Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao công tác chủ nhiệm ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.02 KB, 14 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học có một vị trí vơ cùng quan trọng trong việc
hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng sống cơ bản để học sinh tiếp tục học
Trung học cơ sở. Ngoài việc tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của học sinh
xuyên suốt 10 buổi/ tuần, giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải thường xuyên theo dõi
các hoạt động trong giờ chơi, trong các buổi sinh hoạt, giao lưu tập thể,…và cả hoạt
động học tập ở nhà của học sinh. Vì vậy công việc của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở
Tiểu học là rất nặng nề, rất vất vả và vô cùng phức tạp.
Là người giáo viên chủ nhiệm lớp, bản thân tôi nhận thức hết sức sâu sắc lời
dạy bảo ân cần của Bác Hồ kính u: “Non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
khơng, dân tộc Việt Nam có sánh vai cùng các cường quốc năm châu hay khơng,
chính là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các cháu”. Đó là trách nhiệm, là niềm
vinh quang, tự hào. Tơi suy nghĩ phải làm gì đây để xây dựng và hình thành cho các
em phẩm chất, trình độ tốt ngay từng giờ, từng ngày học và ý thức trách nhiệm của
các em đối với bản thân, với tập thể lớp, trường và cộng đồng xã hội.
Các em học sinh Tiểu học ngây thơ, hồn nhiên trong trắng như tờ giấy trắng.
Tôi hết sức tự hào khi mình là người đầu tiên được cầm bút viết lên tờ giấy trắng đó.
Niềm tự hào bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm đối với các em, với giáo dục và xã
hội.
Lương tâm của nhà sư phạm mách bảo tơi phải uốn nắn kịp dần cho các em
hình thành có ý thức nội quy, nề nếp đã được quy định. Quan tâm, động viên, giúp các
em từ việc nhỏ đến việc lớn, làm hành trang cho các em mang theo vào cuộc sống sau
này. Hiểu rõ như vậy, do đó tơi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao công tác chủ
nhiệm ở trường Tiểu học” để viết sáng kiến kinh nghiệm.
II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Giúp người giáo viên chủ nhiệm lớp có điều kiện gần gũi với học sinh, hiểu học sinh
hơn để từ đó giáo dục các em ngày càng tốt hơn.
- Học sinh khơng cịn tâm lí ngại gần gũi, ngại tiếp xúc với giáo viên chủ nhiệm lớp,
tạo điều kiện để học sinh phát huy tối đa những khả năng vốn có của mình trong học


tập cũng như trong mọi hoạt động của lớp, của trường.
- Tìm ra một số biện pháp tích cực, tối ưu trong cơng tác chủ nhiệm lớp góp phần
nâng cao sự hình thành và phát triển về năng lực, phẩm chât và giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh.dể từ đó học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã
hội, hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử
có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật… và có đủ khả năng tự chủ, độc lập, tự
tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các
em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.
III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI:
Với khả năng và trình độ cho phép, tôi xin chọn tập thể học sinh lớp 5A do tôi
chủ nhiệm.

Trang 1


B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC :
Giáo viên Tiểu học không chỉ dạy các môn học theo quy định của Bộ GD&ĐT
mà cịn phải làm tốt cơng tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy, địi hỏi người giáo viên Tiểu học
khơng chỉ có trình độ chun mơn mà cịn phải biết tổ chức quản lý học sinh trong
các hoạt động giáo dục, đó là việc rất nặng nề và cũng rất khó khăn đối với giáo viên.
Học sinh lớp 5 là lứa tuổi đang bước vào tuổi dậy thì nên ngồi những thay đổi về
thể chất, các em cũng thay đổi về tâm lý tình cảm, dễ bị tác động xấu bởi những vấn
nạn của xã hội nếu các em không được giáo dục tốt.
Học sinh trong lớp có em có hồn cảnh khó khăn nên thiếu sự quan tâm sâu sát
của gia đình, có em sống với ơng bà ngoại để đi học vì bố mẹ đi làm ăn xa; đặc biệt
có em có hồn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bố mẹ bỏ nhau, bố thần kinh khơng
bình thường, mẹ bị bệnh tâm thần khá nặng, nhà nghèo nên em có tâm lí chán học,
thường xun nghỉ học.
Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ là bổn phận và trách nhiệm của nhà

trường mà đặc biệt là của giáo viên.
Từ thực tế trên, tơi tự hứa với lịng mình phải cố gắng thật nhiều để làm tốt công
tác chủ nhiệm và phải đặc biệt quan tâm, gần gũi hơn với học sinh.
1. Những thuận lợi, khó khăn trong cơng tác chủ nhiệm lớp:
1.1. Thuận lợi:
Các ban ngành, đoàn thể ln tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi
mặt. Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học, việc giáo dục đạo đức
rèn phẩm chất, năng lực cho HS. Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và
học. Ngay từ đầu năm học trường đã tổ chức được cuộc họp với phụ huynh để chấn
chỉnh nế nếp học tập của các em.
Là giáo viên chủ nhiệm lớp 5. Bản thân luôn nhiệt tình trong cơng tác, hết lịng
vì học sinh thân yêu. Lớp 5A là lớp do tôi làm chủ nhiệm từ năm học trước, đã nắm
và hiểu rõ về tình hình, đặc điểm của lớp, của từng học sinh. Các em đều là học sinh
ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, chăm học, đồn kết, ln u thương giúp đỡ nhau.
Học sinh có đủ sách vở và đồ dùng học tập. Gia đình học sinh đều ở gần trường đóng,
thuận lợi cho việc đi lại của học sinh.
Trong gia đoạn hiện nay, với sự bùng nổ công nghệ thông tin nên việc nắm bắt
chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước của mỗi giáo viên, của phụ huynh rất kịp
thời, Sự liên lạc giữa giáo viên chủ nhiệm – gia đình học sinh – nhà trường khá kịp
thời
1.2. Khó khăn
*Những khó khăn do khách quan:
Nhận thức của một số phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình
đối với các em chưa đúng mức, phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục
học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng
trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con
em mình nhưng lại khơng nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy
Trang 2



