Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.38 KB, 17 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng
yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ
thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ, đặc biệt là cách tiếp cận kỹ năng
sống, đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để
cùng chung sống. Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh trong nhà trường, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình
giáo dục. Mục đích của q trình giáo dục kỹ năng sống là nhằm trang bị cho
học sinh nhưng kỹ năng cơ bản, cần thiết để các em có thể thích ứng với cuộc
sống xã hội thời hiện đại, ln có những thay đổi trong điều kiện của một xã
hội đang trên đà phát triển và hội nhập. Đặc biệt rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh được xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong trào
thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Với mục tiêu các em khơng chỉ giỏi về kiến thức mà cịn phải được tơi
luyện những kỹ năng sống, qua đó tạo cho các em một mơi trường sống lành
mạnh, an tồn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kỹ năng,
giá trị sống sau này bước vào đời tự tin hơn.
Giáo dục kỹ năng sống phải được bắt đầu từ khi trẻ cịn rất nhỏ, nhất
là lứa tuổi tiểu học. Bởi vì học sinh tiểu học là lứa tuổi các em bắt đầu tập
“đi” trên đơi chân của mình. Bước vào lớp một là các em gia nhập cuộc sống
nhà trường, đi học tiểu học. Các em được học thêm những điều chưa hề có
trong sáu năm đầu đời. Khi gia nhập cuộc sống nhà trường, các em phải tiến
hành hoạt động học - hoạt động nghiêm chỉnh có kỷ cương, nề nếp với những
yêu cầu khá nghiêm ngặt. Chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang hoạt
động chủ đạo là học tập chắc chắn trẻ sẽ không tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Vì thế
phải chuẩn bị cho các em tâm lý sẵn sàng đi học. Việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ những buổi đầu tiên các em
đến trường. Nếu như không được chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lý cho trẻ


trước khi đi học thì những buổi đầu tiên đến trường của trẻ sẽ xảy ra những
tình huống như: địi theo bố mẹ về nhà, khơng dám nói chuyện với bạn bè,
thấy thầy cơ, người lạ thì sợ, không dám xin phép cô giáo đi vệ sinh. Nhiều
em sợ quá đi vệ sinh luôn trong lớp. Vậy làm thế nào để các em tự tin, biết
ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra trong lớp học cũng như trong cuộc
sống. Đây là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo và các bậc phụ


huynh vì học sinh tiểu học là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách, giúp
các em có một kỹ năng sống tốt cho tương lai sau này.
Giáo dục kỹ năng sống cho các em học sinh tiểu học là giáo dục cho
các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng hoặc thay đổi
ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với mục tiêu phát triển
toàn diện nhân cách trên cơ sở học sinh có tri thức, giá trị, thái độ và kỹ năng
phù hợp. Với những lý do đó, tôi chọn sáng kiến “Giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh tiểu học” để đi sâu, nghiên cứu, tìm hiểu, từ đó tìm ra cho mình
phương pháp thơng qua các mơn học, các hoạt động giáo dục, sự trải
nghiệm... có hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
nhằm giúp cho các em - những cơ bé, cậu bé vừa rời vịng tay bố mẹ khỏi bỡ
ngỡ, biết tự phục vụ bản thân, biết tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, biết hợp
tác trong nhóm, có những quyết định phù hợp và biết xử lý các tình huống bất
lợi các em gặp phải trong cuộc sống, đồng thời xây dựng được mối quan hệ
tốt đẹp với gia đình và bạn bè, biết sống an tồn, lành mạnh.
Vậy kỹ năng sống là gì? Có rất nhiều định nghĩa khác nhau. Theo tổ
chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên Hợp Quốc: Kỹ năng sống là năng
lực cá nhân để họ thực hiện đầy đủ các chức năng tham gia vào cuộc sống
hàng ngày.
Theo UNICEFF: Kỹ năng sống là tập hợp rất nhiều kỹ năng tâm lý xã
hội và giao tiếp cá nhân, giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ
sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý

bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả.
Riêng đối với bản thân, qua nghiên cứu tôi nhận thấy: kỹ năng sống
đơn giản là tất cả những điều cần thiếu chúng ta phải biết để thích ứng với
những thay đổi diễn ra hàng ngày trong cuộc sống. Kỹ năng sống được hình
thành thơng qua một q trình sống, rèn luyện, học tập trong gia đình, nhà
trường và ngồi xã hội, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm,
những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Vì vậy, kỹ năng
sống của mỗi người vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng
của gia đình, cộng đồng, dân tộc.
1.2. Điểm mới của đề tài:
Vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh tiểu
học nói riêng được tồn xã hội quan tâm trăn trở, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Hơn bao giờ hết, con người cần phải có sự cảm thơng, chia sẻ, biết giúp
đỡ người khác, biết đối xử thân thiện với bạn bè, biết phân biệt cái đúng, cái
sai và làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng. Kiên quyết đấu tranh với những


