Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tiểu luận Kinh tế chính trị Mác Lênin_ Đề tài 5: Cách mạng công nghệp 4.0 ,những cơ hội và thách thức đối với sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.59 KB, 23 trang )

Trang bìa:
Đề tài: Cách mạng cơng nghiệp 4.0, những cơ hội và thách thức đối với sức
cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế tồn cầu hóa


Mục lục
Phần mở đầu

2

Phần nội dung

3

Chương 1. Khái quát lý luận về sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội

3

1.1 Một số khái niệm cơ bản

3

1.1.1 Lực lượng sản xuất

3

1.1.2 Quan hệ sản xuất

3

1.1.3 Phương thức sản xuất



4

1.2 Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

5

1.3 Quy luật phát triển lực lượng sản xuất xã hội

7

Chương 2. Ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp 4.0 đến sức cạnh tranh của Việt
Nam
9
2.1 Khái quát tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế tồn cầu hóa
2.2 Khái qt thành tựu của các cuộc Cách mạng KHKT trong lịch sử nhân loại

9
11

2.3 Cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam do Cách mạng Công nghiệp 4.0 14
2.4 Thách thức với khả năng cạnh tranh của Việt Nam
Chương 3: Một số khuyến nghị để khai thác cơ hội và vượt qua thách thức từ CM
Công nghiệp 4.0

15

18

3.1 Mục tiêu


18

3.2 Một số khuyến nghị

18

Phần kết luận

20

Tài liệu tham khảo

22

1


Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Việt Nam đang trong quá trình quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong suốt thời
gian qua, Việt Nam ta đã khơng ngừng tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Song
song với đó, chúng ta cịn tích cực tồn cầu hóa, hội nhập với thế giới. Thế giới đang
sơi nổi với sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp 4.0, với những bước tiến cực kỳ
mạnh mẽ trong các lĩnh vực sinh học, máy tính, sản xuất, trí tuệ nhân tạo. Chính vì
vậy, để khơng bị tụt lùi, lạc hậu so với thế giới, chúng ta cần nắm bắt cơ hội cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 này, tận dụng triệt để những thế mạnh của đất nước, cụ thể là
sự năng động, sáng tạo của giới trẻ, đặc biệt là những sinh viên. Bài tiểu luận của
chúng em, “Cách mạng công nghiệp 4.0, những cơ hội và thách thức đối với sức cạnh
tranh của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế tồn cầu hóa”, được thực hiện nhằm tìm

hiểu, phân tích những mặt tích cực, chỉ ra những điểm hạn chế mà cuộc cách mạng
này tác động đến Việt Nam thông qua những kiến thức, những bài báo, tư liệu mà
chúng em tìm thấy. Từ đó, bài tiểu luận vạch ra những phương pháp cho sinh viên để
phát huy mặt tích cực, khắc phục những hạn chế của cách mạng công nghiệp 4.0
2. Đối tượng nghiên cứu
Lý luận về sự phát triển của lực lượng sản xuất và cuộc cách mạng 4.0, những thời
cơ và thách thức của nền kinh tế Việt Nam trong xu thế hội nhập.
3. Phạm vi nghiên cứu
Bài tiểu luận chủ yếu nghiên cứu những tác động của cuộc “Cách mạng công
nghiệp 4.0” đối với nền kinh tế Việt Nam trong phạm vi môn kinh tế chính trị Mác Lênin và những đường lối, chủ trương của Nhà nước.
4. Phương pháp nghiên cứu
Bài tiểu luận chủ yếu nghiên cứu dựa trên phương pháp phân tích, tổng hợp và
phương pháp nghiên cứu lý luận.
5. Kết cấu đề tài
Bài tiểu luận gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó phần nội dung
cụ thể hóa thành 3 chương 8 tiết.
Bài làm của nhóm cịn rất nhiều sai sót, chúng em rất mong thầy có thể nhận xét,
đánh giá cụ thể để bài làm được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn !
2


Phần nội dung
Chương 1. Khái quát lý luận về sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội
1.1 Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Lực lượng sản xuất
- Lực lượng sản xuất ( LLSX) là sự kết hợp giữa người lao động ( sức khỏe thể
chất, kinh nghiệm,..) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra
một sức sản xuất vật chất nhất định.
Để tiến hành sản xuất thì con người phải dùng các yếu tố vật chất và kỹ thuật nhất
định. Tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối

quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã
hội con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình sức mạnh
đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo nên
của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
- LLSX gồm hai yếu tố cơ bản: người lao động và TLSX nhất định
+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thơng
qua tư liệu lao động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kết hợp với các yếu tố đạo đức, tâm lý, khoa học ... biết sử
dụng TLSX để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất.
Nó bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
1.1.2 Quan hệ sản xuất
- Quan hệ sản xuất (QHSX) là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong
quá trình sản xuất vật chất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).+Quan hệ sản xuất về lĩnh
vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan+Mỗi loại QHSX đặc
trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội
- Kết cấu quan hệ sản xuất(QHSX):

3


+Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hệ về tư liệu sản xuất.
+Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
+Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
Ta thấy, 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong
đó quan hệ sở hữu đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới
tất cả các quan hệ khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này thì quan hệ sản xuất là quan
trọng nhất nhưng QH sở hữu này khơng phải đơn giản mà có được”
1.1.3 Phương thức sản xuất

Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất
định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo thành cách thức sản xuất trong một giai đoạn
nhất định của lịch sử.
– Về mặt kết cấu, ta có thể cơng thức hóa như sau:
Lực lượng sản xuất + Quan hệ sản xuất => Phương thức sản xuất = Cách thức sản
xuất vật chất.
Phép “+” ở đây không phải là phép cộng giản đơn, mà là biểu thị mối quan hệ
biện chứng, gắn bó xoắn xuýt lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
– Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản xuất
biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn
lịch sử nhất định của xã hội loài người.
Với một cách thức nhất định của sự sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ xuất
hiện những tính chất, kết cấu và đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
– Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã
hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính
chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các q trình kinh tế, xã hội… được chuyển
sang một chất mới.
– Nhờ có phương thức sản xuất, ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những
thời đại kinh tế khác nhau.
Dựa vào phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu
thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế – xã hội nào.

