Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) cách sử dụng CNTT như thế nào cho có hiệu quả khi dạy học môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.69 KB, 14 trang )

1. Phần mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là một vấn đề không
mới. Công nghệ thông tin(CNTT) từ lâu đã trở thành một phương tiện dạy
học hiện đại vô cùng hữu ích đối với giáo viên. Những năm trước đây tôi
cũng đã từng viết sáng kiến kinh nhiệm với đề tài này. Nhưng vì lúc đó cịn
rất nhiều giáo viên chưa biết cách sử dụng công nghệ nên tôi đã thiên về
nghiên cứu cách sử dụng CNTT. Còn với đề tài này, tôi xin bàn về vấn đề:
Cách sử dụng CNTT như thế nào cho có hiệu quả khi dạy học môn Ngữ
văn.
Như mọi người đã biết, môn ngữ văn là một mơn học có vai trị quan
trọng trong nhà trường phổ thơng. Nó khơng chỉ quyết định đến việc đánh
giá, xếp loại học sinh, là một mơn chính trong các môn thi tốt nghiệp
THPT, là môn thuộc nhiều khối thi của các trường đại học, cao đẳng,
trung cấp mà quan trọng hơn, mơn văn có ảnh hưởng lớn tới việc hình
thành nhân cách của học sinh. Nhưng hiện nay, việc dạy học mơn ngữ văn
gặp nhiều khó khăn. Đa số học sinh hiện nay rất ít quan tâm đến mơn học.
Chính vì thế, trong những năm qua giáo viên dạy mơn Ngữ văn đã
cố gắng tìm tịi sáng tạo ra nhiều phương pháp dạy học phù hợp để đáp ứng
với nhu cầu của người học. Để dạy học có hiệu quả thì cần có đồ dùng dạy
học hỗ trợ thích hợp. Khác với môn học khác, đồ dùng dạy học của mơn
Ngữ văn khá ít. Phương tiện mà giáo viên dạy văn vẫn thường xuyên sử
dụng đó là bảng nhóm, bảng phụ. Nhiều năm lại đây, giáo viên đã tích cực
ứng dụng CNTT vào cho những tiết dạy văn sinh động. Nhưng trong q
trình sử dụng cịn có nhiều ý kiến khác nhau, gây tranh cãi và đơi khi có
những ý kiến trái chiều. ..Việc sử dụng CNTT cuả giáo viên dạy văn cũng
không thường xuyên, mỗi năm chỉ sử dụng vài tiết khi thao giảng, chuyên
đề.


Qua thực tế dạy học, qua quan sát bạn bè đồng nghiệp sử dụng, tôi


muốn đề cập lại vấn đề với cách nhìn thực tế nhất. Qua quá tình sử dụng
CNTT, tôi nhận thấy hiệu quả rõ rệt nên mạnh dạn trình bày rõ hơn trong
sáng kiến của mình lần này. Theo tôi, tất cả nhũng hạn chế của việc sử
dụng CNTT như đã đề cập ở trên đều có ngun nhân và sẽ có giải pháp
thích hợp để những giáo viên dạy văn chúng ta có thể tự tin sử dụng.
1.2. Điểm mới của đề tài.
Như đã nói ở trên, ở đề tài này, tôi không bàn luận về làm thế nào để sử
dụng CNTT( Vì giờ đây giáo viên nào cũng có thể sử dụng). Mà với đề tài
này là tôi đã đi sâu vào nghiên cứu về cách sử dụng CNTT trong mỗi tiết
dạy môn Ngữ văn như thế nào cho hợp lí, cho có hiệu quả, sử dụng như thế
nào để vừa hỗ trợ cho giáo viên trong mỗi tiết dạy, vừa tạo hứng thú cho
học sinh, thu hút học sinh tham gia học tập môn Ngữ văn, tránh nhàm chán
khô khan, chữ nghĩa. Tuy vậy, giáo viên nên sử dụng CNTT đúng bài, đúng
nội dung cần thiết, chứ không nên lạm dụng làm vỡ mạch cảm xúc văn
chương, hay vơ tình biến những tiết học Văn thành những buổi trình diễn
các hiệu ứng hời hợt, hoặc thành những buổi xem hình ảnh, xem phim vơ
bổ.
2. Phần nội dung.
2.1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu.
Khái niệm về phương tiện dạy học: Phương tiện dạy học là các
phương tiện được sử dụng trong quá trình dạy học, bao gồm các đồ dùng
dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dùng trong dạy học, các thiết bị hỗ trợ
và các điều kiện cơ sở vật chất khác.
Phương tiện dạy học gồm nhiều loại: Bảng nhóm, bảng phụ, tranh
ảnh, sơ đồ, bảng biểu và CNTT ….
Vai trò của việc sử dụng phương tiện hỗ trợ dạy học trong dạy học
ngữ văn: Sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học trong các mơn học nói
chung và mơn Ngữ văn nói riêng mang lại rất nhiều hiệu quả to lớn. Không
những làm cho bài học sinh động, thu hút sự chú ý của học sinh, mà còn



