Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 3 ở trường tiểu học hải lựu xã hải lựu huyện sông lô tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.04 KB, 22 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Mục tiêu giáo dục Tiểu học của nhà nước ta là hình thành cho học sinh
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về tình cảm, trí tuệ,
thể chất và các kĩ năng cơ bản để học tập trung học hoặc đi vào cuộc sống. Thực
tế dạy học cho thấy ở học sinh tiểu học khả năng nhận thức có nhiều mức độ
khác nhau, có thể phân loại theo ba đối tượng: Học sinh khá giỏi, học sinh trung
bình và học sinh cịn yếu. Trong trường Tiểu học, việc phát hiện và bồi dưỡng
học sinh giỏi là vấn đề mũi nhọn bởi xã hội nào cũng cần có nhân tài. Bên cạnh
đó việc nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện cũng khơng kém phần quan
trọng vì để cập với sự phát triển của xã hội thì một con người phải có đầy đủ
đức, trí, văn, thể, mĩ. Song việc nâng cao chất lượng học sinh đại trà là động lực
thúc đẩy tạo điều kiện để phát triển hai mặt chất lượng nói trên bởi vì học sinh
đến trường học tập phải nắm được kiến thức cơ bản của chương trình thì mới
học tập nâng cao được và mới có khả năng tìm tịi hiểu biết xã hội.
“Trẻ em hơm nay, thế giới ngày mai” sự trưởng thành của các em học
sinh chính là tương lai đất nước. Vì thế để giúp các em trở thành người có ích
cho xã hội, ngay từ bậc tiểu học, chú trọng nâng cao chất lượng học sinh đại trà
thì mới đảm bảo được mục tiêu giáo dục đề ra.
Tiểu học là bậc học quan trọng trong hệ thống Giáo dục quốc dân của
nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Những năm qua, để thực hiện
được mục tiêu đó, Phịng Giáo & Đào tạo Sơng Lơ đã có nhiều cơng văn hướng
dẫn chỉ đạo các nhà trường thực hiện tốt các Chỉ thị, Nghị định, Nghị quyết các
cấp về việc Nâng cao chất lượng giáo dục đại trà trong giai đoạn hiện nay ở
tất cả các cấp học. Đồng thời với đó, Phịng Giáo dục cũng đã mở nhiều lớp tập
huấn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học, chú trọng quan tâm đến chất
lượng mũi nhọn, chất lượng đại trà của học sinh trên toàn huyện. Mở lớp tập
huấn cho giáo viên cốt cán về cách bồi dưỡng học sinh năng khiếu. Tập huấn đại
trà cho giáo viên Tiểu học về: Đổi mới phương pháp dạy học tích cực ở Tiểu
học; tập huấn luyện viết chữ đẹp.v.v. Như vậy việc nâng cao chất lượng đại trà


cho học sinh Tiểu học là nhiệm vụ vô cùng cần thiết và cấp bách của giáo dục
huyện nhà. Có nâng cao được chất lượng đại trà cho học sinh tiểu học, thì mới
tạo được bước chuyển biến cơ bản để nâng cao chất lượng giáo dục ở những bậc
học tiếp theo và mới thúc đẩy được sự nghiệp Giáo dục phát triển toàn diện của
1


nước nhà nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - Xã hội của đất nước nói
chung, trên địa bàn Sơng Lơ nói riêng.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, ngay từ đầu năm học, bản thân tôi đã xây
dựng cho mình kế hoạch bồi dưỡng chun mơn nghiệp vụ và nâng cao chất
lượng dạy - học đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ năm học. Qua q trình cơng tác, tơi
thấy rằng:
- Hải Lựu là xã thuộc diện có nền kinh tế phát triển và tăng trưởng khá,
nơi đây có truyền thống hiếu học, nhân dân quan tâm đến đời sống và việc học
hành của con em của mình và đặc biệt có sự quan tâm của Đảng ủy – Hội đồng
nhân dân - Ủy ban nhân dân xã Hải Lựu tới sự nghiệp giáo dục địa phương. Đây
là điều kiện rất thuận lợi để nhà trường hoàn thành nhiệm vụ năm học.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm
thế nào để kích thích tính tự giác, tính tích cực, tính độc lập của học sinh và tạo
ra sự hứng thú học tập cho học sinh để giúp các em nâng cao chất lượng đại trà ?
Đây là vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy như tôi phải có tay
nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ, tức là phải có năng lực sư phạm,
phải biết chọn lựa tự tìm tịi những phương pháp, những hình thức tổ chức thích
hợp và có những biện pháp để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh đạt kết
quả cao.
Sau nhiều năm làm công tác giảng dạy lớp 3, tơi ln ln hồn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao. Liên tục 5 năm qua, các lớp tôi được giảng dạy,
chất lượng học tập đại trà của học sinh ln dẫn đầu trong khối và trong tồn
trường. Đó là lí do tơi chọn sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp nâng

cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học Hải Lựu xã Hải
Lựu huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc” để nghiên cứu và áp dụng ở trường Tiểu
học Hải Lựu xã Hải Lựu. Đây là một việc làm thiết thực phù hợp với xu thế đổi
mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay giúp cho quá trình giáo dục
học sinh trong nhà trường ngày càng tốt hơn.
2. Tên sáng kiến: Một số biện pháp nâng cao chất lượng đại trà cho
học sinh lớp 3 ở Trường Tiểu học Hải Lựu xã Hải Lựu huyện Sông Lô tỉnh
Vĩnh Phúc.
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: 1. Nguyễn Thanh Phòng
2. Nguyễn Thị Dân
2


- Địa chỉ tác giả sáng kiên: Giáo viên Trường Tiểu học Hải Lựu xã Hải
Lựu huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 1) 0916161358 . E_mail:
2) 0961408352 . E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến : 1. Nguyễn Thanh Phòng
2. Nguyễn Thị Dân
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
* Lĩnh vực áp dụng sáng kiến thuộc lĩnh vực giáo dục Tiểu học – Dành
cho dạy học tốt các môn để nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 3
Trường Tiểu học Hải Lựu xã Hải Lựu huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc .
* Vấn đề giải quyết:
- Nghiên cứu sách , tài liệu về tâm lí học, giáo dục học, giảng dạy để tìm
hiểu nội dung, các biện pháp làm tốt cơng tác nâng cao chất lượng đại trà cho
học sinh Tiểu học.
- Tìm hiểu thực trạng cơng tác giảng dạy và học tập trong nhà trường Tiểu
học, những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ dạy – học.
- Tham khảo ý kiến đồng nghiệp, trao đổi học hỏi các chuyên gia, các thầy
cơ giáo, các phụ huynh và những người có tâm huyết với sự nghiệp trồng người.
- Đưa ra các giải pháp giúp học sinh biết học tập, biết vận dụng các kiến
thức và kỹ năng đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày...
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử :
Ngày 16 tháng 10 năm 2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
7.1. Về nội dung của sáng kiến:
* Nghiên cứu lí luận và thực tiễn việc giảng dạy và học tập của học sinh
trong lớp từ đó điều tra thực trạng việc giảng dạy và học tập của học sinh trong
nhà trường để tìm ra những bất cập trong việc dạy và học cho học sinh của Giáo
viên. Cụ thể:
1. Sự hứng thú học tập của học sinh.
2. Kỹ năng viết câu, viết đoạn văn, làm bài toán…
3. Sử dụng vốn từ ngữ trong giao tiếp hàng ngày, vận dụng kiến thức
trong tính tốn...
4. Nói đúng mục đích, tránh nói dài dịng, thiếu ý hoặc ý lủng củng khơng
hấp dẫn người nghe; trình bày đúng mục tiêu, lời giải bài tốn, nói viết về tự
nhiên….
3