biểu hiện sai trái, xấu xa, trở thành một con người năng động mà xã hội đang
cần.
Trong dạy kỹ năng sống, khơng có khái niệm “vâng lời”, chỉ có khái
niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng
sống là rèn luyện các tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thơng qua các
hoạt động và bài tập trải nghiệm, chứ khơng đặt mục đích “rèn nếp” hay
“nghe lời”. Cơng dân tồn cầu là người biết suy nghĩ bằng cái đầu của mình,
biết phân tích đúng sai, quyết định có làm điều này hay điều khác và chịu
trách nhiệm về điều đó, chứ khơng tạo ra lớp công dân “chỉ biết nghe lời”.
Tuy nhiên đối với sáng kiến này, tơi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thơng
qua q trình dạy học, nó chỉ áp dụng cho bậc tiểu học nói chung - bậc học
mà tơi đang trực tiếp giảng dạy.
Qua q trình nghiên cứu, tơi nhận thấy sáng kiến mà tơi nghiên cứu

có một số điểm mới như sau:
+ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học không chỉ giới hạn
trong các môn học mà là một quá trình xuyên suốt mọi lúc mọi nơi.
+ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chú trọng đến quá trình trải
nghiệm trong cuộc sống. Bởi vì thơng qua sự trải nghiệm mới xuất hiện các
tình huống để các em xử lý, giải quyết.
+ Giáo dục kỹ năng sống không chỉ ở trong trường học, lớp học mà ở
cả gia đình, xã hội bởi vì mơi trường sống của các em ở gia đình ảnh hưởng
rất lớn đến các hành vi trong cuộc sống của các em. Vì vậy phải phối kết hợp
với phụ huynh về cách thức giáo dục kỹ năng sống cho các em. Phụ huynh
phải là tấm gương sáng trong các hành vi, ứng xử để con, em noi theo.
* Phạm vi áp dụng đề tài: Đối với học sinh tiểu học, được áp dụng
trong lĩnh vực giáo dục kỹ năng sống.
1.3 Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn nhiều
hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chuyển biến chậm, các em hay
“nói trước quên sau” và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học áp
dụng vào thực tế. Ví dụ các em đã được học bài đạo đức về nội dung không
bẻ cành, ngắt lá của cây, hoa nhưng khi đi học về hoặc đi chơi trên sân
trường, các em vẫn ngắt lá cây, hoa tùy tiện và vứt đầy sân trường.
Với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy các em rất hiếu động các
em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Mặt khác, các em một mực rất
tin vào lời nói của thầy cơ giáo, thầy cơ bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép
và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng thầy


cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng, nhưng
việc rèn kĩ năng sống ở đây là rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các
môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa giáo và một số
viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.

Kỹ năng sống của học sinh lớp một rất hạn chế, phần đa các em chưa
biết tự phục vụ bản thân, chưa biết tự chuẩn bị cho mình các đồ dùng trước
khi đến lớp. Chưa nhận ra được những việc không nên làm, những việc nên
tránh đối với bản thân; chưa biết xử lý các tình huống khi gặp khó khăn như
làm bài khơng được hay khơng hiểu bài; bố mẹ quên đón; bị đau khi đang
học; bị lạc đường...
Đối với học sinh các lớp trên các lớp trên các kỹ năng: nghe, đọc, nói,
viết là những kỹ năng cần thiết phục vụ cho quá trình học tập nhưng các em
chưa có nhiều lắm. Khi hoạt động nhóm chưa biết hợp tác với các bạn trong
nhóm chỉ cho rằng mình tự làm được bài là đủ. Nhiều em yếu chưa biết tìm
kiếm sự giúp đỡ của bạn bè, của thầy cô giáo hoặc từ bố mẹ để giải quyết các
nội dung bài học. Các em còn tỏ ra lúng túng khi gặp người lạ hoặc thầy cô
giáo hỏi, hoặc ai đó chúc mừng, tặng q thì chưa biết đối đáp một cách lịch
sự.
Kỹ năng ra quyết định/xử lý một số tình huống khơng tốt. Chưa biết tập
trung lắng nghe người khác nói, chưa biết chọn bạn phù hợp để hợp tác cùng
giải quyết các công việc.
Học sinh bây giờ rất ít có ước mơ, hồi bão chính đáng, khơng biết đề ra
cho mình mục tiêu để phấn đấu. Các em chưa biết sắp xếp công việc một cách
khoa học, sử dụng thời gian hợp lý, giờ nào việc đó. Đặc biệt các em hiện nay
ít quan tâm đến người khác, thấy bạn khó khăn thì khơng giúp đỡ, xa lánh
những bạn khiếm khuyết...
Phần lớn các em chỉ thích hưởng thụ, lười lao động, không chịu trách
nhiệm về việc làm của mình. Tơi đã từng chứng kiến một nhóm các em em
làm đổ chiếc xe đạp dựng cạnh bên đường nhưng không em nào dựng lên.
Khi ăn quà xong các em liền vứt bao bì ngay xuống đất.
Các em cũng chưa biết cách bảo vệ bản thân như không nên đi qua các
qng đường vắng, tối một mình, khơng chơi các trò chơi thiếu lành mạnh, ăn
các thức ăn chưa rõ nguồn gốc, hết hạn sử dụng...