củng cố, khắc sâu được kiến thức trọng tâm, góp phần nâng cao chất lượng
dạy học ngữ văn trong nhà trường phổ thông.
Nhưng thực tế, việc sử dụng đồ dùng dạy học, đặc biệt là ứng dụng
thiết bị dạy học hiện đại cịn chưa thường xun, hoặc có sử dụng nhưng
nhiều tiết dạy chưa có hiệu quả. Nên đối học sinh những tiết học văn còn
nặng nề với những con chữ. Đáng buồn là xu hướng là học sinh không cịn
mặn mà với việc học bộ mơn. Trong năm học 2017-2018, tơi có làm một
cuộc khảo sát trên khối HS lớp 7 với nhiều câu hỏi khác nhau. Trong đó có
câu: Những tiết học văn khơng có đồ dùng dạy học hỗ trợ như CNTT, chỉ
có lời cơ phân tích bình luận em thấy hứng thú khơng? Và kết quả như
sau:
Câu hỏi
Những tiết học văn khơng
có đồ dùng dạy học hỗ trợ
như CNTT, chỉ có lời cơ
phân tích bình luận em thấy

HS Khối 7

Hứng thú

Khơng hứng thú.

120

0

120


100%

0%

100%

hứng thú khơng?
Vì vậy, trong một vài năm trở lại đây, nhiều đồng chí giáo viên đã thực
sự tâm huyết, nỗ nực tìm tịi, đổi mới phương pháp dạy học để có thể nâng
cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn, thu hút các em học sinh đến với môn
học. Cũng như các môn học khác, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học Ngữ văn đã và đang được nhiều đồng chí giáo viên quan tâm vì nó đã
đem lại những hiệu quả đáng kể. Rất nhiều tiết học đã đạt được hiệu quả to
lớn vì phát huy được ưu thế của cơng nghệ thơng tin như sử dụng được
hình ảnh, âm thanh…mà khơng thể hoặc ít hiệu quả hơn diễn đạt bằng
phương pháp thông thường. Hoặc sử dụng được hệ thống bảng biểu, sơ đồ,
nhấn mạnh trọng tâm kiến thức bằng kênh chữ, kiểu chữ, các hiệu ứng vui
nhộn, tranh hình, âm thanh…
Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm nêu trên, dạy học bằng cơng nghệ
thơng tin cịn tồn tại rất nhiều hạn chế. Môn ngữ văn là môn nghệ thuật


ngơn từ. Chức năng của nó là phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Thơng
qua lớp ngơn từ, yếu tố đầu tiên của văn học, bằng sự liên tưởng, tưởng
tượng, người học khám phá các tầng ý nghĩa sâu xa cuả nó. Vì vậy, có
những đơn vị kiến thức cần phải để học sinh phát huy vai trị của trí tưởng
tượng. Ví dụ để học sinh tưởng tượng hình ảnh mùa thu qua việc cảm nhận
ngôn từ của nhà thơ Nguyễn Hữu Thỉnh hơn là chiếu hình ảnh mùa thu lên
màn hình. Để học sinh tưởng tượng hình ảnh Chị Dậu trong hình hài của
người phụ nữ khỏe khoắn, mạnh mẽ…hơn là chiếu phim để lúc nào trong