4


1.2 Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Trong quá trình sản xuất, con người đồng thời chịu sự quy định của hai mối quan
hệ là quan hệ với tự nhiên và quan hệ giữa người với người. Hai mối quan hệ này tác
động qua lại lẫn nhau tạo nên quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển của xã hội.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản

xuất chỉ rõ sự phụ thuộc của quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại lực lượng sản xuất.
– Lực lượng sản xuất quy định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố động
và cách mạng, là nội dung vật chất; quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là
hình thức kinh tế của phương thức sản xuất. Nội dung (lực lượng sản xuất) là cái quy
định, thay đổi trước; hình thức (quan hệ sản xuất) phụ thuộc vào nội dung, thay đổi sau.
– Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất
thể hiện ở quan hệ sản xuất phụ thuộc vào thực trạng phát triển thực tế của lực lượng
sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, nhưng ln có tác động trở lại lực lượng
sản xuất theo hướng tích cực (phù hợp) và hướng tiêu cực (không phù hợp). Khi phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường
và trở thành động lực cơ bản thúc đẩy và khi không phù hợp, quan hệ sản xuất sẽ trở
thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất
tồn tại độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất còn thể hiện ở quan hệ
sản xuất quy định mục đích sản xuất; tác động lên thái độ người lao động; lên tổ chức,
phân công lao động xã hội; lên khuynh hướng phát triển và ứng dụng khoa học và cơng
nghệ để từ đó hình thành hệ thống yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Thực tiễn cho thấy, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có
quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ với nó.
– Mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
bao hàm sự chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn. Khi phương thức
sản xuất mới ra đời, quan hệ sản xuất phát triển kịp và thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất thì được gọi là sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó thể hiện ở chỗ, cả ba yếu tố của quan hệ sản xuất
tạo “địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển; nghĩa là quan hệ sản xuất tạo
5


điều kiện sử dụng và kết hợp tối ưu người lao động với tư liệu sản xuất, nhờ đó lực
lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của mình.

Nhưng trong quá trình lao động, con người ln tìm cách cải tiến, hồn thiện và chế
tạo ra những cơng cụ lao động mới, đỡ chi phí mà năng suất, hiệu quả lao động cao hơn.
Cùng với điều đó, kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, tri thức khoa học cũng tiến
bộ hơn và phát triển hơn. Trong quá trình này, quan hệ sản xuất thường phát triển chậm
hơn nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
không phải là vĩnh viễn mà khi tới giai đoạn, nơi lực lượng sản xuất phát triển lên trình
độ mới, thì tình trạng phù hợp trên sẽ bị phá vỡ; xuất hiện mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn trên tồn tại đến một lúc
nào đó thì quan hệ sản xuất sẽ “trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất”, níu kéo
sự phát triển của lực lượng sản xuất, người ta gọi là sự không phù hợp (hay mâu thuẫn)
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên nhân của
phù hợp hay không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là do tính năng động của lực lượng sản xuất mâu thuẫn với tính ổn định tương
đối của quan hệ sản xuất.
Cách mạng xã hội, do vậy có mục đích cơ bản là giải quyết mâu thuẫn giữa quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất bằng cách xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ và thay vào đó một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ phát triển mới
của lực lượng sản xuất; mở đường cho lực lượng sản xuất đó phát triển tiếp theo. Cứ
như thế, sự phát triển biện chứng của phương thức sản xuất tn theo chuỗi xích phù
hợp, khơng phù hợp. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới đồng nghĩa với sự xoá bỏ phương thức sản xuất cũ, tạo điều kiện cho sự ra đời của
phương thức sản xuất mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất thông qua các
quy luật kinh tế xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế cơ bản.

