cũng như của cả
một giai đoạn văn học, một thời kì văn học, thậm chí là cả của nền văn học dân tộc.
- Có những bài thơ, nhất là những bài thơ dài, người viết có thể trình bày cách
cảm, cách hiểu của mình theo chiều dọc ( về từng phương diện nội dung của bài). Khi
khai thác từng phương diện cũng yêu cầu khai thác cả những tín hiệu nghệ thuật đặc
sắc góp phần diễn đạt nội dung ấy.
- Dàn bài chung:
a. Mở bài
+ Giới thiệu khái quát về tác giả ( vị trí văn học, phong cách nghệ thuật của tác
giả mà không đi sâu vào những phương diện khác).
+ Giới thiệu bài thơ, nội dung bao trùm bài thơ
+ Bước đầu đánh giá về bài thơ đó (tuỳ theo đề bài và nội dung cụ thể của bài thơ
mà đưa ra những đánh giá, nêu ấn tượng cho phù hợp…)
b.Thân bài
+ Có thể nêu sơ qua hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
+ Tiến hành thuyết minh, phân tích, bình giảng, nêu cảm xúc về lần lượt từng
khổ thơ đoạn thơ (theo bố cục) các phương diện cụ thể của bài thơ. Chú ý, làm nổi bật
được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật. Trong khi trình bày, có thể liên hệ so
sánh với những bài thơ, đoạn thơ, câu thơ khác để ý được nổi bật, thuyết phục.
c.Kết bài:

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

6


+ Đánh giá vai trị vị trí của bài thơ đối với sự nghiệp văn học của tác giả, đối với
văn học dân tộc nói chung
+ Khẳng định lại những cảm xúc, những suy nghĩ tâm đắc nhất về bài thơ.
Ví dụ: Cảm nhận về bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của

Nguyễn Khoa Điềm.
1. Mở bài: Giới thiệu bài thơ và nêu những ấn tượng chung về bài thơ
2. Thân bài:
- Cảm nhận chung về hình thức kết cấu bố cục của bài thơ: chia ba đoạn, với ba khúc ru,
ba khúc ru có sự đan xen lời ru của tác giả và lời ru của người mẹ dành cho em bé. Ba khúc
ru được lặp lại những câu đầu, được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, với sự mở rộng về khơng
gian, về tính chất cơng việc người mẹ làm, đặc biệt về sự nâng cao phát triển trong tình cảm,
ước mơ của người mẹ…Nhờ thế vẻ đẹp của hình tượng người mẹ cũng như tình cảm của tác
giả dành cho mẹ cũng được nhấn mạnh, tô đậm hơn lên.
- Lần lượt cảm nhận cụ thể:
+ Vẻ đẹp của người mẹ Tà Ơi: một người phụ nữ giàu tình u thương, giàu ước mơ và
giàu nghị lực… Đó là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc sống lao động và chiến
đấu, vẻ đẹp của những người mẹ anh hùng.
+ Tình cảm thái độ của tác giả dành cho mẹ: sự thấu hiểu, cảm thương, niềm trân trọng,
khâm phục, ngợi ca tự hào…
* Lưu ý: Có thể theo một trong hai cách: Cảm nhận từng khúc ru hoặc cảm nhận về hình
tượng thơ: Người mẹ và tình cảm tác giả…Ở đây hướng dẫn theo cách thứ hai, cảm nhận về
hình tượng thơ. Khi trình bày phải biết dừng lại ở những câu thơ, từ ngữ đặc sắc để cảm nhận
sâu kĩ hơn, làm xoáy trọng tâm…)
3. Kết bài: Khẳng định giá trị của bài thơ về cả nội dung và nghệ thuật; nâng cao, mở rộng.

Dạng 2: Nghị luận về một phương diện của bài thơ
-Vì chỉ cảm nhận về một phương diện nội dung hay nghệ thuật của bài thơ, nên
khi làm bài tránh phân tích, cảm nhận cả bài. Và như vậy không thể khai thác theo bố
cục bài thơ được.
- Nếu nghị luận về một phương diện nội dung bài thơ thì người viết phải biết
chọn những biểu hiện như hình ảnh, câu từ nào trong bài thơ liên quan đến phương
diện cần nghị luận để phân tích, chứng minh.
- Nếu nghị luận về phương diện nghệ thuật thì phải phát hiện và phân tích tất cả
những yếu tố nghệ thuật tiêu biểu. Sau đó phải tìm hiểu xem vẻ đẹp nghệ thuật ấy thể

hiện tập trung nhất ở những yếu tố nào như hình ảnh thơ, nhạc điệu, từ ngữ, các biện
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

7


pháp tu từ…. Nhưng không phải chỉ đơn thuần là nghị luận về nghệ thuật mà điều cần
thiết, quan trọng ở dạng bài này là người viết phải biết phân tích đánh giá được những
nghệ thuật ấy nhắm biểu đạt nội dung, tư tưởng nào mà tác giả gửi gắm. Nếu khơng
nghệ thuật có hay có đặc sắc đến mấy cũng thành vô nghĩa.
- Sau khi làm xong phải biết đánh giá giá trị, vai trò của phương diện nội dung
hay nghệ thuật vừa nghị luận đối với giá trị của toàn bài thơ.
- Dàn bài :
Mở bài: Giới thiệu bài thơ và phương diện nội dung hay nghệ thuật mà đề bài
yêu cầu nghị luận. Đồng thời nêu ấn tượng chung về giá trị của phương diện đó trong
tồn bài thơ.
Thân bài: Bám vào bài thơ để tìm các hình ảnh, câu từ liên quan đến vấn đề
nghị luận để khai thác trình bày.
Kết bài: Khẳng định giá trị chung của cả bài thơ nói chung và của nội dung vừa
nghị luận nói riêng. Có thể liên hệ mở rộng.
Dạng 3: Nghị luận về nhân vật trữ tình trong bài thơ
- Nhân vật trữ tình ở đây là người bày tỏ thể hiện cảm xúc, chứ không phải là
nhân vật là đối tượng trữ tình trong bài thơ. Vậy nên, nghị luận về nhân vật này là
nghị luận về diễn biến tâm trạng, tình cảm cảm xúc của nhân vật thể hiện trong bài
thơ. Có nhân vật trữ tình trực tiếp ( thường là tác giả, tự xưng) và nhân vật trữ tình
nhập vai ( nhập vai vào một nhân vật khác, nhưng đằng sau đó vẫn là tâm tư tình cảm
của tác giả gửi gắm thể hiện).
- Tâm trạng cảm xúc của nhân vật trữ tình ln có sự vận động, phát triển thay
đổi. Muốn nắm bắt được điều này, thường chúng ta nên phân chia bài thơ ra từng
phần đoạn tương ứng với tính chất, đặc điểm và ý nghĩa của tâm trạng được thể hiện

