Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.16 KB, 23 trang )

1- PHẦN MỞ ĐẦU.
1.1.Lý do chọn sáng kiến.
Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sống bao giờ cũng muôn
màu và vô cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng cuộc sống
đã được nhà văn chọn lọc phản ánh. Vì vậy, mơn Văn trong nhà trường có một
vị trí rất quan trọng. Văn học là bộ môn dễ gây xúc động, vui buồn, tác động
nhiều nhất đến thế giới nội tâm của con người, bồi đắp “tình cảm tâm hồn”
con người trở nên trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. Bởi qua giờ học Văn,
khi tiếp xúc với các tác phẩm văn chương, học sinh cảm thụ những vẻ đẹp
muôn màu của cuộc sống, hướng các em tới đỉnh cao của chân, thiện, mỹ. Văn
chương "chắp đôi cánh" để các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi
nền văn hoá, xây dựng trong các em những tư tưởng tình cảm sâu sắc, tinh tế,
niềm tin vào cuộc sống, con người.
Trong những năm gần đây, việc dạy văn đã và đang trở thành một “điểm
nóng” ngày càng thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Dư luận cho rằng, học
sinh hiện nay khơng thích học văn, thậm chí các em khơng thích đọc truyện,
đặc biệt là các tác phẩm văn học. Nhiều ông bố, bà mẹ đã than phiền rằng con
họ khơng thích đọc sách văn học. Phần lớn các em chỉ thích đọc truyện tranh,
lướt web hay xem facebook. Có thầy giáo đã nhận xét: “Đối với môn Văn, đã
từ lâu vẫn tồn tại tình trạng nhiều học sinh học theo kiểu đối phó, các em lười
đọc, lười suy nghĩ về tác phẩm, không chú trọng kĩ năng diễn đạt” (Nguyễn
Quỳnh Hoa: Vài suy nghĩ về bài thi môn Văn tốt nghiệp THPT. Tạp chí Văn
học và Tuổi trẻ. Số 9. 2007.Tr18). Vì vậy, nhiệm vụ của người giáo viên dạy
văn là phải làm cho học sinh hiểu được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn học,
kích thích sự hứng thú học văn cho học sinh. Một giờ dạy văn là phải tạo ra
được những rung động thẩm mĩ sâu sắc khiến người học say mê; có khả năng
cảm nhận, phân tích, đánh giá ... về các vấn đề, khía cạnh đặt ra trong tác
phẩm, từ đó hình thành các kĩ năng, để có thêm kinh nghiệm về cách làm, viết
hay bài văn nghị luận về tác phẩm văn học.
Để viết được bài văn hay đạt điểm cao là ước muốn và cũng là sự băn
khoăn của rất nhiều học sinh. Thực tế, nhiều em chăm chỉ học tập, chịu khó


đọc sách và kiên trì rèn luyện nhưng kết quả bài làm vẫn không như mong
muốn. Vậy, làm thế nào để giúp học sinh viết được bài văn đạt điểm cao? Đây
là cả một vấn đề lớn mà những giáo viên dạy văn luôn suy nghĩ, trăn trở trong
quá trình dạy học.
Bản thân được nhà trường phân cơng giảng dạy khối lớp 9, tơi khơng
ngừng tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra các phương pháp hay giúp học sinh tiếp
cận kiến thức hình thành các ý tưởng để sáng tạo trong làm bài. Vì vậy, trong
quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những bài làm có nét
riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh
tế, sáng tạo của các em đối với một tác phẩm (đoạn trích), một hình ảnh, một
chi tiết truyện, một nhân vật (một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề thể
hiện trong tác phẩm…). Đó chính là nguồn động viên giúp tơi đầu tư và quyết
định tổng hợp các kinh nghiệm về những phương pháp “Hướng dẫn học sinh
1


cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm văn học lớp 9”, hi vọng rằng những
kinh nghiệm này phần nào giúp học sinh tháo gỡ những vướng mắc khi viết
bài văn nghị luận về tác phẩm văn học ở trường THCS.
1.2. Điểm mới trong sáng kiến.
Nghị luận về tác phẩm văn học là một kiểu bài nghị luận có vị trí quan
trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9. Thơng qua việc đọc và tìm hiểu
tác phẩm văn học, học sinh chẳng những có vốn kiến thức khá phong phú về
văn học (tác phẩm, thể loại …) mà còn được nâng cao dần về năng lực cảm
thụ, phân tích, bình giảng tác phẩm nhằm phát triển năng lực và phẩm chất
của học sinh, giúp học sinh nắm vững yêu cầu và mức độ cần đạt của kiểu bài
nghị luận về tác phẩm văn học trong chương trình. Đó là cơ sở để người giáo
viên dạy học sinh cách viết bài bởi dạy viết là dạy cách nghĩ và phát triển tư
duy; cách thức tạo lập một văn bản cách sáng tạo và giáo dục nhân cách.
1.3. Phạm vi nghiên cứu:

Với sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi hẹp. Đó
là chỉ ra mục đích của dạy viết văn cũng như đưa ra một số phương pháp
hướng dẫn học sinh viết bài nghị luận về tác phẩm văn học ở trường THCS,
đặc biệt là khối lớp 9.
Đối tượng hướng dẫn ở đây không chỉ là học sinh học khá, giỏi bộ môn
Ngữ văn mà là học sinh đại trà ở các lớp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp miêu tả, so sánh đối chiếu, thống kê, phân tích, tổng hợp...
Phương pháp chủ yếu khảo sát, nắm bắt tình hình thực tiễn và đúc rút
kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy hàng năm để tìm ra phương pháp hay
nhất.
2. PHẦN NỘI DUNG.
2.1. Thực trạng việc dạy và học viết bài văn nghị luận về tác phẩm văn
học ở trường THCS.
Trong những năm gần đây, học sinh khối THCS nói chung và lớp 9 nói
riêng viết Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học thường khơ
cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc; khơng biết cách hình thành và triển
khai luận điểm bằng một đoạn văn hay khi sử dụng dẫn chứng các em thường
mắc những lỗi như bài viết thiếu dẫn chứng khiến ý kiến trở thành suy diễn,
đưa dẫn chứng mà không phân tích nên ý nghĩa thiếu rõ ràng, dẫn chứng lạc
nội dung vấn đề ...; lập luận thiếu chặt chẽ, diễn đạt vụng về, lủng củng….
Các em thường dựa vào văn mẫu hoặc dựa vào các ý trong đề cương hay trong
dàn ý thầy cô cho sẵn mà viết lại nên rất hạn chế về mạch cảm xúc (không
chân thật, còn gượng ép …). Rất ít học sinh chịu khó tìm tòi, khám phá ra các
ý mới, ý riêng, ý sâu sắc, ý hay do chính bản thân các em cảm nhận, thật sự
rung động với tác phẩm.
Mặt khác, đa số các em học sinh thường khơng tìm hiểu kĩ đề bài và tìm ý
trước khi bắt tay vào làm bài viết của mình nên thường lệch lạc kiểu bài, nhầm
lẫn các dạng đề. Đề bài nghị luận về tác phẩm văn học thường có các dạng đề
2



mệnh lệnh và “mở”. Các mệnh lệnh thường gặp là “suy nghĩ”, “phân tích” (về
nhân vật, tác phẩm…), “cảm nhận của em” (về nhân vật, tác phẩm...). Mà
trong chương trình Ngữ văn 9, tập hai có sáu tiết cung cấp kiến thức về nghị
luận văn chương (Nghị luận về thơ và nghị luận về truyện) nhưng lại khơng có
một tiết học nào dạy về cách làm bài cụ thể ở hai dạng phân tích và suy nghĩ,
cảm nhận. Trong thực tế, đề mơn Ngữ văn thi vào THPT hay kì thi học sinh
giỏi các cấp thì ngày càng tăng cường kiểm tra sự vận dụng sáng tạo kiến thức
đã học của học sinh với hai yêu cầu cụ thể là phân tích và cảm nhận.
Về phía giáo viên, khơng ít thầy cô còn e ngại khi dạy phân môn Tập làm
văn. Qua nhiều năm theo dõi phong trào thi đua dạy tốt ở trường, tôi nhận
thấy giáo viên thường chỉ đăng kí dạy phân mơn Giảng văn và Tiếng Việt. Bởi
dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học,
giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu kĩ về tác phẩm. Đối với tác phẩm thơ phải
hiểu rõ nội dung tư tưởng, nghệ thuật như nhịp điệu, cách gieo vần, cấu trúc,
hình ảnh, ngơn từ, giọng điệu..., đối với tác phẩm truyện phải thực sự nhập
tâm vào cốt truyện, vào nhân vật, phải đặt mình trong hồn cảnh, suy nghĩ và
hành động của nhân vật; nắm vững đặc trưng thể loại, ... đòi hỏi giáo viên
phải vận dụng, tổng hợp nhiều kiến thức, kĩ năng kể cả vốn sống, tư tưởng
tình cảm. Vì vậy, giáo viên phải tìm ra phương pháp tích hợp giữa văn và đời,
giữa thực tại và hư cấu. Nếu thực hiện được như thế, mới có thể đảm bảo được
đặc trưng của phân môn: “Dạy văn - dạy người” như nhà văn M.Go-rơ-ki từng
nói: “Văn học là nhân học”.
Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, tôi nhận thấy mình và
các đồng nghiệp còn bộc lộ một số hạn chế về phương pháp, chưa vận dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học cũng như các biện pháp tổ chức dạy học
nhằm gây hứng thú cho học sinh trong các tiết học Tập làm văn. Có nhiều ý
kiến cho rằng: “chất văn” trong dạy các tiết Tập làm văn không nhiều, thường
khô khan, thiếu sinh động nên dễ biến giờ học trở nên nhàm chán, không thực