6


1.3 Quy luật phát triển lực lượng sản xuất xã hội
Tất cả chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt hợp

thành của phương thức sản xuất có tác động qua lại biện chứng với nhau. Việc đẩy quan
hệ sản xuất lên quá xa so với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
một hiện tượng tương đối phổ biến ở nhiều nước xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc
của tư tưởng sai lầm này là bệnh chủ quan, duy ý chí, muốn có nhanh chủ nghĩa xã hội
thuần nhất bất chấp quy luật khách quan. Về mặt phương pháp luận, đó là chủ nghĩa
duy vật siêu hình, quá lạm dụng mối quan hệ tác động ngược lại của quan hệ sản xuất
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự lạm dụng này biểu hiện ở “Nhà nước
chun chính vơ sản có khả năng chủ động tạo ra quan hệ sản xuất mới để mở đường
cho sự phát triển của lực lượng sản xuất”.
Nhưng khi thực hiện người ta đã quên rằng sự “chủ động” không đồng nghĩa với sự
chủ quan tuỳ tiệ, con người khơng thể tự do tạo ra bất cứ hình thức nào của quan hệ sản
xuất mà mình muốn có. Ngược lại quan hệ sản xuất luôn luôn bị quy định một cách
nghiêm ngặt bởi trạng thái của lực lượng sản xuất, bởi quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất chỉ có thể mở đường cho
lực lượng sản xuất phát triển khi mà nó được hồn thiện tất cả về nội dung của nó, nhằm
giải quyết kịp thời những mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành biến đổi của quan hệ sản xuất: lực
lượng sản xuất là cái biến đổi đầu tiên và luôn biến đổi trong sản xuất con người muốn
giảm nhẹ lao động nặng nhọc tạo ra năng suất cao phải ln tìm cách cải tiến cơng cụ
lao động. Chế tạo ra công cụ lao động mới. Lực lượng lao động quy định sự hình thành
và biến đổi quan hệ sản xuất khi quan hệ sản xuất khơng thích ứng với trình độ, tính
chất của lực lượng sản xuất thì nó kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất thì nó
kìm hãm thậm chí phá hoại lực lượng sản xuất và ngược lại.
+ Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản
xuất khi đã được xác lập thì nó độc lập tương đối với lực lượng sản xuất và trở thành
những cơ sở và những thể chế xã hội và nó khơng thể biến đổi đồng thời đối với lực
7


lượng sản xuất. Thường lạc hậu so với lực lượng sản xuất và nếu quan hệ sản xuất phù

hợp với trình độ sản xuất, tính chất của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Nếu lạc hậu so với lực lượng sản xuất dù tạm thời thì nó kìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực
lượng sản xuất vì nó qui định mục đích của sản xuất quy định hệ thống tổ chức quản lý
sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều
mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng tới thái độ tất cả quần chúng lao
động. Nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế sự phát triển công cụ sản
xuất, áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất hợp tác phân công lao động
quốc tế.

8


Chương 2. Ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp 4.0 đến sức cạnh tranh
của Việt Nam
2.1 Khái quát tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới trong xu thế tồn cầu
hóa
Trong bối cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có vai trị
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới thì việc đề ra chủ trương hợp
tác kinh tế và khoa học kỹ thuật đối với các nước là một nhu cầu cấp thiết cho quá
trình đổi mới của Việt Nam.
Hơn nữa, tại thời điểm đầu những năm 90 của thế kỉ XX, hội nhập kinh tế quốc tế
đã trở thành một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên nhiều phương diện với sự
xuất hiện của nhiều khối kinh tế, mậu dịch trên thế giới. Đối với một nước kinh tế còn
thấp kém, lạc hậu như Việt Nam tại thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường để rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát
huy những lợi thế và tìm cách khắc phục hạn chế thông qua việc học hỏi kinh nghiệm
của các nước. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế,
trong suốt thời gian qua, Đảng đã nhất quán chủ trương phải tăng cường hội nhập sâu

rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đại hội VI mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đưa ra chủ trương tranh
thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày
càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế
và mở rộng với các nước khác". Đây chính phương hướng trước tiên nhất khởi đầu
cho các chủ trương tiếp theo của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế.
Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ với
các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu
được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới”.
Đại hội IX của Đảng đã đánh dấu lần đầu tiên Đảng ta đặt trọng tâm chủ trương
“chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”. Theo đó, trong những năm qua, việc
hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) luôn được
đặt ra trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Chính phủ như Nghị quyết số 079


NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế, Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là
Thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày
10/4/2013 về hội nhập quốc tế, Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 Hội nghị lần
thứ tư Ban Chấp Hành Trung ương Đảng Khóa XII về thực hiện có hiệu quả tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta
tham gia các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, và gần đây nhất là Chỉ thị số
26/CT-TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
Trên cơ sở các chủ trương, định hướng lớn mà Đảng và Chính phủ đã đặt ra về
hội nhập kinh tế quốc tế, ta đã chủ động và tích cực tham gia vào các thiết chế kinh tế
đa phương và khu vực, với các dấu mốc quan trọng như gia nhập Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN), là thành viên sáng lập của Diễn đàn kinh tế Á – Âu

(ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình
Dương (APEC) và đặc biệt là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh
dấu sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế tồn cầu.
Trong khn khổ ASEAN, ta đã cùng với các thành viên ASEAN ký kết một loạt
FTA với các nước đối tác gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrây-lia, Niu-Di-lân và Hồng Kông (Trung Quốc). Hiện nay, ta đang tiến hành đàm phán
FTA với Khối Khu vực thương mại tự do châu Âu (EFTA – gồm 4 nước là Thụy Sĩ,
Na-uy, Ai-xơ-len và Lích-xten-xtai), Israel, và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện
Khu vực (RCEP – giữa ASEAN với cả 6 nước đối tác gồm Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrây-li-a, Niu-Di-lân).
Như vậy, cho đến nay Việt Nam đã thiết lập được quan hệ thương mại tự do với
hầu hết các nước đối tác quan trọng nhất trên thế giới, tạo cơ sở vững chắc cho việc
tăng cường và thúc đẩy trao đổi thương mại – đầu tư song phương cũng như và tăng
cường hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên toàn cầu.

