Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.54 KB, 54 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Lí luận văn học là một bộ mơn của khoa học nghiên cứu văn học. Nó có
nhiệm vụ nghiên cứu bản chất, chức năng xã hội - thẩm mĩ và quy luật phát triển của
sáng tác văn học. Do đó nó có tác dụng xác định phương pháp luận và phương pháp
phân tích, cảm thụ văn học. Đây là vấn đề quan trọng không những cho người sáng
tác mà còn đặc biệt quan trọng đối với người học văn. Nhờ kiến thức lí luận mà học
sinh có thể nhận thức đúng vấn đề nghị luận. Khi làm bài, học sinh biết nhận xét,
đánh giá, bình luận...vấn đề; hiểu đúng đắn, sâu sắc những khái niệm, thuật ngữ văn
học. Có thể nói, lí luận văn học đóng vai trị mở đường, nó như chiếc chìa khóa giúp
người học văn “mở cửa” để đi vào khám phá văn học từ quy mô rộng (một nền văn
học) hay quy mô hẹp (tác phẩm văn học).
Trong các kì thi chọn học sinh giỏi cấp Tỉnh và cấp Quốc gia những năm gần
đây, đề thi đều yêu cầu phải vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết vấn đề.
Song trên thực tế, bài làm của học sinh dễ “bỏ ngỏ” phần lí luận văn học hoặc hiểu
chưa sâu, chưa đúng các khái niệm, thuật ngữ văn học. Hơn nữa, tri thức lí luận văn
học được đưa vào giảng dạy ở bậc THPT cịn rất ít ỏi. Trong phân phối chương trình
tồn cấp học, học sinh được học 05 bài lí luận văn học với thời lượng là 9 tiết/333
tiết. Vậy khi bồi dưỡng học sinh giỏi, ngoài việc trang bị kiến thức về tác phẩm, cần
cung cấp thêm kiến thức lí luận văn học nào, rèn cho các em kĩ năng vận dụng kiến
thức đó ra sao quả là điều khơng đơn giản.
Xuất phát từ thực tiễn trong q trình ơn thi học sinh giỏi, tôi tiến hành
thực hiện chuyên đề “Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học
để giải quyết các yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn” với mong
muốn đem đến cho các thầy cô giáo và các em học sinh một tài liệu tham khảo
hữu ích, cũng là góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở
trường phổ thơng nói chung.
2. Tên sáng kiến:
1



“Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận văn học để giải quyết các
yêu cầu của đề thi học sinh giỏi môn Ngữ Văn”.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
- Địa chỉ: Giáo viên trường THPT Nguyễn Thái Học.
- Số điện thoại: 0986.229.678.
- Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Tuyết Nhung.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy môn Ngữ Văn mà trọng tâm là công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
Năm 2017.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
I. Những kiến thức lí luận văn học cần bồi dưỡng cho học sinh
1. Giá trị văn học và tiếp nhận văn học
1.1. Giá trị văn học
- Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc sống.
- Những giá trị cơ bản: Giá trị nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị thẩm mĩ.
1.1.1. Giá trị nhận thức
* Cơ sở:
- Tác phẩm văn học là kết quả của q trình nhà văn khám phá, lí giải hiện thực đời
sống rồi chuyển hố những hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm. Bạn đọc đến với tác
phẩm sẽ được đáp ứng nhu cầu về nhận thức.
2



- Mỗi người chỉ sống trong một khoảng thời gian nhất định, ở những không gian
nhất định với những mối quan hệ nhất định. Văn học có khả năng phá vỡ giới hạn
tồn tại trong thời gian, không gian thực tế của mỗi cá nhân, đem lại khả năng sống
cuộc sống của nhiều người, nhiều thời, nhiều nơi.
->Giá trị nhận thức là khả năng của văn học có thể đáp ứng được yêu cầu của con
người muốn hiểu biết cuộc sống và chính bản thân, từ đó tác động vào cuộc sống
một cách có hiệu quả.
* Biểu hiện:
- Q trình nhận thức cuộc sống của văn học: nhận thức nhiều mặt của cuộc sống
với những thời gian, không gian khác nhau (Quá khứ, hiện tại, tương lai, các vùng
đất, các dân tộc, phong tục, tập quán,…).
- Quá trình tự nhận thức của văn học: người đọc hiểu được bản chất của con người
nói chung (mục đích tồn tại, tư tưởng, khát vọng, sức mạnh của con người); từ đó
mà hiểu chính bản thân mình.
1.1.2. Giá trị giáo dục
* Cơ sở:
- Con người khơng chỉ có nhu cầu hiểu biết mà cịn có nhu cầu hướng thiện, khao
khát cuộc sống tốt lành, chan hồ tình u thương.
- Nhà văn ln bộc lộ tư tưởng - tình cảm, nhận xét đánh giá,…của mình trong tác
phẩm. Điều đó tác động lớn và có khả năng giáo dục người đọc.
- Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục. Giá trị giáo dục làm sâu sắc
thêm giá trị nhận thức.
* Biểu hiện:
- Văn học đem đến cho con người những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn
luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.
+ Về tư tưởng: Văn học hình thành trong con người một lí tưởng tiến bộ, giúp học
có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống.
+ Về tình cảm: Văn học giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, làm cho tâm hồn
con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn.