Các em thích nói chuyện trong giờ học, chưa thật sự tập trung, rất ngại
tiếp xúc với thầy cơ, ít tham gia các hoạt động học tập. Sự tập trung chú ý của
học sinh ở lớp chưa cao, thiếu bền vững, các em rất ngại tham gia các hoạt
động nhóm, ngại suy nghĩ để tìm ra hướng giải quyết vấn đề. Khó khăn nhất
là trong giao tiếp với bạn bè thiếu kiểm sốt trong ngơn ngữ . Học sinh nữ thì
thích chơi theo nhóm, có sự phân biệt trong mối quan hệ bạn bè, các em còn
nổi cáu khi bạn chọc ghẹo...
Tôi cho rằng những thực trạng trên không phải thuộc về bản chất các em.
Nếu được giáo dục tốt, các em nhận ra được lẽ phải thì chắc chắn các em sẽ
thay đổi.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Qua điều tra tơi thấy nhìn chung các em đều tốt, ngây thơ, hồn nhiên,
vẫn tinh nghịch và đáng yêu lắm. Các em đều mong muốn mình trở thành con
ngoan, trị giỏi, sau này lớn lên giúp ích cho đất nước, gia đình. Song ở lứa
tuổi này bắt đầu hình thành những hành vi cá nhân, tính cách và nhân cách.
Các em có nhiều ước mơ, hồi bão và thích tìm tịi, khám phá, nhưng do chưa
hiểu biết sâu xa về xã hội, đặc biệt là do các em chưa được trang bị những kĩ
năng sống cần thiết nên thường chưa làm chủ được hành vi ứng xử của mình
dẫn tới dễ bị lôi kéo vào các việc tiêu cực trong cuộc sống.
Một nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là phần lớn bây giờ mỗi gia
đình chỉ có một đến hai con. Vì vậy con cái là thứ quý báu, được nuông chiều.
Bố mẹ, ông bà đều làm thay từ khâu chuẩn bị áo quần, sách vở, đưa đón đi
học vì vậy nhiều em có tư tưởng ỷ lại, chỉ thích hưởng thụ, khơng biết tự
chăm lo cho bản thân. Mong muốn của bố mẹ là con cái phải học thật giỏi và
ăn thật nhiều để bố mẹ vui lịng cịn những cơng việc khác thì khơng cần thiết
lắm. Ví dụ như tham gia sinh hoạt Đội, các câu lạc bộ, văn nghệ, thể dục thể
thao... nhiều gia đình khơng muốn con mình đi, sợ mệt. Họ có biết đâu kỹ
năng sống của con cái mình hình thành từ đây, qua tham gia các hoạt động,
qua sự trải nghiệm các em mới va chạm, có va chạm mới nảy sinh ra tình

huống để các em xử lý.
Như chúng ta thấy, ngoài thời gian học ở trường ra, các em chỉ biết
xem ti vi hoặc chơi trò chơi trên máy tính. Đủ các loại phim các em tha hồ
xem. Đến lớp khơng biết hịa đồng với bạn bè, thấy các bạn nghèo khó, hồn
cảnh thì xa lánh, bạn mượn đồ dùng học tập cũng khơng muốn cho. Việc đánh
nhau, nói tục, chửi bậy xảy ra nhiều. Các kỹ năng như tương trợ nhau, giao
tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cơ giáo tích cực hình thành và
củng cố nhưng chưa thể hiện được nhiều. Các em ngày càng thực dụng, ích kỷ


và lười hoạt động hơn. Một số em cứ như ếch ngồi đáy giếng, cứ gặp việc gì
khó là khóc toáng lên để bố mẹ giúp đỡ.
Học sinh bây giờ rất ít em đọc sách. Mà khơng đọc sách thì lấy đâu ra
ngôn ngữ để làm giàu vốn từ cho mình nên khi giao tiếp các em thường bí từ,
lúng túng hay trả lời cộc lốc.
Nhiều phụ huynh còn chiều chuộng con đến mức cho con vừa ăn cơm
vừa chơi điện thoại con mới chịu ăn. Không cho các em tiếp xúc với lao động,
sợ nắng, gió, mệt con mình. Như vậy các em không biết lao động, mà không
biết lao động thì làm sao các em biết quý trọng người lao động. Các em có
trồng cây xanh thì mới biết cách bảo vệ cây xanh, có u mơi trường mới biết
bảo vệ môi trường....
Đọc bài thơ “Hạt gạo làng ta” của Trần Đăng Khoa ta thấy ngày xưa
các em học sinh đã biết lao động “Hạt gạo làng ta. Có cơng các bạn. Sớm
nào chống hạn. Vục mẻ miệng gàu. Trưa nào bắt sâu. Lúa cao rát mặt. Chiều
nào gánh phân. Quang trần quết đất”
Ta tưởng tượng thấy quang cảnh lao động của các bạn nhỏ trong bài
thơ rất là sôi động và ý nghĩa biết bao. Giá như bây giờ học sinh chúng ta có
những buổi lao động đó.
Một ngun nhân nữa là mơn Hoạt động ngồi giờ lên lớp chưa được
coi trọng lắm. Phần lớn các giáo viên vẫn mãi mê dạy các kỹ năng quan trọng