trong đó.
- Lần theo mạch cảm xúc đó để phân tích, trình bày những suy nghĩ, nhận xét của
mình.Khi trình bày cần cùng lúc phải chú ý hai điểm: Một là các tín hiệu nghệ thuật
tiêu biểu ( chi tiết, hình ảnh, cách ngắt nhịp, cách dùng từ, biện pháp tu từ… ). Hai là,
tâm tư tình cảm mà tác giả thể hiện qua những tín hiệu nghệ thuật đó.
- Sau khi phân tích cần tổng hợp, khái quát nâng cao theo cách định danh, gọi tên
cho tâm trạng, cảm xúc, tình cảm.
- Có thể liên hệ tới tâm trạng của những nhân vật khác tương đồng hoặc tương
phản để bài viết sâu sắc hơn.
- Nên có những lời bình, bày tỏ thái độ nhận xét của mình về nhân vật để bài viết
có dấu ấn riêng.
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

8


Tóm lại, có thể đặt ra và trả lời những câu hỏi sau:
+ Nhân vật trữ tình trong bài thơ thuộc kiểu nhân vật nào?
+ Bài thơ có thể chia những phần đoạn như thế nào? Mỗi phần đoạn ấy thể hiện tâm
trạng cảm xúc gì của nhân vật? Những tín hiệu nghệ thuật nào góp phần diễn tả tâm
trạng, cảm xúc ấy?Tình cảm cảm xúc của nhân vật đó gợi liên tưởng đến nhân vật nào?
+ Tâm trạng cảm xúc của nhân vật trữ tình có thể là tiểu biểu cho thế hệ, tầng lớp
nào không?
- Dàn bài chung
a. Mở bài
+ Dẫn dắt giới thiệu nhân vật
+ Nêu ấn tượng chúng về nhân vật đó
b.Thân bài: Lần lượt nghị luận về các biểu hiện, các sắc thái cảm xúc tâm trạng,
tình cảm của nhân vật thể hiện trong bài thơ dựa theo mạch cảm xúc của bài. Mỗi biểu
hiện nên trình bày thành một đoạn riêng, có liên kết để sau đó nâng cao, đánh giá về

tư tưởng, tình cảm của nhân vật.
c.Kết bài:
Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ để khẳng định lại tâm trạng, cảm xúc của
nhân vật và đánh giá về vai trò ý nghĩa của việc thể hiện những tâm trạng ấy trong giá
trị chung của toàn bộ bài thơ.
+ Suy nghĩ và rút ra bài học…
Ví dụ: Những cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ Thanh Hải thể hiện qua bài thơ “ Mùa
xuân nho nhỏ”.
* Dàn bài:
a. Mở bài:
- Giới thiệu bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải
- Nhấn mạnh: đọc bài thơ, ta xúc động, trân trọng biết bao trước những cảm xúc, tình
cảm chân thành mà thi nhân gửi gắm thể hiện.
b. Thân bài: Lần lượt trình bày các luận điểm nhỏ sau
- Trước hết đó là niềm say mê, ngây ngất, là tình yêu thiết tha của Thanh Hải trước vẻ
đẹp của mùa xuân thiên nhiên, đất trời ( phân tích tín hiệu nghệ thuật làm rõ)
- Khơng chỉ vậy nhà thơ cịn hết sức tự hào, hạnh phúc, sướng vui trước mùa xuân của
đất nước, trước sức trỗi dậy vươn lên, sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc ta trong thời kì đổi
mới.( phân tích dẫn chứng)
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

9


- Càng yêu mến, tự hào về quê hương đất nước, nhà thơ càng thiết tha, khao khát được
cống hiến, đóng góp một phần nhỏ bé của mình- một mùa xuân nho nhỏ, mong muốn nhắn nhủ
mọi thế hệ chúng ta hãy chung tay vào góp sức xây dựng đất nước để cho mùa xuân đất nước
sẽ càng tươi đẹp hơn. ( phân tích dẫn chứng)
- Cả bài thơ là một khúc ca xuân, một khúc ca tự hào, ngợi ca đất nước quê hương
( phân tích kĩ hơn ở khổ cuối) của nhà thơ, của những con người yêu đất nước thiết tha.

c. Kết bài:
- Khẳng định: Tình yêu thiên nhiên, đất nước với những cảm xúc chân thành thiết tha
của Thanh Hải chính là một nội dung cơ bản làm nên giá trị, sức sống lâu bền của bài thơ.
- Cảm nghĩ, rút ra bài học cho bản thân, cho thế hệ trẻ về lí tưởng sống, cống hiến…