3


+ Về đạo đức: Văn học nâng đỡ cho nhân cách con người phát triển, giúp cho họ
biết phân biệt phải-trái, tốt - xấu, đúng - sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó
cuộc sống của cá nhân mình với cuộc sống của mọi người.
- Đặc trưng giáo dục của văn học là từ con đường cảm xúc đến nhận thức, tự giáo
dục (khác với pháp luật, đạo đức,…). Văn học cảm hóa con người bằng hình tượng,
bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp nên nó giáo dục một cách tự giác, thấm sâu, lâu bền.
Văn học không chỉ góp phần hồn thiện bản thân con người mà còn hướng con
người tới những hành động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn.
1.1.3. Giá trị thẩm mĩ
* Cơ sở:
- Con người ln có nhu cầu cảm thụ, thưởng thức cái đẹp.
- Thế giới hiện thực đã có sẵn cái đẹp nhưng khơng phải ai cũng có thể nhận biết và
cảm thụ. Nhà văn, bằng năng lực của mình đã đưa cái đẹp vào tác phẩm một cách
nghệ thuật, giúp người đọc vừa cảm nhận được cái đẹp cuộc đời vừa cảm nhận được
cái đẹp của chính tác phẩm.
-> Giá trị thẩm mĩ là khả năng của văn học có thể đem đến cho con người những
rung động trước cái đẹp (cái đẹp của cuộc sống và cái đẹp của chính tác phẩm).
* Biểu hiện:
- Văn học đem đến cho con người những vẻ đẹp mn hình, mn vẻ của cuộc đời
(thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc đời, lịch sử,…).
- Văn học đi sâu miêu tả vẻ đẹp con người (ngoại hình, nội tâm, tư tưởng - tình
cảm, những hành động, lời nói,…).
- Văn học có thể phát hiện ra vẻ đẹp của những sự vật rất nhỏ bé, bình thường và cả
những vẻ đẹp đồ sộ, kì vĩ.
- Hình thức đẹp của tác phẩm (kết cấu, ngôn ngữ, thủ pháp NT…) cũng chính là
một nội dung quan trọng của giá trị thẩm mĩ.
1.1.4. Mối quan hệ giữa các giá trị văn học

- Ba giá trị có mối quan hệ mật thiết, khơng tách rời, cũng tác động đến người đọc
(khái niệm chân - thiện - mĩ của cha ông).

4


- Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục. Giá trị giáo dục làm sâu sắc
thêm giá trị nhận thức. Giá trị thẩm mĩ khiến cho giá trị nhận thức và giá trị giáo dục
được phát huy. Khơng có nhận thức đúng đắn thì văn học khơng thể giáo dục được
con người vì nhận thức không chỉ để nhận thức mà nhận thức là để hành động.
Tuy nhiên, giá trị nhận thức là giáo trị giáo dục chỉ có thể phát huy một cách tích cực
nhất, có hiệu quả cao nhất khi gắn với giá trị thẩm mĩ - giá trị tạo nên đặc trưng của
văn học.
1.2. Tiếp nhận văn học
1.2.1. Tiếp nhận trong đời sống văn học
- Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hồ mình vào tác phẩm, rung động với
nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngơn từ, lắng tai nghe
tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng
tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hố và bằng cả tâm hồn mình,
người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình
ảnh, hình tượng, nhân vật,…làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành
một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút.
-> Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm
biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.
1.2.2. Tính chất tiếp nhận văn học
- Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp (tác giả và người tiếp nhận,
người nói và người nghe, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thơng).
- Tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận: Các yếu tố
thuộc về cá nhân có vai vai trị quan trọng: năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trình
độ học vấn, kinh nghiệm sống,…Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong

thị hiếu thẩm mĩ làm cho sự tiếp nhận mang đậm nét cá nhân. Chính sự chủ động,
tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống cho tác phẩm.
- Tính đa dạng, khơng thống nhất: Cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác
phẩm rất khác nhau, thậm chí cùng một người ở nhiều thời điểm có nhiều khác nhau
trong cảm thụ đánh giá. Nguyên nhân ở cả tác phẩm (nội dung phong phú, hình

5


tượng phức tạp, ngôn ngữ đa nghĩa,…) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh nghiệm,
học vấn, tâm trạng,…).
1.2.3. Các cấp độ tiếp nhận văn học
- Có ba cấp độ tiếp nhận văn học:
+ Cấp độ thứ nhất: cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của
tác phẩm, nội dung trực tiếp của tác phẩm. Đây là cách tiếp nhận đơn giản nhưng
khá phổ biến.
+ Cấp độ thứ hai: cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung tư tưởng
của tác phẩm.
+ Cấp độ thứ ba: cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức để thấy được giá trị tư
tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Để tiếp nhận văn học có hiệu quả thực sự, người tiếp nhận cần:
+ Nâng cao trình độ.
+ Tích luỹ kinh nghiệm.
+ Trân trọng tác phẩm, tìm cách hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn.
+ Tiếp nhận một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái
đúng.
+ Không nên suy diễn tuỳ tiện.
2. Nội dung và hình thức trong văn bản văn học
2.1. Các khái niệm về nội dung văn bản văn học
2.1.1. Đề tài

Đề tài là phạm vi cuộc sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá
và thể hiện trong văn bản. Việc lựa chọn đề tài bước đầu bộc lộ khuynh hướng và ý
đồ sáng tác của tác giả.
2.1.2. Chủ đề
- Chủ đề là nội dung cuộc sống được nêu ra trong tác phẩm. Chủ đề thể hiện điều
quan tâm cũng như chiều sâu nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống.
- Một văn bản có thể có nhiều chủ đề. Tầm quan trọng của chủ đề không phụ thuộc
vào khuôn khổ văn bản, cũng như không phụ thuộc vào việc chọn đề tài. Có những
6


văn bản rất ngắn, đề tài lại rất hẹp nhưng chủ đề đặt ra lại hết sức lớn lao (chẳng hạn
bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương)
2.1.3. Cảm hứng nghệ thuật
Cảm hứng nghệ thuật là nội dung tình cảm chủ đạo của văn bản. Những trạng thái
tâm hồn, những cảm xúc được thể hiện đậm đà, nhuần nhuyễn trong văn bản sẽ
truyền cảm và hấp dẫn người đọc. Qua cảm hứng nghệ thuật, người đọc cảm nhận
được tư tưởng, tình cảm của tác giả nêu trong văn bản.
2.1.4. Tư tưởng
Tư tưởng của văn bản là sự lí giải đối với chủ đề đã nêu lên, là nhận thức của tác
giả muốn trao đổi, nhắn gửi, đối thoại với người đọc. Tư tưởng là linh hồn của văn
bản văn học.
2.2. Các khái niệm thuộc về hình thức văn bản văn học
2.2.1. Ngôn từ
- Ngôn từ là yếu tố đầu tiên, là vật liệu, công cụ, lớp vỏ đầu tiên của tác phẩm văn
học.
- Ngôn từ hiện diện trong từ ngữ, câu đoạn, hình ảnh, giọng điệu của văn bản.
- Được nhà văn chọn lọc hàm súc, đa nghĩa... mang dấu ấn của tác giả.
2.2.2. Kết cấu
- Là sự sắp xếp tổ chức các thành tố của văn bản thành một đơn vị thống nhất chặt

chẽ, hồn chỉnh, có ý nghĩa.
Có nhiều cách kết cấu: theo thời gian; khơng gian; đầu, cuối tương ứng; mở theo
dịng suy nghĩ; tâm lí; theo sự việc;... hàm chứa dụng ý của tác giả sao cho phù hợp
với nội dung văn bản
2.2.3. Thể loại
- Thể loại là những quy tắc tổ chức hình thức văn bản phù hợp với nội dung văn
bản: thơ, tiểu thuyết, kịch…
7