dẫn tới hiệu quả khơng cao. Thậm chí có trường hợp phụ huynh dạy sai dẫn tới các
em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp
đến việc học của các em.
Bên cạnh đó ngồi giờ học các em cịn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi
lúa, giữ em để cha mẹ đi làm. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương
đối cao. Điều này làm cho việc học của các em bị hụt kiến thức dẫn đến mất căn bản.
Mặt trái của sự bùng nổ về công nghệ thông tin đã mang đến những tiêu cực,
các trò chơi ngày càng nhiều đặc biệt các trò choi trên mạng Internet…..thu hút học
sinh tham gia. Đời sống kinh tế phát triển dễ làm cho các em rơi vào lối sống thiên về
vật chất, do đó càng khó khăn hơn trong việc giáo dục tư tưởng cho các em có lối
sống hồn nhiên có lý tưởng.
* Khó khăn từ phía giáo viên và học sinh:
- Cơng tác quan hệ phối hợp với phụ huynh học sinh chưa được thường xun.
- Cịn có nhiều học sinh gia đình có hồn cảnh khó khăn, thuộc diện hộ nghèo.
- Nhà ở vùng thấp, lũ lụt hay bị ngập nước nên việc thực hiện nội quy trường, lớp vào
mùa mưa gió của các em học sinh còn hạn chế.
- Một số học sinh do thiếu thốn tình cảm gia đình (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ
làm ăn xa) nên các em ít được quan tâm, giáo dục tồn diện như các bạn cùng trang
lứa, có em cịn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, khơng dám hịa mình trong mọi
hoạt động chung của lớp.
- Lứa tuổi các em rất hiếu động, suy nghĩ chưa sâu sắc nên đơi khi cịn hay tranh cãi,
đánh nhau gây ra những trường hợp khơng đáng có trong mơi trường giáo dục. Một số
học sinh chưa có động cơ tự học tập, thiếu hứng thú, chưa thấy lợi ích của việc học,
chưa có thói quen và kỹ năng lao động trí óc.
- Việc triển khai thực Thông tư 22 của BGDĐT và tiếp cận các phương pháp dạy học
hiện đại, mơ hình dạy học VNEN mới bắt đầu, cả GV và phụ huynh đều bắt đầu làm
quen nên còn nhiều lúng túng.
2. Nguyên nhân của những thực trạng nói trên:
Hiện tượng trẻ em chưa linh hoạt khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống
thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và

dễ nản chí ngày càng nhiều. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa
được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai
các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ.
Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết sng, khơng tạo được cho trẻ khả năng tư
duy, óc phân tích, suy xét, phán đốn, khơng tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn
đề thực trong cuộc sống hiện đại… Qua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản
thân tôi nhận thấy học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:
Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.
Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi chưa thật
sâu sát.
Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh cịn ít.
Cơng tác tun truyền các bậc cha mẹ thực hiện giáo dục đạo đức cho các em chưa
nhiều.
Trang 3


Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo dục gia
đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến
học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống.
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG
TIỂU HỌC
1. Biện pháp 1: GVCN phải có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trị vơ cùng
quan trọng của mình đối với sự phát triển của học sinh lớp chủ nhiệm:
GVCN là thành viên của tập thể sư phạm, là người thay mặt hiệu trưởng, hội
đồng nhà trường và phụ huynh học sinh quản lý, tổ chức học tập rèn luyện đạt mục
tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai trị quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trị
người thầy giáo, đồng thời cịn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể
lớp.
Đối với HS và tập thể lớp, GVCN vừa là nhà giáo dục và là người lãnh đạo gần
gũi nhất, người lãnh đạo, tổ chức, điều hành, kiểm tra toàn diện các hoạt động giáo

dục, hoạt động tập thể và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về công tác giáo dục đạo
đức, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình được quy định trong chương trình
GDPT tại QĐ số 16/ QQD- BGD ĐT ngày 5/5/ 2006 của BGD và ĐT. GVCN là
người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp
mình chủ nhiệm.
Trong quan hệ với các lực lượng giáo dục khác trong và ngoài nhà trường,
GVCN là nhân vật trung tâm để hình thành, phát triển nhân cách học sinh; là cầu nối
giữa lớp với gia đình, nhà trường và xã hội.
2. Biện pháp 2: Tìm hiểu nắm rõ đặc điểm tình hình của lớp chủ nhiệm để có biện
pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học
sinh và của cả lớp.
Ngay sau khi nhận lớp chủ nhiệm, tôi đã tìm hiểu, nắm bắt thơng tin về đối
tượng học sinh lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau như điều tra qua học
bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu điều tra các
thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh…
Sự phân loại và các thông tin trên là căn cứ để lựa chọn học sinh có năng lực,
nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, Hội đồng tự quản; đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra
những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm.
3. Biện pháp 3: Xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản của lớp, hoàn thiện tổ chức
lớp học:
Xây dựng một đội ngũ Hội đồng tự quản giỏi là việc rất quan trọng người giáo
viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện. Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ
lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của
các bạn là cơng việc cần thiết và có ích.
Trước hết, những học sinh được chọn vào Hội đồng tự quản bao giờ cũng phải
gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối
xử với bạn bè....