sự thu hút sự chú ý của học sinh, chưa kích thích hứng thú và sự yêu thích của
học sinh khi học viết văn.
2.2. Các phương pháp hướng dẫn học sinh cách viết bài nghị luận về
tác phẩm văn học.
2.2.1. Những yêu cầu có tính ngun tắc khi dạy viết.
- Dạy viết là dạy cách nghĩ và phát triển tư duy.
Bản chất của dạy viết là rèn luyện tư duy cho học sinh (HS) cả tư duy
hình tượng và tư duy lơgic qua đó mà giáo dục phẩm chất và phát triển nhân
cách người học. Dạy viết có thể giúp HS phát triển tư duy lơgic qua việc phân
tích đề văn, hình thành ý tưởng, tìm ý, sắp xếp ý, sử dụng các thao tác lập luận
trong bài viết, rà soát và đánh giá bài viết. Sản phẩm bài viết của HS thể hiện
tổng hợp vốn sống, nhân cách, năng lực văn học, năng lực tư duy, năng lực
ngôn ngữ của các em. Qua bài viết, HS bộc lộ con người thực của mình, bởi
vậy, việc dạy viết còn giúp hình thành các phẩm chất tốt đẹp cho người học.
Vì thế, khi dạy viết, giáo viên cần chú trọng yêu cầu tạo ra ý tưởng và biết
cách trình bày ý tưởng một cách sinh động, hấp dẫn, mạch lạc, sáng tạo và có
3


sức thuyết phục. Nhiệm vụ trực tiếp của dạy viết trong nhà trường phổ thơng
là hình thành và phát triển cho HS kĩ năng viết.
Dạy viết theo yêu cầu phát triển năng lực HS trước hết đòi hỏi các em có
kĩ năng thực hành viết, còn gọi là kĩ năng tạo lập văn bản. Kĩ năng tạo lập văn
bản là kết quả của một quá trình rèn luyện thường xuyên. Để phát triển kĩ
năng này, trong dạy viết giáo viên cần hướng dẫn HS nắm được các bước tạo
lập văn bản, tổ chức cho các em thực hành viết theo các bước và theo yêu cầu
của các kiểu văn bản.
Quy trình tạo lập văn bản gồm các bước cơ bản như:
1) Xác định mục đích và nội dung viết;
2) Thu thập tư liệu, hình thành ý tưởng và lập dàn ý cho bài viết;

3) Viết băn bản;
4) Chỉnh sửa văn bản.
Để hướng dẫn thực hiện các bước này, giáo viên cần sử dụng các câu hỏi
giúp HS xác định mục đích và nội dung viết (Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết
về cái gì?); giới thiệu các nguồn tư liệu, hướng dẫn tìm ý tưởng, phát triển ý
tưởng và phác thảo dàn ý (ví dụ như bằng cách đặt và trả lời câu hỏi, bằng sơ
đồ tư duy); yêu cầu viết văn bản; hướng dẫn HS tự chỉnh sửa và trao đổi dựa
trên tiêu chí đánh giá bài viết. Thông qua mỗi bài học viết, với sự hướng dẫn
của GV, HS sẽ có thói quen viết theo quy trình.
Cần chú ý tập cho HS hình thành và phát triển ý tưởng bằng những suy
nghĩ của chính bản thân, khơng dựa dẫm và nói theo ý người khác. Muốn thế
một trong những cách thức là tập cho HS biết đặt và trả lời các câu hỏi xung
quanh đề tài/ vấn đề đã được nêu ra. Chẳng hạn, đề văn yêu cầu bàn về lòng
nhân ái, cần đặt ra và trả lời các câu hỏi: Lòng nhân ái là gì? Những biểu hiện
cụ thể của lòng nhân ái? Ngược lại với lòng nhân ái là gì? Lòng nhân ái có tác
dụng gì? Làm thế nào để có lòng nhân ái? Những tác phẩm văn học nào viết
về lòng nhân ái? Những sự việc, hành động cụ thể nào trong cuộc sống mà em
biết chứng tỏ được lòng nhân ái? Lòng nhân ái có ý nghĩa gì đối với bản thân
em.
Cũng có thể dùng bản đồ tư duy để hình thành, phát triển và trình bày hệ
thống ý cho bài viết? Ban đầu nên hướng dẫn HS phác thảo, nêu tất cả mọi ý
nghĩ liên quan đến đề tài/ vấn đề đặt ra, sau đó tiếp tục lựa chọn các ý gắn với
trọng tâm, bỏ những ý xa vấn đề, gây tản mạn cho bài viết; sau đó sắp xếp các
ý theo một bố cục và cấu trúc dàn ý phù hợp theo một hệ thống thứ bậc sau:
- Luận đề (đề tài/ vấn đề trọng tâm cần bàn bạc, làm sáng tỏ);
- Luận điểm: là các ý lớn nhằm triển khai làm sáng tỏ cho luận đề;
- Luận cứ gồm những lí lẽ và dẫn chứng nhằm làm sáng tỏ cho luận điểm;
- Lập luận là cách dẫn dắt, trình bày lí lẽ, dẫn chứng sao cho nổi bật vấn đề,
hấp dẫn và tăng sức thuyết phục.
Giáo viên sử dụng những phương pháp phân tích mẫu, kĩ thuật đặt câu

hỏi để hướng dẫn HS hình thành dàn ý, lựa chọn cách triển khai, diễn đạt; tổ
chức cho HS thực hành viết văn bản theo cách: viết từng phần của văn bản
(mở bài, kết bài, một hoặc một số đoạn trong thân bài). Định hướng chung của
4


các phương pháp, kĩ thuật dạy viết là HS thực hành trên cơ sở được giáo viên
hỗ trợ trong suốt quá trình học cách tạo lập văn bản, từ quan sát, phân tích văn
bản mẫu, tự viết văn bản theo yêu cầu đến chỉnh sửa văn bản. Sau khi viết
xong, HS cần có cơ hội nói, trình bày những gì đã viết.
- Dạy viết là dạy cách thức tạo lập một văn bản.
Cũng như dạy đọc là dạy cách đọc, dạy viết tập trung dạy cách viết: từ
viết có hướng dẫn đến biết tự viết, biết tạo lập văn bản một cách độc lập. Tích
hợp dạy viết với dạy đọc, văn bản đọc được xem là ngữ liệu mẫu để giáo viên
hướng dẫn HS phân tích đặc điểm các kiểu loại văn bản, cách thể hiện ý
tưởng, ngôn ngữ biểu đạt…, từ đó yêu cầu HS tạo lập văn bản của chính
mình. Giáo viên nên thực hiện các bước hỗ trợ HS học viết: từ phân tích văn
bản mẫu cùng kiểu loại nhưng khác đề tài với văn bản cần viết, đến cùng HS
viết một văn bản tương tự cùng kiểu loại khác đề tài, rồi yêu cầu HS tự viết
văn bản theo yêu cầu. Giáo viên cần yêu cầu HS thực hiện những nhiệm vụ
phức tạp hơn như thu thập thông tin cho bài viết từ nhiều nguồn; thảo luận,
phân tích về tiêu chí đánh giá bài viết; biết tự chỉnh sửa, trao đổi trong nhóm
để hồn thiện bài viết và rút kinh nghiệm sau mỗi lần viết bài. Ngồi việc tiếp
tục phương pháp phân tích mẫu các kiểu văn bản, giáo viên cần chú ý hướng
dẫn kĩ thuật viết tích cực nhằm giúp HS vừa thành thạo kĩ năng tạo lập theo
từng kiểu văn bản, vừa phát triển tư duy phê phán, năng lực giải quyết vấn đề
và sáng tạo thể hiện qua bài viết.
Sau khi có hệ thống ý, giáo viên cần hướng dẫn HS luyện tập diễn đạt các
ý thành văn (câu văn, đoạn văn và bài văn). Đầu tiên diễn đạt một luận đề,
luận điểm thành một câu văn; tiếp đến diễn đạt một luận điểm thành một đoạn

văn (ba phần) có câu mở đầu, các câu phát triển và câu kết đoạn. Tập viết
đoạn văn là hết sức quan trọng, là cơ sở để viết bài văn.
Đoạn văn có thể triển khai theo nhiều cách.
Cách 1: Theo mơ hình tổng - phân - hợp: nêu ý tổng quát (thường gọi câu
chủ đề) trước, sau đó phát triển ý tổng quát bằng các chi tiết, ý nhỏ (lí lẽ và
dẫn chứng) rồi kết lại bằng ý tổng quát.
Cách 2: Đoạn văn diễn dịch: nêu ý tổng qt trước, sau đó phân tích, phát
triển bằng các lí lẽ, dẫn chứng, chi tiết…làm ý tổng quát.
Cách 3: Tập viết đoạn văn quy nạp bắt đầu từ các chi tiết, lí lẽ, dẫn chứng
cụ thể sau đó tổng hợp lại bằng câu khái quát…
Đây là những cách trình bày phổ biến thường dùng khi luyện tập viết đoạn
văn; khi đã thành thạo, HS có thể viết “phá cách”, không cần quá câu nệ cấu
trúc mà quan trọng là có ý đúng, hay và sáng tạo, biết phát triển ý một cách
chặt chẽ, rõ ràng, giàu sức thuyết phục…
Việc hướng dẫn HS luyện tập viết bài văn thực chất cũng là cách viết
đoạn văn; trong đó mở bài (nêu vấn đề/đề tài) chính là câu mở đầu đoạn (câu
chủ đề); thân bài là nhiều đoạn văn nhỏ, mỗi đoạn tương ứng với một luận
điểm, nhằm làm sáng tỏ luận đề/ đề tài nêu ở mở bài. Kết bài chính là đoạn
văn khái quát lại cho toàn bài. Trong quá trình luyện tập, GV nên sử dụng các
bài tập tách ra theo các yêu cầu nhỏ, như bài tập tìm ý lớn (luận đề/ vấn đề
5