- Mỗi thể loại được biến đổi theo thời đại và mang sắc thái cá nhân của tác giả.
Cần lưu ý: khơng có hình thức nào là "hình thức thuần t" mà hình thức bao giờ
cũng "mang tính nội dung”. Vì vậy, trong q trình tìm hiểu và phân tích tác phẩm,
cần chú ý mối quan hệ hữu cơ, lôgic giữa hai mặt nội dung và hình thức của một tác
phẩm một cách thống nhất, toàn vẹn.
3. Văn học - Nghệ thuật ngơn từ
3.1. Vì sao văn học là nghệ thuật của ngôn từ ?
- Mỗi bộ môn nghệ thuật đều có một chất liệu riêng tạo nên đặc trưng của hình
tượng. Nếu âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét và màu sắc, điêu khắc
dùng mảng khối thì văn học chọn ngơn từ làm chất liệu.
- Ngơn từ văn học vốn không như ngôn từ ta hay dùng trong sinh hoạt hằng ngày.
Ngôn ngữ đời sống dùng trong lao động và sinh hoạt hằng ngày là chủ yếu, có tác
dụng nhận và phát thơng tin nên người ta thường đơn giản ngôn từ đến mức tối đa
sao cho người nghe dễ hiểu, dễ tiếp thu là được. Ngôn từ văn học vốn bắt nguồn từ
ngôn ngữ của quần chúng lao động nhưng nó lại khơng dùng một cách đơn giản như
lời nói thơng thường. Từ lời nói thơ mộc thơng thường, chỉ có ý nghĩa thơng báo
nhất thời, nhà văn đã nhào nặn và tái tạo lại nó, khốc cho nó tấm áo mới. Bấy giờ,
lời nói bình thường trở thành ngơn ngữ nghệ thuật, có tác dụng thể hiện cái vô cùng,
vô tận của cuộc đời tâm hồn con người một cách hình tượng. Nó gợi dậy những cảm
xúc nơi độc giả, cho ta cảm giác mới mẻ và trong ngần. Mỗi từ, mỗi câu như khêu

gợi một cái gì lớn hơn, tràn ra ngồi nó, tạo dựng ý ngồi lời, hình thành một chỉnh
thể hình tượng mới mẻ.
- Mặt khác, sở dĩ nói văn học là nghệ thuật ngơn từ là vì đó là cách sử dụng từ ngữ
đầy nghệ thuật của nhà văn. Ngôn từ văn học mang tính tổ chức cao để khi đọc lên,
độc giả có thể cảm nhận được cuộc sống và nỗi lịng người viết, từ đó tác phẩm nằm
lại ở trong tim độc giả.
3.2. Đặc điểm của ngôn từ văn học.
3.2.1. Tính chính xác và tinh luyện.

8


- Trong đời sống cũng như trong văn học, chính xác là yếu tố rất quan trọng trong
việc dùng ngôn ngữ. Để diễn tả cho ra được đúng và chính xác cái thần của người và
việc thì từng câu từng chữ cũng phải thật chính xác, chi tiết và cụ thể. Qua cách lựa
chọn từ ngữ, ta còn thấy được tài năng của nhà văn: gọi đúng tên, đúng bản chất đối
tượng. Mỗi từ trong văn học là duy nhất, khơng có từ nào thay thế. Dù đối tượng
anh viết là ai đi nữa thì cũng chỉ có một từ để nói.
- Các nhà văn lớn đều là những bậc thầy trong việc dùng từ.
3.2.2. Tính hàm súc và đa nghĩa.
- Điều này làm nên ý tại ngôn ngoại, tạo dư ba cho tác phẩm. Ngôn từ trong văn
học phải cô đọng, nén chặt ý tối đa tạo sức nặng, độ thừa và nhiều lượng ngữ nghĩa.
- Từ ngữ tiếng Việt vốn có khả năng chuyển nghĩa tạo nghĩa mới hay do tu từ nên
ngơn từ văn học cũng có tính đa nghĩa. Văn bản văn học, do đó, nó cũng có tính đa
nghĩa.
3.2.3. Tình hình tượng.
- Tính hình tượng là quan trọng nhất. Tính hình tượng biểu hiện ở việc làm sống dậy
hiện thực trong tâm trí độc giả, tái hiện được trạng thái, truyền được động tác hoặc
sự vận động của con người, cảnh vật và toàn bộ thế giới mà tác phẩm nói tới. Ngồi
ra, nó cịn biểu hiện ở sự nắm bắt những cái mơ hồ, mong manh, vơ hình chứ khơng

chỉ dừng lại ở những cái hữu hình.
- Cơ sở từ trong nội dung của lời nói nghệ thuật nằm ở tính hình tượng. Nhà văn viết
ra những câu chữ ấy, không chỉ để giải tỏa tâm sự mà cịn thể hiện tư tưởng, tình
cảm của giai cấp mình, tầng lớp mình. Lời nói tuy là của chủ thể sáng tạo nhưng lại
mang tầm vóc khái quát là ở chỗ đó. Nhà văn đại diện cho giai cấp, thế hệ mình
đang sống, thay họ cất tiếng nói.
- Mặt khác, trong văn học, sức mạnh của lời nói nằm ở tầm khái qt của chủ thể
hình tượng, ở khả năng đại diện cho tư tưởng, tình cảm, lương tâm của thời đại chứ
không phải phụ thuộc vào địa vị xã hội của nhà văn. Từ phương trời của một người
mà thành phương trời của nhiều người, tác phẩm từ đó trường tồn mãi với thời
gian.
3.2.4. Tính biểu cảm.
9