đầu các em chị Dậu chính là nhân vật đóng trong phim… Hơn nữa, hiểu,
tạo hứng thú không phải là mục tiêu cuối cùng của môn văn là từ việc hiểu
để rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng tâm hồn, ước mơ, giáo dục nhân cách
cho học sinh.
Vì vậy, nếu áp dụng dạy học công nghệ thông tin tràn lan không
những không đạt được hiệu quả mà còn gây phản tác dụng. Nhiều học sinh
đã thực sự cảm thấy mệt mỏi vì học văn công nghệ thông tin nhiều quá, cô
giáo chiếu nhanh quá, không kịp ghi bài, vừa phải nghe cô giảng, vừa nhìn
cơ vừa nhìn màn hình. Nhiều tiết học chỉ tạo ra hứng thú tạm thời chứ
khơng có hiệu quả dài lâu. Có những tiết học, học sinh chỉ chú ý xem phim,
nghe đọc thơ, nghe hát chứ nội dung quan trọng thì chưa chú ý.
Vấn đề dạy học cơng nghệ thơng tin và ưu nhược điểm của nó đã
được nhiều đồng chí giáo viên tâm huyết thể hiện trong sáng kiến của
mình. Mỗi người sẽ có quan điểm riêng trong dạy học ứng dụng CNTT,
nhưng riêng tôi, tôi cho rằng, chỉ nên áp dụng CNTT khi không thể hiện
được nội dung bài học bằng phương pháp thông thường, đặc biệt là các tiết
đọc văn, nhất là thơ thì hạn chế. Thực tế có những giáo án chỉ có “ chữ” và
một bức tranh mơ phỏng hình ảnh hai chị em Thuý Kiều. Vậy thì dạy
truyền thống sẽ hiệu quả hơn, nhất là các giáo viên có giọng giảng truyền
cảm. Và theo quan điểm của tơi, thì trong dạy học nói chung, đặc biệt là


dạy mơn Ngữ văn nói riêng thì phương tiện truyền thống là bảng đen và
phấn trắng vẫn không thể thay thế được, không nên thay thế.
Nhưng từ thực tế dạy học của bản thân, tôi nhận thấy, CNTT là một
trong những phương tiện dạy học rất hiệu quả trong việc củng cố, khắc sâu
kiến thức, giải quyết vấn đề bài tập, mơ phỏng tình huống, bản đồ tư duy,
khái qt giai đoạn, chủ đề trong văn học…rất có hiệu quả. Việc sử dụng
cũng rất dễ dàng khi hầu hết trường nào cũng đầu tư phòng học, trang thiết
bị hiện đại để phục vụ công tác dạy học.

Trên thực tế, nhiều đồng chí giáo viên đã sử dụng CNTT để chiếu
bảng biểu, sơ đồ, tranh ảnh …trong dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên, việc sử
dụng còn tuỳ hứng và áp dụng chưa thường xuyên nên chưa đạt được hiệu
quả tối ưu. Trong phạm vi của sáng kiến, tôi xin mạnh dạn trình bày việc sử
dụng CNTT ở những đơn vị kiến thức nào khi dạy học môn Ngữ văn là
hiệu quả nhất.
2.2. Các giải pháp.
Mơn văn nhìn chung là kiến thức dài, cơ giáo phải nói nhiều, có
nhiều phần kiến thức trong một bài học mà học sinh ít em có khả năng nhớ
lâu dài. Vì vậy, tơi đã định hướng một số nội dung có thể sử dụng CNTT
giúp giáo viên truyền đạt kiến thức đầy đủ , có hiệu quả và giúp học sinh
nắm vững kiến thức, tạo hứng thú học tập bộ môn cho học sinh.
2.2.1. Sử dụng CNTT khi cần thể hiện bảng biểu, sơ đồ.
Thứ nhất, có thể dùng bảng biểu, sơ đồ để tóm tắt cốt truyện của một
số tác phẩm văn xuôi, trên cơ sở đó định hướng nội dung tư tưởng của tác
phẩm. Hoặc tóm tắt về cuộc đời của nhân vật chính.
Ví dụ, tóm tắt cốt truyện của tác phẩm: “Sống chết mặc bay” ( Phạm
Duy Tốn) chúng ta có thể chiếu các sự việc chính…..Trong khi chiếu bảng
biểu, sơ đồ có thể chèn thêm hình ảnh vỡ đê, dân chạy lũ…để tăng phần
sinh động, thu hút học sinh.