Đây là 4 công việc quan trọng mà người giáo viên cần phải làm để giúp
các em yêu thích, hứng thú học tập các môn học nhằm nâng cao hiệu quả dạy –
học.
Thực trạng
1) Tình hình chung: Năm học 2019 - 2020, tôi được nhà trường phân
công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 3A1 Trường Tiểu học Hải Lựu. Tổng số học sinh
của lớp là 30 em ( 19 em nam, 11 em nữ), tơi nhận thấy các em có những ưu điểm

và các tồn tại sau:
a. Ưu điểm :
Đa số các em có ý thức học tập, ngoan ngỗn, nhiều em chăm học.
Được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, của ban giám hiệu nhà trường,
của các bậc phụ huynh.
100 % các em học 2 buổi / ngày.
Cách đánh giá học sinh theo tinh thần Thông tư 22 có tính nhân văn giúp
học sinh mạnh dạn tự tin và có hứng thú học tập hơn.
b. Tồn tại:
- Nhiều năm nay tôi được Ban giám hiệu phân công giảng dạy lớp 3, nhìn
chung chất lượng học tập của khối 3 rất thấp. Tỉ lệ học sinh khá giỏi chỉ đạt trên
15%, cịn lại là số học sinh trung bình và yếu kém. Chất lượng mũi nhọn chưa
được thực sự quan tâm chú trọng. Số lượng học sinh tham gia các kỳ thi trên
mạng có kết quả và chất lượng chưa cao. Qua những lần kiểm tra chất lượng các
lớp và tìm hiểu trực tiếp các giáo viện trong trường tôi thấy:
+ HS chưa đạt chuẩn kiến thức- kĩ năng luôn là vấn đề trăn trở của mỗi
giáo viên.
+ Đa số học sinh cịn phụ thuộc vào khn mẫu, bắt chước, chưa có ý
thức tự giác học tập.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên đó là:
- Về phía học sinh: Bản thân các em khơng có ý thức tự học, tự rèn luyện
ngại khó, ngại khổ. Học sinh khơng có khái niệm học bài và chuẩn bị bài trước
khi đến lớp. Khi đến trường chỉ tiếp thu được một ít kiến thức từ thầy cơ, về nhà
xếp cặp vào xó để đi chơi.
- Về phía phụ huynh học sinh: Trình độ dân trí khơng đồng đều, kinh tế
một số hộ cịn khó khăn, đa số phụ huynh chỉ mải lo kiếm sống, ít quan tâm đến
việc học của con cái. Nhiều gia đình đi xuất khẩu lao động, để gửi con lại cho
4



ông, bà, người thân nên các em chưa chịu khó học tập và rèn luyện. Tất cả đều
phó mặc việc học cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp. Nhà ở của nhiều em
cách xa trường nên rất vất vả trong việc đi lại.
- Về phía nhà trường: Cơ sở vật chất, chưa đảm bảo theo yêu cầu: thiếu
trang thiết bị dạy học, phòng chức năng, phòng thư viện, các tài liệu để cho giáo
viên, học sinh tham khảo hầu như khơng có. Sách giáo khoa cho học sinh mượn
thiếu về số lượng kém về chất lượng.
- Nhiều giáo viên trẻ mới ra trường do chưa có kinh nghiệm, việc giảng
dạy cịn lệ thuộc vào tài liệu hướng dẫn, ít sáng tạo, chưa lôi cuốn, thu hút học
sinh.
- Một số giáo viên trong q trình giảng dạy đầu tư cịn chưa nhiều, chưa
khắc sâu được kiến thức trọng tâm cho học sinh, đơi khi cịn chưa làm chủ được
kiến thức, chưa bao quát được toàn bộ học sinh trong lớp, không nắm bắt được
kịp thời khả năng nhận thức, điểm yếu của từng em, chưa chú ý tập trung vào
rèn kỹ năng cho học sinh nhất là học sinh trung bình, học sinh yếu. Vì vậy khi
dạy cịn hay cho học sinh làm theo mà không để cho học sinh tự sáng tạo.
- Hình thức, phương pháp dạy học theo hướng đổi mới đã làm cho nhiều
giáo viên lúng túng trong quá trình lên lớp, nhiều giáo viên phụ thuộc, rập khuôn
theo sách giáo khoa, hay áp đặt học sinh,…
- Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của các em là tiếp thu nhanh nhưng cũng
nhanh quên, mức độ tập trung học tập chưa cao. Học sinh lớp 3 vốn ngơn ngữ
của các em chưa nhiều: các em cịn mải chơi, chưa thích học. Việc tiếp thu bài
cịn thụ động theo cách truyền tải của giáo viên nên nó ảnh hưởng đến chất
lượng học tập của các em.
- Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy dược vốn
ngơn ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự
tin trong học tập.
- Qua thời gian nghỉ hè, một số em lãng quên nhiều kiến thức ở lớp 2.
Những khó khăn trên chính là ngun nhân dẫn đến chất lượng đaị trà chưa
cao, chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh.Những nguyên

nhân trên đã thúc dục tơi tìm những giải pháp, biện pháp để tạo cho học sinh có
hưng phấn và tích cực phát huy tính mạnh dạn tích cực trong học tập và rèn
luyện.
5