- Nghệ thuật nói bằng thứ tiếng duy nhất: thứ tiếng của cảm xúc. Bản chất người
nghệ sĩ là giàu tình cảm và nhạy bén trước cuộc đời. Do đó, ngơn từ văn học mang
tính biểu cảm. Nó biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau : gián tiếp hay trực tiếp, có
hình ảnh hay chỉ là thuần túy, rõ nhất là khi nhấn mạnh những cảm xúc nội tâm.
- Hình tượng nghệ thuật là phương thức giao tiếp đặc biệt giữa nhà văn và độc giả.
Hình tượng là thế giới sống do nhà văn tạo ra bằng sức gợi ngơn từ. Gọi là hình
tượng vì một mặt, nó cũng sống động và hấp dẫn y như thật, nhưng mặc khác nó chỉ
tồn tại trong trí tưởng tượng con người, nó khơng phải là sự thật trăm phần trăm.
Nhưng, thật sai lầm nếu chỉ quan niệm hình tượng nghệ thuật chỉ là phản quang đơn
thuần của đời sống. Hình tượng, một mặt nó vừa mang tính khách quan, mặt khác
vừa mang tính chủ quan của nghệ sĩ.
3.3. Tính “phi vật thể” của hình tượng văn học.
- Âm nhạc dùng âm thanh, hội họa dùng đường nét, điêu khắc dùng mảng khối để
xây dựng hình tượng. Những chất liệu đó đều mang tính “vật chất”, tức có thể nhìn,
nghe, cảm nhận được bằng giác quan, nó khác với ngơn từ của văn học. Ngơn từ tồn

tại trong trí óc, khơng thể sờ, thấy hay cảm nhận bằng những cách thông thường, mà
buộc độc giả phải thâm nhập, cảm nhận và tưởng tượng như mình đang sống chung
với hình tượng. Độc giả buộc phải nhập cuộc, đau nỗi đau của người trong cuộc thì
mới có thể cảm nhận rõ những gì mà nhà văn viết ra.
- Nhờ dùng chất liệu ngôn từ mà bức tranh đời sống không bị hạn chế về khơng gian,
thời gian. Những gì tinh vi, mong manh, mơ hồ, ngay cả tâm trạng sâu thẳm của con
người đều có thể mơ tả trực quan, sinh động bằng từ ngữ.
4. Phong cách văn học
4.1. Khái niệm.
- Phong cách văn học là khái niệm dùng để chỉ tính độc đáo có ý nghĩa thẩm mĩ của
một hiện tượng văn học. Cái gọi là hiện tượng văn học này bao gồm phạm vi rất
rộng, từ nền văn học của một dân tộc, một thời đại, một trào lưu, một trường phái tới
tồn bộ sáng tác của một nhà văn, thậm chí tới những tác phẩm văn học riêng lẻ…
- Trong khái niệm phong cách văn học có bao hàm khái niệm PCNT của nhà văn:

10


+ Đó là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và
phản ánh cuộc sống, những nét độc đáo ấy thể hiện trong tất cả các yếu tố nội dung
và hình thức của từng tác phẩm cụ thể. Nói cách khác, phong cách là sự thể hiện tài
nghệ của người nghệ sĩ trong việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc
đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân
của người sáng tạo.
+ Phong cách văn học còn mang dấu ấn của dân tộc và thời đại. Cho nên trong
phong cách riêng của mỗi tác giả, người ta có thể nhận ra diện mạo tâm hồn, tính
cách của một dân tộc và "Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời" (Tơ
Hồi). Chẳng hạn, qua những biểu hiện của phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, có thể thấy nét riêng của tâm hồn Việt Nam và dấu ấn của một thời "dâu bể".
4.2. Những biểu hiện cơ bản của phong cách văn học:

- Cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá, giọng điệu riêng biệt của tác
giả.
Ví dụ: Cùng là nhà văn hiện thực nhưng Ngô Tất Tố quan tâm đến số phận người
phụ nữ trong xã hội, Nguyễn Cơng Hoan vạch trần bản chất những trị lố nực cười,
còn Nam Cao lại miêu tả tấn bi kịch của người trí thức.
Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến giọng điệu triết lý, nhắc đến Vũ Trọng Phụng là
nhắc đến giọng điệu trào phúng . Giọng điệu trào phúng của Nguyễn Khuyến thì
hóm hỉnh, thâm trầm trong khi tiếng cười của Tú Xương lại châm biếm sâu cay, đả
kích quyết liệt…
- Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm: lựa chọn đề tài, xác định chủ
đề, thể hiện nhân vật, triển khai cốt truyện, xác lập tứ thơ, hình ảnh thơ,...
Nói đến Nam Cao là người ta nghĩ ngay tới một nhà văn của "những kiếp lầm
than”, một người cầm bút với tâm hồn rộng mở để đón nhận "những vang động của
đời". Nhắc tới Xuân Diệu là người đọc nhớ về một hồn thơ luôn khát khao giao cảm
với đời, luôn nồng nàn, say đắm trong tình yêu…
11


- Hệ thống phương thức biểu hiện và các yếu tố nghệ thuật của tác phẩm: thể
loại, kết cấu, ngôn ngữ, hình ảnh, âm điệu, cách kể chuyện, miêu tả, bộc lộ nội tâm,
câu văn, giọng điệu, nhạc điệu,...
Tơ Hồi nổi tiếng là nhà văn giỏi miêu tả phong tục, giỏi khắc hoạ nét đẹp riêng
trong cảnh vật và tính cách con người của một vùng đất. Nguyễn Tuân xứng đáng
với danh hiệu bậc thầy trong nghệ thuật sử dụng ngơn từ với khả năng sáng tạo
những từ ngữ, hình ảnh mới lạ, bất ngờ; những câu văn giàu chất nhạc, chất hoạ, linh
hoạt như "biết co duỗi nhịp nhàng".
- Phong cách văn học là cái thống nhất trong sự đa dạng của sáng tác. Cái độc
đáo, vẻ riêng phải xuất hiện thường xun, lặp đi lặp lại, có tính chất bền vững, nhất
quán.Thống nhất từ cốt lõi, nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi mới:
Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngơ, Qn trung từ mệnh tập rất hào hùng, đanh