Ví dụ bảng biểu trong dạy bài Tiếng Việt: Danh từ( Văn 6). Sau khi
học xong 2 tiết danh từ, chúng ta có thể khái quát lại sơ đồ cấu trúc Danh
từ như sau:
DANH TỪ
DTCHỈ SỰ VẬT

DT ĐƠN VỊ


Đơn vị tự
nhiên

Cính xác

Đơn vị
quy ước

DT
chung

DT
riêng

Ước chừng

Thứ hai, có thể chiếu bảng biểu, sơ đồ để hệ thống kiến thức của một
phần, một chương, một giai đoạn văn học. Như hệ thống kiến thức phần
Tiếng Việt, phần làm văn, các giai đoạn văn học. Nó giúp các bài tổng kết,
ơn tập đạt hiệu quả, giúp học sinh khắc sâu kiến thức một cách khoa học,
lôgic.
Và rất nhiều bài học khác nữa. Sử dụng CNTT để sơ đồ hóa kiến
thức trọng tâm bài học, bớt rất nhiều thời gian và thao tác cho giáo viên.
Đặc biệt, học sinh nắm lại kiến thức một cách rất khoa học.
2.2.2. Sử dụng CNTT để giải quyết các bài tập Tiếng Việt.
Trong dạy học phần Tiếng Việt, trong một tiết học, giáo viên cần lấy
ví dụ để hình thành khái niệm và sau đó giải quyết nhiều bài tập để củng cố
khắc sâu kiến thức vừa học. Vì thế theo tơi, sử dụng CNTT trong dạy học
tiết Tiếng Việt là phù hợp nhất.
Có thể thiết kế nhiều bài tập Tiếng Việt có hình thức phong phú, sinh

động, gây hứng thú học tập cho học sinh, tránh gây nhàm chán. Ví dụ như


bài tập điền từ vào chổ trống, bài tập nhìn hình đốn từ, bài tập nối từ thích
hợp với nghĩa của chúng, bài tập trắc nghiệm…
Hiệu quả rõ rệt nhất khi sử dụng CNTT để dạy phân môn Tiếng Việt
là tiết kiệm thời gian, tránh các thao tác rườm rà như treo bảng phụ, Nam
châm, băng gián… Đặc biệt là tạo được các hiệu ứng vui nhộn, thay đổi
khơng khí học tập và lôi kéo tất cả học sinh tham gia.
2.2.3. Sử dụng CNTT thiết lập các tiết Tập làm văn.
Nhược điểm của các em trong bài viết Tập làm văn là hay bị thiếu ý,
khả năng phân tích vấn đề khơng sâu, khơng khoa học. Vì vậy, tơi đã
hướng dẫn các em thảo luận nhóm, lập dàn ý theo kiểu sơ đồ để thể hiện
các nội dung. Sau đó, giáo viên dùng công nghệ chiếu dàn ý bài làm theo
cách khoa học nhất, để học sinh theo giõi, so sánh và rút ra được bài học
kinh nghiệm cho bản thân.
Ví dụ ở Văn 6, khi ra đề : Hãy kể về ông em. Học sinh thường kể
lộn xộn, các ý khơng đủ và sắp xếp khơng khoa học. Vì thế chúng ta có thể
sơ đồ hóa dàn ý phần thân bài cho học sinh như sau:

Kể về ông em

Ý thích
của ơng em

Ơng u
các cháu

Ơng thích trồng cây
xương rồng

Ơng thích giải thích về
lồi cây đó
Chăm sóc việc học
của các cháu
Ơng chăm sóc góc học
tập của các cháu gọn
gàng gang..
Ơng hay kể chuyện
cho các em nghe

Đặc biệt, văn nghị luận đòi hỏi ý tứ rõ ràng, có các luận điểm đầy đủ,
dẫn chứng sắc sảo… Vì vậy, giáo viên nên thiết kế một số dàn ý nêu rõ cần
có những luận điểm nào để giải quyết vấn đề. Và luôn nhắc nhở học sinh,


khi làm một bài văn bất kì, dù viết có hay có dài bao nhiêu đi nữa nếu khơng
đủ ý thì vẫn thấp điểm. Sơ đồ dàn ý bài văn khiến học sinh khắc sâu kiến
thức và nhớ bài một cách khoa học. Điều này sử dụng máy chiếu là vơ cùng
hợp lí.
2.2.4. Sử dụng CNTT để củng cố bài học.
Sau mỗi bài học, giáo viên dành một khoảng thời gian nhất định để
củng cố bài học. Mục tiêu là nhằm khắc sâu, chốt lại những kiến thức chủ
yếu đã học trong tiết và sau đó dặn dị chuẩn bị cho tiết sau. Thường khâu
củng cố này, giáo viên hay làm qua loa. Riêng tơi thì thấy rằng, cơng đoạn
này rất quan trọng trong một tiết học văn. Trong cả tiết giáo viên có thể cung
cấp rất nhiều kiến thức cho học sinh: nào phân tích, bình giảng, liên hệ…
Cho nên, cuối bài học cần củng cố lại để học sinh xác định được đâu là kiến
thức cơ bản cần nắm được trong bài.
Sử dụng CNTT để củng cố bài học rất có hiệu quả. Đó là giáo viên
nên sơ đồ hóa các nội dung chính của bài, hoặc ra câu hỏi trắc nghiệm cho

từng phần. Chỉ khoảng 3 phút thơi chúng ta có thể giúp học sinh hệ thống
hóa kiến thức bài học rất nhanh chóng và đầy đủ.
Ví dụ: Củng cố bài học: Tiết 25- Truyện Kiều của Nguyễn Du ( Ngữ
văn 9- tập 1)
+ Hệ thống lại kiến thức( Chiếu máy)
Nguồn gốc
tác phẩm
Truyện kiều
Tóm tắt
tác phẩm

Gặp gỡ và
đính ước
Gia biến và
lưu lạc
Đồn tụ

Giá trị
nội dung
và nghệ
thuật

Giá trị nội
dung
Giá trị nghệ
thuật


+ Củng cố bằng các câu hỏi trắc nghiệm.( Kiểu chọn đáp án đúng)
Câu 1. Truyện Kiều có tất cả mấy câu thơ?