truyền thống như Toán, Tiếng Việt chiếm nhiều thời gian, giáo viên chưa nhận
thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình
đang dạy chỉ ln chú trọng đến việc đọc tốt, làm tính tốt, ít tổ chức cho các
em tham quan, trải nghiệm, hoạt động chung với bạn bè để hình thành các kỹ
năng quan trọng như: giao tiếp, hợp tác, chia sẻ, quan tâm đến bạn bè.
Ngoài ra, kỹ năng sống các em có ảnh hưởng rất lớn từ gia đình. Bố
mẹ chính là tấm gương lớn nhất cho các em soi. Bởi trước khi đến trường các
em có thời gian ở nhà, sống với gia đình nên những nét văn hóa, ứng xử của
các thành viên trong gia đình ảnh hưởng rất nhiều đến các em.
2.2. Các giải pháp:
Rời trường Mầm non, bước vào trường tiểu học là các em sẽ trở thành
những người học sinh thực thụ. Các em phải biết tham gia các hoạt động một
cách nghiêm túc theo quy định của nhà trường. Nhưng trong thực tế các em
thường nóng vội khơng theo quy định, khơng muốn chờ đến lượt. Đặc biệt là
các em lớp 1, không biết thực hiện giờ nào việc đó. Nhiều em quá nghịch
ngợm trong khi một số em lại ngồi thu lu một mình, không biết thực hiện các
nhiệm vụ cô giao, không biết chia sẻ với bạn bè, thầy cơ khi gặp khó khăn,
bởi các em thiếu kỹ năng sống.


Qua nghiên cứu tôi nhận thấy: người giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ
nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các
em. Kỹ năng sống của các em được hình thành thơng qua q trình học tập,
trải nghiệm. Nếu được sự hướng dẫn, tổ chức quá trình học tập hợp lý và sự
đầu tư, chăm chút để giáo dục kỹ năng sống qua mỗi bài học, mỗi hoạt động
một cách thường xuyên của người giáo viên thì kỹ năng sống của các em sẽ
được phát triển. Vì thế tơi ln tìm tịi, vận dụng và thay đổi các biện pháp
trong cơng tác giảng dạy. Với mong muốn được hiểu, gần gũi, giúp đỡ, định
hướng kịp thời cho các em, được góp một phần kinh nghiệm nhỏ bé của mình
vào việc giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức kỷ luật, nề nếp, hình thành các

kĩ năng sống cần thiết cho các em thông qua công tác giảng dạy.
Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả tốt, sau đây
tôi xin đưa ra một số giải pháp:
a. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt.
Mơn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển ở học
sinh các kỹ năng: nghe, đọc, nói, viết để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy học Tiếng Việt góp
phần rèn luyện thao tác tư duy, mở rộng hiểu biết về tự nhiên, xã hội và con
người. Kỹ năng sống đặc thù, thể hiện ưu thế của môn Tiếng Việt là giao tiếp,
sau đó là kỹ năng nhận thức, bao gồm nhận thức thế giới xung quanh, tự nhận
thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học, có nhiều bài
học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục các kỹ năng giao tiếp xã
hội như: Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu, Viết tin nhắn, làm biên
bản cuộc họp...
Như vậy, cơ hội để hình thành kỹ năng sống qua môn học này là rất
lớn nhưng người giáo viên phải hết sức chú ý, đặc biệt là khi soạn bài, trong
từng bài học phải chú ý đến giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Ví dụ ở phân môn Học vần lớp 1, tất cả các bài đều có phần luyện nói
theo chủ đề như là: Tự giới thiệu; Bé và bạn bè; Mai sau lớn khôn; Vâng lời
cha mẹ; Giúp đỡ cha mẹ; Những người bạn tốt....
Khi luyện nói, kỹ năng giao tiếp của các em được phát triển. Tuy
nhiên không chỉ dừng lại ở phần luyện nói theo chủ đề, giáo viên có thể phát
triển cao hơn như tổ chức lớp thành vòng trịn, mỗi thành viên được tự giới
thiệu về mình bao gồm: tên gọi, học sinh lớp, địa chỉ gia đình, sở thích cá
nhân... Lúc đầu có nhiều em ái ngại, rụt rè, nhưng sau khi các bạn nói hay và
được cơ khen, các em lại thích nói, nói hăng hái và trơi chảy hơn. Em nào nói


hay đều được cả lớp và cô giáo vỗ tay khen ngợi, như vậy các em sẽ hưng
phấn và thích được nói nhiều hơn.

Ở lớp 5, phân mơn Tập làm văn hình thành cho các em kỹ năng lập kế
hoạch, kỹ năng tổ chức các hoạt động thông qua các bài tập làm văn như:
Liên hoan văn nghệ chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam; Lập chương trình
hoạt động về: Hội trại nhân ngày thành lập Đoàn; Triển lãm các chủ đề Bảo
vệ mơi trường; Qun góp ủng hộ thiếu nhi và nhân dân các vùng thiên tai;
Gặp gỡ, giao lưu với học sinh các trường kết nghĩa...
Để lập được chương trình hoạt động chắc chắn các em sẽ gặp khó
khăn bởi ngồi trí tưởng tượng yếu, chưa biết sắp xếp cơng việc khoa học thì
một phần quan trọng là các em chưa được tham gia, chưa được trải nghiệm.
Như vậy vai trò của giáo viên rất quan trọng, giáo viên sẽ tổ chức cho các em
tham gia, trải nghiệm các hoạt động một cách thực thụ. Được trải nghiệm các
em mới có thể hình dung hoạt động đó như thế nào và lập kế hoạch, nhưng
một số em vẫn chưa lập được kế hoạch hợp lý. Đòi hỏi giáo viên phải hỗ trợ,
giúp đỡ, khơi gợi để các em phát triển tư duy sáng tạo.
Kỹ năng sống của các em cũng được hình thành rất nhiều qua các bài
tập đọc. Ví dụ:
+ Người ăn xin (TV4), qua bài học này giáo dục cho các em sự cảm
thông, chia sẻ đối với những người kém may mắn
+ Một người chính trực (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức bản
thân.
+ Dế mèn bênh vực kẻ yếu (TV2) giáo dục sự cảm thông, chia sẻ
+ Nỗi dằn vặt của An-drây-ca (TV4) giáo dục kỹ năng tự nhận thức
bản thân
+ Trung thu độc lập (TV4) giáo dục kỹ năng đảm nhận trách nhiệm
của mình.
Ngồi ra các bài tập làm văn như:
+ Viết thư (TLV4) phát triển kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự
trong giao tiếp.
+ Tả ngoại hình nhân vật: Phát triển tư duy sáng tạo, tìm kiếm và xử
lý thơng tin...