II.2. Kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện(đoạn trích)
1. Kĩ năng chung
- Đối với một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, khi nghị luận ta cần chú ý khai
thác những yếu tố hình thức như nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống truyện,
nghệ thuật miêu tả xây dựng nhân vật ( thơng qua ngoại hình, cử chỉ, hành động, lời
nói, nội tâm…), việc sáng tạo những chi tiết, những hình ảnh giàu ý nghĩa, hay việc
sử dụng các biện pháp tu từ…Từ đó làm tốt lên giá trị nội dung của tác phẩm ( nội
dung hiện thực, nội dung tư tưởng).
- Cần đọc kĩ tác phẩm hoặc đoạn trích để khái quát được giá trị nội dung và nghệ
thuật cơ bản. Biết tóm tắt đầy đủ các sự việc, nội dung chính mà tác phẩm( đoạn trích) kể
lại, biết hệ thống các nhân vật và mỗi nhân vật ấy thuộc kiểu loại nhân vật nào. Đồng
thời ghi nhớ, thuộc lịng những chi tiết, hình ảnh tiêu biểu viết về nhân vật, sự việc…
- Tìm hiểu thêm những thơng tin về tác giả và hồn cảnh ra đời tác phẩm để hỗ
trợ cho việc nghị luận được sâu sát.
- Nghị luận về một tác phẩm văn xi thường có đối tượng u cầu là:
+ Nghị luận về toàn bộ tác phẩm
+ Nghị luận về một phương diện nội dung (Giá trị nội dung cụ thể, một nhân vật
cụ thể của tác phẩm)
+ Nghị luận về một nét đặc sắc trong nghệ thuật tác phẩm (nghệ thuật miêu tả
xây dựng nhân vật, xây dựng tình huống)
+ Nghị luận về đặc điểm phong cách của tác giả qua tác phẩm.
Mỗi đối tượng nghị luận như thế cần vận dụng phương pháp làm bài phù hợp,
tránh sai lạc, thiếu sót.
2. Kĩ năng làm bài cụ thể đối với từng đối tượng
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS


10


Dạng 1: Nghị luận về toàn bộ tác phẩm ( hoặc đoạn trích)
- Vì là nghị luận về tồn bộ tác phẩm nên cần chú ý nghị luận đầy đủ trên cả hai
phương diện: giá trị nội dung và nghệ thuật ( như đã trình bày trên). Thường thì trước
khi nghị luận, cần tóm tắt tác phẩm hoặc đoạn trích, rồi nghị luận về giá trị nội dung,
nghệ thuật.
+ Mỗi tác phẩm phản ánh và thể hiện một nội dung riêng, nên cần nhận ra nội
dung hiện thực của tác phẩm là gì để nghị luận về bức tranh hiện thực đó thơng qua
việc cảm nhận phân tích về các nhân vật, sự việc, các chi tiết liên quan. Có thể trình
bày thành những đoạn riêng biệt đối với từng biểu hiện của giá trị hiện thực ( Hiện
thực đời sống, số phận con người, hay hiện thực bức tranh xã hội đất nước…).Từ nội
dung hiện thực, chuyển qua nghị luận về giá trị nội dung tư tưởng (tư tưởng nhân đạo,
tư tưởng yêu nước, những triết lí suy ngẫm của tác giả thể hiện qua tác phẩm, sức
sống mãnh liệt của con người…)
+ Cần khái quát được những nét nghệ thuật thành cơng của tác phẩm, chọn và
phân tích chứng minh một số nét nghệ thuật tiêu biểu nhất như nghệ thuật xây dựng
nhân vật, tạo tình huống… (có dẫn chứng).
Trình tự trình bày giữa các các ý, các đoạn là do người viết lựa chọn sao cho
phù hợp, dễ lập luận…
- Đánh giá khái quát được giá trị, vị trí của tác phẩm trong sự nghiệp sáng tác của
tác giả và sự đóng góp của tác giả vào nền văn học nước nhà.
- Trong qua trình nghị luận có thể dùng phương pháp so sánh với những tác
phẩm tác giả khác để bài viết sâu sắc hơn.
- Dàn bài chung:
a. Mở bài:
+ Giới thiệu về tác phẩm, đoạn trích ( xuất xứ, giá trị)
+ Nêu ấn tương chung về tác phẩm, đoạn trích

b. Thân bài: Nên lần lượt trình bày các ý cơ bản sau
+ Tóm tắt thật ngắn gọn nội dung hoặc cốt truyện của tác phẩm đề làm nền cho
việc nghị luận về giá trị nội dung và nghệ thuật tác phẩm.
+ Nghị luận về giá trị nội dung (thường tiến hành trước): Mỗi nội dung trình bày
một đoạn, có phân tích nhân vật, sự việc để làm rõ.
+ Nghị luận về nghệ thuật: Chỉ cần trình bày một đoạn, tập trung phân tích kĩ ở nét
nghệ thuật thành cơng nhất, cịn những nghệ thuật khác có thể chỉ cần liệt kê ra mà thơi.

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

11


c. Kết bài: Khẳng định, nâng cao về giá trị tp, tài năng nghệ thuật, tư tưởng tình
cảm của tác giả cũng như những đóng góp của tác phẩm, tác giả vào văn học nói
chung.
Ví dụ: Cảm nhận về “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
a. Mở bài: Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhận xét chung: đây là một tác phẩm rất có giá
trị, để lại nhiều những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc người nghe.
b. Thân bài:
* Tóm tắt tp (theo nhân vật)
* Nghị luận về giá trị nội dung
- Nội dung hiện thực
- Nội dung nhân đạo
* Nghị luận về giá trị nghệ thuật
c. Kết bài:Khẳng định nâng cao giá trị tác phẩm…

Dạng 2. Nghị luận về một phương diện nội dung hay nghệ thuật của tác
phẩm, đoạn trích
1. Vì chỉ nghị luận về một phương diện, khía cạnh nào đó trong tồn bộ tác

phẩm, đoạn trích nên chỉ cần dựa vào những chi tiết, sự việc, nhân vật tiêu biểu thể
hiện cho phương diện, khía cạnh đó mà tập trung phân tích, cảm nhận. Tránh sa vào
nghị luận tồn bộ tác phẩm hoặc nghị luận lạc sang đới tượng khác.
2. Dàn bài:
a. Mở bài:
- Giới thiệu chung về tác phẩm, đoạn trích
- Nêu phương diện vần đề cần nghị luận mà đề bài yêu cầu
b. Thân bài: Tiến hành nghị luận về những biểu hiện cụ thể của vấn đề. Mội biểu
hiện có thể trình bày thành một đoạn văn. Trong quá trình nghị luận phải bám vào tác
phẩm, đoạn trích để dẫn ra những chi tiết, hình ảnh, nhân vật, sự việc tiêu biểu nhằm
phân tích làm rõ vấn đề.( Tránh lan man, đưa dẫn chứng không phù hợp, hoặc sa vào
nghị luận vấn đề khác, hay nghị luận tồn tác phẩm, đoạn trích)
c. Kết bài: Khẳng định, đánh giá ý nghĩa của vấn đề vừa nghị luận đối với thành
cơng, giá trị chung của tồn tác phẩm; đồng thời nêu ấn tượng cảm nghĩ của bài thân
về vấn đề, về tác phẩm…
Ví dụ 1( Nghị luận về một phương diện nghệ thuật): Hãy phân tích đoạn trích “ Kiều
ở lầu Ngưng Bích” để thấy được ngịi bút tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du.
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