A. 3250 câu
B. 3251 câu
C. 3254 câu
Câu 2. Truyện Kiều làm bằng thể thơ gì và bằng chữ gì?
A. Lục bát, chữ Hán
B. Lục bát, chữ nơm
…. Và rất nhiều câu hỏi khác nữa. Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn
chúng ta có thể giúp HS nắm lại toàn bộ kiến thức cơ bản.
2.3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sáng kiến là những băn khoăn, tâm huyết trong suốt q trình dạy
học của bản thân. Tơi đã có điều kiện để áp dụng sáng kiến của mình trong
quá trình dạy học và thấy rõ được ưu điểm của nó. Đây có thể nói là phương
tiện dạy học hiện đại có hiệu quả đối với giờ dạy. Nó đã giúp tơi giải quyết
được vấn đề đồ dùng dạy học của bộ mơn Ngữ văn đang ít ỏi từ trước đến
nay. Đặc biệt, tôi thấy rõ sự phù hợp phương tiện này khi mà cơ sở vật chất
của nhà trường đã được đầu tư ngày càng nhiều, có thể áp dụng nhiều tiết
dạy học bằng công nghệ thông tin trong 1 tuần.
Tôi đã dùng CNTT để lập bảng biểu, sơ đồ trong phần tóm tắt cốt
truyện, hoặc thể hiện một nội dung nào đó như tình huống truyện, giá trị tư
tưởng của tác phẩm.; Dùng để giải quyết bài tập những tiết dạy phần Tiếng
Việt; Dùng để củng cố kiến thức trong mỗi tiết dạy….
Nhiều tiết học có đồng nghiệp dự giờ và được nghe những ý kiến
đóng góp khách quan hơn và dần hồn thiện cho kiến thức, kĩ năng của
mình. Vì vậy, tơi nhận thấy hiệu quả rõ rệt qua thái độ tiếp thu bài học của
học sinh và mức độ nắm kiến thức của các em. Và tôi cho rằng, sử dụng
CNTT vào dạy học văn, nếu áp dụng đúng lúc sẽ phát huy rất hiệu quả .


Tơi cịn mạnh dạn áp dụng các phương tiện dạy học này trong các
chuyên đề ngoại khóa nhân ngày 20-11, 22-12

Khi kiểm tra kiến thức của các em qua bài viết thì thấy cách trình bày
ý đã tiến bộ rõ rệt. Nhiều bài viết thể hiện ý khá mạch lạc, rõ ràng khơng cịn
gượng ép nữa. Ngay cả những học sinh trung bình cũng nhớ và thể hiện
được hệ thống ý trong bài viết. Từ hiệu quả đạt được đó, tơi có lịng tin vào
sáng kiến của mình và suy nghĩ để có thể áp dụng nhiều hơn vào quá trình
dạy học của bản thân và của nhiều đồng nghiệp.
Sau khi áp dụng sáng kiến trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy sáng
kiến đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Thu hút và tạo hứng thú cho học sinh đối với
môn học, để giờ học văn với các em khơng cịn q nặng nề trong việc lĩnh
hội kiến thức. Sáng kiến cũng đã đem lại hiệu quả trong việc nâng cao chất
lượng dạy học.
3. Phần kết luận.
3.1. Ý nghĩa của đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
Để góp phần đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học
môn Ngữ văn, việc sử dụng những phương tiện dạy học là vơ cùng cần
thiết. Trên thực tế, có nhhiều phương tiện dạy học có thể áp dụng trong q
trình dạy học ngữ văn. Tuy nhiên, trong sáng kiến, tôi chỉ ra áp dụng CNTT
vì nó có thể thay thế được một số đồ dùng thơng thường khác. Bản thân tơi
đã có điều kiện áp dụng rất nhiều trong quá trình dạy học và nhận thấy
được hiệu quả của nó trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Hy vọng,
sáng kiến sẽ là gợi ý để các thầy cô trong tổ chuyên môn của nhà trường áp
dụng thường xuyên hơn trong quá trình dạy học.
Trong quá trình sử dụng các phương tiện hỗ trợ dạy học này, tôi thấy
khả năng ứng dụng sáng kiến vào thực tế là rất lớn. Là phương tiện dạy học
hiện đại nhưng rất dễ dàng thực hiện và mang lại hiệu quả cao trong việc
khắc sâu trọng tâm kiến thức cho học sinh, tạo hứng thú cho các em trong
giờ học văn, để giờ học văn vừa tạo điều kiện cho các em tư duy, thể hiện