trọng tâm), bài tập phát triển luận đề (xác định các luận điểm), bài tập nêu lí lẽ
và tìm dẫn chứng; bài tập luyện viết đoạn văn quy nạp, đoạn diễn dịch, đoạn
tổng phân hợp, luyện viết đoạn mở bài, kết bài, luyện viết đoạn văn phát triển
một luận điểm nào đó trong phần thân bài…
Khơng chỉ dạy cách viết đoạn văn, bài văn mà còn luyện tập diễn đạt; cần
chú ý hướng dẫn HS cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ để từ
viết đúng, viết hay đến viết sáng tạo, viết có chất văn. Mỗi kiểu loại văn bản

có những u cầu về ngơn ngữ riêng. Giáo viên cần hướng dẫn để HS luyện
tập huy động và sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp và có hiệu quả. Chẳng hạn
với bài nghị luận ngơn ngữ cần hùng hồn, sự dụng nhiều từ/ câu khẳng định,
phủ định để tăng tính thuyết phục.
Sau khi viết xong, HS cần có cơ hội nói, trình bày những gì đã viết. Giáo
viên phải tạo cơ hội để các em được viết nhiều và phải dành thời gian để sửa
kĩ và nhận xét về các bài viết. Nhờ đọc các bài viết của HS mà giáo viên biết
được các em có những hạn chế gì cần khắc phục. Những giải thích (bài học
ngắn) về tiếng Việt (chính tả, dấu câu, dùng từ, ngữ pháp…) cũng có cơ sở từ
đấy. Sau khi viết, các em có thể trao đổi cho nhau bài viết của mình và nhận
xét về bài viết của bạn.
- Dạy viết là dạy cách sáng tạo và giáo dục nhân cách.
Khuyến khích sự sáng tạo, mạnh dạn thể hiện cá tính và sự độc đáo trong
khi viết là một yêu cầu hết sức quan trọng và cần thiết trong dạy học viết theo
định hướng phát triển năng lực HS. Hiện tượng học thuộc dàn ý, chép văn
mẫu, lắp ghép bài văn từ Internet; viết theo khuôn mẫu một cách cứng nhắc,
vô cảm…là một thực tế khá phổ biến và cần phải khắc phục. Nhất là khi xã
hội ngày càng phát triển thì yêu cầu HS biết suy nghĩ đợc lập, có chính kiến,
khơng dựa dẫm, nói theo … ngày càng được chú trọng. Vì vậy, người học cần
được rèn luyện ở tất cả các kĩ năng trong tiếp nhận cũng như tạo lập văn bản.
Theo đó, giáo viên cần có thái độ và tinh thần cởi mở trong dạy học cũng như
nhận xét, đánh giá bài viết của HS: đề cần theo hướng mở, chấp nhận các ý
kiến trái chiều, khuyến khích nhiều cách nghĩ, cách cảm nhận và cách phân
tích, đánh giá của HS; chấp nhận nhiều cách viết, cách thể hiện miễn là không
phạm phải những lỗi rõ ràng như nội dung phản nhân văn, phản thẩm mĩ, sai
trong dùng từ, ngữ pháp, thiếu lôgic, thiếu thuyết phục trong lập luận… Đặc
biệt cần đề cao những bài viết có ý tưởng mới mẻ, độc đáo, thể hiện rõ cá tính
của người viết.
Với quan điểm về rèn luyện kĩ năng viết nêu trên, không phải HS nào
cũng đáp ứng ngay được các u cầu, khơng thể có ngay được kết quả tốt. HS

có thể viết được ít và chưa hay, còn mắc nhiều lỗi nhưng quan trọng đó là suy
nghĩ, cảm nhận của chính các em. Điều đó, còn tốt hơn nhiều so với việc HS
chỉ học thuộc lòng văn mẫu, viết lại nguyên xi những điều người khác nói,
khơng hề có suy nghĩ nào là của chính mình. Dạy văn là dạy người và góp
phần giáo dục nhân cách là thế.
2.2.2. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh cách viết bài văn nghị luận
tác phẩm văn học.
6


1.Tìm hiểu bài nghị luận về tác phẩm văn học.
Nghị luận văn học là bàn luận về các vấn đề văn học, có thể là tác giả, tác
phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong tác phẩm....
Đối với tác phẩm tự sự (truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ tự sự) thì chú ý
nhiều đến cốt truyện, nhân vật, tình tiết, sự kiện, tình huống truyện, nghệ thuật
thể hiện. Còn với tác phẩm trữ tình cần chú ý cảm xúc của nhà thơ qua hình
ảnh, âm điệu, ngơn ngữ thơ, nhịp thơ, vần thơ, biện pháp nghệ thuật, không
gian và thời gian nghệ thuật…
Dù là tác phẩm trữ tình hay tự sự thì trong q trình phân tích cũng cần có
những nhận xét đánh giá của người viết về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
Trong chương trình Ngữ văn 9, Nghị luận về tác phẩm văn học có hai
dạng: Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và nghị luận về một
đoạn thơ, bài thơ.
Nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận
xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác
phẩm cụ thể. Những nhận xét, đánh giá về truyện phải xuất phát từ ý nghĩa
của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm
được người viết phát hiện và khái quát. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm
truyện trong bài nghị luận phải rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận

thuyết phục. Bài nghị luận về tác phẩm truyện phải có bố cục chặt chẽ, mạch
lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm.
Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ là trình bày nhận xét, đánh giá của
mình về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ ấy. Nội dung và nghệ
thuật của bài thơ, đoạn thơ được thể hiện qua ngơn từ, hình ảnh, giọng điệu, ...
Bài nghị luận cần phân tích các yếu tố ấy để có những nhận xét, đánh giá cụ
thể, xác đáng.
Bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ cần có bố cục mạch lạc, rõ ràng, có
lời văn gợi cảm, thể hiện rung động chân thành của người viết.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu làm một bài văn nghị luận về tác phẩm văn
học, người GV cần cho HS hiểu rõ tính chất tổng hợp của kiểu bài nghị luận
này.
2. Đề bài nghị luận về tác phẩm văn học.
*Thứ nhất là dạng đề kiểm tra tác phẩm thông thường.
Cấu trúc đề về tác phẩm văn học thường gồm hai phần: phần nêu yêu cầu
về nội dung và phần nêu yêu cầu về dạng bài (có thể thêm các u cầu khác).
Ví dụ: 1. Nhận xét về truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Kh,
có ý kiến cho rằng: Thành cơng hơn cả của tác phẩm là nghệ thuật miêu tả tâm
lý và ngơn ngữ nhân vật. Hãy phân tích tác phẩm để làm rõ ý kiến trên.
2. Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện ngắn Những ngôi sao
xa xôi của Lê Minh Kh. Từ đó, suy nghĩ gì về thế hệ trẻ Việt Nam trong
những năm chống Mỹ cứu nước.
3. Viếng lăng Bác là bài ca ân tình, cảm động, đẹp đẽ của Viễn Phương
và đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ vơ vàn kính u. Phân tích bài thơ
7


Viếng lăng Bác của Viễn Phương để làm sáng tỏ nhận xét trên.
Hiện nay, nhiều em học sinh lớp 9 thường hay nhầm lẫn các dạng đề, đang
băn khoăn lo lắng: “Nhiều lúc em khơng biết cái mình đang viết là phân tích

hay cảm nhận nữa. Và nếu thầy cơ ra hai đề “Em hãy phân tích đoạn thơ trên”
hoặc “Cảm nhận của em về đoạn thơ trên” thì em sẽ làm hồn tồn giống
nhau”...
Đó là những lời bộc bạch chân thành dễ hiểu. Bởi vì phân tích và cảm
nhận là những thao tác cơ bản của kiểu bài nghị luận văn chương. Để học sinh
viết đúng hai dạng đề này thì cần phải giúp các em phân biệt sự khác nhau
giữa phân tích và cảm nhận. Tuy nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính chất
tương đối.
“Phân tích”, theo từ điển đã định nghĩa: “là cơ sở để tổng hợp, tổng hợp là
mục tiêu của phân tích”. Phân tích và tổng hợp gắn bó chặt chẽ với nhau. Vậy
khi làm bài phân tích đòi hỏi học sinh phải xem xét tác phẩm một cách tồn
diện, khách quan từ hình thức đến nội dung. Ngòi bút của các em phải sắc bén
để chia cắt đối tượng. Nếu là thơ thì tìm hiểu ngơn từ, hình ảnh, giọng điệu, ...
Nếu là truyện thì tìm hiểu nhân vật, nghệ thuật kể, ý nghĩa cốt truyện... Khi
gặp các dạng đề này nên phân tích dẫn chứng trước để rút ra nhận xét, đánh
giá sau.
Còn “cảm nhận” là trình bày những suy nghĩ, cảm xúc, những nhận xét,
đánh giá của mình về cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Cảm nhận xoáy vào
những ấn tượng chủ quan của người viết về những điểm sáng thẩm mĩ trong
văn bản văn chương. Vì vậy, yêu cầu người viết phải biết lắng nghe, chắt lọc
những cảm xúc, những rung động của chính mình xem yếu tố nào gây ấn
tượng đậm nhất, nắm lấy nó rồi viết ra. Ấn tượng của các em về tác phẩm
càng sâu đậm, ám ảnh bao nhiêu thì bài viết cảm nhận càng xúc động, sâu sắc
bấy nhiêu.
Có thể nói “cảm nhận” nghiêng về “cảm” còn “phân tích” thì nghiêng về
hiểu. Nếu như phân tích tác động vào nhận thức, trí tuệ thì cảm nhận tác động
vào cảm xúc, tâm hồn.
Tuy nhiên, nếu phân tích mà khơng có cảm nhận thì bài viết sẽ rất khô
khan. Chúng ta nên lồng cảm nhận vào phần tổng hợp của bài phân tích, tức là
phần cuối đoạn hoặc cuối bài.