Như vậy mơn Tiếng Việt góp phần hình thành và giáo dục kỹ năng
sống cho các em rất lớn. Để đạt được kết quả, đòi hỏi mỗi giáo viên ngoài
việc tổ chức các hoạt động để giúp các em lĩnh hội kiến thức thì trong quá
trình thiết kế, tổ chức các hoạt động dạy học, phải chú trọng đến hình thành
và giáo dục kỹ năng sống cho các em trong tiết học đó, trong bài học đó.
b. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức:


Bản thân môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kỹ
năng sống như: kỹ năng giao tiếp, ứng xử với ông bà, cha, mẹ, thầy, cô giáo,
bạn bè..., kỹ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kỹ năng ra quyết định và giải
quyết vấn đề phù hợp, kỹ năng giữ vệ sinh cá nhân, kỹ năng tự phục vụ và tự
quản lý thời gian, kỹ năng xử lý thông tin và các vấn đề trong đời sống ở
trường học, ở cộng đồng. Để giúp các em có những kỹ năng trên thì vai trị
của giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn các phương pháp và
hình thức dạy học học phù hợp.
Ví dụ bài: Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước (Đạo đức lớp 3)
HĐ1: Cho học sinh tìm hiểu vai trị của nước bằng cách đưa ra một số
hình ảnh: Dùng nước tắm giặt, Tưới cây, ăn uống sinh hoạt hàng ngày, một số
hình ảnh cánh đồng khơ hạn, nứt nẻ do thiếu nước, một số cánh đồng xanh tốt
đầy đủ nước...
Cho các em quan sát, thu thập thông tin và ghi vào phiếu cá nhân.
Trình bày ý kiến và kết luận chung: Nước là nhu cầu cần thiết đối với
cuộc sống sinh vật nói chung và con người nói riêng.
HĐ2: Bày tỏ ý kiến: Tổ chức cho học sinh bày tỏ ý kiến bằng cách
dùng cách thẻ màu xanh (đồng ý), thẻ màu vàng (không đồng ý).
Giáo viên chiếu nội dung các hành vi:
+ Đổ nước thải ra sông, hồ
+ Tắm cho trâu, bò gần giếng nước ăn
+ Vứt vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật vào thùng rác riêng

+ Không vứt rác, vỏ phế liệu xuống sông, hồ, ao
+ Sử dụng xong để vịi nước chảy mà khơng khóa
Học sinh giơ thẻ để bày tỏ ý kiến đối với mỗi hành vi. Sau khi học
sinh bày tỏ mỗi ý kiến, giáo viên trao đổi:
Tại sao em đồng tình (khơng đồng tình) với hành vi này?
Em có thể làm gì khi chứng kiến hành vi đó?
Giáo viên kết luận tính đúng/sai của các hành vi, việc làm trên đối với
mơi trường và sau đó chốt lại.
Cuối tiết học, giáo viên dặn dị các em về nhà tìm hiểu việc sử dụng và
bảo vệ nước tại gia đình, địa phương sau đó thu thập thơng tin, ghi nhanh vào
phiếu để tiết sau báo cáo.
Với cách tổ chức hình thức dạy học và sử dụng phương pháp dạy học
phù hợp. Học sinh sẽ tự nhận thức tầm quan trọng của nước và hành vi
đúng/sai để bảo vệ nguồn nước. Các em sẽ nhớ mãi vai trò của nước và biết
cách bảo vệ nguồn nước.


c. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và xã
hội.
Môn Tiếng Việt giúp các em phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cảm
thông, chia sẻ, tự nhận thức bản thân, biết tìm kiếm thông tin. Môn Đạo đức
giúp các em phát triển kỹ năng ứng xử có văn hóa, nhận thức các hành vi
đúng/sai và có quyết định đúng đắn, phù hợp... thì ở môn Tự nhiên và xã hội
giúp các em phát triển kỹ năng quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, biết đặt câu
hỏi và diễn đạt sự hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn giản
trong tự nhiên và xã hội. Đặc biệt môn học này giúp các em xây dựng quy tắc
giữ vệ sinh, không ăn những thức ăn quá hạn, không rõ nguồn gốc, bảo vệ sức
khỏe và giữ an toàn cho bản thân, gia đình, cộng đồng, u q hương, trường
lớp và có thái độ thân thiện với thiên nhiên.
Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn học,