thép, sắc bén, nhưng trong Quốc âm thi tập lại u hồi, trầm lắng, suy tư. Hồ Chí
Minh trong truyện và kí thì hiện đại nhưng thơ chữ Hán lại mang sắc thái phương
Đơng cổ kính, thơ tiếng Việt đậm cốt cách dân gian.
- Phong cách cịn phải có phẩm chất thẩm mĩ, nghĩa là nó phải đem lại cho người
đọc một sự hưởng thụ mĩ cảm dồi dào qua những tác phẩm giàu tính nghệ thuật. Chỉ
khi đó vẻ đẹp của phong cách từng tác giả mới được lưu giữ bền vững trong lòng
người đọc từ thế hệ này sang thế hệ khác và trường tồn cùng với thời gian và lịch sử.
5. Một số thể loại văn học: Thơ, truyện
Tác phẩm văn học gồm ba loại lớn: trữ tình, tự sự, kịch.
- Loại trữ tình có các thể: thơ ca, khúc ngâm…
- Loại tự sự có truyện, kí…
- Loại kịch có chính kịch, bi lịch, hài kịch.
- Ngồi ra cịn có thể loại khác như nghị luận.
5.1. Thơ.

12


5.1.1. Quan niệm về thơ
Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng,
những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp
điệu (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).
5.1.2. Một số cách phân loại thơ
Lâu nay giới nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách phân loại thơ. Cụ thể:
- Theo nội dung biểu hiện có thơ trữ tình (đi vào tâm tư tình cảm, những chiêm
nghiệm của con người về cuộc đời, ví dụ như bài Tự tình của Hồ Xn Hương), thơ
tự sự (cảm nghĩ vận động theo mạch kể chuyện, ví dụ như bài Hầu Trời của Tản Đà),
thơ trào phúng (phê phán, phủ nhận cái xấu theo lối mỉa mai, đùa cợt, ví dụ như bài
Vịnh Khoa thi Hương của Tú Xương).
- Theo cách thức tổ chức bài thơ có thơ cách luật (viết theo luật đã định trước, ví dụ

các loại thơ Đường, lục bát, song thất lục bát,…), thơ tự do (khơng theo niêm luật có
sẵn), thơ văn xuôi (câu thơ giống như câu văn xuôi, nhưng giàu nhịp điệu hơn).
- Ở Việt Nam nói riêng và phương Đơng nói chung, một số nhà nghiên cứu còn dựa
vào thời gian xuất hiện để chia thơ thành các loại:
+ Thơ trữ tình dân gian: Ca dao - những sáng tác trữ tình dân gian, diễn tả đời sống
nội tâm của con người. Ca dao không mang dấu ấn cá nhân tác giả như thơ trữ tình
(của văn học viết). Trong ca dao, những tình cảm, tâm trạng của các kiểu nhân vật
trữ tình và cách thể hiện thế giới nội tâm của các kiểu nhân vật này đều mang tính
chất chung, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,… Bất cứ ai, nếu thấy ca
dao phù hợp, đều có thể sử dụng, xem đó là tiếng lịng mình. Vì thế, ca dao được coi
là" thơ của vạn nhà", là tấm gương soi của tâm hồn và đời sống dân tộc. Tuy nhiên,
trong cái chung đó mỗi bài ca dao lại có nét riêng độc đáo.
+ Thơ trữ tình trung đại: do đặc điểm hệ tư tưởng thời đại mà thơ ở thời đại này
thường nặng tính tượng trưng, ước lệ, tính quy phạm và tính phi ngã. Chủ thể trữ
tình trong thơ trung đại thường là cái tôi đại chúng, cái tôi “siêu cá thể”. Nội dung
thơ trữ tình trung đại thường nặng về tỏ chí và truyền tải đạo lí.
+ Thơ trữ tình hiện đại: thuộc loại hình Thơ mới, xuất hiện từ đầu thế kỷ XX và
phát triển cho đến ngày nay. Do nhu cầu đề cao mạnh mẽ của cái tôi của thi sĩ, nên
13


màu sắc cá thể của cảm xúc in đậm trong mọi khía cạnh của ngơn từ như vốn từ, các
biện pháp tu từ hay ngữ điệu, giọng điệu. Lời thơ thường linh hoạt, uyển chuyển hơn
so với thơ cũ.
Ở nước ta lâu nay vẫn còn tồn tại quan niệm dựa vào nội dung để chia thơ thành các
loại: thơ trữ tình, thơ tự sự, thơ trào phúng, thơ cách mạng (có nội dung tun truyền
chính trị, cổ vũ chiến đấu bảo vệ đất nước).
Nhìn chung, mọi cách phân chia trên đây đều mang tính chất tương đối. Bởi thơ nào
mà chẳng trữ tình, dù ít dù nhiều loại thơ nào cũng theo thi luật nhất định (theo đặc
trưng của thơ, của ngôn ngữ, dung lượng,…). Mặt khác, những bài thơ trữ tình biểu

lộ tình cảm trước thiên nhiên đất trời, giang sơn gấm vóc cũng là một “kênh” thể
hiện lịng yêu nước,… Tuy vậy, việc phân chia thơ thành các loại khác nhau là cần
thiết, phục vụ cho việc nghiên cứu, đọc – hiểu và thẩm bình tác phẩm một cách
thuận lợi hơn.
5.1.3. Đặc trưng của thơ.
- Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. Thơ tác động
đến người đọc bằng sự nhận thức cuộc sống, những liên tưởng, tưởng tượng phong
phú; thơ được phân chia thành nhiều loại hình khác nhau, nhưng dù thuộc loại hình
nào thì yếu tố trữ tình vẫn giữ vai trò cốt lõi trong tác phẩm.
- Nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tơi trữ tình) là người trực tiếp
cảm nhận và bày tỏ niềm rung động trong thơ trước sự kiện. Nhân vật trữ tình là cái
tơi thứ hai của nhà thơ, gắn bó máu thịt với tư tưởng, tình cảm của nhà thơ. Tuy vậy,
khơng thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả.
- Thơ là tiếng nói của tình cảm con người, những rung động của trái tim trước cuộc
đời. Lê Quý Đôn từng khẳng định: “Thơ phát khởi từ lòng người ta”, hay như nhà
thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy”.
- Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, tâm sự riêng tư, nhưng những tác phẩm thơ
chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời, về nhân
loại, đó là cầu nối dẫn đến sự đồng cảm giữa người với người trên khắp thế gian này.