2) Kết quả, hiệu quả của thực trạng trên:
Từ những thực trạng, nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng đại trà của học
sinh các khối vào đầu năm học rất thấp.
Để nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh đạt hiệu quả. Trong nhiều
năm qua bằng những kinh nghiệm của bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn nội
dung, phương pháp, những biện pháp thực hiện sau:
1. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh.
2. Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp.
3. Lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp.
7.2. Các biện pháp cụ thể :
*Biện pháp 1: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh.
Mục đích của biện pháp: Giúp học sinh hiểu rõ ý nghĩa và tầm quan
trọng của việc học tập – Đồng thời giáo dục các em lòng say mê ham học,
tìm tịi kiến thức, để từng bước nâng cao chất lượng học tập.
Nhìn chung, học sinh Tiểu học đa phần với tinh thần và thái độ học tập
chưa cao. Các em chưa có ý thức học tập, lại rất ham chơi, ít được sự quan tâm
chăm sóc, chỉ bảo của gia đình. Bởi vậy giáo viên phải xây dựng cho học sinh
thái độ, tinh thần, động cơ học tập đúng đắn, biết khơi gợi, nâng cao nhận thức
cho học sinh về tầm quan trọng của việc học, qua đó giáo dục cho các em lịng
say mê học tập, tự bản thân mình muốn khám phá, tìm tịi kiến thức mới.
Cách thực hiện: Trong mỗi giờ lên lớp tơi thường lồng ghép phân tích
cho học sinh hiểu về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học. Giảng giải cho học
sinh biết: Nhân loại đã bước vào thế kỉ XXI, thế kỉ của khoa học công nghệ
thông tin với thời đại công nghệ 4.0, nếu các em không học thì sẽ bị tụt hậu và

khơng thể theo kịp với thời đại. Phân tích cho học sinh hiểu từ những điều rất
đơn giản như: sau này khi đã trưởng thành mà không biết đọc, không biết viết
hay không biết làm tính thì khó kiếm được việc làm; khơng đọc được biển chỉ
đường; không thể đọc sách, báo để biết thông tin; không thể nuôi con khoẻ
mạnh, dạy cho con cái mình học được; khơng thể sử dụng được internet hoặc
không thể gửi tin nhắn, không thể mua hoặc bán hàng vì khơng biết tính, khơng
biết tính tốn trong cuộc sống v.v. Sống trong thời đại cơng nghiệp hố – hiện
đại hố, cơng nghệ thơng tin bùng nổ mà thiếu kiến thức thì con người ấy sẽ
chìm trong bóng tối suốt đời. Vì xã hội ngày một tiến, nơng thơn cũng dần phát
6


triển, cuộc sống sẽ hiện đại hơn, đòi hỏi phải có trình độ văn hố cao hơn. Sẽ
khơng cịn cảnh “Con trâu đi trước cái cày theo sau” nữa mà thay vào đó là
chiếc máy cày, máy bừa. Người nơng dân sẽ cày ruộng, bừa ruộng bằng máy.
Hay đơn giản như vót đũa dùng để ăn hàng ngày, người ta khơng cịn dùng tay
vót đũa như trước nữa, mà dùng bằng máy. Liên hệ cho học sinh thấy các xưởng
ứng dụng cơng nghệ và máy móc mọc lên nhan nhản trên khắp xóm làng, khắp
xã. Vậy nếu khơng học thì làm sao biết lái máy cày, máy bừa hoặc làm sao biết
đứng máy để sản xuất ra hàng hóa kịp bán, tăng thu nhập cho gia đình. Khơng
có trình độ văn hố thì sẽ khó phát triển được kinh tế làm giàu cho chính mình
và cho xã hội. Tơi thường diễn giải cho học sinh rằng: chăn nuôi trồng trọt cũng
cần địi hỏi phải có trình độ văn hố mới áp dụng được khoa học kĩ thuật vào
sản xuất, để tăng năng xuất cây trồng v.v.. Chứng minh cho học sinh thấy được
sự thiệt thịi khi khơng được đến trường đi học. Khơng được học hành thì sau
này cuộc sống sẽ vơ cùng vất vả vì khơng biết làm gì. Bởi vậy rất cần phải học,
“Học - học nữa và học mãi” .
Học sinh cần phải xác định được: Học để làm gì? Và làm sao phải học.
Được học sẽ mở mang được nhiều kiến thức: Biết giữ gìn, bảo vệ sức khoẻ bản
thân. Tơi giải thích, tâm sự những điều này trước giờ vào lớp, trong các giờ ra

chơi hoặc lồng ghép qua các tiết học. Hàng ngày tôi thường đến lớp sớm trước
khi vào lớp khoảng 10 -15 phút. Trong quãng thời gian này, tôi thường hay ngồi
chơi đùa, tâm sự cùng các em tạo ra sự gần gũi, thân thiết giữa thầy - trị. Vì vậy
các em rất q mến tơi, nói chyện cùng tơi rất cởi mở, tơi dần dần khai thác
được những tình cảm, những suy nghĩ, những băn khoăn thắc mắc trong quá
trình học tập cũng như trong cuộc sống đời thường của các em. Nhiều học sinh
đã chủ động hỏi bài , hỏi về cách giải toán, hỏi cách làm một bài văn. Học sinh
hồ hởi, phấn khởi học tập, chỉ một thời gian ngắn gần hết tháng 9, chất lượng
học tập của lớp tôi được nâng lên rõ rệt. Số học sinh nghỉ học vơ lí do khơng
cịn, tỉ lệ đi học chuyên cần đạt 100%. Như vậy việc học sinh chưa có ý thức
học tập tốt, học yếu có một phần khơng nhỏ là do các em chưa có động cơ học
tập đúng. Chưa hiểu hết ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học tập. Chính vì
vậy giáo viên phải là người dẫn dắt giúp các em hiểu, xây dựng cho các em động
cơ học tập tốt.Tuy nhiên giáo viên không nên gây áp lực mà phải khéo léo gợi
mở để học sinh tự giác học tập. Với sự ân cần chỉ bảo tận tình cho các em những
điều các em chưa biết, không những giáo viên xây dựng được cho các em có ý
thức học tập tốt mà cịn gây được trí tị mị tạo niềm hứng thú trong học tập cho
7


học sinh.Chính vì vậy, biện pháp: Xây dựng động cơ học tập cho học sinh là
biện pháp khá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh.