Trang 4



Hội đồng tự quản của lớp tôi gồm: 1 Chủ tịch HĐTQ, 2 Phó chủ tịch HĐTQ và
gồm 6 ban với các chức trách và nhiệm vụ như sau:
* Chủ tịch Hội đồng tự quản: Điều hành công việc chung
* Phó chủ tịch Hội đồng tự quản: Điều hành các ban theo sự phân công của chủ tịch
Hội đồng.
* Ban văn nghệ : Tổ chức cho các bạn hát, múa, chơi trò chơi vào đầu tiết học và cuối
tiết học. Có thể lồng ghép chơi trị chơi để ơn lại kiến thức cũ.
* Ban học tập: Có nhiệm vụ phát đồ dùng và mời các nhóm trưởng lên nhận tài liệu
và đồ dùng học tập. Kiểm tra bài cũ, bài tập ứng dụng của các bạn, báo cáo với cô
giáo vào đầu giờ. Trong tiết học ngoài nhiệm vụ học tập của mình phải quan sát bao
quát lớp để cuối mỗi tiết học nhận xét đánh giá tình hình học tập của lớp.
Ngoài ra, tùy từng bài mà đặc biệt là ở hoạt động làm việc cả lớp, giáo viên có thể để
ban học tập thay cơ giáo kiểm tra lại kiến thức mà các nhóm vừa thảo luận xong.
Muốn làm được tốt cơng việc đó, cuối mỗi buổi học, tôi thường mời ban học tập ở lại
để giao nhiệm vụ trước cho các em.
* Ban lao động: Có nhiệm vụ theo dõi vệ sinh chung của cả lớp. Đầu mỗi buổi học
phải phân công vệ sinh lần lượt cho các nhóm và kiểm tra nhóm nào chưa thực hiện
hoặc thực hiện chưa tốt. Cuối mỗi buổi học cũng phải kiểm tra lại xem nhóm nào thực
hiện vệ sinh chưa tốt để kịp thời nhắc nhở các bạn thực hiện tốt.
* Ban thể dục: Có nhiệm vụ theo dõi phần tập thể dục giữa giờ và các tiết học thể dục
xem bạn nào thực hiện tốt, bạn nào thực hiện chưa tốt.
* Ban sức khỏe: Theo dõi về sức khỏe nếu trong lớp bạn nào có vấn đề về sức khỏe
thì đưa bạn lên phịng y tế của trường hoặc báo với cô y tế.
* Ban thư viện: Cho các bạn mượn truyện đọc, thu truyện và sắp xếp thư viện gọn
gàng ngăn nắp.
* Ban ngoại giao: Có nhiệm vụ nếu lớp có khách đến thăm thì ra mời khách vào và
biết giới thiệu về trường, lớp các góc học tập, cô giáo, các bạn. …
Nhiệm vụ của mỗi em, mỗi ban được ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó phát
cho các em. Tơi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học, cụ

thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Hội đồng tự quản và các
ban phải đồn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong công việc chung.
Cuối mỗi tuần, vào tiết sinh hoạt lớp ngày thứ sáu, dưới sự điều hành của Chủ
tịch HĐTQ, đại diện các ban báo cáo các mặt hoạt động của lớp. Căn cứ vào báo cáo
của từng ban, GVCN nắm được khả năng quản lí lớp của từng thành viên. Và cứ cuối
mỗi tháng, GVCN tổ chức họp HĐTQ một lần để tổng kết các mặt làm được của lớp,
động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ rõ những thiếu sót
và hướng dẫn các em cách khắc phục.
4. Biện pháp 4: Xây dựng kế hoạch phù hợp và chỉ đạo các em thực hiện tốt theo
kế hoạch.
Từ thực tế nắm bắt được tình hình của học sinh tôi xây dựng một kế hoạch chủ
nhiệm. Kế hoạch này ngoài việc căn cứ vào kế hoạch của nhà trường, phải dựa vào
tình hình thực tế của lớp, xây dựng kế hoạch cả năm, kế hoạch học kỳ, tháng, tuần,
bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế
Trang 5


nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng em; Có được kế hoạch thì tơi đi vào
chỉ đạo học sinh thực hiện theo kế hoạch đã định. Phát huy vai trò của hội đồng tự
quản và các ban, đội ngũ này sẽ giúp giáo viên động viên, đôn đốc, kịp thời uốn nắn,
kiểm tra đối tượng học sinh. Sau mỗi tuần giáo viên tổng kết lại cả quá trình và rút ra
cho mình bài học kinh nghiệm. Từ đó biết được ưu, khuyết điểm của lớp để khắc phục
và đưa ra hướng hoạt động cho tuần tiếp theo. Những vấn đề trong hướng dẫn lớp
hoạt động, giáo viên ghi vào sổ chủ nhiệm những gì mình theo dõi được ở học sinh.
Từ đó đánh giá và giáo dục học sinh tốt hơn.
5. Biện pháp 5: Luôn quan tâm, tạo sự gần gũi hòa đồng giữa GVCN với
HS, tập thói quen thực hiện nề nếp theo qui định.
Từ khi nhận lớp và đi thăm gia đình phụ huynh học sinh, tôi đã hiểu được phần
nào ở mỗi học sinh, nên đã lập nên một kế hoạch: Ở trước lớp tôi động viên và
khuyên nhủ các em về vệ sinh lớp trước khi vào học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Về tác