14


- Thơ thường không trực tiếp kể về sự kiện, nhưng bao giờ cũng có ít nhất một sự
kiện làm nảy sinh rung động thẩm mĩ mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ mà văn bản
thơ là sự thể hiện của niềm rung động ấy.
- Thơ thường có dung lượng câu chữ ngắn hơn các thể loại khác (tự sự, kịch). Hệ
quả là nhà thơ biểu hiện cảm xúc của mình một cách tập trung hơn thơng qua hình
tượng thơ, đặc biệt thơng qua ngơn ngữ nghệ thuật, qua dịng thơ, qua vần điệu, tiết
tấu... Nhiều khi, cảm xúc vượt ra ngồi cái vỏ chật hẹp của ngơn từ, cho nên mới có

chuyện “ý tại ngơn ngoại”. Do đó, thơ có thể tạo điều kiện cho người đọc thực hiện
vai trò “đồng sáng tạo” để phát hiện đời sống, khiến người đọc phải suy nghĩ, trăn
trở để tìm kiếm ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như những điểm đặc sắc trong tư
duy nghệ thuật của mỗi nhà thơ.
- Thơ chú trọng đến cái đẹp, phần thi vị của tâm hồn con người và cuộc sống khách
quan. Vẻ đẹp và tính chất gợi cảm, truyền cảm của thơ có được cịn do ngơn ngữ thơ
cơ đọng, hàm súc, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Sự phân dịng, và hiệp vần của lời
thơ, cách ngắt nhịp, sử dụng thanh điệu…làm tăng sức âm vang và lan tỏa, thấm sâu
của ý thơ.
- Về cấu trúc, mỗi bài thơ là một cấu trúc ngơn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dịng
(câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự
hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất vừa biến hóa tạo nên
tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của
văn bản thơ. Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngơn ngữ
hình ảnh, biểu tượng. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được
thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu
tượng thơ gợi lên. Do đó ngơn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều
khoảng trống, những chỗ khơng liên tục gợi ra nhiều nghĩa, địi hỏi người đọc phải
chủ động liên tưởng, tưởng tượng, thể nghiệm thì mới hiểu hết sự phong phú của ý
thơ bên trong.
5.1.4. Yêu cầu và phương pháp đọc hiểu tác phẩm thơ
Khi đọc hiểu tác phẩm thơ, cần tiến hành theo các bước sau đây:

15


- Cần biết rõ tên bài thơ, tên tác giả, thời gian và hồn cảnh sáng tác, đó là cơ sở
ban đầu để tiếp cận tác phẩm.
- Đọc và quan sát bước đầu để nắm chắc bài thơ. Qua việc đọc, phải xác định được
chủ đề, chủ thể trữ tình (chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở hai dạng: cái tơi trữ tình

và chủ thể trữ tình ẩn), đối tượng trữ tình, hình tượng trữ tình và giọng điệu chủ đạo
của bài thơ.
- Cảm nhận nội dung, ý nghĩa bài thơ qua câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, kết cấu, các
biện pháp tu từ,…
- Lí giải, đánh giá tồn bộ bài thơ cả về hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Đặc biệt là phải chỉ ra những đóng góp của tác giả (thể hiện qua tác phẩm) cho thơ
và cho cuộc sống con người.
5.2. Truyện
5.2.1. Quan niệm về truyện.
Truyện là loại văn tự sự, kể chuyện, trình bày sự việc. Tryện có cốt truyện, có nhân
vật. Qui mơ truyện thường lớn hơn thơ. Truyện phần lớn được viết bằng văn xi,
bên cạnh đó cũng có loại văn vần. Khác với thơ thiên về cái đẹp, xúc cảm và sự cơ
đọng, truyện có khả năng đi sâu vào từng khía cạnh ngóc ngách phức tạp của cuộc
sống và của tâm hồn.
5.2.2. Phân loại truyện.
- Văn học dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,..
- Văn học trung đại: có truyện viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
- Văn học hiện đại: có truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.
5.2.3. Đặc trưng của truyện.
- Truyện phản ánh hiện thực trong tính khách quan của nó qua con người, hành vi,
sự kiện được miêu tả và kể lại bởi một người nào đó.
- Truyện thường có cốt truyện, nhân vật, tình huống được miêu tả chi tiết, sống
động gắn với hoàn cảnh.
- Phạm vi miêu tả không bị hạn chế bởi thời gian và khơng gian.
- Ngơn ngữ truyện có lời người kể chuyện, lời nhân vật… Ngôn ngữ linh hoạt gần
với đời sống.
16


5.2.4. Yêu cầu về đọc truyện.

- Tìm hiểu bối cảnh xã hội, hồn cảnh sáng tác… để có cơ sở cảm nhận đúng nội
dung của truyện.
- Phân tích diễn biến cốt truyện qua các phần mở đầu, vận động, kết thúc, với các
tình tiết, sự kiện, biến cố cụ thể...
- Phân tích nhân vật: ngoại hình, tính cách, ngơn ngữ…
- Xác định vấn đề của truyện đặt ra, ý nghĩa tư tưởng, giá trị của truyện trên các
phương diện: nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ.
5.3. Kịch.
5.3.1. Khái niệm:
Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp,trong đó đối tượng mơ tả của kịch là
những xung đột trong đời sống.
5.3.2. Phân loại:
- Xét theo nội dung và ý nghĩa của xung đột: bi kịch, hài kịch, chính kịch.
- Xét theo hình thức ngơn ngữ trình diễn: kịch thơ, kịch nói, ca kịch.
5.3.3. Đặc trưng của kịch
- Đối tượng phản ánh : những mâu thuẫn, xung đột trong đời sống xã hội và con
người => xung đột kịch.
- Xung đột kịch được cụ thể hóa bằng hành động kịch, hành động kịch được thực
hiện bởi các nhân vật kịch.
+ Hành động kịch : do nhân vật kịch thể hiện.
+ Nhân vật kịch : bằng lời thoại và hành động thể hiện chủ để vở kịch.
- Cốt truyện của kịch : phát triển theo xung đột kịch qua các giai đoạn : mở đầu –
thắt nút – phát triển – đỉnh điểm – giải quyết.
- Ngơn ngữ kịch: mang tính hành động và khẩu ngữ: gồm đối thoai, độc thoại, bàng
thoại => nổi bật tính cách nhân vật.
17


+ Lời đối thoại: lời của các nhân vật nói với nhau.
+ Lời độc thoại: lời của nhân vật bộc lộ tâm tư, tình cảm của bản thân.