*Biện pháp 2: Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp.
Mục đích của biện pháp: Giáo dục học sinh có tinh thần học tập tốt,
yêu trường, yêu lớp. Tăng cường mối liên hệ giữa giáo viên chủ nhiệm với
gia đình để duy trì sĩ số học sinh, tạo điều kiện cho học sinh có đủ đồ dùng
học tập nâng cao chất lượng học tập.
Nhiều học sinh hiện nay khi đến trường thường không học bài cũ ở nhà
hoặc chưa chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Học sinh đến lớp vẫn cịn qn vở,

qn đồ dùng học tập… Hỏi vì sao đi học mà không mang sách, vở, bút viết, các
em trả lời là: bỏ qn ở nhà hoặc khơng có. Nếu giáo viên có nhắc nhở chạm
vào lịng tự ái là sẵn sàng ngồi lì ra. Cha mẹ các em do một phần dân trí thấp,
kinh tế khó khăn , đa số phụ huynh chỉ lo mải kiếm sống, ít quan tâm đến việc
học của con cái. Tất cả đều phó mặc cho nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp.
Bởi vậy để nâng cao được chất lượng học tập, cần phải làm tốt công tác chủ
nhiệm lớp.
Cách thực hiện: Giáo viên cần tìm hiểu về đặc điểm tâm lí, hồn cảnh gia
đình, tính tình, sở thích từng học sinh, nắm được quá trình tiếp thu bài của từng
em. Nắm rõ trong lớp có bao nhiêu học sinh chưa đọc thơng, viết chưa thạo,
hoặc đọc yếu; có bao nhiêu học sinh chưa biết đặt tính: cộng, trừ, nhân, chia;
học yếu các mơn học khác. Đồng thời phát hiện những em có năng khiếu để
phân loại đối tượng học sinh, lập kế hoạch bồi dưỡng ngay từ đầu năm học, đề
ra mục tiêu cần đạt từng tháng, từng kì. Ví dụ: tháng 9;10 mục tiêu đề ra cần
phụ đạo bao nhiêu học sinh học lực yếu lên trung bình, từ trung bình lên khá và
bồi dưỡng bao nhiêu học sinh có học lực khá lên giỏi.
Với những học sinh học lực yếu; chưa có ý thức học tập; gia đình có hồn
cảnh khó khăn. Đối với những đối tượng này, giáo viên cần phải hiểu được đặc
điểm của đối tượng này là: có tính rụt rè xa lánh bạn bè, thầy cơ, thích quậy phá
hoặc ủ rũ , lủi thủi chơi một mình, thường hay nghỉ học, khơng có đủ đồ dùng
học tập. Vì thế giáo viên phải dùng tình cảm để cảm hoá, chẳng hạn: rủ các em
đến nhà chơi, cho em quyển vở hoặc cái bút, uốn nắn khuyên bảo em nhẹ
nhàng. Quan tâm chú ý tới cách ăn mặc của các em … Ngồi ra phải tìm ra được
ngun nhân em học yếu để có cách bồi dưỡng. Ví dụ: em B học yếu môn
8


Tiếng Việt. Trong phân mơn Tiếng Việt có: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện. Học
yếu mơn Tiếng Việt có rất nhiều ngun nhân, nhưng chủ yếu là do khơng biết
đọc.Vì nếu đọc chưa thông ắt sẽ không viết được và đồng thời cũng khơng hiểu

được nội dung bài. Chính vì vậy để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt, trước
hết phải dạy cho các em đọc thông viết thạo.Trong giờ tập đọc hoặc giờ sinh
hoạt 15 phút đầu giờ tôi dành nhiều thời gian cho những học sinh này được đọc
nhiều hơn. Để sát sao với học sinh, tôi kiểm tra đọc bằng nhiều cách : đọc lại bài
Tập đọc đã học, đọc báo Nhi đồng. Cho học sinh mượn truyện tranh, truyện
Thiếu nhi có nội dung hay, hấp dẫn cho về nhà để đọc. Sau đó kiểm tra xem em
có biết nội dung câu chuyện ấy là gì? Nội dung bài báo ra sao? Cứ như vậy
nhiều lần, tôi đã rèn được cho học sinh cách luyện đọc rất hiệu quả. Hết học kỳ
I, số học sinh đọc yếu đã biết đọc lưu loát. Đối với những em học yếu mơn
Tốn thì phải tìm hiểu kĩ học sinh ấy hổng kiến thức ở phần nào? Để có cách
phụ đạo và ra bài tập phù hợp. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng mơn Tốn
trước hết phải u cầu học sinh học thuộc bảng nhân, chia , sau đó hướng dẫn
thực hiện thành thạo 4 phép tính, nâng dần từ dễ đến khó.
Phối hợp chặt chẽ với gia đình, để theo dõi việc học sinh học bài cũ,
chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Hàng kì, tơi xin ý kiến với Ban giám hiệu triệu
tập họp phụ huynh một lần, trong mỗi cuộc họp tôi nhẹ nhàng nhắc nhở những
trường hợp học sinh học yếu, không tuyên bố trước cuộc họp mà gặp riêng phụ
huynh để trao đổi. Cuộc họp phụ huynh là những buổi nói chuyện tâm tình trao
đổi tình hình học tập, rèn luyện của các em ở trường đồng thời tơi khéo léo
tìm hiểu thêm về việc học của học sinh ở nhà. Vì do đại bộ phận phụ huynh
học sinh đều có máy diện thoại kết nối mạng nên tôi thỉnh thoảng nhắn tin qua
Zalo cho phụ huynh về tình hình học tập của con em mình. Việc tổ chức họp phụ
huynh hàng kì, là rất cần thiết vì khơng những thơng báo kết quả học tập, rèn
luyện của học sinh ở trường mà cịn làm cơng tác tun truyền nhắc nhở phụ
huynh quan tâm mua sắm đồ dùng học tập. Việc thiết lập được mối quan hệ giữa
giáo viên chủ nhiệm với gia đình nhằm xố bỏ được tình trạng học sinh đi học
quên sách vở, quên bút. Học sinh đi học có đủ đồ dùng học tập. Đây là yếu tố
quan trọng giúp giáo viên nâng cao được chất lượng học tập của học sinh lớp
mình.
Tóm lại: Cơng tác chủ nhiệm lớp giữ vị trí vai trị đặc biệt quan trọng vì

giáo viên không những tiến hành giảng dạy kiến thức mà cịn làm nhiệm vụ giáo
dục học sinh thơng qua giảng dạy và tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ
9


lên lớp, là người dạy chủ yếu của lớp đồng thời tổ chức, điều hành, kiểm tra,
đánh giá mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ
trách, cũng là người thay mặt Hội đồng nhà trường, cha mẹ quản lí tập thể học
sinh và là cầu nối giữa nhà trường với gia đình để nâng cao chất lượng tồn
diện để làm tốt cơng tác xã hội hố giáo dục. Bên cạnh đó, bằng tình thương và
sự ân cần của giáo viên chủ nhiệm là liều thuốc đặc trị giúp cho học sinh có
niềm tin, có lịng say mê học tập. Khi học sinh đã có niềm tin với thầy cơ, có
lịng say mê học tập thì các em sẽ có tinh thần tự giác trong học tập và đạt được
kết quả cao hơn.
* Biện pháp 3: Lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
phù hợp.
Mục đích của biện pháp: Giúp cho học sinh nhanh hiểu , tiếp thu bài
tốt, hứng thú học tập.
Đặc trưng của học sinh xã Hải Lựu là: rụt rè, e thẹn, không mạnh dạn
trước đám đông, đặc biệt là tiếp thu bài chậm, nhất là các em thuộc thơn, xóm
chậm phát triển. Vì vậy Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong
phú là biện pháp không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học
sinh . Giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những tri thức, kĩ năng cần
thiết mà còn phải truyền tải đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách
nhiệm của chính mình.
Cách thực hiện: Giáo viên cần chuẩn bị bài chu đáo trước khi lên lớp.
Biết tìm phương pháp dạy từng mơn, từng bài học phù hợp với đối tượng học
sinh. Tạo ra hình thức tổ chức dạy học đa dạng, phong phú nhằm thu hút được
tất cả đối tượng học sinh tham gia học tập. Giáo viên phải nắm chắc cách dạy
từng loại bài của từng phân môn, chẳng hạn như dạy Mơn Tốn:

*Đối với bài dạy lí thuyết:
- Phần lí thuyết: tôi thường dành thời gian tối đa khoảng 20 phút ( Có thể
nhiều thời gian hơn tuỳ từng bài học): mỗi đơn vị kiến thức cơ bản, tôi tổ chức
thành một hoạt động (kể cả hoạt động củng cố kiến thức, kĩ năng chuẩn bị cho
học nội dung mới), tạo điều kiện cho học sinh chủ động tham gia các hoạt động(
có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập) giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Để học
sinh dễ tiếp thu bài, khi ghi bảng chỉ cần trình bày bảng đơn giản cụ thể như:
Ghi đầu bài dạy, tóm tắt đề, hình vẽ, cơng thức, bài giải các bài tập.

10


- Phần luyện tập: Học sinh chủ yếu làm việc cá nhân, giáo viên quan sát
tổng thể cả lớp, giúp đỡ những học sinh còn lúng túng, tránh giao việc bình
quân, hướng dẫn chi tiết, tránh sử dụng học sinh khá giỏi làm việc thay cả
lớp.Yêu cầu tất cả học sinh đều phải hồn thành ít nhất hai bài tập.
*Đối với bài luyện tập thực hành: Cách dạy như dạy phần luyện tập trong
tiết lí thuyết.
*Đối với bài: Dạy đại lượng và đơn vị đo đại lượng. Hình thành biểu
tượng cho học sinh bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan và kinh nghiệm thực
tiễn, sau đó mới dẫn dắt học sinh đọc , viết đơn vị đo, khắc sâu mối quan hệ giữa
đơn vị đo mới với các đơn vị đo đã học trong cùng một đại lượng, dành thời
gian cho học sinh thực hành đo và ước lượng.
*Đối với bài: Dạy các yếu tố hình học: - Hình thành biểu tượng hình học
trên cơ sở quan sát thực tiễn và các hình học đã biết, yêu cầu học sinh ban đầu
nắm được dạng tổng thể, sau nâng dần mức độ, đi sâu vào đặc điểm và các yếu
tố của hình học. Chú ý rèn kĩ năng vẽ hình và quan sát hình cho học sinh.
*Đối với bài: Dạy giải tốn có lời văn: tơi thường cho học sinh tự tìm và
nêu được yêu cầu của đề bài, sau đó tự tóm tắt đề, tự trình bày bài giải, chỉ gợi ý,
trợ giúp khi thực sự cần thiết. Chữa bài tỉ mỉ và chính xác.

Giáo viên nắm được mục tiêu bài học, thiết kế bài dạy, xây dựng hình
thức tổ chức dạy học phù hợp với lớp học.
Đối với các em, phải tìm hiểu một lượng kiến thức lớn và khó là điều khó
khăn. Để giúp học sinh nắm được nội dung bài . Với cách làm như trên học sinh
rất ham học, thu hút được tất cả các trình độ học tập trong lớp, học sinh học yếu
cũng hồ hởi tham gia. Tôi thường tạo điều kiện cho những học sinh yếu trả lời
những câu hỏi mà các em có thể trả lời được, ưu tiên cho đối tượng này nhũng
câu hỏi dễ, bài tập phù hợp để dần dần đưa các em vào guồng máy hoạt động
của cả lớp. Dùng cách “ mưa dầm thấm lâu” không nóng vội kết quả. Ngồi ra
cần phải động viên khen ngợi, tuyên dương trước lớp về sự tiến bộ của các em.
Qua mỗi bài học, mỗi phân mơn cần có những hình thức tổ chức dạy học khác
nhau, biết dẫn dắt học sinh đi từ cái hay này đến tri thức mới lạ khác, gây trí tị
mị tạo niềm hứng thú học tập. Ngồi phương pháp, hình thức tổ chức dạy học
phù hợp, giáo viên phải hướng dẫn các em cách học trên lớp cũng như ở nhà sao
cho đạt hiệu quả.
Đối với việc hướng dẫn tự học ở nhà:
11


Tôi thường hướng dẫn học sinh lập thời gian biểu, ghi rõ từng công việc
gắn liền với thời gian cụ thể. Học bài theo thời khố biểu,ví dụ: Thứ hai có các
tiết học: Đạo đức; Tập đọc; Tốn; Chính tả. Tơi gợi ý cho học sinh: biết tự bố trí
thời gian cho từng tiết học. Yêu cầu học sinh đọc và trả lời các yêu cầu trong
sách giáo khoa. Thể hiện việc học bài trước ở nhà của mình trên vở nháp như
sau:
Tiết 1: Tập đọc: bài : Trường em
Trả lời câu hỏi 1:( ……………)
Trả lời câu hỏi 2 (……………..)
Trả lời câu hỏi 3 . v.v
Tiết 2.Tập đọc: Trường em

Trả lời câu hỏi 1(……………)
Trả lời câu hỏi 2(……………...)
Trả lời câu hỏi 3. (……………….)
vv…
Tiết 3. Tốn: Ơn tập
Thực hiện bài tập 1 :
Thực hiện bài tập 2:
Thực hiện bài tập . v.v..
Tiết 4:Đạo đức:Em là học sinh lớp 1
*)Thứ ba: Toán – Chính tả - Tự Nhiên-Xã hội. Học sinh phải chuẩn bị vào vở
nháp được như sau:
Tiết 1:Tốn: Ơn tập
Thực hiện bài tập 1 (…………….)
Thực hiện bài tập 2: (……………)
Thực hiện bài tập 3 . (………….)
Tiết 2. Chính tả
Trả lời câu hỏi 1(………………)
Trả lời câu hỏi 2(…………)
12