Ngược lại, cảm nhận mà khơng có phân tích thì cảm nhận ấy thiếu cơ sở
thuyết phục. Trong cảm nhận phải có phân tích để đào sâu, làm điểm tựa, làm
đòn bẩy cho cảm xúc thăng hoa cất cánh. Hay nói cách khác, mọi rung động,
cảm xúc của người viết phải bắt nguồn từ sự phân tích bình giá ngơn từ, hình
ảnh, giọng điệu... nhân vật, cốt truyện hay chủ đề của tác phẩm. Sau đây là
một ví dụ cụ thể:
Cho đoạn thơ: Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa/ Sấm cũng
bớt bất ngờ/ Trên hàng cây đứng tuổi.
(Sang thu, Hữu Thỉnh, Ngữ văn 9, tập hai).
Đề 1: Phân tích đoạn thơ trên.
Bài làm.... “Sang thu, cảnh vật thời tiết thay đổi. Tất cả còn những dấu
8


hiệu mùa hạ nhưng đang giảm dần mức độ, cường độ, từ gay gắt chuyển hóa
thành dịu êm. Phép tiểu đối giữa nắng và mưa, vẫn còn và đã vơi thể hiện sự
phân hóa mong manh giữa hai mùa. Bởi vì làm sao có thể đong đếm đầy vơi
những những dấu hiệu của thiên nhiên lúc giao mùa. Khi đất trời sang thu,
những hàng cây lâu năm không còn bất ngờ trước những tiếng sấm chuyển
mùa nữa. “Sấm” và “hàng cây đứng t̉i” là hình ảnh ẩn dụ. Sấm chỉ những
vang động, những sóng gió cuộc đời. Còn “hàng cây đứng tuổi” chỉ những
con người từng trải, thường điềm tĩnh hơn, chín chắn thêm trước những vang
động sóng gió của cuộc đời.
Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng đến những thay
đổi của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu ra rằng “Hãy biết chấp nhận,
bĩnh tĩnh sống với lòng tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, đất
nước, con người”...
Đề 2: Trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ trên.
Bài làm:... “Vẫn là nắng, mưa, sấm chớp, bão giông như mùa hạ, nhưng
mức độ đã khác rồi. Để ý sẽ thấy cái gì cũng bắt đầu đi vào chừng mực, vào

thế ổn định. Và cái “đứng tuổi” của cây là một cái chốt cửa để mở sang một
thế giới khác: thế giới sang thu của hồn người. Vẻ chín chắn, điềm tĩnh của
cây trước sấm sét bão giơng hay đó chính là sự từng trải chín chắn của con
người sau những dâu bể của cuộc đời?
Ở vào cái tuổi ấy, con người một mặt sâu sắc thêm, mặt khác lại khẩn
trương gấp gáp hơn vì quỹ thời gian khơng còn nhiều nữa. Thì ra, trước mắt
việc đi mãi, ngoảnh đầu thu đến rồi. Bốn mùa ln chuyển vơ hình, lặng lẽ:
bỗng chợt thu. Đời người vất vả, tất bật bận rộn, lo toan bỗng chốc thấy mái
tóc pha sương: sững sờ mình cũng đã sang thu.
Nhan đề Sang thu vừa bao trùm lại vừa thấm vào cảnh vật: hương quả
sang thu, ngọn gió, màn sương sang thu... Nhưng trong từng cảnh sang thu
của thiên nhiên đất trời tạo vật là lồng lộng hồn người sang thu.....”
Dạng đề cho một nhận định, đánh giá rồi yêu cầu học sinh phân tích tác
phẩm để làm sáng tỏ nhận định, đánh giá đó là một dạng đề khó, đòi hỏi học
sinh phải tổng hợp được rất nhiều kĩ năng, kiến thức: giải thích (để hiểu rõ
nhận định); chọn lọc chi tiết, đặc điểm từ tác phẩm (để chứng minh làm rõ
nhận định); tổng hợp, khái quát, so sánh ...
Để làm được dạng đề này cần lưu ý:
Thứ nhất, giáo viên cần hướng dẫn HS đọc kĩ đề: “Làm sáng tỏ nhận
định” có thể hiểu là chứng minh vấn đề mà nhận định đưa ra. Nhưng việc
chứng minh này phải thơng qua tác phẩm. Vì thế HS phải phân tích, bình luận
tác phẩm để làm bài chứng minh. Muốn vậy, học sinh phải hiệu rõ về nhận
định: đó là nhận định về vấn đề gì? Về nội dung hay nghệ thuật của tác phẩm?
Về một nhân vật, một tác phẩm hay nhiều nhân vật, nhiều tác phẩm?
Thứ hai, sau khi giải thích rõ nội dung của nhận định, đánh giá, học sinh
phải nắm rõ kiến thức về tác phẩm, nhân vật để xác định xem vấn đề đưa ra
trong nhận định nằm ở khía cạnh nào của tác phẩm? Đối với dạng đề hỏi
nhiều tác phẩm, nhiều nhân vật cùng lúc thì kĩ năng chọn lọc dẫn chứng, chọn
9



lọc luận điểm tương đồng là vô cùng quan trọng.
Thứ ba, với dạng đề “làm sáng rõ nhận định” yêu cầu khơng chỉ đơn giản
là cần phân tích tác phẩm hay nhân vật mà còn những yêu cầu khác như so
sánh ... Vì thế có thể gọi dạng đề “làm sáng tỏ nhận định” là dạng đề bao chứa
rất nhiều các kĩ năng, yêu cầu, dạng bài khác nhau.
Thứ tư, cách trình bày cũng rất quan trọng. Với câu hỏi chỉ yêu cầu làm
sáng tỏ nhận định qua một tác phẩm hoặc một nhân vật thì đơn giản hơn cả,
học sinh chỉ việc chọn lọc dẫn chứng, tìm ý phủ hợp với nhận định rồi tuần tự
phân tích. Đối với câu hỏi yêu cầu làm rõ nhận định mà không cho tác phẩm
cụ thể thì học sinh cần chọn tác phẩm để phân tích (đó nên là những tác phẩm
hay, đã được học qua, nhiều người biết đến và bản thân u thích) rồi tìm
những ý tương đồng ở các tác phẩm sao cho phù hợp với nhận định đưa ra.
Khơng nên phân tích hết bài này đến bài kia như thế bài văn sẽ rời rạc và lan
man. Đối với câu hỏi yêu cầu làm sáng rõ nhận định với nhiều tác phẩm,
nhiều nhân vật nên tổng hợp ý tương đồng, tổng hợp dẫn chứng tương đồng
rồi phân tích theo từng ý lớn, tránh lẫn lộn, lan man và rời rạc.
Lưu y: Dạng đề “làm sáng tỏ nhận” rất quan trọng việc huy động kiến
thức. Lượng kiến thức càng dồi dào phong phú bao nhiêu, bài viết sẽ càng có
chất lượng bấy nhiêu. Để làm tốt điều đó, các em phải có kiến thức chắc chắn
về tác phẩm, nhân vật. Với tác phẩm truyện các em nên tóm tắt cốt truyện, với
tác phẩm thơ nên học thuộc thơ. Ngoài ra nên tự thu góp cho mình những câu
danh ngơn hay là tư liệu, để khi cần có thể dùng vào bài làm.
* Thứ hai là dạng đề kiểm tra tác phẩm văn học theo hướng mở.
Đề kiểm tra tác phẩm văn học theo hướng mở có thể ra theo những cách
sau:
a. Đề có thể khuyết phần nêu yêu cầu về dạng bài mà ta thường gọi là
lệnh.
Ví dụ 1: Tình cảm của bé Thu - nhân vật trong đoạn trích truyện Chiếc lược
ngà của Nguyễn Quang Sáng - đối với cha.