+ Bàng thoại: lời nhân vật nói riêng với người xem.
5.3.4. Yêu cầu về đọc kịch bản văn học:
- Đọc kĩ phần giới thiệu, tiểu dẫn để hiểu biết về tác giả, tác phẩm, hồn cảnh ra
đời, vị trí đoạn trích.
- Chú ý lời thoại của các nhân vật (xác định quan hệ của các nhân vật, tính cách
nhân vật).
- Phân tích hành động kịch (làm nổi bật xung đột, diễn biến cốt truyện).
- Nêu chủ đề tư tưởng, ý nghĩa xã hội của tác phẩm.
6. Một số khái niệm cần nắm vững
6.1. Giá trị hiện thực
- Là gì:
+ Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.
+ Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn từ cuộc sống: hiện
thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực tình cảm, tâm lí…)
- Biểu hiện:
Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vơ cùng đa dạng và phong phú. Tuy nhiên,
nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học người ta thường đề cập 3 nét
chính:
+ Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật chất hay tinh thần
của những con người bé nhỏ, bất hạnh.
+ Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
+ Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
18


Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa dạng. Cùng phản
ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất
Tố miêu tả nỗi chật vật về vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ
nhiều trịng, Nguyễn Cơng Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường tuyệt lộ của
người nông dân (Bước đường cùng), Nam Cao lại đi vào mảng hiện thực sâu kín

nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh thần
khắc khoải của những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.
- Vai trị:
+ Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
+ Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
6.2. Giá trị nhân đạo
- Là gì:
+ Hạt nhân: lịng u thương con người.
+ Đối tượng: thường là nỗi khổ.
- Biểu hiện:
+ Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh.
+ Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.
+ Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh.
+ Đồng tình với những ước mơ và khát vọng chính đáng của con người.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt.
Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với cái nhìn trân trọng, u thương sâu sắc,
Ngơ Tất Tố khám phá ở Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, khơng tì vết; Kim
Lân phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong tâm hồn người vợ
nhặt, cịn Tơ Hồi thì khơi tìm sức sống tiềm tàng, mãnh liệt nơi cơ gái vùng cao Mị…
- Vai trị:
+ Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn

19


“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)
+ Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn học là nhân học.
Nghệ thuật chỉ có nghĩa khi hướng tới con người, yêu thương con người).
- Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
+ Gắn bó hài hồ trong một tác phẩm.

+ Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở chỗ: nếu nói giá
trị hiện thực là nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện thực một cách tương đối khách
quan thì nói tới gía trị nhân đạo tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thơng,
thương xót, đồng tình, ngợi ca…)
6.3. Tình huống trong truyện ngắn.
- Là gì:
+ Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc lộ sắc nét nhất và
tư tưởng nhà thể hiện rõ nhất.
“Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua khúc ấy người thấy
được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu)
+ Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui mô nhỏ nhưng
khả năng phản ánh lớn.
- Vai trị:
+ Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.
+ Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện nhân vật qua một
khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống (tiểu thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số
phận nhân vật…) => Tình huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình
sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn => Xây dựng được tình huống truyện độc đáo là
dấu hiệu của:
• Một tác phẩm có giá trị
• Một tác giả tài năng.
6.4. Nhân vật điển hình.

20


- Là gì?
+ Điển hình: sự kết hợp giữa cái riêng sắc nét và cái chung mang tính khái quát cao.
+ Nhân vật điển hình là nhân vật phải mang được những nét chung, đặc trưng, khái
quát nhất của thời đại nhân vật ấy sống nhưng đồng thời cũng phải mang những đặc

điểm tính cách, ngoại hình, suy nghĩ chân thực nhất, riêng nhất không thể trộn lẫn
với bất cứ ai để ghi lại dấu ấn riêng của mình trong mọi thời đại.
- Các phương diện biểu hiện tính điển hình: tính cách, hồn cảnh,...
+ Tính cách điển hình:
Tính cách là những đặc điểm tâm lí tương đối ổn định nói lên cốt cách và phẩm chất
của nhân vật. Vì tính cách là cốt cách, phẩm chất của nhân vật cho nên tính cách cịn
dùng để chỉ nhân vật.
Tính cách điển hình là tính cách có sự thống nhất sâu sắc giữa tính chung và tính
riêng (tức là giữa cái khái qt và cái cụ thể).
+ Hồn cảnh điển hình.
Hồn cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, là phạm vi hiện thực khách quan
tác động đến quá trình hoạt động của nhân vật. Con người tồn tại và phát triển trong
những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Mơi trường này chính là hồn cảnh
của con người. Môi trường hoạt động chủ yếu của con người là môi trường xã hội.
Cho nên, nội dung cơ bản của hoàn cảnh : quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp,
quan hệ xã hội là quan hệ giai cấp.
Hồn cảnh điển hình là hồn cảnh của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm,
vừa có tính chất tiêu biểu và độc đáo, thể hiện được những tương quan bản chất của
đời sống trong những mối liên hệ phát triển biện chứng của chúng với nhau.
Khơng có người nào là khơng tồn tại trong một hồn cảnh. Hồn cảnh, vì vậy, là
việc làm tất yếu để từ đó nhà văn tạo nên tính cách trong q trình phản ánh. Nhưng
phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép những cảnh ngộ tầm thường mà sự