giáo viên phải biết thiết kế các hoạt động học và tổ chức hình thức dạy học
hợp lý. Làm thể nào học sinh tự tìm ra những việc làm đúng/sai, cách ứng xử
phù hợp nhất.
Ví dụ: Bài: Phịng bệnh béo phì (khoa học 4)
HĐ1: Giáo viên cho học sinh hoạt làm việc theo nhóm 4, yêu cầu các
nhóm trao đổi và vẽ tranh những trẻ em bị béo phì.
Các nhóm trưng bày sản phẩm, đại diện một nhóm mơ tả đặc điểm của
trẻ bị béo phì.
Giáo viên tóm tắt ý kiến và nêu ba dấu hiệu chính của trẻ bị béo phì:
+ Có cân nặng hơn mức trung bình so với chiều cao và tuổi là 20%
+ Có những lớp mỡ trên vú, cánh tay và cằm
+ Bị hụt hơi khi gắng sức
HĐ2: Yêu cầu các nhóm liệt kê những bất lợi của người béo phì
Các nhóm nêu, sau đó giáo viên kết luận, nêu ba điểm chính của người
bị béo phì:
+ Mất thoải mái trong cuộc sống
+ Giảm hiệu suất lao động và sự lanh lợi trong cuộc sống
+ Có nguy cơ bị bệnh tim mạch và huyết áp cao, bệnh tiểu đường...
HĐ 3: Tìm hiểu nguyên nhân và cách phịng bệnh béo phì.
Cho học sinh thảo luận theo cặp đơi, quan sát các hình vẽ ở sách để
tìm ra nguyên nhân và cách phòng bệnh theo các câu hỏi gợi ý:
+ Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh béo phì
+ Làm thế nào để phịng bệnh béo phì
+ Cần làm gì khi bản thân hoặc người thân của mình có nguy cơ mắc
bệnh béo phì?


Các nhóm trao đổi theo gợi ý, trình bày và giáo viên chốt lại.
Có thể tổ chức trị chơi xử lý tình huống:
Trên đường đi học về, em nhìn thấy một em bé béo phì bị một nhóm

bạn trêu chọc. Trong tình huống đó em xử lý như thế nào?
Qua cách xử lý tình huống của học sinh, giáo viên có thể khắc sâu
thêm: béo phì khơng những có nguy cơ tiềm ẩn các bệnh tật mà còn ảnh
hưởng đến thẩm mỹ, thường bị bạn bè trêu chọc.
d. Giáo dục kỹ năng sống thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp.
Nếu như qua các mơn học các em được hình thành kỹ năng giao tiếp,
phát triển tư duy, kỹ năng tự nhận thức, ra quyết định, cảm thông, chia sẻ... thì
hoạt động ngồi giờ lên lớp rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản, phù
hợp với lứa tuổi như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức hoạt động chung
cùng nhau, biết phối hợp với mọi người cùng hoạt động, cùng tham gia, trải
nghiệm...
Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoài
giờ lên lớp đạt hiệu quả. Theo tôi chúng ta cần tổ chức cho học sinh một số
hoạt động sau:
+ Hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, TDTT: Vui chơi giải trí là nhu
cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của trẻ em. Nó là một hoạt động
có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt động này
làm thỏa mãn tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần
rèn luyện một số phẩm chất như tính tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm,
lòng nhân ái. Để tổ chức có hiệu quả giáo viên phải biết phối hợp với Tổng
phụ trách tạo sân chơi cho các em. Thiết kế các hoạt động phù hợp:
+ Tháng 8, 9: là lúc các em mới vào học, để tạo hứng thú cho các em,
chúng ta nên tổ chức các trò chơi dân gian như đơn giản như kéo co, mèo
đuổi chuột, nhảy bao bố... trò chơi này vừa giải trí nhưng vừa kết nối tình cảm
giữa các bạn trong lớp, trong đội, trong trường. Các em có dịp làm quen với
nhau khi được xếp vào một đội, một nhóm cùng chơi.
+ Tháng 10, 11: Những tháng này có các ngày kỷ niệm: 20/10, 20/11.
Để giúp các em vừa giải trí, vừa ơn lại ngày kỷ niệm lớn chúng ta tổ chức hội
thi hát dân ca hay hát hò khoan, khuyến khích các em sáng tác, đặt lời mới
theo chủ đề về ngày Nhà giáo Việt Nam, về quê hương, đất nước, mái trường.

Qua hội thi giúp các em phát triển kỹ năng giao lưu cũng như tình yêu quê
hương đất nước.
+ Tháng 12, 01: Là nững tháng các em đã học được nhiều kiến thức.
Để giúp các em tự khẳng định mình chúng ta nên tổ chức hội thi “Rung
chuông vàng” hay “Trạng nguyên nhỏ tuổi”. Hội thi vừa thu hút những tài