2. Lòng yêu nước của thế hệ trẻ Việt Nam qua các tác phẩm: Đồng chí
(Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đợi xe khơng kính (Phạm Tiến Duật), Những
ngơi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).
b. Đề chỉ nêu gợi dẫn để người viết tạo văn bản theo cảm nhận, suy nghĩ
riêng.
Ví dụ:
1. Về bài thơ Quê hương của Tế Hanh.
2. Nhân vật Thúy Kiều qua các trích đoạn đã học.
c. Đề nêu câu hỏi:
Ví dụ 1: Chao ơi, bắt gặp một con người như anh ta là một cơ hội hạn hữu
cho sáng tác. Nhưng hoàn thành sáng tác còn là một chặng đường dài.
Theo em, suy nghĩ như vậy của ông họa sĩ trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
(Nguyễn Thành Long) khi gặp anh thanh niên làm cơng tác khí tượng trên
đỉnh cao n Sơn có đúng khơng? Trình bày ý kiến bằng một bài văn ngắn.
2. Về nhân vật Dế Mèn trong chương 1 của tác phẩm Dế mèn phiêu lưu
10


ký (Tơ Hồi), có bạn học sinh cho rằng Dế Mèn khơng đáng trách. Nhưng lại
có bạn khẳng định Dế Mèn thật đáng trách.
Còn ý kiến của em thế nào?
Để giải quyết một đề kiểm tra tác phẩm văn học dạng mở, các em cần lưu
ý:
Đề ra theo hướng mở có mục đích khuyến khích sự sáng tạo của mỗi cá
nhân. Khi làm bài, học sinh không buộc phải theo hướng tiếp nhận tác phẩm
đã định sẵn. Từ đó, học sinh có cơ hội để tự bộc lộ năng lực cảm nhận tác
phẩm.
Tuy vậy, sáng tạo không đồng nghĩa với sự tùy tiện đưa những nhận xét
vô căn cứ, thiếu trách nhiệm. Đề mở vẫn yêu cầu học sinh thực hiện đúng
những đặc trưng về kiểu bài khi tạo lập văn bản. Trong bài viết cần bảo đảm

tính chính xác, khoa học về nội dung cũng như tư tưởng, tình cảm tốt đẹp.
Muốn vậy, cần nắm vững tác phẩm về nội dung cũng như các giá trị khác. Nên
tích cực rèn các kỹ năng: đọc hiểu, tư duy, diễn đạt. Hơn thế nữa là sự trau dồi
tình cảm, hướng về những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
3. Các bước làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện.
Để tạo lập một văn bản nói hay viết, dù là bài hay đoạn thì chúng ta đều
phải thực hiện tuần tự các bước: Phân tích đề, tìm ý và lập dàn ý, viết (nói)
thành văn bản. Nếu viết thì sau đó đọc và chữa cho hoàn chỉnh. Các bước này
liên quan chặt chẽ đến nhau và cùng góp phần làm nên kết quả.
Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý.
Phân tích đề được xem là khâu đầu tiên, có vai trò quyết định “dẫn đường,
chỉ lối” cho người làm bài. Nếu phân tích đúng yêu cầu của đề bài thì sẽ tìm
ra được hướng đi đúng. Ngược lại, nếu phân tích sai thì sẽ không đáp ứng
được yêu cầu của đề, đôi khi còn bị lệch đề, lạc đề. Chính vì thế mà người GV
phải hướng dẫn HS phải biết phân tích kĩ đề.
Thông thường yêu cầu của đề được thể hiện bằng câu hoặc cụm từ hay từ
ngữ trong đề bài. Bởi vậy, HS cần đọc kĩ đề để xác định và hiểu nghĩa câu
hoặc cụm từ hay từ ngữ thì mới biết đề yêu cầu thực hiện nội dung gì, làm bài
bằng cách thức nào...? Làm được việc ấy là bước đầu em đã hiểu đề.
Hiểu đề rồi nhưng để giải quyết được u cầu của đề, khơng lạc đề thì
em phải tìm ý. Tìm ý là tìm các nội dung sẽ trình bày trong văn bản để thực
hiện yêu cầu về nội dung của đề. Cách tìm ý thường dùng là đặt câu hỏi cho
các từ ngữ quan trọng trong câu nêu nội dung ở đề. Những câu hỏi quen thuộc
là: tại sao, như thế nào, làm thế nào... tùy thuộc vấn đề. Hiểu chính xác đề và
tìm ý đúng chính là cơ sở để khơng lạc đề.
Tìm ý phải tìm được những ý cụ thể, càng xác định được rõ những ý cụ
thể bao nhiêu thì bài văn càng có sức thuyết phục bấy nhiêu. Nhiều khi, có
những bài văn viết rất dài nhưng khi đọc khơng thấy tốt lên những ý cụ thể.
Khơng có ý thì khơng có căn cứ để cho điểm và kết quả là làm bài dài nhưng
điểm lại thấp.

Chất lượng của ý có hai mức độ chủ yếu là: ý trình bày phải cơ bản và
sâu sắc, mới mẻ.
11


Ý cơ bản trước hết là ý đúng. Muốn có ý đúng thì phải học và ơn tập một
cách có hệ thống, chắc chắn. Chẳng hạn như khi nghị luận về một tác phẩm,
cần nắm vững và chính xác những thơng tin về tác giả; về hồn cảnh ra đời và
giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm; về đặc điểm nội dung, nghệ thuật
bao trùm giai đoạn văn học, thậm chí cả những kiến thức lí luận mang tính
cơng cụ nữa.
Ý khơng chỉ đúng mà còn phải đủ về số lượng. Tùy theo từng vấn đề cụ
thể mà xác định cần có bao nhiêu ý.
Để đạt được bài viết hay điểm cao, bên cạnh những ý cơ bản như trên còn
phải có những ý sâu sắc, mới mẻ. Đây là mức độ lí tưởng của bài văn (nhất là
đối với bài thi học sinh giỏi) bởi ý sâu sắc, mới mẽ là yêu cầu cao và khó, đòi
hỏi người viết phải dày cơng suy nghĩ, phải có năng lực cảm thụ, phải có khả
năng tư duy độc lập và sáng tạo. Trên thực tế, một bài văn chỉ cần có 1 hoặc 2
ý loại này sẽ được đánh giá rất cao. Tuy nhiên cũng cần nói thêm là ý sâu sắc,
mới mẻ khơng có nghĩa là phải tìm ra một cách hiểu mới, một phát hiện sâu
sắc về một vấn đề quen thuộc mà đôi khi chỉ là một phát hiện nhỏ hoặc một
cách diễn đạt riêng cũng rất đáng trân trọng.
Ví dụ: Đề bài: Chất thơ trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành
Long.
*. Phân tích đề.
- Nội dung cần giải quyết: những biểu hiện của chất thơ trong truyện Lặng lẽ
Sa Pa.
- Đề bài không có yêu cầu về dạng bài nhưng với nội dung vấn đề được nêu,
có thể hiểu dạng bài nên dùng ở đây là nghị luận.
*. Tìm ý.

- Cần hiểu rõ thế nào là chất thơ trong tác phẩm văn xuôi để có sơ cở chứng
minh, giải thích.
- Xác định các biểu hiện chất thơ trong Lặng lẽ Sa Pa.
- Tìm dẫn chứng để chứng minh cho chất thơ trong tác phẩm. Đồng thời, xác
định hướng phân tích cho dẫn chứng.
Sau khi đã có được ý, bước kế tiếp GV phải hướng dẫn cho các em biết
cách sắp xếp các ý (luận điểm, luận chứng, luận cứ …..theo một trình tự hợp
lí. Việc làm này gọi là lập dàn ý.
Bước 2: Lập dàn bài.
Kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học thường có bố cục ba phần:
1. Mở bài: thường có những yếu tố sau:
Giới thiệu một vài nét tiêu biểu nhất về tác giả, tác phẩm. Chú ý đến xuất
xứ, hoàn cảnh lịch sử, phong cách nghệ thuật và nét đặc sắc của tác phẩm (dẫn
dắt). Nêu chủ đề (hoặc ý chủ đạo) của tác phẩm, hoặc đoạn văn, đoạn thơ.
Trích dẫn (có 3 cách: một là chép đủ, hai là trích dẫn đầu - cuối, ba là khơng
trích dẫn).
2. Thân bài:
Có thể cắt ngang, có thể bổ dọc, có thể phối hợp dọc ngang: thường
thường phân tích thơ thì cắt ngang, phân tích truyện thì bổ dọc. Lần lượt phân
12


tích từng phần, hết phần này, chuyển ý, chuyển đoạn qua phân tích phần khác,
lần lượt phân tích cho đến hết. Lựa chọn yếu tố để phân tích, coi trọng các
trọng tâm, trọng điểm.
Ở mỗi phần, thao tác phân tích như sau: bám sát ngơn ngữ, hình ảnh phân
tích ý và nghệ thuật; phân tích đến đâu kết hợp với trích dẫn minh họa đến
đấy. Vận dụng triệt để các thao tác so sánh đối chiếu, viết lời bình, liên tưởng
mở rộng.
Trình tự như sau:

- Phân tích phần 1 - chuyển ý, chuyển đoạn.
- Phân tích phần 2 - chuyển ý, chuyển đoạn.
- Phân tích phần 3,4 (nếu có).
3. Kết bài:
- Tổng hợp lại, đánh giá tác phẩm trên hai phương diện: giá trị tư tưởng và giá
trị nghệ thuật.
- Nêu tác dụng của tác phẩm.
- Cảm nghĩ của người viết, hoặc của lứa tuổi.
* Dàn bài chung cho bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (đoạn trích)
như sau:
- Mở bài: Giới thiệu tác phẩm truyện hay một đoạn trích (tùy theo yêu cầu cụ
thể của đề bài) và nêu ý kiến đánh giá sơ bộ của mình.
- Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm;
có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
- Kết bài: Nêu nhận định, đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện hoặc
đoạn trích.
* Dàn bài chung cho bài nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ.
- Mở bài: Giới thiệu đoạn thơ, bài thơ và bước đầu nêu nhận xét, đánh giá của
mình. (Nếu phân tích một đoạn thơ nên nêu rõ vị trí của đoạn thơ ấy trong tác
phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của nó.)
- Thân bài: Lần lượt trình bày những suy nghĩ, đánh giá về nội dung và nghệ
thuật của đoạn thơ, bài thơ.
- Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ, bài thơ.
Ví dụ: Lập dàn bài một đề cụ thể:
Để bài: Chất thơ trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
*. Mở bài:
- Giới thiệu những nét chính về Nguyền Thành Long và tác phẩm Lặng lẽ Sa
Pa (hoàn cảnh sáng tác và nội dung câu chuyện).
- Giới thiệu luận điểm chính: Lặng lẽ Sa Pa là truyện ngắn giàu chất thơ.
*. Thân bài:

1. Giải thích thế nào là chất thơ trong truyện ngắn.
2. Phân tích, chứng minh chất thơ trong Lặng lẽ Sa Pa:
a. Chất thơ toát ra từ nhan đề tác phẩm.
b. Chất thơ trong tình huống truyện.
c. Chất thơ hiển hiện từ vẻ đẹp phong phú của thiên nhiên Sa Pa.
d. Chất thơ toát ra từ vẻ đẹp tâm hồn các nhân vật trong truyện:
13


- Các nhân vật sống ở Sa Pa như anh thanh niên làm cơng tác khí tượng trên
đỉnh cao n Sơn; ông kĩ sư ở vườn rau; anh cán bộ nghiên cứu sét.
- Các nhân vật chỉ đi qua Sa Pa như ông họa sĩ, cô kỹ sư trẻ...
e. Chất thơ thể hiện qua nghệ thuật ngôn từ.
*. Kết bài:
- Ý nghĩa của chất thơ đối với chủ đề tác phẩm: ca ngợi thiên nhiên và vẻ đẹp
tâm hồn người lao động thể hiện trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Ý nghĩa của chất thơ đối với phong cách văn chương Nguyễn Thành Long.
Bên trên là một dàn bài tiêu biểu cho một bài văn nghị luận về tác phẩm
văn học, học sinh có thể dựa vào dàn bài đó để viết thành một bài văn cụ thể.
Bước 3: Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
* Yêu cầu:
- Viết theo dàn bài đã lập.
- Chú ý chọn giọng văn và ngơn từ phù hợp kiểu bài và nội dung trình bày.
+ Giọng văn và sự thay đổi giọng văn trong bài viết:
Để tránh nhàm chán, “buồn ngủ”, để bài viết thêm sinh động, phong phú,
người viết cần phải rất linh hoạt trong việc hành văn. Tránh kiểu viết đều đều
từ đầu chí cuối, tạo cảm giác đơn điệu. Muốn thế trước hết cần sử dụng linh
hoạt từ ngữ xưng hơ.
Ví dụ: Khi biểu thị ý kiến của riêng mình, người ta thường viết: tôi cho
rằng, tôi nghĩ rằng, theo chỗ tơi được biết…Nhưng để lơi kéo sự đồng tình,

đồng
cảm, để vấn đề đang bàn bạc khách quan hơn, người viết
thường xưng: chúng tôi, ta, chúng ta, như mọi người đều biết, như mọi người
đã thấy, ai cũng thừa nhận rằng, khơng ai nghĩ được rằng…
Khi viết về nhân vật thì có thể dùng đại từ nhân xưng hay một cụm từ
khác để gọi tránh sự lặp lại nhàm chán. Ví dụ nhân vật anh thanh niên (Lặng
lẽ Sa Pa) thì có thể thay bằng người con trai ấy, chàng trai thèm người…
Khi viết về tác giả nhiều học sinh từ đầu đến cuối bài văn chỉ dùng một từ
“nhà văn” hoặc “tác giả” mà không biết thay đổi cách gọi. Viết về Nguyễn
Thành Long ta có thể thay bằng các từ như: nhà văn, ông, tác giả, tác giả tập
truyện “Giữa trong xanh”…
Không phải chỉ ở cách xưng hô, giọng văn linh hoạt mà còn thể hiện ở
cách dùng các tiểu từ như: vâng, đúng thế, không, điều ấy đã rõ, như vậy, như
thế, chẳng lẽ…những từ này tạo ấn tượng như người viết đang tranh luận và
đối thoại trực tiếp với người đọc.
VD: “Vâng xét ở một phương diện nào đó, có thể xem Nam Cao tḥc vào xu
hướng văn học của những người đói”
(Kiến thức ngày nay- số 71)
Trong q trình viết bài văn nghị luận khơng nên chỉ dùng một loại thao
tác tư duy mà luôn luôn thay đổi, khi thì dùng diễn dịch, khi thì dùng quy nạp,
khi thì phân tích trước dẫn chứng sau, khi thì dùng dẫn chứng trước phân tích
sau, khi thì liên hệ, khi thì so sánh…cũng là để bài viết sinh động, phong phú
hơn.
+ Dùng từ độc đáo:
14


Viết văn nghị luận phải dùng được những từ hay, đoạn hay rồi mới có bài
văn hay. Dùng từ hay là một trong những yếu tố quyết định để có cách diễn
đạt hay. Bài văn hay là bài văn đó đọc lên từ cứ như “găm” vào tâm khảm

người đọc, từ ngữ linh hoạt, dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được thần thái của
sự vật, sự việc…làm cho người đọc khối chá thấy mình khơng thể viết được
như vậy, phải thốt lên lời cảm phục.
VD: “Chương XIII “Tắt đèn” khơng khác gì mợt cái lòng chảo đã ng̣i đi,
đã váng đọng lại mợt thứ bùn lưu niên, trên đó oằn lên một số sinh vật. Sinh
vật Nghị Quế chồng, sinh vật Nghị Quế vợ, mà lòng tham đã hết tính người.
Sinh vật lí trưởng và lũ sai nha đốc thuế người, đã tan hoang đi cái tâm
người. Và trên cái sa mạc nhân tâm đó khơng còn tia nước nguồn thương nào
cả…”
(Nguyễn Tuân – Tắt đèn của Ngô Tất Tố)
“Khúc bạc mệnh đã gẩy xong rồi, mà oán hận vẫn còn dài mãi nên Nguyễn
Du mới tự xưng cái tên thân mật của mình và đau đáu hỏi:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Xuân Diệu – Nguyễn Du - Văn nghệ số 18)
+ Viết câu linh hoạt:
Tuỳ từng lúc, từng chỗ, tuỳ vào giọng văn của từng đoạn mà có những
loại câu tương ứng để diễn đạt cho phù hợp. Một đoạn văn có câu ngắn, câu
dài khác nhau.
VD: “Trời đất ơi! Tú Bà nói khơng đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ
văng ra mãi tới ngàn năm…”
(Xuân Diệu - Văn nghệ số 18)
Khi muốn gây chú ý cho người đọc, ta có thể dùng câu nghi vấn. Câu nghi
vấn ở đây như là đặt ra vấn đề, rồi sau đó lại tự trả lời, tự làm sáng tỏ.
VD: “Thương thì đã vậy, còn ốn? Thực ra Nguyễn Du khơng biết ốn ai,…
bởi vì theo ơng thì bao nhiêu đau thương khác đâu có phải đều do những kẻ
bài binh bố trận, mà ngay cả những kẻ ấy, Nguyễn Du cũng thấy họ đáng
thương”
(Hoài Thanh)
Một loại câu cũng được vận dụng làm thay đổi giọng văn trong bài văn

nghị luận là loại câu có hai mệnh đề hơ - ứng. Chúng thường theo lối kết cấu:
tuy…nhưng…; càng…càng…; không những… mà còn…; vì thế…cho nên…
Loại câu này nhằm nhấn mạnh một ý nào đó nằm ở vế thứ hai.
Ví dụ: “Bài thơ không chỉ hay về nghệ thuật mà còn rất sắc sảo về nội dung tư
tưởng”.
*Hướng dẫn HS viết đoạn và liên kết đoạn:
Bên cạnh yêu cầu về kiến thức, một bài văn muốn đạt điểm cao còn phải
chú ý vấn đề kĩ năng.
Trước hết, phải chú ý đến bố cục bài văn. Một bài văn được đánh giá cao
bao giờ cũng phải có một bố cục chặt chẽ, hợp lý, cân đối hài hòa. Một điều
hết sức cần tránh là viết tùy hứng, vừa viết vừa nghĩ, nhớ đâu viết đấy, khi đó
15


bài văn sẽ rơi vào tình trạng lộn xộn và trùng lặp.
Kĩ năng diễn đạt (hành văn) cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu
đánh giá một bài toán chủ yếu người ta dựa trên tiêu chí đúng - sai thì khi
đánh giá một bài văn, ngồi tiêu chí đúng - sai còn có tiêu chí hay - dở. Muốn
diễn đạt hay, phải chú ý từ cách dùng từ, viết câu, đến cách dựng đoạn, liên
kết...Diễn đạt hay trước hết phải đúng, sau đó cần có sự sáng tạo, nhuần
nhuyễn, truyền cảm. Để có diễn đạt hay, trước hết phụ thuộc vào năng khiếu,
nhưng cơ bản vẫn là thực hành nhiều, chịu khó luyện tập nhiều.
Cuối cùng là kĩ năng trình bày, tức là vấn đề hình thức. Một bài văn trình
bày tốt là bài văn có chữ viết sạch đẹp (nếu khơng viết được đẹp thì phải viết
cẩn thận), tuân thủ đúng những quy cách trình bày như: lùi đầu dòng, viết hoa,
chính tả, cách sử dụng ngoặc đơn, ngoặc kép, cách đưa dẫn chứng...
1. Cách viết mở bài:
Khi viết Mở bài thực chất là trả lời câu hỏi: Bạn định viết, định bàn bạc
vấn đề gì? Nó phải đủ sức lôi kéo người đọc tò mò khám phá những gì tiếp
theo. Vì thế, phần Mở bài khơng chỉ được diễn đạt một cách rõ ràng, súc tích