12


Dạng 3. Nghị luận về một nhân vật trong tác phẩm, đoạn trích
- Phải xác định được nhân vật cần nghị luận thuộc kiểu loại nhân vật nào (nhân
vật chính hay phụ, có phải là nhân vật tư tưởng khơng…), có vai trị như thế nào trong
tác phẩm?
- Tuỳ từng kiểu loại nhân vật để khai thác phân tích cho phù hợp; nhưng cơ bản
đều dựa vào những biểu hiện về nguồn gốc lai lịch, về hoàn cảnh cuộc sống, về ngoại
hình, ngơn ngữ, hành động, và nội tâm để phát hiện ra những đặc điểm tiêu biểu về
cuộc đời, phẩm chất…

- Khi nghị luận về nhân vật, chú ý khái quát, nâng cao nhân vật ấy xem nhân vật
có đại diện, tiêu biểu cho tầng lớp, thế hệ nào không.
- Dàn bài:
a. Mở bài:
+ Giới thiệu nhân vật
+ Nêu ấn tượng chung về nhân vật ( tránh nêu ra cả những đặc điểm của nhân vật
khi trong đề bài không giới hạn trước).
b.Thân bài:
* Lần lượt nghị luận làm rõ những đặc điểm tiêu biểu của nhân vật về
+ Hồn cảnh cuộc sống, cơng việc…
+ Hình dáng diện mạo ( nếu có)
+ Phẩm chất, tính cách: Mỗi nét của phẩm chất tính cách tiêu biểu có thể viết
thành một đoạn . Chú ý bàm vào tác phẩm, đoạn trích tìm những chi tiết, hình ảnh cụ
thể miêu tả việc làm, hành động, lời nói, suy nghĩ nhân vật để phân tích làm rõ đặc
điểm phẩm chất, tính cách…
* Nâng cao, khái quát về những đặc điểm của nhân vật cho cả thế hệ, tầng lớp…
Khái quát chung về nghệ thuật miêu tả xây dựng nhân vật cũng như tình cảm
thái độ của tác giả đối với nhân vật.
c. Kết bài: Khẳng định, khái quát về nhân vật và nêu cảm nghĩ của bản thân đối
với nhân vật…
Ví dụ 1: Cảm nhận của em về nhân vật Thuý Kiều qua các văn bản đã học, đọc thêm.
Gợi ý:
a. Mở bài: Giới thiệu về nhân vật Thuý Kiều và khẳng định: Thuý Kiều là hình tượng
đẹp, gợi rất nhiều những tình cảm, niềm thương yêu đối với mỗi người.
b. Thân bài: Lần lượt nghị luận về
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

13



- Vẻ đẹp tài sắc tuyệt đỉnh, tâm hồn đa sầu đa cảm…( Chị em Thuý Kiều)
- Cuộc đời bất hạnh, sóng gió…( Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích)
- Ln giữ được phẩm hạnh, đạo đức tốt đẹp ( Kiều ở lầu Ngưng Bích, Thuý Kiều báo ân
báo ốn)
+ Đức hi sinh, lịng vị tha
+ Tình yêu chung thuỷ sắt son
+ Lòng hiếu thảo với cha mẹ
+ Ân ốn rạch rịi, cư xử khơn khéo đúng mực…
-> Thuý Kiều là nhân vật hội tụ đầy đủ nhất những nỗi đau đớn bất hạnh, những nét đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, nhất là trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Là nhân
vật trung tâm của tác phẩm được Nguyễn Du dành nhiều tình cảm yêu thương trân trọng nhất,
và cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng, tình cảm sâu sắc nhất trong lòng người đọc người
nghe bao thế hệ.
Xây dựng nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã bày tỏ được thái độ tình cảm nhân đạo
sâu sắc cũng như tài năng nghệ thuật đặc sắc khi miêu tả khắc hoạ nhân vật của mình.
c. Kết bài: Khẳng định lại vẻ đẹp và cuộc đời bất hạnh của nàng Kiều, liên hệ với người
phụ nữ hiện nay…

Dạng 4. Nghị luận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm
- Nắm được khái niệm về chi tiết nghệ thuật: Chi tiết trong tác phẩm văn học
được hiểu rất rộng rãi: một hình ảnh, một hành động, một dáng đi, một nụ cười, một
ánh mắt, một giọng nói, một cảnh sắc thiên nhiên, một đồ vật trong phịng...thậm chí
là một nhan đề của tác phẩm về cách gọi tên nhân vật…
- Ý nghĩa vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm:
+ Nếu so sánh tác phẩm văn học là một cây xanh thì cốt truyện là gốc, là cành;
còn chi tiết lầ nhánh là lá là hoa. Cốt truyện tạo nên rường cột, tạo nên cái khung, còn
chi tiết làm phong phú sống động, xanh tươi cho tác phẩm.
+ Khơng có chi tiết nghệ thuật, tác phẩm sẽ trở nên khô khan, đơn điệu tẻ nhạt.
Mọi tác phẩm văn học đều cần có chi tiết, muốn tác phẩm hay thì chi tiết nghệ thuật
phải độc đáo, ý nghĩa, có khả năng gợi mở, tạo sự liên tương thú vị, đặc biệt là có giá

trị thể hiện tư tưởng tác phẩm. Nhà văn M. Gorki nói: “ Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn
lớn” là vì thế.
- Cách phân tích chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự
Khi gặp đề thuộc loại phân tích chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự, ta cần
phải thực hiưện các cơng đoạn chính sau đây:
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