10


2.2 Khái quát thành tựu của các cuộc Cách mạng KHKT trong lịch sử nhân loại
● Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế
kỷ XIX, gắn liền với các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ nhất,
mở đầu từ ngành dệt ở Anh, sau đó lan tỏa sang nhiều ngành sản xuất khác và tới nhiều
nước khác, trước hết là Mỹ, các nước châu Âu và Nhật Bản. Mở đầu cuộc cách mạng
này, nền sản xuất hàng hóa trong ngành dệt ban đầu dựa trên công nghệ thủ công giản
đơn, quy mô nhỏ, lao động chân tay chuyển sang sử dụng các phương tiện cơ khí và
máy móc trên quy mô lớn nhờ áp dụng các sáng chế kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp.
Trong số những thành tựu kỹ thuật có ý nghĩa then chốt trong giai đoạn này trước
hết phải kể đến sáng chế “thoi bay” của Giơn Kây vào năm 1733 có tác dụng tăng năng
suất lao động lên gấp đôi. Năm 1764, Giôn Ha-gơ-rếp sáng chế xe kéo sợi, làm tăng
năng suất gấp 8 lần. Năm 1769, Ri-sác Ác-rai cải tiến công nghệ kéo sợi bằng súc vật,

sau đó là bằng sức nước Năm 1785, Ét-mơn Các-rai sáng chế máy dệt vải, tăng năng
suất dệt lên tới 40 lần. Năm 1784, Giêm Oát sáng chế máy hơi nước, tạo động lực cho
sự phát triển máy dệt, mở đầu q trình cơ giới hóa ngành cơng nghiệp dệt.
Năm 1784, Henry Cót tìm ra phương pháp luyện sắt từ quặng. Năm 1885, Henry
Bét-xen-mơ sáng chế lò cao có khả năng luyện gang lỏng thành thép đáp ứng được về
yêu cầu rất lớn khối lượng và chất lượng thép đế chế tạo máy móc thời kỳ đó. Năm
1814, chiếc đầu máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước ra đời, khai sinh hệ thống
đường sắt ở châu Âu và châu Mỹ. Năm 1807,
Rô-bớt Phu-tông chế tạo thành công tàu thủy chạy bằng hơi nước.
Sau những bước khởi đầu ở nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan
rộng ra phạm vi thế giới và trở thành hiện tượng phổ biến đồng thời mang tính tất yếu
đối với tất cả các quốc gia tư bản.
● Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa sau thế kỷ XIX đến đầu
thế ký XX và phát triển vượt bậc trên cơ sở ứng dụng các thành tựu trong cuộc cách
11


mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai, trong đó nền tảng tư duy khoa học có những thay
đổi căn bản liên quan đến những phát minh khoa học vĩ đại như phát minh ra điện tử,
sóng vơ tuyến điện và chất phóng xạ, các sáng chế động cơ điện,.. Do sự kết hợp giữa
khoa học với sản xuất mang tính hệ thống đã đưa khoa học trở thành lực lượng sản.
Xuất trực tiếp của xã hội. Như vậy, quá trình biến đổi cách mạng từ lĩnh vực khoa học
đã nhanh chóng lan tỏa sang lĩnh vực kỹ thuật và cơng nghệ.
Các phương tiện truyền thơng như điện tín và điện thoại ra đời vào năm 1880. Liên
lạc bằng điện thoại ngay lập tức được ứng dụng trên khắp thế giới, Đầu thế kỷ XX hình
thành một lĩnh vực kỹ thuật điện mới là điện tử học và ngành công nghiệp điện tử ra
đời, mở đầu kỷ nguyên điện khí hóa, thúc đẩy sự phát triển các ngành cơng nghiệp khác
như luyện kim, chế tạo máy, đóng tàu, cơng nghiệp qn sự; giao thơng vận tải, cơng
nghiệp hóa chất. Trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự diễn ra cuộc cách mạng cơ hóa và tự

động hóa vũ khí trang bị mà điển hình là các phương tiện chiến tranh được sử dụng
trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
● Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba
Điểm xuất phát của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba là Chiến tranh thế giới
thứ hai, trong đó các bên tham chiến đã từng nghiên cứu chế tạo thành công các hệ
thống vũ khí và trang bị dựa trên nguyên lý hoạt động hoàn toàn mới như bom nguyên
tử máy bay phản lực, dàn tên lửa bắn loạt, tên lửa chiến thuật đầu tiên v.v. Đây là thành
quả hoạt động nghiên cứu phát triển của rất nhiều viện nghiên cứu và văn phịng thiết
kế qn sự bí mật Ngay sau đó các thành tựu khoa học – kỹ thuật quân sự được áp dụng
vào sản xuất, tạo tiền đề cho cách mạng công nghiệp lần thứ ba, diễn ra trong nhiều lĩnh
vực, tác động đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng đời sống, văn hóa, của
con người.
Cách mạng công nghiệp lần thứ ba trải qua hai giai đoạn. Giai đoạn một từ giữa
những năm 40 đến những năm 60 của thế kỷ XX. Giai đoạn hai bắt đầu từ những năm
70 của thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI. Trong ranh giới giữa hai giai đoạn này là thành
tựu khoa học đột phá trong lĩnh vực sáng chế và áp dụng máy tính điện tử trong nền
kinh tế quốc dân, tạo động lực để hoàn thiện q trình tự động hóa có tính hệ thống và
12