phong tư tưởng, các em còn vụng dại, sợ sệt khơng giám nói, sinh hoạt cịn mang
nặng ở nhà, ăn mặc cịn bẩn. Vì thế tơi đã gần gũi với các em, hồ mình vào tập thể
lớp như: gài cúc áo, xắn tay áo, chải đầu, sửa quần áo... cho các em. Tôi đã giành thời
gian giữa giờ để tập hát, kể chuyện cho các em một số câu chuyện bổ ích. Để tạo cho
các em hứng thú trong học tập, sự hoà đồng giữa giáo viên và học sinh, rút ngắn lại
khoảng cách thầy, trò. Trước đây các em xa lạ với tôi bao nhiêu thì các em càng gần
gũi với tơi bấy nhiêu. Trong các giờ lên lớp tôi luôn luôn xác định rằng khi học là phải
có một nề nếp. Tổ chức cho HS cả lớp cùng với HĐTQ xây dựng một nề nếp và kiên
quyết thực hiện theo nề nếp đã qui định.
- 15 phút đầu giờ tôi chữa bài tập, ôn lại bài cũ, tập hát cho các em...
- Thực hiện dạy bài mới, ôn bài cũ qua từng giai đoạn, từng thời kì. Với phương
pháp từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn.
- Khi ngồi học bàn ghế phải ngay ngắn, ngồi vng góc, ngồi thẳng hàng, bàn
nào có em nói chuyện là mời em đó lên ngồi bàn trên.
- Xếp chỗ ngồi một em khá, một em yếu để các em kèm cặp nhau trong học tập,
các nhóm trưởng phải theo dõi trong nhóm của mình ai nói chuyện riêng, không làm
bài tập, không học bài cũ, đi học muộn, nghỉ học khơng có phép...bạn nào hăng say
phát biểu, xây dựng bài.
- Các nhóm trưởng phải theo dõi các bạn trong nhóm của mình. Cuối tuần
thống kê tun dương những em có ý thức tốt, em nào mắc phải khuyết điểm tự đứng
dậy nhận lỗi trước lớp và giáo viên chủ nhiệm. Đây là một việc làm mang tính giáo
dục, các em tự biết nhận lỗi, tự nhận ra khuyết điểm của mình. Qua những việc làm
như vậy, tơi thấy các em tiến bộ rõ rệt. Theo tôi nghĩ, nhiều lúc nghiêm túc q sẽ dẫn
đến khơng khí căng thẳng trong giờ học. Trong khi học bài nếu học sinh phát biểu tôi
luôn chú ý động viên dù trả lời khơng đúng hoặc đúng ít để tạo cho lớp mình có một
phong trào học tập hằng say và sơi động. Do đó tơi thấy rằng với những việc làm như
thế, mỗi giờ dạy của tơi đối với lớp có phần sơi động hẳn lên, tạo cho cả hai phía giáo
viên và học sinh. Giáo viên thì hứng thú giảng dạy, cịn học sinh thì hứng thú học tập
và kết quả truyền thụ và tiếp thu của các em khá cao.


Trang 6


Ngồi việc dạy kiến thức tơi ln quan tâm đến việc ghi chép bài vở của học sinh,
xem các em viết bài như thế nào. Em nào ghi chưa hợp lý và chưa khoa học, tôi đã
hướng dẫn các em ghi chép đầy đủ và khoa học hơn. Hướng dẫn các em cách cầm
sách khi đọc bài, cách trả lời các câu hỏi phải có đầu, đi. Ln quan tâm giúp đỡ
các em học yếu. Luôn nhắc nhở và quan sát tư thế ngồi học của các em, để kịp thời
sửa chữa cho các em ngồi đúng tư thế. Khi giảng dạy tơi ln dùng những kí hiệu trên
bảng để điều khiển lớp, nhằm hạn chế sự làm việc riêng của học sinh, giáo viên khỏi
phải nói nhiều và thói quen trong học tập.
Trong giờ học, tôi luôn tạo không khí sinh động, sơi nổi, hài hịa, vui tươi
khơng căng thẳng mà tạo niềm vui, sự phấn chấn để các em tự tin học tập, các em vừa
học vừa chơi nhưng vẫn đảm bảo chương trình chung. Ví dụ trong giờ học tốn tơi
vận dụng các câu chuyện cổ tích, câu chuyện vui để đưa ra các bài toán liên quan đến
chương trình tốn mà các em đang học. Khi đọc các bài tốn có trong câu chuyện các
em cảm thấy thú vị hơn với vấn đề yêu cầu các em giải quyết, nó cịn giúp học sinh
nâng cao kĩ năng đọc. Từ sự hưng phấn đó khoảng cách giữa các em với cô giáo chủ
nhiệm được gần hơn, các em thực sự mạnh dạn trong học tập.
Trong các tiết học tơi ln chú ý các em yếu hoặc tính trầm lặng ít phát biểu.
Đối với các em ít nói, tôi thường gọi các em đứng dậy nhắc lại những câu trả lời của
bạn hoặc đọc lại những câu ghi trên bảng để tạo cho các em thêm mạnh dạn và nói lưu
lốt hơn trước đám đồng. Cịn các em yếu kém tơi ln chú ý kèm cặp và dìu dắt kĩ
hơn các em khác. Luôn động viên và khuyến khích các em dù có những việc làm nhỏ.
Từ đó tôi thấy các em mạnh dạn hơn và kết quả nâng cao.
* Quan tâm giáo dục học sinh cá biệt, HS có hồn cảnh khó khăn:
Ở lớp tơi chủ nhiệm có em Võ Thị Bích Thuận có hồn cảnh gia đình đặc biệt
khó khăn: Bố bỏ đi từ lúc em chưa chào đời, mẹ bị bệnh tâm thần khá nặng, nhà q
nghèo. Gia đình chỉ có hai mẹ con sống với nhau, thần kinh của em khơng được bình
thường như các bạn trong lớp. Vì vậy, việc chấp hành nội qui của lớp, của trường