14


+ Giới thiệu chi tiết nghệ thuật: Nêu xuất xứ của chi tiết, tái hiện chi tiết, và có
thể nói qua tác động của chi tiết đó đối với diễn biến của truyện.
+ Phân tích ý nghĩa của chi tiết ( ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa nhân văn) trong
quan hệ với diễn biến của truyện, trong quan hệ giữa các nhân vật, trong quan hệ với
chính bản thân nhân vật ( số phận và tính cách nhân vật).
+ Phân tích giá trị nghệ thuật của chi tiết ( nghệ thuật xây dựng hình tượng,
nghệ thuật điển hình hố, nghệ thuật kết cấu…)
Tất cả những điều trên phải được phân tích trên cơ sở nắm được văn bản nghệ
thuật và hiểu biết về tác phẩm, tác giả, khơng nói chung chung hoặc áp đặt vơ căn cứ.
Khi làm bài có thể kết hợp giữa phân tích với giải thích, bình luận ở mức độ làm
sáng tỏ thêm, sâu sắc thêm sự phân tích.
Ví dụ: Nhận xét về chi tiết nghệ thuật trong truyện, có ý kiến cho rằng: "Chi tiết nhỏ
làm nên nhà văn lớn". Chi tiết chiếc bóng trong "Chuyện người con gái Nam Xương" đã
thể hiện rõ điều đó.

Dạng 5 : Nghị luận về một đoạn văn ngắn
- Cần xác định được xuất xứ của đoạn văn ( thuộc tác phẩm nào, của ai, thuộc vị
trí nào trong tác phẩm…) để đặt trong tổng thể chung mà cảm nhận, phân tích, bình
giá cho hợp lí.
- Có thể u cầu nghị luận về đoạn văn tự sự, đoạn văn biểu cảm, đoạn văn miêu


tả hoặc đoạn văn nghị luận…Vì vậy cần vận dụng các kiến thức về nghệ thuật của thể
loại, kiểu văn bản và phương thức biểu đạt mà nghị luận. Cụ thể : chú ý về kiểu câu
văn, từ ngữ, các chi tiết hình ảnh, sự việc, nhân vật, ngôn ngữ, nghệ thuật miêu tả, tự
sự, biểu cảm ; các biện pháp tu từ...Từ các tín hiệu nghệ thuật đó để làm nổi bật nội
dung của đoạn văn.
- Cách làm bài cũng tương tự như làm bài nghị luận về một đoạn thơ đã học.
Nghĩa là có thể đặt các câu hỏi tìm ý về tín hiệu nghệ thuật và nội dung, sự so sánh
liên hệ…
- Dàn bài:
a. Mở bài: Giới thiệu đoạn văn cần nghị luận
- Có thể giới thiệu về tác giả, tác phẩm để dẫn đến đoạn văn
- Không cần thiết phải dẫn trực tiếp, đầy đủ đoạn văn vào mở bài ( vì thường
đoạn văn dài), mà chỉ cần nêu lên sự việc nhân vật (đoạn văn tự sự), nêu nội dung
chung của đoạn văn và dẫn câu đầu câu cuối ( đoạn miêu tả, biểu cảm, nghị luận);
thậm chí nếu đoạn văn là mở đầu hoặc kết thúc của tác phẩm, thì chỉ cần giới thiêu là
đoạn kết thúc hoặc mở đầu mà thơi.
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

15


- Nêu ấn tượng suy nghĩ chung về đoạn văn đó.
b. Thân bài: Lần lượt trình bày những cảm nhận, suy nghĩ đánh giá phân tích về
các tín hiệu nghệ thuật nổi bật và nội dung cơ bản của đoạn trong sự thống nhất gắn
liền với tác phẩm.
c. Kết bài: Khái quát và khẳng định lại giá trị nổi bật về nội dung và nghệ thuật của
đoạn văn. Đánh giá ý nghĩa của đoạn trong thành công chung của tác phẩm, tác giả.
Ví dụ:
Bài 1: Trình bày cảm nhận về đoạn văn sau: "Thiếp sợ dĩ nương tựa vào chàng vì

có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ
trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bơng hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn,
nước thẳm buồm xa, đâu cịn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa."
(Chuyện người con gái Nam Xương- Nguyễn
Dữ)
Bài 2: Trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa”, Nguyễn Thành Long có viết:
“ Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa
tuyết nữa đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt
đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đền bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách
đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngồi như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xơ tới.
Cái lặng im lúc đó mới thật là dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống
như những nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung…Những lúc im lặng
lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được. ”
Viết bài văn ngắn cảm nhận về đoạn văn trên.
II. MỘT SỐ KĨ NĂNG KHÁC

1. Kĩ năng làm bài nghị luận về tác phẩm văn học gắn liền với việc
giải quyết một ý kiến, nhận xét liên quan.
1.1 Những ý kiến nhận định mà đề đưa ra có thể là những nhận xét đánh giá về
nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm, về phong cách nhà thơ nhà văn, có thể là ý
kiến nhận định liên quan tới lí luận văn học…
1.2 Khi gặp dạng đề này cần làm theo gợi ý sau
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả tác phầm và vấn đề cần nghị luận
- Dẫn trực tiếp ý kiến, nhận định mà đề bài đưa ra
- Bày tỏ suy nghĩ cảm nhận chung của bản thân về nhận định, ý kiến đó
b. Thân bài: Lần lượt giải quyết các ý cơ bản
- Giải thích ý kiến, nhận định mà đề bài đưa ra (ngắn gọn, chỉ cốt để thấy được
nội dung ý kiến ấy là gì)
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS


16


- Dựa vào văn bản, tác phẩm tìm những dẫn chứng sát hợp với ý kiến nhận định
để phân tích, chứng minh làm rõ ý kiến
* Lưu ý:
- Nếu ý kiến, nhận định mà đề đưa ra có nhiều vế, nhiều nội dung thì có thể chia
tách từng vế, vừa giải thích vừa chứng minh (hoặc giải thích chung trước, sau đó chia
ra từng vế mà chứng minh)
- Nếu ý kiến đưa ra là một vấn đề về lí luận văn học, cần phải có sự kết hợp cả kiến
thức lí luận văn học liên quan để giải thích, phân tích. Khi làm bài phải đặt nội dung phân
tích về tác phẩm, văn bản trong mối quan hệ chặt chẽ với kiến thức lí luận ấy.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại ý kiến
- Đánh giá giá trị của tác phẩm thêm ở những phương diện khác, nâng cao thêm.
Ví dụ 1: “ Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta
sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc,
không phải chỉ có trí thức (…). Cho đến một câu thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi
trong lịng, mắt khơng rời trang giấy.”
( Tiếng nói của văn nghệ- Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9 tập II)
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy chứng tỏ rằng bài thơ “Đồng chí” ( Chính
Hữu) là một bài thơ như thế.

2. Kĩ năng làm bài văn nghị luận tổng hợp, xâu chuỗi nhiều đối tượng
a. Cần hiểu đây là dạng bài nghị luận có tính chất tổng hợp và so sánh đối chiếu
giữa nhiều đối tượng văn học. Có thể đề bài yêu cầu nghị luận về toàn bộ nội dung và
nghệ thuật của hai hay nhiều tác phẩm; có thể yêu cầu nghị luận về một phượng diện
như đề tài, nhân vật, cốt truyện, tình huống, chi tiết nghệ thuật, hình ảnh…của các tác
phẩm cùng hoặc khơng cùng tác giả, trào lưu, thời đại văn học…

b. Khi làm bài cần chỉ ra chỗ giống và khác nhau giữa các đối tượng. Từ đó thấy
được sự kế thừa, sáng tạo cách tân của tác giả, tác phẩm; thấy được phong cách tác
giả, đặc điểm văn học một trào lưu, một giai đoạn, thời kì nào đó…Đặc biệt cần chỉ ra
được ngun nhân, cơ sở của những đặc điểm đó là gì thì bài viết mới sâu sắc.
c. Dàn bài
- Mở bài: giới thiệu khái quát về các đối tượng và nêu ấn tượng nhạn xét chung
- Thân bài
Cách 1:

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

17


+ Làm rõ đối tượng thứ nhất
+ Làm rõ đối tượng thứ hai

+ Nhận xét, đánh giá làm nổi bật điểm chung giữa các đối tượng và nếu có thể thì
khái quát thành đặc điểm phong cách sáng tác và sự kế thừa phát huy của tác giả ( nếu
đối tượng của cùng tác giả), đặc điểm của trào lưu, thời kì văn học ( khơng cùng tác
giả mà cùng trào lưu, cùng thời kì văn học)
+ Chỉ ra và làm rõ điểm riêng, khác biệt từ đó phân tích nguyên nhân của những
sự khác nhau ấy. Có thể làm nổi bật sự cách tân, sáng tạo của tác giả.
Cách 2 :
+ Nghị luận lần lượt những điểm chung giữa các đối tượng. Mỗi điểm chung lịa
phân tích từng đối tượng để làm rõ.
-> Khái quát thành đặc điểm phong cách sáng tác và sự kế thừa phát huy của tác
giả ( nếu đối tượng của cùng tác giả), đặc điểm của trào lưu, thời kì văn học ( khơng
cùng tác giả mà cùng trào lưu, cùng thời kì văn học)
+ Nghị luận làm rõ những điểm riêng giữa các đối tượng. Sau đó phân tích

ngun nhân của những sự khác nhau ấy, có thể làm nổi bật sự cách tân, sáng tạo của
tác giả.
- Kết bài: Khái quát khẳng định lại những điểm chung riêng nổi bật của các đối
tượng. Có thể nêu cảm nghĩ của bản thân.
Ví dụ:
Bài 1: Cảm nhận của em về cuộc đời số phận của Vũ Nương trong “Chuyện người
con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ) và Thuý Kiều trong những đoạn trích từ “Truyện
Kiều” (Nguyễn Du) mà em đã được học .
Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền”
Bài 2: Trong bài Mùa xuân nho nhỏ, Thanh Hải viết :
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa.
Kết thúc bài Viếng lăng Bác, Viễn Phương có viết :
Mai về Miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác.
Trình bày cảm nhận của em về những câu thơ trên.

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

18


3. Kĩ năng so sánh văn học
3.1. Mục đích: So sánh là một thao tác của tư duy.Trong quá trình nhận thức thế
giới khách quan, kĩ năng so sánh bao giờ cũng giúp phát hiện cái mới, cái khác biệt.
Đối với việc cảm thụ phân tích văn chương, so sánh thường hướng vào hai mục đích
chính:
- Chỉ ra những nét riêng, nét độc đáo, sáng tạo; phát hiện những vẻ đẹp văn
chương khơng lặp lại, những đóng góp cụ thể của nhà văn nhà thơ.Sự cảm thụ phân
tích được đầy đủ chu đáo.

- Phát hiện những quy luật chung giữa những tác phẩm, tác giả,hoặc giai đoạn
văn học…Việc rút ra những quy luật chung giúp cho nhận thức của người phân tích
một vấn đề trở nên sâu sắc hơn, vững vàng hơn và từ đó đặt nền móng cho những phát
hiện mới mẻ khác.
3.2. Những hình thức cấp độ so sánh:
Kĩ năng so sánh có hể thực hiện trên nhiều cấp độ. Nhỏ thì là ở cách dùng từ,
hình ảnh, hình tượng; lớn thì ở đề tài, tác phẩm, tư tưởng, phong cách …Thậm chí có
thể so sánh giữa các giai doạn văn học, thời kì văn học, những đặc điểm của các nền
văn học. Sau đây là một số hình thức cấp độ thường dùng:
a. Hình thức so sánh ở cấp độ hình ảnh:
Từ một hình ảnh này ta có thể so sánh với hình ảnh khác trên cơ sở tương đồng
hoặc tương phản có tác dụng làm nổi bật hình ảnh được so sánh, thể hiện rõ những nét
chung nào đó.
Ví dụ phân tích về hình ảnh trong hai câu thơ tả mùa xuân của Nguyễn Du có thể so
sánh với hai câu thơ cổ của Trung Quốc; phân tích hình ảnh “ Thương nắm tay năm lấy bàn
tay” trong thơ Chính Hữu với hình ảnh “ Bắt tay qua cửa kính võ rồi” của Phạm tiến Duật;