đưa tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế chuyển sang một trạng thái cơng nghệ hồn
tồn mới.
Giai đoạn một chứng kiến sự ra đời vơ tuyến truyền hình, cơng nghệ đèn bán dẫn,
máy tính điện tử, ra-đa, tên lửa, bom nguyên tử, sợi tổng hợp, thuốc kháng sinh pê-nêxi-lin, bom nguyên tử, vệ tinh nhân tạo, máy bay chở khách phản lực, nhà máy điện
nguyên tử, máy công cụ điều khiển bằng chương trình, la-de, vi mạch tổng hợp, vệ
tinh truyền thông, tàu cao tốc. Giai đoạn hai chứng kiến sự ra đời công nghệ vi xử lý,
kỹ thuật truyền tin bằng cáp quang, rô-bốt công nghiệp, công nghệ sinh học vi mạch
tổng hợp thể khối có mật độ linh kiện siêu lớn, vật liệu siêu cứng, máy tính thế hệ thứ
5, cơng nghệ di truyền, cơng nghệ năng lượng nguyên tử.
● Cuộc cách mạng công nghiệp lần 4:

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là sự kết hợp của công nghệ trong các lĩnh
vực vật lý, công nghệ số và sinh học, tạo ra những khả năng sản xuất hồn tồn mới và
có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới. Có thể khái qt
bốn đặc trưng chính của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư: Một là, dựa trên nền tảng
của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện tốn đám mây và
kết nối internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống
sản xuất thông minh. Hai là, sử dụng công nghệ in 3D để sản xuất sản phẩm một cách
hoàn chỉnh nhờ nhất thể hóa các dây chuyền sản xuất khơng phải qua giai đoạn lắp ráp
các thiết bị phụ trợ - cơng nghệ này cũng cho phép con người có thể in ra sản phẩm mới
bằng những phương pháp phi truyền thống, bỏ qua các khâu trung gian và giảm chi phí
sản xuất nhiều nhất có thể. Ba là, cơng nghệ nano và vật liệu mới tạo ra các cấu trúc vật
liệu mới ứng dụng rộng rãi trong hầu hết các lĩnh vực. Bốn là, trí tuệ nhân tạo và điều
khiển học cho phép con người kiểm soát từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian,
tương tác nhanh hơn và chính xác hơn.
Nhiều nhà nghiên cứu kinh tế chỉ ra rằng, cuộc cách mạng này có thể mang lại sự
bất bình đẳng lớn hơn, đặc biệt là ở khả năng phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động
hóa thay thế người lao động bằng máy móc có thể làm trầm trọng thêm sự chênh lệch
giữa lợi nhuận so với vốn đầu tư và lợi nhuận so với sức lao động. Mặt khác, tri thức sẽ

13


là yếu tố quan trọng của sản xuất trong tương lai và làm phát sinh một thị trường việc
làm ngày càng tách biệt thành các mảng "kỹ năng thấp/lương thấp" và "kỹ năng
cao/lương cao", do đó dễ dẫn đến sự phân tầng xã hội ngày càng trầm trọng thêm.
2.3 Cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của Việt Nam do Cách mạng Cơng nghiệp 4.0
Ngày nay, trong thời đại tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế trở thành xu thế chung của
tất cả các quốc gia để phát triển. Hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, vốn đầu tư của các nước
đều có thể lưu thơng, ln chuyển trên quy mơ tồn cầu; phân cơng và hợp tác sản xuất
cũng có thể diễn ra ở nhiều quốc gia trên quy mô tồn cầu; doanh nghiệp của một nước

có thể tham gia vào chuỗi giá trị tồn cầu… Tồn cầu hóa tạo ra cơ hội cho mọi quốc
gia, đặc biệt là các quốc gia nghèo, chậm phát triển. Việt Nam, trong hơn 30 năm đổi
mới vừa qua, thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đã sớm chủ trương hội nhập quốc tế, bắt đầu từ hội nhập kinh tế quốc tế, từng
bước mở rộng ra các lĩnh vực khác. Đến nay, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng
sâu rộng, có quan hệ ngoại giao, kinh tế với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới; tham gia, trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín, toàn cầu và khu
vực (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại quốc tế, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc
tế, tổ chức ASEAN…), đã ký 16 hiệp định thương mại tự do song phương, đa phương,
trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ hội nhập, Việt Nam đã
mở rộng thị trường cho xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, các nguồn vốn, thành tựu khoa học – công nghệ, để đạt được những thành tựu
phát triển như những năm qua. Trong những năm tới, những nền tảng hội nhập kinh tế
quốc tế đã xây dựng được, những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết sẽ
có hiệu lực và những hiệp định sẽ được ký kết mới, sẽ tiếp tục mở ra cơ hội cho Việt
Nam tiếp tục phát triển.
Giai cấp công nhân Việt Nam có số lượng đang tăng lên. Theo báo cáo của Tổng
cục Thống kê, hiện nay, tổng số công nhân nước ta chiếm tỷ lệ khoảng 13% số dân và
24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế trong nước; đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài;
số lao động giản đơn trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Dự báo đến năm