……….
Tiết 3.Tự Nhiên – Xã hội
Phần nhận xét:
Phần bài tập:
Bài tập 1
Bài tập 2
Bài tập 3
………………
*)Thứ tư, thứ năm, thứ sáu cũng tiến hành tương tự như vậy. Vào đầu giờ học

tôi kiểm tra nhanh sự chuẩn bị này của học sinh, chỉ cần vài tuần đầu là xây
dựng được thói quen này.
Việc xây dựng cho học sinh thói quen chuẩn bị bài ở nhà,các em tự khám phá
kiến thức mang lại hiệu quả học tập rất cao vì khi các em đã nghiên cứu kĩ bài
trước ở nhà , đến lớp tiếp thu bài rất nhanh.
Việc học trên lớp:
- Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên, kiểm tra đồ
dùng học tập với nhiều hình thức: giáo viên kiểm tra hoặc cán sự lớp, bạn cùng
bàn kiểm tra lẫn nhau.
- Xây dựng đôi bạn khá giỏi để giúp đỡ lẫn nhau, tổ chức thi đua từng
cặp đơi bạn, cuối tháng cho học sinh bình chọn cặp đôi bạn tiến bộ nhất ghi vào
sổ theo dõi. Cuối kì bình chọn đơi bạn nào học tiến bộ, và ghi được nhiều thành
tích nhất trao giải thưởng, để động viên. Giải thưởng bằng hiện vật đơn giản
như: quyển vở, quyển sách truyện hoặc chiếc bút. Tuy đơn giản nhưng có sức
thuyết phục hấp dẫn, lơi cuốn học sinh tích cực học tập, các cặp đơi bạn thi đua
và giúp đỡ lẫn nhau học tập tốt. Theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua từng tuần,
từng tháng, từng kì. Bồi dưỡng học sinh khá, giỏi vào chiều thứ hai, ba. Phụ đạo
học sinh yếu vào các buổi chiều thứ bảy, chủ nhật. Thay đổi phương pháp dạy
theo hướng tích cực phù hợp từng mơn, từng bài. Tuần cuối cùng của tháng, tôi
thường phối hợp với tổ khối tổ chức cho học sinh trong khối giao lưu tìm hiểu
về các kiến thức đã học như: thi giải toán nhanh, thi kể chuyện, thi đọc thơ, thi
tìm hiểu về kiến thức tự nhiên, xã hội... Với cách làm này không những học sinh

13


lớp tôi chủ nhiệm mà học sinh của cả khối đều phấn khởi hồ hởi học tập. Ngoài
ra phải đặc biệt chú trọng dạy học sinh cách học, Ví dụ:
Đối với mơn Tốn: Hướng dẫn cách chuẩn bị bài ở nhà, tôi thường yêu cầu
học sinh: Nghiên cứu kĩ bài và làm làm bài tập trước trong sách giáo khoa.

Còn khi học trên lớp: Dành nhiều thời gian cho học sinh được thực
hành. Tổ chức thi giải toán nhanh, đố vui, thi điền nhanh điền đúng kết quả.
Đảm bảo tất cả học sinh được tham gia, tạo khơng khí lớp học vui vẻ, thoải mái .
Đối với môn Tiếng Việt:
Hướng dẫn học sinh học bài mới ở nhà, tôi thường yêu cầu học sinh:
+) Với phân môn Tập đọc: Tôi yêu cầu học sinh đọc bài trước vài lần,
tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và tập trả lời câu hỏi trong sách giáo
khoa.
+) Phân mơn Chính tả : Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết vài lần,
tập chép bài đó vào vở nhà.
Khi giảng bài mới: Sử dụng tích cực hoạt động nhóm, thảo luận nhóm,
GV chỉ là người tổ chức , học sinh là người thực hiện.
Mỗi mơn học, mỗi bài học phải có những hình thức tổ chức học tập khác
nhau thì mới thu hút được học sinh học tập tốt. Khi giao nhiệm vụ học tập cho
học sinh phải vừa sức, không rập khn trong sách giáo khoa. Vì những học
sinh học yếu thưòng ngại suy nghĩ, ngại học. Đối với những HS khá giỏi ngoài
bài tập trong sách giáo khoa cần phải giao thêm bài tập nâng cao.
Tóm lại: Giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp
với lớp, quan tâm chú trọng tới các đối tượng học sinh, tạo điều kiện để học sinh
tích cực chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức. Với biện pháp này , tôi đã giúp
được học sinh hứng thú học tập, biết cách học từng phân môn sao dễ nhớ, dễ
thuộc. Rèn được thói quen học bài cũ ở nhà và sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
Xây dựng cho học sinh ý thức học tập tốt biết tự rèn luyện phấn đấu vươn lên,
học tập đạt hiệu quả cao.
*Biện pháp 4: Tạo niềm say mê khám phá kiến thức, tạo khơng khí
vui vẻ, sơi động, hào hứng trong tiết học
Dạy học là truyền thụ kiến thức cho người học, để chuẩn bị cho một tiết
dạy, giáo viên cần kết hợp các phương pháp giảng dạy phù hợp, sinh động, sáng
tạo trong mỗi tiết học. Để tạo nên một khơng khí sinh động và lơi cuốn học sinh
14



thì khơng dễ dàng. Nhưng làm được điều đó giáo viên không chỉ làm chủ kiến
thức trong lĩnh vực dạy học của mình mà cần có phương pháp sư phạm thích
hợp để phát huy tính chủ động của học sinh. Tơi nghĩ rằng, là một giáo viên có
trình độ chun mơn, nhưng bên cạnh đó phải có tay nghề vững vàng, phải biết
yêu nghề, mến trẻ, phải có năng lực sư phạm. Năng lực về khoa học; hiểu biết
ngôn ngữ diễn đạt, cách tổ chức, trình bày bài giảng,…Đổi mới phương pháp là
đổi mới hình thức tổ chức dạy học để tạo một sự tương ứng cần thiết. Mỗi hình
thức tổ chức dạy học đều có tác dụng tích cực để phát triển học sinh ở một khía
cạnh nào đó. Vì vậy mỗi giáo viên cần biết kết hợp nhiều hình thức tổ chức để
phát huy thế mạnh của từng học sinh. Phương pháp dạy học mới, đòi hỏi phải có
hình thức tổ chức dạy học tạo cơ hội cho học sinh suy nghĩ làm việc, trao đổi
thảo luận với nhau nhiều hơn… nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập
của học sinh.
*Biện pháp 5 : Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Các hoạt động ngoại khố giúp học sinh có những hiểu biết thực tế ngồi
kiến thức được học trong chương trình chính khố. Do đó việc phối kết hợp với
các hoạt động ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ,
học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan
đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với
giáo viên tổng phụ trách, thơng qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt
việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh, thi ca hát tập diễn các tiểu
phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu…Hoặc
thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ niệm
đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (Bài học Tuần 6).Hay qua buổi lễ kết
nạp đội viên Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng viết
đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội…Từ thực tế đó,
học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, giúp
các em viết tốt hơn Đơn xin vào Đội (tiết Tập làm văn-Tuần 2) với yêu cầu:

Em hãy viết đơn xin vào Đội với mẫu in sẵn.
*Biện pháp 6 : Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các
phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp
cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết
vấn đề càng có nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như
dạy theo lớp, dạy theo nhóm, dạy cá nhân cũng có những đổi mới trong mơi
15


trường công nghệ thông tin. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác
giảng day đã trở nên quen thuộc trong hầu khắp các giáo viên nhà trường. Đặc
biệt năm học này, khi đại dịch Covid- 19 xảy ra đúng vào thời điểm giữa năm
học thì việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng dạy học lại
được ứng dụng mạnh hơn. Giáo viên có thể sử dụng máy tính trong cơng tác
quản lý và giảng dạy, còn học sinh được học và tiếp nhận kiến thức bài giảng
qua phần mền Zoom ngay tại nhà mà không phải đến lớp. Việc làm này làm cho
các em đỡ quên kiến thức đồng thời hứng thú hơn với việc học online và mang
lại hiệu quả cao trong việc nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp tôi cũng
như các học sinh khác của nhà trường.
- Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Áp dụng trong dạy học và nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 3
ở Trường Tiểu học Hải Lựu xã Hải Lựu huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc và áp
dụng cho việc dạy học và nâng cao chất lượng đại trà cho học sinh lớp 3 tại các
Trường Tiểu học trong huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Khơng
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Lớp học có đủ cơ sở vật chất theo qui định của ngành.
- Có đồ dùng thiết bị dạy học cho Giáo viên và đồ dùng thiết bị học của
học sinh.

10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các
nội dung sau:
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sáng kiến kinh nghiệm của tơi khơng có gì là to tát, những biện pháp tơi
đã làm cũng rất bình thường. Nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng
qua cách làm này, tôi thấy kết quả học tập của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt.
Các em ngày càng chăm ngoan. Điều đó làm tơi rất vui mừng và vơi đi những
vất vả, mệt nhọc. Học sinh ngày càng có lịng u thích học tập hơn . Trong 3
năm học qua, Học sinh lớp tôi dạy các em ln có chất lượng đại trà đứng đầu
trong khối. Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu về tình hình thực tế của lớp, của
địa phuơng và điều kiện thực tế của nhà trường tơi đã suy nghĩ tìm tòi vận dụng
16


phối hợp nhiều phương pháp dạy học. Tổ chức đa dạng các hoạt động dạy và
học, đồng thời đúc rút kinh nghiệm từ bản thân, từ bạn bè đồng nghiêp, áp dụng
triệt để những biện pháp tơi trình bày ở trên nên kết quả chất lượng lớp tôi phụ
trách nhiều năm nay ln là lớp dẫn đầu tồn trường về mọi mặt (học lực, hạnh
kiểm). Kết quả học tập khả quan: Những học sinh học yếu có sự tiến bộ rõ rệt,
nhiều học sinh học lực trung bình đã đạt được khá, giỏi và số lượng học sinh tham
gia các cuộc thi cấp huyện năm sau tăng hơn năm trước. Các em tham gia thi đều có
giải và đạt giải cao. Dưới đây là bảng số liệu chất lượng học tập cuối học kì I và kết
quả khảo sát giữa học kì II.
*) Năm học :2019-2020
Kết quả điểm khảo sát cuối học kì I- (30 em)
Điểm giỏi


Điểm khá

Điểm trung bình

Điểm yếu

Mơn

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ

Tốn


6

20%

6

20%

14

46,67
%

4

13,33
%

TV

4

13,33
%

7

23,33
%


16

53,34
%

3

10%

Kết quả điểm khảo sát giữa học kì II: (30 em)
Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung bình

Điểm yếu

Mơn

Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượng

Tỉ lệ


Số
lượng

Tỉ lệ

Số
lượn
g

Tỉ lệ

Tốn

8

26,67
%

8

26,67
%

13

43,33%

1

3,33%


TV

6

20%

8

26,67
%

15

50%

1

3,33%

10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:

17


Nhìn chung nhờ áp dụng kinh nghiệm trên mà kết quả rèn luyện học sinh
của lớp, của trường được nâng lên. Kết quả thu được từ học sinh được tổ, khối,
Ban giám hiệu nhà trường đánh giá cao.
* Tổng kết kinh nghiệm:

Trong quá trình giảng dạy học, để nâng cao chất lượng đại trà cho học
sinh lớp 3 mỗi giáo viên cần phải ln ln nghiên cứu, sáng tạo tìm ra những
biện pháp hữu hiệu nhất để giảng dạy cho học sinh cụ thể:
1. Xây dựng kế hoạch và vai trò chỉ đạo của nhà trường
Ngay từ đầu năm học, bám sát chỉ tiêu, nhiệm vụ năm học 2019 – 2020,
nhà trường xây dựng kế hoạch tổng thể và đưa ra bàn bạc công khai ở Hội nghị
cán bộ công chức để thống nhất các chỉ tiêu phấn đấu, coi đó là pháp lệnh để
mọi người thực hiện. Từ đó tìm ra những biện pháp và xây dựng kế hoạch cụ thể
từng tháng, từng tuần.
Thực hiện giao ban giữa Ban giám hiệu, tổ chuyên môn hàng tháng,
hàng tuần trước khi triển khai đến giáo viên.
Chỉ đạo các tổ chuyên môn sinh hoạt, bàn bạc và tìm ra biện pháp nâng
cao chất lượng học sinh. Cụ thể:
+ Mỗi tổ Chuyên môn đều xây dựng kế hoạch chỉ đạo của tổ, xây dựng
kế hoạch hoạt động trong năm, kế hoạch từng tháng, từng tuần.
+ Tổ chức cho giáo viên đăng ký các chỉ tiêu thi đua trong năm học để
phấn đấu.
Thực hiện tốt xã hội hố giáo dục: Để tồn xã hội cùng tham gia giáo
dục.
Đảm bảo dân chủ hoá trong nhà trường theo nguyên lý: Giáo viên biết,
giáo viên bàn, giáo viên làm , giáo viên kiểm tra.
Có chế độ thanh, kiểm tra vấn đề, kiểm tra toàn diện giáo viên.
Tổ chức thi đua, hội giảng thành phong trào sôi nổi, vừa có bề rộng, vừa
có chiều sâu.
2. Xây dựng đội ngũ và chỉ đạo nâng cao chất lượng
Cổ nhân có câu: “Thầy nào, trò ấy” nên việc xây dựng đội ngũ là yếu tố
cực kì quan trọng. Người thầy có vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
học sinh. Ban giám hiệu nhà trường phải có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo
18