b. Hình thức so sánh ở cấp độ tác phẩm:
Khi phân tích một tác phẩm ta có thể so sánh với:
- Những tác phẩm trước nó để thấy được sự kế thừa và cách tân.
- Những tác phẩm sau nó để thấy đặc điểm của văn học thời đại và sự phát triển
của văn học nói chung.
- Những tác phẩm cùng thời để thấy sự độc đáo.
- Những tác phẩm của chính nhà văn để thấy vẻ riêng hoặc một quy luật chung
nào đấy.

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

19



VD: Nói về tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao có thể so sánh với “Chí Phèo”, với “Tắt
đèn”…

c. Hình thức so sánh ở cấp độ đề tài:
Để nhận ra giá trị nghệ thuật của tác phẩm, kĩ năng so sánh ở cấp độ này cũng tỏ
ra rất đắc dụng. Và điều quan trọng trong văn chương không phải là đề tài mà là
cách xử lí đề tài của tác giả.
Cùng viết về đề tài người nông dân trước cách mạng nhưng Ngô Tất Tố, Nguyễn Công
Hoan, Nam Cao, Kim Lân…lại có những khám phá rất khác nhau; cùng lấy mùa thu làm cảm
hứng nhưng Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Lưu Trọng Lư…lại có những cảm nhận riêng; thậm
chí ở cùng một tác gỉa, mùa thu cũng được phat hiện với bao vẻ đẹp phong phú ( VD cảm
hứng về thiên nhiên vũ trụ trong thơ Huy Cận trước và sau cách mạng có những nét riêng do
sự thay đổi trong tư tưởng, thế giới quan nhân sinh quan của tác giả).

So sánh những cách diễn tả, thể hiện đề tài, cảm hứng của tác giả, tác phẩm như
thế sẽ thấy được những nét mới mẻ, phát triển…
d. Hình thức so sánh về khuynh hướng tư tưởng: So sánh về tư tưởng, tình cảm,
cách nhìn đời nhìn người…
VD: Cùng tư tưởng nhân đạo nhưng giữa những tác giả Ngô Tất Tố và Nam Cao lại có
những biểu hiện khác nhau. Tư tưởng nhân đạo tuy là cái nền của mỗi tác phẩm, là cái chân
giá trị, là mẫu số chung của mọi tác phẩm, là điểm gặp gỡ giữa những nhà văn chân chính
nhưng với mỗi tác giả cụ thể ta có thể gặp những nét đặc sắc riêng.

3.3. Yêu cầu:
- Phải có vốn kiến thức phong phú, có tư duy sắc sảo, sự lien tưởng nhạy bén..
phải biến so sánh trở thành một phản xạ thường trực trong tư duy.
- So sánh phải hợp lí, phỉ cùng cấp độ phương diện
- So sánh phải có tính phat hiện, phải tìm ra được nét mới, nghĩa là phải có mục đích.

- So sánh phải có mức độ, chừng mực, phù hợp phạm vi, đối tượng.
3.4. Cách sử dụng:
- Dẫn câu thơ, hình ảnh, tên tác phẩm… mà khơng cần phân tích, chỉ dùng
như một sự liên tưởng hoặc sự vay mượn để diễn đạt.
Ví dụ 1: Trong những kỉ niệm cái thời quân ngũ ấy, có rất nhiều điều đáng nhớ. Nhớ
nhất là tình đồng chí đồng đội sẻ chia nhau những ngọt bùi, gian khổ.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Ngô Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

20


Đây là những cơn sốt rét rừng thường gặp, một căn bênh rất nguy hiểm, hay dẫn đến tử
vong, nếu khơng thì cũng làm cho người lính có những biểu hiện khác lạ về ngoại hình như
trong thơ Quang Dũng “Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc” ( Tây Tiến). Và ở đây, những
người lính đã phải trải qua những cơn “sốt run người vừng trán ướt mồ hơi”. Vì hiểu nhau
hiểu đến mức “ Hiểu nhau rồi hiểu lắm bạn, đời ơi” ( Tố Hữu) mà họ sẻ chia những đau ốm
bệnh tật để có thể vẫn “ miệng cười buốt giá” nhìn nhau. Một nụ cười vừa tươi vui, vừa xuýt
xoa vì rét, vì lạnh. Vượt qua những cơn lạnh thấu xương ấy chỉ có thể bằng nghị lực, bằng sự
nâng đỡ của tình đồng chí đồng đội. Bởi thế nụ cười tuy thấm thía gian khổ thiếu thốn mà vẫn
hồn nhiên, yêu đời”.
Ví dụ 2: Trở lại với phong cách thơ của Phạm Tiến Duật, đọc “ Bài thơ về tiểu đội xe
khơng kính”, cũng như một và tác phẩm khác của ông- “Lửa đèn”, “Trường Sơn Đông
Trường Sơn Tây”, “Nhớ”…chúng ta thật thú vị khi nhận ra chất giọng rất trẻ, rất lính của bài
thơ. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà
chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Qua đó mà làm nổi bật được niềm vui sôi nổi, tâm hồn
trẻ trung tinh nghịch, tếu táo cuả những người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy gian
khổ, hiểm nguy.