14


2020, giai cấp cơng nhân có khoảng 20,5 triệu người. Cơng nhân trong doanh nghiệp
ngồi nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi phát triển nhanh; ngược lại,
công nhân trong doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng.
Trình độ học vấn và trình độ chuyên mơn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp cơng
nhân ngày càng được cải thiện. Số cơng nhân có tri thức, nắm vững khoa học - công

nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp khu
vực ngồi nhà nước và có vốn đầu tư nước ngồi được tiếp xúc với máy móc, thiết bị
tiên tiến, làm việc với các chuyên gia nước ngoài nên được nâng cao tay nghề, kỹ năng
lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp, phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công
nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp ngay từ đầu, có trình độ học vấn,
văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực lượng lao động chủ
đạo, có tác động tích cực đến sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia
tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong tương lai…
2.4 Thách thức với khả năng cạnh tranh của Việt Nam
Trong những năm tới, sự phát triển kinh tế của Việt Nam khơng chỉ có cơ hội, mà
cịn có khơng ít thách thức, thậm chí cả những nguy cơ. Điều đáng chú ý là nhiều
thách thức trong đó lại xuất phát từ những mặt khác của chính những yếu tố tạo ra cơ
hội cho phát triển kinh tế đất nước.
- Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng sẽ đặt doanh nghiệp Việt Nam, các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam trước thách thức phải cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp, các sản phẩm hàng hóa của nước ngồi khơng chỉ ở thị trường nước
ngồi mà ngay cả ở thị trường trong nước của Việt Nam; trong khi các doanh nghiệp
Việt Nam phổ biến là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trình độ cơng nghệ thấp, năng lực tài
chính hạn chế, phải cạnh tranh với những doanh nghiệp lớn, cơng nghệ cao, tiềm lực
tài chính hùng hậu, có những sản phẩm có thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Doanh
nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, hiện nay, phần lớn là ở
những cơng đoạn có trình độ cơng nghệ thấp, gia công, lắp ráp.
Hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đứng trước thách thức sẽ chịu tác động trực
tiếp, nhanh chóng từ những biến động kinh tế từ bên ngồi, từ những biến động trên

15


thị trường khu vực, thế giới về giá cả, lãi suất, tỷ giá của các đồng tiền, nhất là những
đồng tiền có ảnh hưởng lớn; từ những thay đổi của các luồng hàng hóa, tài chính, đầu

tư quốc tế và nghiêm trọng hơn là chịu sự tác động, ảnh hưởng rất nhanh của các cuộc
khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và trên thế giới. Tác động với nền kinh tế đất
nước sẽ rất nghiêm trọng nếu Việt Nam khơng chủ động có biện pháp ứng phó và nếu
nội lực của nền kinh tế yếu. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam còn đối mặt với
những thách thức từ những cuộc tấn công mạng vào các hệ thống quản lý, hệ thống dữ
liệu để ăn cắp dữ liệu, ăn cắp cơng nghệ, kế hoạch, các bí quyết kinh doanh, nhất là
của những đối thủ cạnh tranh.
Khi hội nhập quốc tế, việc giữ vững, không ngừng củng cố nền kinh tế độc lập, tự
chủ của đất nước cũng gặp những thách thức bởi một tỷ lệ không nhỏ các yếu tố đầu
vào cho hoạt động của nền kinh tế (vốn, cơng nghệ, máy móc, thiết bị, vật tư, ngun
liệu) là nhập khẩu từ nước ngoài và thị trường bên ngoài có vai trị rất lớn, rất quan
trọng đối với việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế đất nước tạo ra. Hàng
hóa nước ngồi nhập khẩu vào Việt Nam sẽ góp phần làm phong phú hơn hàng hóa
trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nhưng sẽ trở thành thách
thức nếu hàng hóa nước ngồi chiếm lĩnh thị trường, loại hàng hóa Việt Nam ra khỏi
thị trường, bóp chết sản xuất trong nước. Những điều kiện vay vốn nước ngồi (vay
chính phủ các nước, vay các ngân hàng, tổ chức tài chính quốc tế, phát hành trái phiếu
quốc tế…) càng dễ dàng, thuận lợi thì nợ nước ngồi cũng càng có khả năng, điều
kiện tăng nhanh, sẽ trở thành thách thức lớn khi việc sử dụng vốn vay kém hiệu quả.
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế đất
nước, tạo việc làm cho người lao động, nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nguồn thu
ngoại tệ cho đất nước, nhưng có thể trở thành thách thức lớn nếu quản lý thiếu chặt
chẽ, để gây ra ô nhiễm môi trường, nước ta trở thành bãi thải công nghệ lạc hậu cho
các nước phát triển, để các nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng các chính sách ưu đãi, khai
thác tài nguyên, nguồn lao động giá rẻ của đất nước, khi hết thời hạn ưu đãi, khơng
cịn có thể khai thác tài ngun và tận dụng lao động rẻ, họ sẽ bỏ đi, để lại nhiều gánh
nặng mà đất nước phải giải quyết…
- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải chỉ tạo ra cơ hội cho
kinh tế Việt Nam phát triển, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến,