viên cụ thể từng tuần, từng tháng và cả năm học. Quan tâm tới việc tự bồi
dưỡng, kiểm tra đôn đốc thường xuyên. Sau mỗi đợt bồi dưỡng áp dụng hình
thức kiểm tra trên giấy để đánh giá giáo viên và giúp giáo viên thấy được phần
khiếm khuyết của mình mà có kế hoạch điều chỉnh. Thầy giỏi thì mới có trị
giỏi, người giáo viên phải có kiến thức thực sự thì mới định ra được phương
pháp giảng dạy có hiệu quả. Cho nên đối với giáo viên cần phải tự học, tự rèn
luyện để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, thể hiện: có sổ tích luỹ, sổ dự giờ, sổ
bồi dưỡng nghiệp vụ, kế hoạch bồi dưỡng học sinh.
Ban giám hiệu ln phát huy vai trị lãnh đạo, thực hiện chế độ công
khai, công bằng, dân chủ trong công tác kiểm tra để thúc đẩy thi đua trong đội
ngũ và giúp cho hoạt động giáo dục trong nhà trường đi vào nề nếp.
Trong công tác chỉ đạo: Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện kỷ luật
lao động, quy chế chuyên môn. Trong năm qua 100% giáo viên đều chấp hành
tốt.
Phương châm chỉ đạo của nhà trường: Kiên trì cuộc vận động “Kỷ
cương, tình thương, trách nhiệm’’ và cuộc vận động “Nói khơng với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát
động. Mỗi cán bộ đều rèn mình để thực hiện cuộc vận động trên nhằm đưa chất
lượng dạy học cao hơn.
Khảo sát chất lượng thực chất của học sinh, thông báo công khai để cha
mẹ học sinh nắm được thực trạng, cùng cha mẹ học sinh thống nhất cách thức
quản lý, giúp đỡ học sinh học tập. Ngay từ đầu năm học, nhà trường tiến hành
khảo sát chất lượng đầu vào và khoán chỉ tiêu tới từng giáo viên theo từng đợt.
Hàng tháng tiến hành kiểm tra chất lượng hai mơn Tiếng Việt và tốn, cơng khai
chất lượng đó trên bảng tin chun mơn của nhà trường nhằm giúp cho giáo viên
thấy rõ thực chất, chất lượng và hiệu quả giảng dạy của mình để có biện pháp
điều chỉnh phương pháp giảng dạy. Về phía nhà trường, qua đó có kế hoạch bồi
dưỡng, uốn nắn kịp thời đối với các hoạt động của giáo viên.
Tổ chức thi vô địch, giải bài trên báo bảng, bông hoa điểm mười... Động

viên khen thưởng kịp thời, từ đó khích lệ học sinh ham mê học tập.
Đặc biệt là sự thống nhất trong Đảng, trong Ban giám hiệu, trong các tổ
khối và sức mạnh đoàn kết của tập thể sư phạm là yếu tố quyết định của thành
công.
3. Đổi mới phương pháp dạy học
19


Để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, ngồi việc xây dựng kế
hoạch, tìm giải pháp thì vấn đề đổi mới phương pháp dạy học cũng góp phần
quyết định đáng kể tới việc nâng cao chất lượng học sinh. Người giáo viên đã
nắm chắc kiến thức, song cần phải có phương pháp truyền thụ kiến thức giúp
học sinh nắm bắt được. Với từng đối tượng học sinh mà áp dụng phương pháp
sao cho phù hợp nhất.
Thường xuyên đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao hiệu quả
giờ dạy nhất là các lớp mới thay sách giáo khoa.
Thường xuyên tổ chức các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học
từ cấp tổ đến cấp trường và cấp trên.
Việc sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả đã được nhà trường chú
trọng. Mỗi giáo viên đều có ý thức sử dụng đồ dùng trong các tiết dạy. Ngồi sử
dụng đồ dùng có sẵn, giáo viên cịn tự làm thêm đồ dùng mới bổ sung cho bài
dạy. Nhà trường chỉ đạo sát sao việc đăng ký mượn và chuẩn bị đồ dùng cho bài
dạy trước một tuần. Đây là giải pháp mới mà từ năm học 2018 – 2019 đến nay
thực hiện khá tốt.
4. Công tác xã hội hóa giáo dục
Xác định rõ nhiệm vụ chính trị là giảng dạy và nâng cao chất lượng học
sinh. Một phần quan trọng liên quan đến chất lượng dạy và học là cơ sở vật chất
trường học phải được đảm bảo. Hơn nữa việc đầu tư cơ sở vật chất cho trường
học được khang trang mới xứng tầm một trường chuẩn Quốc Gia. Về mặt này
Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên tham mưu với các đồng chí lãnh đạo

Đảng, chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ. Nhà trường ln duy trì sự
phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh và địa phương trong công tác giáo dục
học sinh.
Thực hiện tốt xã hội hoá giáo dục, nhà trường thường xuyên thông báo
kết quả học tập của từng học sinh đến từng xóm, từng thơn và được phát trên loa
truyền thanh, qua sổ liên lạc để kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình.
Đăng kí với Ủy ban Nhân dân xã thường xuyên có các bản tin tuyên
truyền trên hệ thống loa truyền thanh của địa phương để mọi người, mọi nhà,
mọi cấp, mọi ngành đều biết được công việc và mong muốn của nhà trường để
cùng ủng hộ, giúp đỡ nhà trường hoàn thành nhiệm vụ giáo dục học sinh nhất là
giáo dục học sinh đại trà. Nhờ có cơng tác xã hội hóa giáo dục mà chất lượng
giảng dạy ngày một nâng cao.
20


Giáo dục Tiểu học là vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, có giá trị cơ bản
và lâu dài, có tính quyết định đối với cuộc đời cá nhân mỗi người. Vì vậy, người
giáo viên ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng. Lao động của một giáo
viên ở Tiểu học là lao động sáng tạo khơng ngừng, sự sáng tạo đó địi hỏi phải
tồn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui
chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục đạo đức
và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có những giáo viên thực sự
tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hồn
thành tốt nhiệm vụ.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc
áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số Tên
tổ
TT chức/cá nhân


Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

1

Tập thể học Trường Tiểu học Hải Lựu Nâng cao chất lượng dạy và
sinh lớp 3A1 xã Hải Lựu huyện Sông học.
Lô tỉnh Vĩnh Phúc

2

Tập thể học Trường Tiểu học Hải Lựu Nâng cao chất lượng dạy và
sinh Khối 3
xã Hải Lựu huyện Sông học.
Lơ tỉnh Vĩnh Phúc

Hải Lựu, ngày.. tháng....năm......
HIỆU TRƯỞNG
(Ký tên, đóng dấu)

Hải Lựu, ngày...tháng...năm......
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
(Ký tên, đóng dấu)

Hải Lựu, ngày.....tháng...năm…
TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)


Nguyễn Thanh Phòng

Nguyễn Thị Dân

21


22



×