nhiều lúc chưa thật nghiêm túc; em cịn đi học khơng thường xun và có nguy cơ bỏ
học. Ngồi ra, một số học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn như em Phạm Thị Tú
(bố mẹ đi làm ăn xa, em ở với ông bà ngoại); em Nguyễn Hồng Anh (nhà nghèo, gia
đình đơng con), ….
Là giáo viên chủ nhiệm lớp, trước hết phải tìm hiểu hồn cảnh gia đình,
ngun nhân dẫn đến hành vi của HS; gặp riêng HS cá biệt bằng tình cảm chân thành
của mình. Khi các em mắc lỗi, giáo viên cần bình tĩnh, nhẹ nhàng, tế nhị, phân tích có
lý, có tình mức độ nguy hại của khuyết điểm, thức tỉnh HS bằng những câu chuyện
đạo đức để cảm phục các em.
Tin tưởng giao công việc tập thể phù hợp với khả năng của HS cá biệt. Đây là
việc làm mang tính hai mặt, địi hỏi GVCN lớp phải thường xuyên giám sát, kiểm tra
và động viên kịp thời khi HS đạt được thành tích dù là nhỏ nhất.
Tổ chức hoạt động tập thể, hoạt động nhân đạo để tạo điều kiện cho HS cá biệt
tham gia; xây dựng môi trường lành mạnh, tích cực, để các em có cơ hội tự thể hiện
mình. Cho các em tham gia và thực hiện tốt các chuyên đề ngoại khoá, rèn luyện kỹ
năng sống để các em tiến bộ.
Trang 7


Tổ chức cho tập thể lớp quan tâm tận tình giúp đỡ dưới mọi hình thức như:
thăm hỏi, đơi bạn, nhóm bạn cùng tiến. Ngồi ra bản thân tơi cịn kêu gọi các tổ chức
trong và ngoài nhà trường ủng hộ, quyên góp về vật chất để giúp các em có điều kiện
đến trường. GVCN lớp có thể lấy tấm gương tốt trong tập thể, hoặc của chính một HS
cá biệt đã tiến bộ để cảm hoá HS cá biệt.
Kết hợp chặt chẽ với GV bộ môn vừa để hiểu hơn về HS vừa giúp các em có
những cố gắng ở từng môn học. Đồng thời, kết hợp chặt chẽ với hội CMHS, Đội
TNTP để thống nhất biện pháp giáo dục HS cá biệt.
Thực tiễn giáo dục HS cá biệt là rất khó khăn và khơng phải HS cá biệt nào
cũng giáo dục thành công. Công tác giáo dục HS cá biệt luôn là một thử thách rất lớn
đối với mỗi GVCN lớp, song làm tốt được điều này bạn mới thực sự trở thành một

nhà giáo dục theo đúng nghĩa.
6. Biện pháp 6: Tổ chức tốt các hoạt động tập thể và các trị chơi vui tươi lành
mạnh.
Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích của
hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và
tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em “học mà chơi, chơi mà học”, kiến
thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự
nhiên, khơng gây căng thẳng, gị bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập
thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng
khiếu và tài năng sáng tạo. Ngoài ra, việc tổ chức các hoạt động tập thể cịn là sợi dây
gắn bó, kết nối, đồn kết các em lại với nhau.
Các hoạt động sinh hoạt tập thể và một số trò chơi đơn giản, gọn nhẹ, tơi có thể tổ
chức ngay trong mỗi buổi học chính khóa và cả các buổi sinh hoạt ngồi giờ lên lớp.
* Tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi trong buổi học chính khóa
Giữa 2 tiết học căng thẳng, tôi thường tổ chức cho các em múa hát tập thể, biểu
diễn văn nghệ, hát dân ca, diễn hài,...
Trong các tiết TNXH, Đạo đức, tôi tổ chức cho các em chơi các trị chơi như:
làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phịng tránh bị xâm hại, từ chối các chất
gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS,...và đóng vai xử lí các
tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em cịn được hình
thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với khả năng của từng
em, khuyến khích động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các
tiết học chính khóa trở nên sơi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt
động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực,
điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ
nhàng, nhưng lại hiệu quả.
* Tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thơng qua hoạt động ngồi
giờ lên lớp
Ở Tiểu học, giáo dục ngoài giờ lên lớp được qui định trong chương trình chính