năng của trường vừa gây khơng khí hào hứng, giúp các em tự khẳng định
mình, cũng như phát triển kỹ năng nhận thức.
Tháng 2, 3: Đây là những tháng có các ngày kỷ niệm trọng đại. Tôi
nghĩ giáo viên nên phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức cho các em tham
quan, dã ngoại một số nơi trong địa bàn, thăm các di tích lịch sử, giúp đỡ các
bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, người tàn tật...Để giáo dục các em có
trách nhiệm với quê hương, đất nước và phải ln nhớ ơn những người đã có
cơng với nước.
+ Tháng 4 , 5: Tổ chức các hội thi tài năng: như hội thi cắm hoa, diễn
thuyết về một số chủ đề như: Nhà sử học nhỏ tuổi, Chúng em yêu khoa học,
ngoại ngữ... Đây là đỉnh điểm thăng hoa của năm học, nhằm chọn ra những tài
năng xuất sắc, là tấm gương sáng của trường. Từ đây hình thành ở các em
lòng đam mê hiếu học cũng như phát hiện các tài năng để giúp đỡ.
+ Hoạt động lao động cơng ích:
Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngồi giờ lên lớp. Thơng
qua lao động cơng ích các em gắn bó với đời sống xã hội. Lao động cơng ích
sẽ giúp trẻ hiểu thêm về giáo trị lao động. Có lao động các em mới yêu người
lao động, quý các sản phẩm người lao động làm ra. Vì vậy phải thường xuyên
tổ chức các em các hoạt động như vệ sinh lớp học, sân trường, chăm sóc bồn
hoa, trồng cây xanh để các em được tiếp xúc, làm quen với lao động. Chúng
ta cũng biết, hiện nay học sinh rất ít được tham gia lao động nhưng đây là
hoạt động thực sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh.
Các em sẽ được rèn luyện sự nhanh nhẹn khi cầm chiếc chổi quét nhà, có tinh

thần hợp tác với nhau khi cùng nhổ cỏ, tưới nước. Sau này dù có rơi vào hồn
cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em
biết lao động.
Ngoài ra, tài liệu giáo dục kỹ năng sống là một cẩm nang rất cần thiết
để hình thành các kỹ năng sống cho các em. Giáo viên dạy phải đầu tư thời
gian, phương pháp và thiết kế tổ chức các hoạt động học phù hợp có thể trong
lớp, ngồi trời, tham quan...theo mỗi bài học để đạt được hiệu quả cao.
g. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho
các em
Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các
hoạt động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh giúp giáo viên dễ
dàng nắm bắt tình hình của các em, hiểu được tính cách, hồn cảnh sống của
các em từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp
với phụ huynh trong việc rèn luyện đúng phương pháp.


Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi,
tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với các em để
giúp các em có kỹ năng sống tốt, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong
cuộc sống. Tơi nói rõ cho phụ hunh biết: trẻ con luôn bắt chước người lớn và
cha mẹ các em là những người lớn gần gũi nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm
mẹ đừng vơ tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để
hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt các em mất thời gian
học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ hãy
chú ý giúp các em hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp
xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác và là tấm
gương sáng nhất đẻ trẻ noi theo từ lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành động, giao
tiếp với người xung quanh...
VD: Bố mẹ hãy cho phép các em vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý
thích của mình, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy

để các em tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Bố mẹ có thể cùng con thu
dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay.
Khi đi học, bố mẹ cứ tự để cho con mình chuẩn bị đồ dùng, chỉ kiểm tra
và chỉ ra những đồ dùng còn thiếu để các em bổ sung, và nhắc các em hôm
sau phải chuẩn bị đầy đủ, không được chuẩn bị thay, hôm sau tiếp tục kiểm tra
việc chuẩn bị đồ dùng của con cái.
Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích các em tham gia
dọn dẹp trang hồng nhà cửa, phụ ơng bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí
cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ…Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa
chọn những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với các em để cả
nhà cùng xem, khi xem khuyến khích các em nói lên suy nghĩ cảm xúc của
mình về những điều mà mình vừa được xem.
Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của các
em trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem các
em có tự tin và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay khơng? Có thích
tham gia dã ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt khơng? Có tự nhiên sáng
tạo khi học các bài học khơng? Ccó lễ phép trong cách nói năng với người lớn
hay khơng?… để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục .
Điều tôi luôn tâm niệm với các bậc phụ huynh là: Chúng ta hãy dành
nhiều thời gian hơn cho việc dạy các em nên người, không nên chỉ chạy theo
các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ cho các em
thấy những giá trị của tâm hồn, mà điều này đang rất cần đối với các em học
sinh tiểu học - lứa tuổi các em chập chững tập làm người lớn.


Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ huynh mà tôi
thấy học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết các em có kỹ năng sống
cần thiết theo độ tuổi.
h. Giáo dục kỹ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay đổi hoàn toàn các

phương pháp cũ bằng các phương pháp mới mà là sự vận dụng phối hợp linh
hoạt giữa các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học.
Dạy hoc theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà học sinh có cơ hội
phát triển nhiều kỹ năng sống như hợp tác, chia sẻ, các làm việc khoa học, tự
học...
Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà tất cả các học sinh
của nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định.
Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động nhóm và báo
cáo kết quả học tập của nhóm mình với giáo viên. Nói là học theo nhóm
nhưng trước hết học sinh phải tự học, tự trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu
tài liệu để có những hiểu biết cá nhân về việc học tập, sau đó chia sẻ cặp đơi
với bạn bên cạnh, nói cách nghĩ, cách làm cho bạn nghe, tiếp thu những góp ý
của bạn để điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình.
Sau khi chia sẻ cặp đơi, học sinh tự tin báo cáo kết của của mình trước
nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét phần trình bày của bạn. Đây cũng
là dịp các em thể hiện ý kiến cá nhân của mình. Các thành viên trong nhóm
đều được báo cáo, nhận xét, ai cũng được tham gia vào công việc chung,
khơng ai đứng ngồi cuộc, khơng ai làm thay.
Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ những suy nghĩ,
hiểu biết, thái độ của mình. Qua đó đươc tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Trong
nhóm nhỏ mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác. Tồn
nhóm phải phối hợp với nhau để đạt được mục tiêu chung. Kết quả làm việc
của từng nhóm trước lớp sẽ tạo một khơng khí thi đua giữa các nhóm, đóng
góp tích cực vào kết quả chung của bài học.
Học theo nhóm giúp các em được tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Qua đó
phát triển tình bạn, năng lực hợp tác, năng lực trình bày, nghiên cứu, ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tương trợ và cao hơn nữa là làm cho từng thành viên
quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Như vậy đòi hỏi khi thiết kế bài dạy giáo viên phải đầu tư để tổ chức
hoạt động học phù hợp. Tổ chức cho học sinh biết tự học, tự vận dụng. Làm