khả năng sáng tạo của mình nhưng cũng khơng căng thẳng, mệt mỏi. Đặc

biệt giúp giáo viên bớt đi nhiều thao tác phụ và tiết kiệm rất nhiều thời gian
để giành thời gian rèn luyện kĩ năng văn chương cho học sinh.
3.1.1. Khảo sát, đánh giá sau khi áp dụng đề tài.
Sau nhiều năm sử dụng, để khẳng định tính thực tiễn của đề tài, tôi đã
cùng đồng nghiệp tiến hành áp dụng và nhận thấy nhiều kết quả đáng
mừng.
Khi kiểm tra kiến thức của các em qua bài viết thì thấy cách trình bày
ý đã tiến bộ rõ rệt. Nhiều bài viết thể hiện ý khá mạch lạc, rõ ràng khơng cịn
gượng ép nữa. Ngay cả những học sinh trung bình cũng nhớ và thể hiện
được hệ thống ý trong bài viết. Từ hiệu quả đạt được đó, tơi có lịng tin vào
sáng kiến của mình và suy nghĩ để có thể áp dụng nhiều hơn vào q trình
dạy học của bản thân và của nhiều đồng nghiệp.
Sau khi áp dụng sáng kiến trong q trình dạy học, tơi còn nhận thấy
mức độ tham gia vào các hoạt động trong bài học của học sinh gần như
100%. Một số bài tập, một số tranh ảnh, clip…đã thu hút và tạo hứng thú
cho học sinh khi học môn học, để giờ học văn với các em khơng cịn q
nặng nề trong việc lĩnh hội kiến thức. Sáng kiến cũng đã đem lại hiệu quả
trong việc nâng cao chất lượng dạy học
Năm học: 2017-2018, tôi đã tiến hành khảo sát trên một số lớp và
nhận được kết quả khả quan như sau.
Kết quả khảo sát 120 học sinh sau khi áp áp dụng đề tài:
TT

Câu hỏi

Khối 7
120 hs

1


Em có thấy hứng thú với
những tiết văn có sử dụng
CNTT khơng?

3.1.2. Bài học kinh nghiệm.

120 hs
(100%)

Khơng

Mức độ
Bình

Rất

thích

thường

thích

0( 0%)

10(10%)

90(90%)


Trong q trình sử dụng, tơi cũng gặp những thuận lợi và một số khó

khăn nhât định. Từ thực tế trong giảng dạy, tôi đã rút ra được một số bài
học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất là không nên ôm đồm kiến thức khi thiết kế giáo án điện
tử. Nhiều khi giáo viên chuẩn bị quá nhiều, mục đích để trình chiếu thể
hiện kiến thức phong phú. Điều này khiến loãng kiến thức trọng tâm, HS
nắm bài hời hợt.
Thứ 2 là không nên tạo những hiệu ứng nhấp nháy xung quanh sẽ
gây phân tán chú ý học tập của HS. Thực tế có nhiều giáo viên thiết kế
phơng chữ, màn hình, kiểu chữ…màu mè, rườm rà khiến cho học sinh cảm
thấy mỏi mắt khi nhìn lâu.
Thứ 3 là chỉ nên dùng CNTT khi cần thiết: lấy ví dụ, chiếu sơ đồ,
chèn hình ảnh, âm thanh, củng cố bài, giải bài tập Tiếng Việt…Nói chung
là dùng nó như một đồ dùng dạy học.
Thứ 4 là không nên chiếu hết nội dung bài học lên rồi lại vừa ghi bên
bảng đen. Điều này vừa mất thời gian, vừa gây ra sự mệt mỏi cho HS.
3.2. Ý kiến đề xuất.
Để áp dụng thường xuyên và có hiệu quả hơn nữa sáng kiến trong
quá trình dạy học Ngữ văn, tơi xin đề nghị ban giám hiệu nhà trường không
ngừng đầu tư về cơ sở vật chất để giáo viên có thể thường xuyên sử dụng.
Tơi cũng kính mong các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn,
các đồng nghiệp, các giáo viên tâm huyết có cùng ý tưởng sẽ đóng góp ý
kiến để sáng kiến của tơi hồn thiện hơn.





×