khóa, khơng bắt buộc giáo viên chủ nhiệm phải lên tiết ngoài giờ lên lớp. Nhưng nếu
các hoạt động này chỉ diễn ra ở các tiết học chính khóa trên lớp thì sẽ mất rất nhiều
Trang 8


thời gian, nếu như giáo viên vận dụng và tổ chức khơng khéo léo thì sẽ làm ảnh
hưởng đến tiến trình giờ học. Do vậy, đối với những hoạt động chiếm nhiều thời gian,
cần nhiều sức lực, tôi tổ chức cho học sinh tham gia trái buổi, mỗi tuần 1 buổi.
- Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức bằng các trị chơi như: Rung chng
vàng, Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An tồn giao thơng,... Nội dung thi được tơi
soạn bằng chương trình PowerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh
mỗi lần tham gia.
- Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh chào
mừng các ngày lễ lớn.
- Tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của
đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ niệm ngày
Quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng miền
Nam,...Những đoạn phim tài liệu này, tơi lấy trên mạng Internet rồi kết nối với máy
chiếu, chiếu lên cho học sinh xem.
- Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm
một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa trên hướng
dẫn ở báo Chăm học, tôi tập chung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm việc theo
nhóm. Các em cùng làm, cùng góp, giúp đỡ nhau làm việc.
Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho cả
lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là tôi đã
thực sự xây dựng được một mơi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Sĩ số của
lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng cao.
* Tổ chức tốt giờ sinh hoạt lớp cuối tuần:
Là giáo viên chủ nhiệm lớp thì giờ sinh hoạt cuối tuần là thời gian quan trọng
nhất, bởi tiết này không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc nhận xét ưu, khuyết điểm của

lớp trưởng về hoạt động của lớp tuần qua mà trong giờ sinh hoạt cuối tuần nhằm để
học sinh nhận thấy được các khuyết điểm của chính bản thân mình, dù nhỏ hay lớn
đều phải tự hứa trước lớp sẽ có biện pháp khắc phục trong tuần tới. Đặc biệt trong giờ
sinh hoạt này, tơi lấy các tấm gương điển hình về học tập, giúp đỡ bạn, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao để tuyên dương, khen ngợi phần này được nhấn mạnh
hơn, phần tồn tại chỉ nhắc nhở không quá khắt khe có như vậy các em mới tự giác
thực hiện tốt.
Ngồi những biện pháp nói trên, tơi cịn thường xuyên quan tâm đến việc phối
hợp tốt với các GV bộ môn, với Liên đội, với BGH nhà trường, với Phụ huynh học
sinh,… Nhờ vậy mà việc giáo dục học sinh của lớp có nhiều hiệu quả hơn. Đặc biệt
bản thân tôi luôn làm gương trong mọi mặt để cho các em noi theo. Bởi vì tơi ln
nghĩ, giáo viên chủ nhiệm như người mẹ hiền thứ hai chăm sóc đàn con của mình,
mỗi việc làm lời nói của người giáo viên chủ nhiệm ảnh hưởng rất lớn trong việc hình
thành nhân cách học sinh.
Trong những năm làm cơng tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy rằng: Người giáo viên
chủ nhiệm nào chăm lo tới lớp của mình và có năng lực tổ chức quản lý lớp thì lớp đó
bao giờ cũng ngoan hơn, nề nếp hơn. Đúng là “Mẹ nào con đó, tướng nào quân ấy”.
Người giáo viên nào đứng lớp cũng cần chữ “ UY”. Nhưng chữ “UY” của giáo viên
Trang 9


chủ nhiệm đối với học sinh thì cần hơn. Chữ “UY” ở đây là uy tín, là lịng kính trọng
tin yêu, là lòng khâm phục lòng ngưỡng mộ của trò đối với thầy... Thầy có chữ
“UY’’ thì thầy bảo, thầy nói, thầy dạy trị mới vâng theo. Theo tơi, chữ “UY” được
hình thành từ cái nhỏ nhất. Đó là lời nói, việc làm, hành động; là trang phục, tư thế
tác phong, cách thức cư xử ... và sự hấp dẫn trong từng tiết học của thầy của giáo
viên chủ nhiệm. Bên cạnh chữ “UY” thì phải nói tới chữ “TÂM” của giáo viên chủ
nhiệm. Chữ “TÂM” được hiểu ở đây là lịng thương u trẻ đích thực, là lịng tâm
huyết với cơng việc của mình. Người giáo viên chủ nhiệm cần phải quản lý lớp, giáo
dục học sinh bằng tình yêu thương. Kinh nghiệm của bản thân tôi: Học sinh u q