cho học sinh biết hợp tác, chia sẻ. Phải tập cho học sinh học cách thức đi tới


sự hiểu biết, học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và
hành động.
3. Kết luận:
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự
đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc
cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kỹ
năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau:
100% các em năng động, mạnh dạn và tự tin, 100% học sinh được rèn
luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường đạt hiệu quả.
85% học sinh đã có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ
năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, linh hoạt trong các
hoạt động hàng ngày
70% học sinh được rèn kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng
tạo, tính tự tin thơng qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và các môn
học.
100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp,
chung sống hịa bình, thân thiện, biết chia sẻ.
90% trẻ biết được các việc làm để bảo vệ sức khỏe, chăm sóc bản thân
như: khơng ăn các thức ăn khơng rõ nguồn gốc, ăn chín uống sơi, khơng đi
một mình nơi hoang vắng...
Hàng tháng có đánh giá kiểm tra chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng
học sinh:
+ Mạnh dạn, tự tin:
85%
+ Kỹ năng hợp tác:
91%

+ Kỹ năng giao tiếp:
88%
+ Kỹ năng tự lập, tự phục vụ:
85%
+ Lễ phép:
100%
+ Kỹ năng vệ sinh:
90%
+ Kỹ năng thích khám phá, học hỏi:
80%
+ Kỹ năng tự kiểm soát bản thân:
87%
Ở lớp các em biết đoàn kết, giúp đỡ bạn yếu hơn trong nhóm mình, biết
phân cơng nhau lao động, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa lớp mình xanh tốt, chia
sẻ, giúp đỡ bạn khó khăn hơn. Đặc biệt là các em biết đồn kết, hỗ trợ nhau
khi tơi quan sát các em tham gia các trò chơi hay các hoạt động, biết kiềm chế


bản thân trong khi xử lý các tình huống với bạn bè, điều mà bản thân tôi cũng
như nhiều phụ huynh rất mong muốn.
Các em cởi mở, thân thiện, gần gũi với tơi hơn, đã chủ động nói rõ
những vướng mắc của mình và tìm sự hỗ trợ, giúp đỡ. Điều đó làm tơi rất hài
lịng.
Các em cũng rất có trách nhiệm trong việc làm của mình. Nếu một bạn
nào trong lớp, trong trường có những hành vi chưa tốt như vứt rác, hái hoa, bẻ
cành hay nói tục mà chưa tự nhận trách nhiệm cho bản thân thì các em đã thắc
mắc, kiến nghị, yêu cầu bạn đó phải tự nhận lỗi của mình và hứa sửa chữa.
Ý thức bảo vệ của cơng, biết trang trí và lớp học, trường học thân thiện,
chăm đọc sách và tham gia giao lưu các hội thi do Đội, nhà trường tổ chức và
đều đạt kết quả cao. (Giải nhất hội thi Trạng nguyên nhỏ tuổi)

3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thì người giáo viên giữ một vai
trò rất quan trọng, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm. Cũng
như người làm vườn, trồng cây, chăm sóc, vun trồng cây giống. Người làm
vườn không thể cầm ngọn cây kéo lên mà phải chăm sóc, tạo điều kiện cho
hạt giống nảy mầm. Vì vậy, để giáo dục kỹ năng sống cho các em đạt hiệu quả
mong muốn, tơi có một số đề xuất như sau:
+ Đối với giáo viên:
- Để phù hợp với giai đoạn hiện nay tơi nghĩ mỗi giáo viên tự mình cần
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
- Cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm. - Hiểu được đặc
điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học
- Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tính tích
cực, tự lập, tự giác hồn thành nhiệm vụ.
- Có kế hoạch cụ thể để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động của
trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh.
- Tạo cơ hội cho trẻ có nói, suy nghĩ, thể hiện nhu cầu, bộc lộ cảm
xúc...Từ đó có biện pháp tạo mối quan hệ giữa Gia đình – Nhà trường - Xã
hội.
- Kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên bộ môn.
+ Đối với nhà trường - TPT Đội:
Nhà trường cần tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với các trị chơi
dân gian, trị chơi vận động, trò chơi đối kháng, trò chơi tương tác... Trường


còn cho các em đi tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử,
tham gia các hoạt động dọn về sinh bảo vệ môi trường.
Tổng phụ trách Đội phải phối kết hợp với giáo viên và có kế hoạch rõ
ràng để tổ chức các hoạt động theo chủ đề, chủ điểm từng tháng, năm học.




×