21


phân tích, phát hiện, thể hiện nội dung chủ yếu, mâu thuẫn cơ bản của những tương
quan xã hội.
+ Quan hệ giữa tính cách và hồn cảnh: Quan hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau: tính
cách được nảy sinh trong một hồn cảnh nhất định, hồn cảnh thúc đẩy tính cách

phát triển.
Tính cách của chị Dậu hồn tồn do những quan hệ thực tế của chị với môi trường
xung quanh mà có. Vì bị đèn nén đến cực độ (hồn cảnh thúc ép) chị Dậu vùng lên
đánh lại người nhà Lí trưởng. Và khi "vùng lên" tính cách chị Dậu đã thay đổi.
Tính cách tác động trở lại hồn cảnh: Con người là con đẻ của hồn cảnh, nhưng nó
khơng phải là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Trong quá trình phát triển, con
người ngày càng làm chủ tự nhiên và xã hội, và trở thành chủ thể lịch sử. Con người
tạo nên lịch sử. Như thế chính con người tạo nên hoàn cảnh. Văn chương phản ánh
đời sống con người không phải chủ yếu là phản ánh cái hoàn cảnh như một lực
lượng siêu nhiên đẻ ra những con người, mà phải thể hiện hoàn cảnh do con người
tạo nên đó. Engels : " hồn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người
sáng tạo ra hoàn cảnh". Truyện Vợ chồng A Phủ: từ cuộc sống tối tăm dưới ách bọn
chúa đất, những người nông dân sống như trâu ngựa, được ánh sáng cách mạng soi
đường đã vùng lên giải phóng quê hương, làm chủ cuộc sống.
- Vai trị: Tính cách điển hình và hồn cảnh điển hình là 2 đặc điểm cơ bản nhất của
hình tượng điển hình, chúng làm cho hình tượng điển hình ln ln có tính chân
thực cao, chúng là thước đo tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Chính trên ý
nghĩa ấy mà Bê-ê-lin-xki viết "Tính điển hình là một trong những dấu hiệu của tính
mới mẻ trong sáng tạo, hay nói đúng hơn là bản thân sức sáng tạo. Nếu có thể thì
cũng nói rằng tính điển hình là huy chương của nhà văn. Điển hình là người lạ đã
quen biết”.
6.5. Chi tiết nghệ thuật .
- Chi tiết nghệ thuật là “các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và
tư tưởng” (Từ điển thuật ngữ văn học). “Chi tiết là đơn vị nhỏ nhất có thể chia ra

22


được tùy theo một tương quan và yêu cầu nhất định” trong tác phẩm văn học (Lí
luận văn học- NXB Đại học Sư phạm)

- Chi tiết nghệ thuật được biểu hiện phong phú, có thể là một nét chân dung nhân
vật, một hành vi lời nói, một biểu hiện cử chỉ, phản ứng nội tâm, một nét phong
cảnh, môi trường, một biểu hiện sinh hoạt, một khâu quan hệ nào đó trong đời sống
của nhân vật...
- Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, là sự thống nhất hữu cơ từng yếu
tố bộ phận trong tác phẩm, vì thế ở đây chi tiết đóng vai trị quan trọng. Mỗi chi tiết
đặc sắc góp phần làm nên nét độc đáo trong nội dung tư tưởng và hình thức nghệ
thuật của tác phẩm.
- Mỗi phương pháp sáng tác có những yêu cầu khác nhau về chi tiết, trong đó đặc
biệt phải kể đến trào lưu chủ nghĩa hiện thực phê phán. Các nhà văn hiện thực yêu
cầu chi tiết phải có tính chân thực “Tiểu thuyết sẽ khơng là gì cả nếu nó khơng chân
thực trong từng chi tiết”. Những chi tiết chân thực có tác dụng “thực cảm” góp phần
đan dệt nên những cảnh sinh động làm cho người đọc quên đi việc đọc tác phẩm,
như được tiếp xúc với chính chính cảnh đời thực. Mặt khác chi tiết chân thực cịn có
sứ mệnh quan trọng là góp phần tái hiện chân thực tính cách điển hình trong hồn
cảnh điển hình.
Sự lựa chọn chi tiết “đắt giá” thể hiện tài quan sát, tài vận dụng đồng thời là quan
niệm nghệ thuật của nhà văn về con người. Chính vì thế có ý kiến cho rằng Chi tiết
nhỏ làm nên nhà văn lớn.
6.6. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
- Chất thơ là tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp
của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện để có thể khơi gợi
những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu
hiện một cách tinh tế mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của
chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn
trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm hồn.

23



-> Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi
mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành
động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người.
6.7. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ.
- Mơ tả: Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ hiện ra qua giọng điệu, trạng thái
tâm hồn, cảm xúc ( cịn nhân vật trong tác phẩm tự sự: có diện mạo, tính cách, hành
động cụ thể).
- Phân loại:
+ Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:
• Cái tơi trữ tình: tác giả
• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật khác trong tác phẩm.
+ Xét về vai trị:
• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)
• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể trữ tình
6.8. Quan điểm/ quan niệm sáng tác
- Là gì:
+ Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.
+ Phải được hiện thực hố trong q trình sáng tác.
+ Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác phẩm.
+ Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để tạo thành một hệ
thống có giá trị thì khơng phải ai cũng làm được.
- Vai trị:
+ Chi phối tồn bộ q trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng, lựa chọn lối viết,
các hình thức nghệ thụât...)
+ Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.
6.9. Nhà văn – văn bản – bạn đọc

24



- Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện q trình kí mã => Ý đồ nghệ
thuật, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là một khả năng hiểu văn bản.
- Bạn đọc: người tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải mã.
- Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác nhau nhưng phải
phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi.
II. Hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức lí luận để giải quyết yêu cầu của đề
thi học sinh giỏi.
1. Phương pháp làm bài
Học sinh có thể tiến hành theo các bước sau:
- Giải thích vấn đề.
- Bàn luận, chứng minh vấn đề.
- Đánh giá mở rộng, nâng cao vấn đề.
2. Một số lưu ý
- Trong bài viết, phần kiến thức lí luận văn học được sử dụng khi học sinh giải
thích, bàn luận, đánh giá mở rộng, nâng cao vấn đề.Trong đó kiến thức lí luận
văn học được sử dụng nhiều nhất ở phần bàn luận vấn đề.
- Kiến thức lí luận văn học được sử dụng trong bài phải phù hợp với u cầu của
đề, trình bày vừa phải, khơng ôm đồm, phô trương kiến thức một cách không
cần thiết. Tránh trường hợp học sinh vận dụng kiến thức lí luận một cách mờ
nhạt, chung chung, không đủ sức thuyết phục người đọc.
- Kiến thức lí luận phải được trình bày một cách tự nhiên, rành mạch bằng lời
văn, cách hiểu của học sinh chứ không nên sao chép máy móc kiến thức sách vở
hay lời dạy rập khn của thầy cô. Bài văn đạt hiệu quả cao là nhờ vận dụng
một cách linh hoạt, hợp lí giữa nhiều kiến thức lí luận, kiến thức văn học được
diễn đạt giàu cảm xúc và hình ảnh.
III. Một số đề minh họa cách thức triển khai vấn đề.

25



×