thầy cơ nào thì thích học thích vâng nghe theo lời thầy cơ ấy.
Tóm lại, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan
trọng. Lao động của một giáo viên chủ nhiệm lớp ở Tiểu học là lao động sáng tạo
không ngừng; Sự sáng tạo đó địi hỏi phải tồn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong
tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong
các biện pháp giáo dục đạo đức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy chỉ có
những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương u học sinh của mình
thì mới có thể hồn thành tốt nhiệm vụ.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng làm tốt công tác chủ
nhiệm, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử
tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp.
Việc nâng cao công tác chủ nhiệm cho giáo viên Tiểu học là điều hết sức cần. Để
đạt được điều đó, giáo viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục
trong suốt quá trình giảng dạy.
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Qua việc thực hiện các biện pháp trên, kể từ năm học 2017-2018 đến giữa
học kì I này, bản thân tơi thật sự vui mừng vì các em có nhiều tiến bộ rõ rệt. Các em
đều có ý thức kỉ luật, tinh thần tự giác và có tinh thần tự học. Giờ truy bài thực sự hữu
ích với các em vì đó chính là giờ tự học, tự kiểm tra rất có kết quả. Các em mạnh dạn
trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể. Hội đồng tự quản làm việc có
bài bản, thực sự năng động hơn. Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi
thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời
chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen
được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học. Phụ
huynh học sinh rất vui mừng phấn khởi trước sự tiến bộ trưởng thành của con em
mình, với những kết quả tốt đẹp của tập thể lớp 3C.
Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối 3 nói riêng và
học sinh tồn trường nói chung, được các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học sinh
trong khối ngoan hơn, tự giác chủ động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lí
trong ứng xử khá phù hợp. Tồn khối trong năm qua khơng có em nào bị kỉ luật và tỉ

lệ lên lớp đạt chỉ tiêu.
Nhìn lại kết quả trên cho thấy, học sinh trong lớp chủ nhiệm về năng lực và
phẩm chất đều đạt. Về kiến thức kĩ năng các em đều hoàn thành và hoàn thành thành
tốt.
Trang 10


Như vậy, với hiệu quả đạt được như trên đã phần nào phản ánh được tác dụng sáng
kiến này, nó được áp dụng có hiệu quả trong lớp cũng như trong khối. Các giáo viên trong
trường cũng đã áp dụng sáng kiến này trong cơng tác chủ nhiệm của mình, học sinh đa số
đều có kĩ năng sống tốt hơn: thích ứng được với mơi trường xã hội, tự giải quyết được một
số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,…
các em có thể tự tin, chủ động khơng bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo
vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học
tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực.”
Với việc áp dụng những biện pháp nói trên, kết quả lớp 2017 - 2018 đạt được cụ
thể sau:
* Năm học 2017-2018:
+Kiến thức, kỹ năng :100% học sinh hoàn thành
+Năng lực:
-Tự phục vụ, tự quản: 100% học sinh xếp loại Tốt.
- Hợp tác: 100% học sinh xếp loại Tốt.
- Tự tin, giải quyết vấn đề: 87,5% học sinh xếp loại Tốt. 12,5 % học
sinh xếp loại Đạt.
+Phẩm chất:
- Chăm học, chăm làm: 100% học sinh xếp loại Tốt.
- Tự tin, trách nhiệm: 100% học sinh xếp loại Tốt.
- Trung thực, kĩ luật: 100% học sinh xếp loại Tốt.
- Đoàn kết, yêu thương: 100% học sinh xếp loại Tốt.

+ Có 19/24 em được khen thưởng cuối năm đạt tỉ lệ: 79,2%
- Học sinh hoàn thành xuất sắc các nội dung học tập và rèn luyện: 8 em
- Học sinh có thành tích vượt trội hay tiến bộ vượt bậc về ít nhất một môn học hoặc
ít nhất một năng lực, phẩm chất : 11 em.
* Kết quả các hội thi của lớp 5A:
Tổng số: 30 giải từ cấp trường trở lên ( Trong đó: Cấp trường 24 giải ; Cấp
huyện 3 giải ; Cấp tỉnh 3 giải ) cụ thể như sau:
a) Cấp trường:
Đạt 01 giải Nhất OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Nhì OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Ba Em hát dân ca và Hò khoan Lệ Thủy.
Đạt 01 giải Ba Hội thi Kể chuyện theo sách
Đạt 01 giải Ba Hội thi Nghi thức đội.
Đạt 01 giải nhất Nội dung Gian hàng – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung kéo co – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung Đổ nước vào chai – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất Nội dung Nhảy bao bố – Ngày hội học sinh Tiểu học
Đạt 01 giải nhất chạy 60m nam
Đạt 01 giải Ba chạy 60 m nam
Đạt 01 giải Nhì chạy 60 m nữ
Trang 11


Đạt 01 giải Nhất bật xa nam
Đạt 01 giải Nhất bật xa nữ
Đạt 01 giải Nhất cờ vua nữ
Đạt 01 giải Ba cờ vua nam
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơn nam
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơn nữ
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam

Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nữ
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đôi nam nữ
Đạt 01 giải Nhất đá cầu đơi nam nữ
b) Cấp huyện:
Đạt 01 giải Nhì OTE tiếng Anh .
Đạt 01 giải Nhì nội dung chạy 60 nam.
Đạt 01 giải Ba nội dung đá cầu đôi nữ.
c) Cấp tỉnh
Đạt 01 giải Ba OTE tiếng Anh
Đạt 01 giải Nhì Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt.
Đạt 01 giải Khuyến khích Hội thi Trạng nguyên Tiếng Việt
* Học giữa học kì 1 - Năm học 2018-2019 (Lớp 5A):
a/ Kết quả giáo dục:
Mơn học, HĐGD