16


mà cũng tạo cho Việt Nam nhiều thách thức lớn phải vượt qua và chỉ khi vượt qua
những thách thức này mới nắm bắt được cơ hội, chuyển cơ hội thành hiện thực. Thách
thức rất lớn đối với Việt Nam là vấn đề tốc độ phát triển rất nhanh của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, của những thay đổi, phát triển cơng nghệ diễn ra nhanh
chóng trên thế giới. Theo kịp tốc độ phát triển này đối với Việt Nam là một thách thức
lớn. Hơn nữa, trong khi ở Việt Nam, hệ thống thể chế cho các hoạt động, các lĩnh vực,
các mơ hình kinh doanh mới, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, xử lý
tranh chấp,… việc quản lý các hoạt động kinh tế, sinh hoạt xã hội trong thời đại cách
mạng cơng nghiệp lần thứ tư cịn chưa hình thành đáp ứng đòi hỏi phát triển kinh tế
đất nước trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng không phải là nhiệm vụ
đơn giản, dễ dàng.
Thách thức khác đối với Việt Nam là trình độ khoa học - cơng nghệ rất cao, rất
mới, diễn ra trên diện rất rộng, hầu như tất cả các lĩnh vực kinh tế, phạm vi tác động
rất lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Để nắm bắt được cơ hội, đòi hỏi
phải đáp ứng được đồng thời tất cả các yêu cầu đặt ra, địi hỏi đất nước cũng phải có
trình độ phát triển cao về khoa học - cơng nghệ, có nguồn nhân lực chất lượng cao, từ
cán bộ nghiên cứu khoa học, sáng tạo công nghệ, thiết kế sản phẩm đến những người
trực tiếp sản xuất; đòi hỏi cả những thay đổi tâm lý, nếp sống của các tầng lớp xã hội,
thay đổi tổ chức, quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, các ngành; đây khơng
phải là vấn đề dễ dàng, mà thật sự là những thách thức. Không vượt qua được những
thách thức nhỏ, cụ thể này thì thách thức lớn nhất với Việt Nam sẽ là tụt hậu xa hơn,
so với các nước khác
- Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á phát
triển năng động, nhưng cũng là khu vực có sự cạnh tranh, tranh giành ảnh hưởng
mạnh mẽ, kiềm chế lẫn nhau giữa các nước lớn, đặc biệt là Mỹ và Trung Quốc. Đặc
biệt là tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các nước trong khu vực hết sức căng
thẳng, có nguy cơ gây mất ổn định khu vực. Giữ vững chủ quyền biển, đảo của đất

nước, đồng thời phải giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế đất
nước là thách thức lớn đối với Việt Nam.

17


Chương 3: Một số khuyến nghị để khai thác cơ hội và vượt qua thách thức từ
CM Công nghiệp 4.0
3.1 Mục tiêu
- Tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế về kinh doanh và cạnh tranh, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển lành mạnh, giảm thiểu chi phí giao dịch phi chính
thức, tăng cường cơng khai, minh bạch, tăng cường phòng, chống tham nhũng trong
nền kinh tế.
- Tiếp tục ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, đổi mới mơ hình tăng trưởng, tập trung
vào nâng cao năng suất, hiệu quả theo hướng đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ,
đổi mới và sáng tạo trong các lĩnh vực của nền kinh tế.
- Tiếp tục tăng cường tạo thuận lợi tiếp cận và phát triển các yếu tố nguồn lực và
thị trường, tập trung vào phát triển tiếp cận vốn và thị trường tài chính, lao động và thị
trường lao động, khoa học công nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, cơ sở hạ tầng, tăng cường
liên kết, hợp tác và kết nối thị trường giữa các ngành kinh tế, chủ thể kinh tế, không
gian kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế.
- Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh
nghiệp và khởi sự doanh nghiệp.
- Tiếp tục tham khảo các kết quả đánh giá được công bố của các tổ chức quốc tế và
trong nước đánh giá cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc gia trong tương quan so sánh khu vực và toàn cầu.
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng.
3.2 Một số khuyến nghị
Một là, tăng cường thể chế và thực thi thể chế tạo thuận lợi cho hoạt động kinh

doanh và cạnh tranh, hoàn thiện cơ chế phối hợp đa ngành, đa lĩnh vực giữa Trung ương
và địa phương, đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính cơng, tăng cường cơng

18


khai minh bạch và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết đồng bộ việc ban hành và thực
thi các quy định pháp luật về kinh doanh và cạnh tranh.
Hai là, tăng cường ổn định bền vững kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất lao động và
đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong mơ hình tăng trưởng theo hướng thúc
đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và tăng cường đối mới sáng tạo. Tiếp tục đẩy mạnh
đổi mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động quốc gia và sự đóng góp của
năng suất các yếu tố tổng hợp vào mơ hình tăng trưởng theo hướng thúc đẩy ứng dụng
khoa học, công nghệ, xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo.
Ba là, tăng cường tiếp cận nguồn lực và thị trường trong nước, thế giới, thúc đẩy
mạnh mẽ liên kết trong nước và năng lực hội nhập quốc tế. Tập trung phát triển và tăng
cường tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, đặc biệt là vốn, lao động, khoa
học-công nghệ, cơ sở hạ tầng và tài nguyên. Thúc đẩy các động lực cạnh tranh lành
mạnh và phát huy lợi thế so sánh của các địa phương, tăng cường liên kết ngành kinh
tế, chủ thể kinh tế và không gian kinh tế, vùng kinh tế, nâng cao năng lực hội nhập quốc
tế.
Bốn là, thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam, tăng
cường khởi sự doanh nghiệp. Tạo lập môi trường pháp lý bảo đảm quyền tự do kinh
doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường có
sự điều tiết vĩ mơ của Nhà nước. Ban hành Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật
Công nghiệp hỗ trợ và các xây dựng chính sách phù hợp để hỗ trợ phát triển các loại
hình doanh nghiệp; tăng cường hiệu quả thực hiện vai trò của Nhà nước trong định
hướng phát triển hoạt động đầu tư-kinh doanh của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
Phát huy vai trò của các hội, hiệp hội doanh nghiệp.
Năm là, tăng cường kết nối khu vực và coi trọng các giải pháp phát triển bền vững.