mà còn có khả năng mở ra những suy đốn cho người đọc.
a. Nguyên tắc mở bài:
Trước khi muốn viết hay phải đúng yêu cầu của đề ra. Khi viết mở bài, cần
đảm bảo được một số yếu tố như dẫn dắt, giới thiệu tác giả, tác phẩm (nếu
cần), nêu luận đề (nếu là nhận định/ ý kiến phải trích nguyên văn)....
Có thể nói một mở bài hay phải: Ngắn gọn (Dẫn dắt thường vài ba câu,
nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề một câu), đầy đủ (đủ 3 vấn đề), độc
đáo (gây được sự chú ý của người đọc), tự nhiên (Giản dị, tự nhiên, tránh
vụng về gượng ép tránh gây cho người đọc khó chịu bởi sự giả tạo).
b. Cách mở bài: Để viết mở bài không chỉ phải biết rõ vấn đề người viết
muốn nói là gì (cốt ý của thân bài) mà cần biết rõ (với bản thân) với vấn đề ấy
thì nên mở bài trực tiếp hay gián tiếp.
Có rất nhiều cách mở bài. Tuỳ dụng ý của người làm mà có thể vận dụng
một trong những cách sau đây:
- Mở bài trực tiếp: là nêu thẳng vấn đề sẽ trình bày ở thân bài.
- Mở bài gián tiếp: là dùng một nội dung khác, nói một chuyện khác để làm
bật lên tầm quan trọng của chủ đề chính. Tức là dẫn ra một ý khác có liên
quan gần gũi, sau đó, nêu vấn đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có khơng khí tự
nhiên và có chất văn, người ta thường mở bài theo kiểu gián tiếp. Có nhiều
cách mở bài gián tiếp nhưng tựu trung có 4 cách cơ bản: từ khái quát đến cụ
thể, so sánh đối chiếu, tương đồng, tương phản.….
Dù mở bài theo lối giáp tiếp hay trực tiếp thì trong cả hai cách mở bài đều
có những yếu tố lặp lại với mục đích giới thiệu ngắn về tác giả và nêu luận đề.
Sau khi đã hướng dẫn cụ thể cho HS các cách mở bài trên, GV tiến hành
cho HS rèn viết đoạn mở bài và tin chắc rằng HS sẽ viết tốt.
Dưới đây là ví dụ mở bài cho đề: Chất thơ trong truyện “Lặng lẽ Sa Pa”
của Nguyễn Thành Long.
Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết về truyện ngắn và kí. Những
16



truyện ngắn của ông không gân guốc, gai gốc mà thường pha chất kí, mang vẻ
đẹp trong trẻo, thơ mộng, giàu chất trữ tình. “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của
chuyến đi lên Lào Cai trong mùa hè năm 1970. Truyện rút từ tập “Giữa trong
xanh” in năm 1972 của Nguyễn Thành Long. Đây là truyện ngắn tiêu biểu cho
đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tác phẩm
có cốt truyện khá đơn giản, chỉ tập trung vào cuộc gặp gỡ tình cờ giữa ông họa
sĩ, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên - nhân vật chính của tác phẩm, sống trên đỉnh
Yên Sơn cao 2600m, giữa khung cảnh thiên nhiên Sa Pa đẹp như một bức
tranh. Chất thơ bàng bạc toát lên từ khung cảnh nên thơ ấy.
Bước kế tiếp, GV sẽ hướng dẫn HS viết phần thân bài (gồm nhiều đoạn,
GV có thể chọn cho HS viết một đoạn tiêu biểu)
2. Cách viết phần thân bài:
* Kĩ năng viết phần thân bài: Khi viết thân bài cần lưu ý:
- Phải có kiến thức và kĩ năng vì đây là phần quan trọng của một bài văn.
- Phải triển khai thân bài bằng các đoạn văn nhỏ hoàn chỉnh cả về nội dung và
hình thức.
- Cần phải thể hiện những đánh giá, nhận xét, cảm nhận về cả hình ảnh, chi
tiết, nghệ thuật của người viết.
- Phải có sự sắp xếp các ý theo trình tự hợp lí, tránh sự lặp lại không cần thiết
mà làm cho bài viết thiếu lơgíc và thêm rối.
Vì vậy, trước hết, GV nên xác định vai trò của phần thân bài cho HS nhận
thức đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn. Phần thân bài sẽ lần
lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá … các luận điểm của vấn đề được
đặt ra trong đề bài (thực hiện vừa đủ, không thiếu, không thừa các nhiệm vụ
đã đề ra ở phần mở bài).
Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, chứng minh cụ thể, chính xác bằng
những dẫn chứng sinh động trong tác phẩm.
Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách
linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, cơng thức.

Sau khi đã có ý (luận điểm, luận cứ) rồi thì vấn đề quan trọng hơn cả là biết
diễn đạt hay. Tức là biết diễn đạt một cách khéo léo những ý của người viết
thành một bài văn cụ thể.
Dưới đây là một đoạn thân bài trình bày luận điểm: Chất thơ toát ra từ
nhan đề tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long mà GV có thể giới
thiệu cho HS tham khảo.
Lặng lẽ Sa Pa khi mới đọc cái tên ta có cảm giác Nguyễn Thành Long
đang viết về một nơi yên ắng, lạnh giá, hiu hắt hoặc nghĩ về một vùng đất chỉ
để nghỉ ngơi, tham quan du lịch nhiều hơn. Nhưng điều kì diệu và bất ngờ là
trong cái lặng lẽ của Sa Pa vẫn vang lên những nhịp sống sôi động, trong sáng
của tuổi trẻ, vẫn lung linh những sắc màu và lan tỏa ấm áp lòng người. Nơi ấy
đang bừng dậy sức sống của những con người, những tấm lòng đang sống,
làm việc âm thầm lặng lẽ, cống hiến cho quê hương đất nước. Đó là những
con người sống đẹp, có ích cho đời, có lí tưởng ước mơ, niềm tin yêu vững
bền vào sự nghiệp, kiến thức, trình độ, khoa học mà nhân vật anh thanh niên
17


là hiện thân của vẻ đẹp đó.
Bên trên chỉ là một đoạn tiêu biểu của phần thân bài, GV có thể hướng
dẫn HS viết các đoạn khác nhau của đề. Dù là đoạn văn nào thì GV cũng phải
phân tích cho HS thấy rõ các cách trình bày nội dung một đoạn văn.
3. Cách viết đoạn kết bài:
Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài.
Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái qt, khơng trình bày lan man hay
lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên
văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá,
tổng kết vấn đề.
Thơng thường có bốn cách viết kết bài hay.
- Cách 1: Tóm tắt lại nội dung đã nêu ở thân bài.

- Cách 2: Mở rộng thêm vấn đề được đặt ra trong đề bài.
- Cách 3: Vận dụng điều đã nêu ở đề bài vào cuộc sống.
- Cách 4: Liên tưởng hoặc rút ra bài học.
Thế nên, để hướng dẫn HS viết được những kết bài sâu sắc, người GV cần
phải giúp HS nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài (khơng chỉ
khép lại, hồn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao
về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp …)
Dưới đây là cách kết bài cho đề bài văn: Chất thơ trong truyện “Lặng lẽ
Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
“Lặng lẽ Sa Pa” quả là một truyện ngắn đầy chất thơ của Nguyễn Thành
Long. Nó ngân nga, nhẹ nhàng, thơ mộng dưới ngòi bút sắc sảo, tinh tế của
tác giả tạo nên những bức tranh lung linh, kì ảo, đằm thắm, ấm áp. “Sa Pa lặng
lẽ” nhưng đã để lại nhiều dư vang. Sa Pa lặng lẽ mà khơng cơ quạnh, đìu hiu.
Bởi nơi đây vẫn còn có rất nhiều những con người ngày đêm âm thầm lặng lẽ
dâng hiến tuổi trẻ, trí tuệ và niềm say mê lao động của mình cho đất nước, cho
cuộc đời. Hãy làm những việc bình thường bằng một niềm tin phi thường bạn
nhé! Chính tình yêu cuộc sống, sự say mê lao động sẽ đem đến cho bạn những
giây phút thăng hoa. Chính niềm say mê sáng tạo mà Nguyễn Thành Long đã
mang đến cho ta một áng văn thấm đẫm chất trữ tình.
Bước 4: Đọc lại bài viết và sửa chữa.
Đọc lại các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài xem có phù hợp với vấn đề
nghị luận, với dàn bài không, giữa các phần có sự liên kết hợp lí chưa. Sửa
chữa bài viết cho hồn chỉnh.
Có thể nói, hướng dẫn HS cách làm bài văn Nghị luận về tác phẩm văn
học tức là đi tìm và khám phá ra cái hay, cái đẹp trong nghệ thuật văn chương.
Từ khâu phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn là cả một
quá trình lao động nghệ thuật sáng tạo. Giúp các em hiểu ra chân lí ấy sẽ là
con đường ngắn nhất hướng các em yêu thích văn chương và có hứng thú khi
làm bài Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác phẩm văn học.
Vì vậy, đây là cơng việc khó khăn và cũng là niềm say mê, hạnh phúc lớn