- Dẫn câu thơ, hình ảnh, …có sự phân tích, đánh giá làm nổi bật vấn đề
Ví dụ 1:
“ Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
( Truỵên Kiều)
Hai câu thơ thực là một bức tranh xuân tuyệt mĩ. Khơng gian khống đạt, trong trẻo,
thảm cỏ non trải rộng tận chân trời. Trên nền xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa trắng.
Thơ cổ Trung Hoa có câu “ Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa”( Cỏ non liền với
trời xanh/ Trên cành lê có mấy bơng hoa). Nguyễn Du đã sáng tạo câu thơ ấy, dùng cỏ non
thay vì cỏ thơm để tô đậm màu sắc- màu xanh nhạt pha lẫn vàng chanh, hợp với màu lam
trong sáng của chân trời ngày xuân, trên đó điểm xuyết sắc trắng thanh khiết, tinh khơi của
hoa lê, làm thành bức tranh dung hồ những sắc độ lạnh mà vẫn rạo rực sức sống bên trong.
Chữ trắng đảo lên trước gây ấn tượng mạnh, chữ điểm gợi bàn tay hoạ sĩ- thi sĩ vẽ nên thơ
nên hoạ, như bàn tay tạo hoá tạo cảnh xuân tươi, khiến cảnh có hồn và sống động. ( Lê Trí
Viễn)
Ví dụ 2: Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn “ Vớt ngay lên bờ” rồi:
“ Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”
Cả gia đình ơng Ngư, mỗi người mỗi việc, ai cũng gấp gáp khẩn trương, phối hợp nhịp nhàng
hết lòng hết sức cứu Vân Tiên.Chưa biết nạn nhân là ai, nguyên cớ như thế nào, cứ thấy việc nghĩa
Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

21


là làm, thấy người là cứu bằng cả tấm lòng chân tình, chu đáo của mình. Đó là bản tính của những
con người lương thiện, những người lao động bình thường đáng ngưọi ca trân trọng. Thậm chí khi
biết sự tình hồn cảnh của Vân Tiên, ơng Ngư cịn mời Vân Tiên ở lại để “ hôm mai hẩm hút với già
cho vui” nhằm cưu mang, giúp đỡ Vân Tiên. Tấm lịng nhân nghĩa của ơng Ngư khiến ta nhớ đến

ông Quán, ông Tiều cũng cứu giúp Vân Tiên bằng tình thương người như thế. Ơng Qn khi thấy
Vân Tiên phải bỏ thi trở về, lại khóc mẹ mà mù đơi mắt, xuất phát từ tình cảm “thương đấng anh
hùng” mà chaỵ theo đưa cho Vân Tiên ba hườn thuốc phịng khi đường đi q khó “ thuốc thần
cũng no”; ông Tiều thì tuy tuổi già sức yếu vẫn “ lão ra sức lão cõng Tiên về nhà” khi gặp Vân Tiên
trong núi Thương Tịng. Ơng Qn, ơng Tiều hay ông Ngư đều là những người nhân nghĩa. Tấm
lòng nhân nghĩa nhân dân của họ cũng chính là tấm lịng nhân nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu gửi
gắm thể hiện trong tỏc phm ca mỡnh.).

C. Kết luận và khuyến nghị
Ai ú đã từng nói: “Dạy nhiều, kiểm tra ít- học ít phải làm nhiều”. Theo tơi đó là
một cách tốt để đánh giá lực học của học sinh. Nó buộc học sinh phải cải tiến cách
học và biết phương pháp thể hiện kiến thức. Những loại bài nghị luận trên đây đòi hỏi
học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp của mình từ bài học hiện tại, từ những năm
trước và thể hiện kĩ năng viết được rèn luyện qua nhiều năm mới mong có thành cơng
tốt. Kinh nghiệm mà tơi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều
năm giảng dạy, nhiều kháo học sinh đã học tập, thi cử đạt kết quả khá cao trong các kì
thi, từ kiểm định chất lượng, đến thi chuyển cấp, nhất là thi học sinh giỏi các cấp
huyện và tỉnh. Hi vọng nó cũng có thể gỡ bí cho một số học sinh hiện nay và gợi ý
thêm một cách học Văn lâu dài.
Để việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận văn chương như đã trình bày ở trên
một cách hiểu quả, người giáo viên cần biết chọn thời gian, phân chia nội dung kiến
thức hướng dẫn rèn luyện cho cụ thể, phù hợp với các đối tượng học sinh. Ở đây vừa
có kiến thức ơn luyện, vừa có kiến thức mở rộng, nâng cao, bài tập nghị luận lại rải
đều ở nhiều văn bản học tập từ đầu năm đến cuối năm lớp 9, nên càng khơng thể vận
dụng máy móc.
- Khi dạy học, cần hướng dẫn kĩ cho học sinh cả kĩ năng diễn đạt luận điểm, kĩ
năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần, các đoạn.
- Cần thiết rèn luyện kĩ năng bình giảng, kĩ năng so sánh văn học, kĩ năng giải
quyết các đề bài lí luận văn học, kĩ năng nghị luận về một chi tiết nghệ thuật đối
tượng học sinh dự thi học sinh giỏi các cấp, cịn các kĩ năng khác thì rèn luyện cho

mọi đối tượng.
- Kiến thức các kĩ năng có thể cung cấp, củng cố vào các buổi học thêm, song
song với chương trình học tập buổi sáng.

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

22


- Đặc biệt, vào giai đoạn ôn luyện cho học sinh thi chuyển cấp đạt kết quả, giáo
viên nên có thao tác hệ thống lại tất cả các kĩ năng, và ra hệ thống bài tập rèn luyện
theo từng dạng bài nghị luận cụ thể sao cho học sinh rèn luyện thành thạo kĩ năng và
nắm vững kiến thức về tác phẩm văn chương để có thể tự tin khi tạo lập một văn bản
nghị luận văn học bất kì.
Báo cáo này chỉ là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua nhiều năm
giảng dạy, nên chắc chắn khơng có nhiều mới lạ, cũng khơng tránh khỏi những thiếu
sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của
chúng ta có hiệu quả tốt hơn.
Đánh giá của HĐKH trường

Người thực hiện
Ngô Mậu Tình

Đánh giá của HĐKH phịng GD&ĐT

Ngơ Mậu Tình : Rèn luyện kỹ năng nghị luận văn học cho học sinh giỏi môn Ngữ văn THCS

23




×