Xây dựng kế hoạch, triển khai hiệu quả Chương trình Nghị sự 2030 của Liên Hợp Quốc
về phát triển bền vững.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ nhanh đang làm
thay đổi bối cảnh tồn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến Việt Nam, cả tác
động tích cực cũng như bất lợi. Với tư cách là người tiêu dùng, tất cả người dân đều

19


được hưởng lợi do hàng hóa và dịch vụ sẽ phong phú hơn và giá cả hợp lý hơn. Tuy
nhiên, trong trung hạn nhiều lao động có thể sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là lao động ít
kỹ năng nên phải chịu tác động mạnh mẽ của quá trình tự động hóa đang tăng tốc ở
các nước phát triển.
Việc phân tích nhận diện CMCN 4.0, với bản chất là sự kết nối chặt chẽ giữa
không gian thực và không gian số, cũng như kinh nghiệm của nhiều nước trong việc
tận dụng các cơ hội và vượt lên thách thức của cuộc cách mạng số cho những gợi mở
về việc Việt Nam cần phải làm gì để tiệm cận tốt nhất đối với CMCN 4.0. Những hàm
ý của CMCN 4.0 đối với Việt Nam có thể tóm lược như sau:
• Nếu như Việt Nam đã bị lỡ nhịp trong ba cuộc cách mạng cơng nghiệp trước thì
lại có cơ hội khơng nhỏ trong cuộc CMCN 4.0 với bản chất là sự tăng tốc và diễn ra
trong mọi lĩnh vực của quá trình số hóa. Vị trí vượt trội của Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi số trong tương quan so sánh với các nước có trình độ phát triển tương
đồng, tức là các nước có thu nhập trung bình thấp, cũng như năng lực của lớp trẻ Việt
Nam về toán là minh chứng cho điều đó. Thúc đẩy q trình chuyển đổi số cần phải là
chiến lược xuyên suốt để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và mang tính bao
trùm ở Việt Nam.
• Để tối đa hóa được những cơ hội, giảm thiểu những thách thức của CMCN 4.0,
Việt Nam cần giải quyết tốt ba bài toán lớn. Thứ nhất là đảm bảo thể chế không bị tụt
lại trong cuộc chạy đua với công nghệ để mở đường cho các công nghệ và phương
thức sản xuất mới đi vào cuộc sống. Thứ hai là phải có cách thức thúc đẩy để đảm bảo

kỹ năng không bị tụt lại so với công nghệ. Nếu không sẽ dẫn đến những bất ổn xã hội
do có một nhóm ít kỹ năng sẽ bị tụt lại phía sau.Thứ ba, khơng thể thúc đẩy cơng nghệ
nếu như những vấn đề cơ cấu vẫn còn tồn đọng và những cơ chế thị trường cơ bản
chưa được xác lập.
• Học tập kinh nghiệm ứng phó của các nước khác, đặc biệt là các nước đi trước
trong CMCN 4.0 là hết sức quan trọng, giúp Việt Nam có thể tránh được những vấn
đề mà các nước đó gặp phải.

20


Phần kết luận
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra với tốc độ nhanh đang làm
thay đổi bối cảnh tồn cầu và có tác động ngày một gia tăng đến Việt Nam, cả tác
động tích cực cũng như bất lợi. Với tư cách là người tiêu dùng, tất cả người dân đều
được hưởng lợi do hàng hóa và dịch vụ sẽ phong phú hơn và giá cả hợp lý hơn. Tuy
nhiên, trong trung hạn nhiều lao động có thể sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là lao động ít
kỹ năng nên phải chịu tác động mạnh mẽ của q trình tự động hóa đang tăng tốc ở
các nước phát triển.
Lịch sử tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc cách
mạng trong đó trí tuệ con người đã làm chủ, dẫn dắt sự đổi mới của máy móc để tăng
năng suất, mang lại thêm nhiều giá trị cho xã hội và đóng góp tích cực cho sự phát
triển về thể chất và tinh thần của nhân loại. Tuy nhiên, cuộc CMCN lần thứ tư không
chỉ đơn thuần là sự kế thừa thành quả của ba cuộc cách mạng cơng nghiệp trước đó
với thế giới kỹ thuật số mà còn tạo ra sự thay đổi toàn diện kinh tế thế giới trên 3 khía
cạnh vận tốc, phạm vi và hệ thống, chứng kiến sự suy giảm của các quốc gia phát triển
chủ yếu vào khai thác tài nguyên, tăng cường vai trò chủ đạo của những nước chú
trọng nền công nghệ sáng tạo. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại nhiều cơ hội
phát triển nhưng cũng khơng ít thách thức cho Việt Nam.
Nếu tận dụng tốt cơ hội và vượt qua được các thách thức, Việt Nam sẽ có khả

năng thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến hơn, và sớm thực hiện
được mục tiêu trở thành nước được cơng nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Trong
trường hợp ngược lại, khoảng cách phát triển với các nước đi trước sẽ tiếp tục gia
tăng. Chúng ta cần chung tay góp sức để đưa đất nước Việt Nam sớm thoát khỏi lạc
hậu, trở thành một nước công nghiệp hiện đại trong tương lai gần.

21


Tài liệu tham khảo
● ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, VPTW, Hà Nội,
2016, tr.18-20.
● Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin ( nxb Chính trị
quốc gia, HN 2009)
● Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin (nxb Chính trị quốc gia,HN 2009)
● Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị quốc gia.
● Các website: ; .
● Báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
Hà Nội, 2017

22



×