đối với giáo viên dạy văn. Nó đòi hỏi người thầy khơng chỉ có tầm mà còn có
tâm. Và chính sự tâm huyết với nghề mới hy vọng đem lại những thành quả
18


như mong muốn… Để đạt được một số thành công trong việc hướng dẫn học
sinh cách viết bài văn nghị luận tác phầm văn học mỗi giáo viên lựa chọn
những phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh cũng như đặc trưng bộ
môn và vận dụng linh hoạt theo cách riêng của mình.
Trên đây là một số phương pháp hướng dẫn học sinh cách làm bài nghị
luận về tác phẩm văn học mà tôi đã áp dụng trong giảng dạy. Tơi đã giúp HS
của các lớp do chính tơi trực tiếp giảng dạy có kĩ năng viết bài nghị luận; từ
việc phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn đạt được kết quả
tốt trong tiết kiểm tra viết bài Tập làm văn (2 tiết), kiểm tra học kì II, kì thi
học sinh giỏi các cấp luôn đảm bảo chỉ tiêu.
Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề; khai thác
được ý hay, ý sâu sắc; phân tích tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi và sáng tạo
mang phong cách riêng, khơng còn gượng ép, máy móc hay khn sáo.
Rất ít bài làm sơ lược, ý nghèo nàn hoặc khơng tìm được ý.
Theo dõi tỷ lệ HS viết bài văn Nghị luận về tác phẩm văn học khi làm bài
kiểm tra viết bài Tập làm văn (2 tiết), kiểm tra học kì II, kì thi học sinh giỏi
các cấp trong hai năm (2016-2017; 2017-2018) sau khi thực hiện các biện
pháp trong SKKN có sự tiến bộ rõ rệt:
Năm học 2015-2016: Tỷ lệ học sinh viết hay và biết viết bài văn nghị luận
về tác phẩm văn học chưa nhiều để có thể đưa chất lượng mũi nhọn của nhà
trường vươn lên vị trí một con số trong bảng xếp hạng thi đua giữa các trường
trong toàn huyện và chất lượng đại trà của trường cũng chỉ ở mức đạt chỉ tiêu.
Chất lượng học sinh giỏi: Có 1 HS đạt giải KK cấp huyện, khơng có giải
tỉnh.
Chất lượng đại trà: Trong kì thi học kì II vẫn có những học sinh đạt điểm

giỏi tuy nhiên vẫn còn học sinh bị điểm kém mơn Văn. Vì vậy, điểm trung
bình mơn chỉ đạt >= 85%, vẫn có học sinh thi lại.
Kết quả cuối năm: 2016-2017 và 2017- 2018:
NĂM HỌC

2016-2017

2017-2018

CHẤT LƯỢNG HỌC SINH GIỎI

Có 1 HS đạt giải 2 cấp huyện, 1
giải KK cấp tỉnh đã góp phần
đưa vị trí xếp hạng của trường
lên cao hơn so với năm trước.
Có 1 HS đạt giải 2 cấp huyện, 1
HS trên điểm trung bình cấp tỉnh
đã góp phần duy trì vị trí xếp
hạng của trường.

CHẤT LƯỢNG ĐẠI TRA

95%

97%

Kết quả này cho thấy, số học sinh viết bài đạt điểm cao, xuất sắc để trở
thành học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn vẫn chưa nhiều nhưng cũng đã góp phần
nâng cao chất lượng mũi nhọn cũng như duy trì được chất lượng học sinh đại
trà hàng năm. Điều này đã phản ánh được tác dụng của những phương pháp,

19


kĩ năng hướng dẫn nói trên.
3. PHẦN KẾT LUẬN.
3.1. Ý nghĩa của việc hướng dẫn học sinh cách viết bài nghị luận về tác
phẩm văn học.
Dạy văn nói chung, dạy phân môn Tập làm văn kiểu bài Nghị luận về tác
phẩm văn học nói riêng ở khối lớp 9 trường Trung học cơ sở là dạy cho các
em học sinh lứa tuổi 14, 15 - lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, năng động nhạy
cảm, giàu cảm xúc và trí tưởng tượng, sự cảm thụ tiếp nhận nghệ thuật bắt đầu
hình thành, biết tìm tòi, khám phá ra thế giới nghệ thuật của văn chương. Tác
phẩm văn học là thành quả sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Mỗi tác phẩm văn
thơ mang dấu ấn của một thời kì văn học nhất định (có thể cách xa thời đại mà
các em sống hiện nay cả hàng thế kỉ, hàng thập niên …) dù nhỏ (một câu tục
ngữ, một bài ca dao) hay lớn (một bài văn, một bài thơ, một truyện ngắn hay
một bộ tiểu thuyết) đều có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Làm thế nào để
người giáo viên giúp học sinh biết cách trình bày để thể hiện sự đồng cảm với
những giá trị tư tưởng nhân văn trong mỗi tác phẩm?
Lep-tơn-xtơi nói: “Vấn đề khơng phải biết là quả đất tròn mà là làm thế
nào để biết được quả đất tròn?”. Chân lí là quý báu! Nhưng cách tìm ra chân lí
còn quý hơn nhiều. Vì vậy, hướng dẫn học sinh cách làm bài Tập làm văn kiểu
bài Nghị luận về tác phẩm văn học là làm sao hình thành cho học sinh kĩ năng,
phương pháp để tìm ra cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm đó là một việc làm
thiết thực, đầy ý nghĩa trong các nhà trường THCS; ngoài ra còn là việc làm
thiết thực góp phần nâng cao ý thức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
giáo viên.
3.2. Kiến nghị, đề xuất.
Qua việc nghiên cứu sáng kiến này cho phép tôi có một vài đề nghị sau:
- Đối với giáo viên:

Giáo sư Lê Trí Viễn cũng có lời nhắn nhủ: “Dạy văn lấy cảm làm đầu”.
Người giáo viên dạy học sinh phương pháp làm bài văn Nghị luận về tác
phẩm văn học không thể nghèo nàn cảm xúc. Bởi những trang truyện hay,
những số phận của các nhân vật trong truyện đều có cuộc đời riêng, có tư
tưởng, tình cảm, nội tâm ….phong phú và đa dạng. Cho nên trong hướng dẫn
gợi ý học sinh trình bày những cảm nhận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, chủ
đề….trong tác phẩm truyện phải xuất phát từ những rung cảm chân thật, thẩm
mĩ. Đồng thời biết kết hợp linh hoạt nhiều phép lập luận (giải thích, chứng
minh, phân tích,…). Trong khi hướng dẫn học sinh cách làm bài và luyện tập,
giáo viên cần chú ý phát huy, động viên tính tích cực, sáng tạo của từng học
sinh chứ không gò ép theo những khuôn mẫu. Người giáo viên phải biết khơi
gợi những cảm xúc của học sinh, kích thích và ni dưỡng, phát triển ở học
sinh những nhu cầu đồng cảm và khát vọng nhận thức cái mới qua hình tượng
nhân vật, ngơn ngữ đối thoại, độc thoại,… Vì vậy, nếu ai đó tự cho rằng mình
đã gợi đầy đủ các ý tưởng của tác phẩm qua từng trang truyện thì chưa hẳn là
20


một giáo viên dạy tốt mà phải nắm chắc phương pháp hướng dẫn HS cách làm
bài văn Nghị luận về tác phẩm văn học.
- Đối với học sinh:
Bài văn đạt điểm cao có rất nhiều yêu cầu, đòi hỏi người viết khơng
những phải có kiến thức vững vàng, sâu sắc mà còn phải có kĩ năng làm bài.
Muốn có hai điều đó cần phải có quyết tâm lớn và nhất là lòng say mê, không
chỉ say mê học tập mà còn có tình u với mơn văn.
Muốn diễn đạt hấp dẫn, linh hoạt khơng gì bằng chăm đọc sách văn học
và suy nghĩ. Khi viết nên sử dụng nhiều kiểu câu, dùng từ ngữ có giá trị biểu
cảm và diễn đạt theo ý nhiều cách như so sánh, bày tỏ cảm xúc, hình dung...
Đừng quên làm nhiều sẽ thuần thục nên các em hãy hết sức cố gắng.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của tôi về việc “Hướng dẫn học sinh

cách viết bài nghị luận về tác phẩm văn học” được thực hiện tại trường
THCS. Vì điều kiện thời gian nghiên cứu có hạn nên sáng kiến của tơi chắc
chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Do vậy tơi rất mong nhận được sự góp ý của các
đồng nghiệp và cán bộ phụ trách chuyên môn. Tôi xin chân thành cảm ơn!

21


MỤC LỤC
1- PHẦN MỞ ĐẦU: ……………………………………………….. .Trang 1
1.1. Lý do chọn sáng kiến: .………………………………………… Trang 1
1.2. Điểm sáng của sáng kiến: ...…………………………………….Trang 2
1.3. Phạm vi nghiên cứu: ……………………………………………Trang 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu: ..…………………………………….Trang 2
2. PHẦN NỘI DUNG: .…………………………………………….Trang 2
2.1. Thực trạng việc dạy và học viết bài văn nghị luận về tác phẩm văn học ở
trườngTHCS: ………………………………………………………..Trang 2
2.2. Các phương pháp hướng dẫn học sinh cách viết bài nghị luận về tác
phẩm văn học. ……………………………………………………....Trang 3
2.2.1. Những yêu cầu có tính ngun tắc khi dạy viết: .....................Trang 3
2.2.2. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh cách viết bài văn nghị luận tác
phẩm văn học: ……………………………………………………....Trang 6
3. PHẦN KẾT LUẬN: ....……………………………………….….Trang 20
3.1. Ý nghĩa của việc hướng dẫn học sinh cách viết bài nghị luận về tác phẩm
văn học: ………………………………………………................... . .Trang 20
3.2. Kiến nghị, đề xuất: .…………………………………………….Trang 20

22



TÀI LIỆU KHAM KHẢO.
1. Phương pháp làm bài Nghị luận tác phẩm Văn học 9 của Hoàng Đức
(NXB GD Thành phố Hồ Chí Minh)
2. Hiểu Văn, dạy Văn của Nguyễn Thanh Hùng (NXB GD Thành phố Hồ
Chí Minh)
3. Đọc Văn, học Văn của Trần Đình Sử (NXB GD 2002).
4. Để hiểu thêm một số tác giả và tác phẩm Văn học Việt Nam hiện đại của
Nguyễn Ngọc Thu (NXB GD).
5. Sách Ngữ văn 9 hiện hành (SGK & SGV).
6. Tài liệu tham khảo soạn kĩ năng làm văn nghị luận của Vụ GD – TH.
7. Tiếp cận và đánh giá tác phẩm truyện sau Cách mạng tháng Tám của
Nguyễn Văn Long (NXB GD).
8. Tạp chí Văn học tuổi trẻ.

23



×