Tổng số
học sinh

Hồn thành tốt

Hồn thành

42.3
57.7
53.8
42.3

Số

lượng
15
9
12
15

57.7
34.6
46.2
57.7

Chưa hồn
thành
Số
%
lượng
0
0.0
2
7.7
0
0.0
0
0.0

Tiếng Việt
Tốn
Đạo đức
Khoa học


26
26
26
26

Số
lượng
11
15
14
11

Lịch sử và Địa lí

26

11

42.3

15

57.7

0

0.0

Âm nhạc
Mĩ thuật

Thủ cơng (Kĩ thuật)
Thể dục
Tiếng Anh

26
26
26
26
26

8
9
11
9
8

30.8
34.6
42.3
34.6
30.8

18
17
15
17
18

69.2
65.4

57.7
65.4
69.2

0
0
0
0
0

0.0
0.0
0.0
0.0
0.0

Tin học

26

10

38.5

16

61.5

0


0.0

Năng lực

26

Tự phục vụ, tự quản

26

25

96.2

1

3.8

0

0.0

Hợp tác

26

15

57.7


11

42.3

0

0.0

Tự học và GQVĐ

26

15

57.7

11

42.3

0

0.0

%

Đạt tốt

%


Đạt

Trang 12

Cần cố gắng


Phẩm chất

26

Chăm học, chăm
làm

26

17

65.4

9

34.6

0

0.0

Tự tin, trách nhiệm


26

17

65.4

9

34.6

0

0.0

Trung thực, kỉ luật

26

26

100.0

0

0.0

0

0.0


Đoàn kết, yêu thương

26

26

100.0

0

0.0

0

0.0

b/ Kết quả các phong trào thi đua và mũi nhọn:
- Tham gia đầy đủ các hội thi cấp trường, đạt giải cao. Cụ thể:
+ Hội thi Tiếng Anh OTE cấp trường : 02 giải Nhất ; 01 giải Nhì
+ Hội thi Kể chuyện theo sách: đạt giải Ba.

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI:
Công tác chủ nhiệm lớp quả thật nặng nề và phức tạp. Người giáo viên phải
vừa như người mẹ dịu dàng, người thầy nghiêm khắc, người bạn gần gũi, trọng tài
phân minh… Thành công của giáo viên là làm cho học sinh tơn trọng, kính u, tin
tưởng, là xây dựng được một tập thể lớp đồn kết, gắn bó. Muốn đạt được điều đó,
GVCN phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
Thầy cô phải luôn là điểm sáng, là thần tượng của các em. Các em dễ tin, dễ
nghe theo lời dạy bảo của thầy cơ.

Nắm chắc được những thuận lợi, khó khăn, hiểu rõ thực tế trường lớp mình,
khéo léo tìm cách bỏ đi mọi rào cản trong mối quan hệ với phụ huynh, đề ra những
biện pháp hữu hiệu, tiếp cận gần với các em nhất, tôi nghĩ rằng bất cứ giáo viên nào
cũng sẽ sớm trở thành những người bạn của trẻ.
Luôn gần gũi, bên cạnh, quan tâm tới hồn cảnh sống của học sinh, nhất là học
sinh có hồn cảnh đặc biệt.
Bên cạnh đó, liên hệ chặt chẽ với phụ huynh, ban đại diện cha mẹ học sinh của
trường, của lớp, vận động cha mẹ học sinh có những hành động thiết thực hỗ trợ học
tập sẽ giúp cho hoạt động của lớp có hiệu quả hơn.
Phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp làm nòng cốt, là “cánh tay phải”
của mình. Muốn vậy cần phải có một sự chọn lựa dựa trên cơ sở định hướng của giáo
viên và khả năng tín nhiệm của học sinh. Để giúp cho các em hoạt động có hiệu quả,
tích cực, chính xác, người giáo viên cần xây dựng kế hoạch chủ nhiệm sát hợp với
tình hình của lớp, thiết kế hệ thống sổ sách theo dõi phù hợp và thường xuyên kiểm
tra, đánh giá để có cách điều chỉnh thích hợp.
Ngồi ra, sự liên hệ chặt chẽ thường xuyên với các GVCN khác, với các giáo
viên bộ môn cũng góp phần quan trọng cho GVCN trong thực hiện cơng tác của
mình.
Sống, học tập, lao động là những vấn đề thiết yếu mà bản thân luôn cố gắng để
ươm mầm cho thế hệ trẻ. Bởi trẻ em là hạnh phúc của gia đình, tương lai của đất
nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, là nhân tố để cây
Trang 13


đời mãi mãi xanh tươi. Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em, bồi dưỡng trẻ em trở thành
công dân tốt của đất nước là một công việc vô cùng quan trọng mà mỗi giáo viên
chúng ta phải cùng có trách nhiệm.
II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
* Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề về công tác chủ nhiệm lớp nhằm không

ngừng nâng cao nhận thức cho đội ngũ giáo viên nói chung, GVCN nói riêng giúp
cho đội ngũ làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm lớp góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục trong nhà trường
- Hằng năm tổ chức bình bầu danh hiệu GVCN lớp giỏi cấp trường một cách cơng
bằng, chính xác để tạo sự phấn đấu thi đua trong mỗi giáo viên. Động viên khen
thưởng kịp thời cho những GVCN làm tốt cơng tác của mình, khen thưởng lớp đạt
thành tích cao trong học tập và rèn luyện.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong công tác chủ
nhiệm lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục học sinh lớp 5. Kính mong nhận được
những ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến được đưa vào
thực hiện có hiệu quả cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

Trang 14



×