Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi tại đơn vị công tác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.21 KB, 24 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: “MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT
TRIỂN NGÔN NGỮ CHO TRẺ 3 – 4 TUỔI TẠI ĐƠN VỊ CÔNG TÁC”

Họ và tên: Ngô Thị Nhung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Ngư Thuỷ Trung

Lệ Thuỷ, tháng 4 năm 2020



I.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bộ
phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người mới có ích.
Một trong những mục tiêu cải cách giáo dục của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc
giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người
Việt nam mới, người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách và giáo
dục mầm non đã góp phần thực hiện mục tiêu này. Ngày nay, chúng ta không chỉ đào
tạo những con người có tri thức, có khoa học, có tình u thiên nhiên, u Tổ quốc,
u lao động mà còn tạo nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu
mơ ước và sáng tạo. Những phẩm chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa
tuổi mầm non, lứa tuổi hứa hẹn biết bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Bảo vệ
chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn xã hội và của mỗi gia
đình. Trong đó, nhà trường có vai trị quan trọng trong việc giáo dục hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện của trẻ. Trong những năm gần đây bậc học Mầm non


đang thực hiện chương trình giáo dục trẻ mầm nontheo thơng tư 28, trong đó đặc biệt
coi trọng việc tổ chức các hoạt động với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến
khích trẻ hoạt động một cách chủ động tích cực, hồn nhiên, vui tươi. Đồng thời tạo
điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các
hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “ Học
mà chơi- chơi mà học” đáp ứng mục tiêu phát triển trẻ một cách tồn diện. Trong q
trình phát triển tồn diện nhân cách, ngơn ngữ có vai trị là một phương tiện hình
thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh, ngơn ngữ giúp trẻ tìm
hiểu, khám phá và nhận thức về môi trường xung quanh,thông qua cử chỉ và lời nói
của người lớn trẻ làm quen với các sự vật hiện tượng có trong mơi trường xung
quanh, trẻ hiểu những đặc điểm, tính chất, cơng dụng của các sự vật cùng với từ
tương ứng với nó. Như Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và
vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó”.Ngơn ngữ có
vai trị to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là
phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và
phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ
có ngơn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo
dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử
- xã hội của lồi người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngơn ngữ
sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng


xã hội ngày càng phát triển hơn. Nhờ có ngơn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các
sự vật, hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày. Ngồi ra, ngơn
ngữ cịn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.
Đối với trẻ 3-4 tuổi, khả năng hiểu lời nói, vốn từ tăng nhanh, cấu trúc từ hoàn
thiện, chúng dễ dàng bắt chước các kết hợp âm, các câu ngắn, vốn từ của trẻ phần lớn
là những danh từ và động từ, các loại từ khác như: tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện
rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở độ tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các
từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu thị tính chất

màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa của các từ này ở
trẻ còn rất hạn chế và có nét đặc trưng riêng, khả năng phát âm của trẻ chưa chuẩn;Trẻ
phát âm chưa rõ ràng, nói ngọng, nói lắp, chưa mạnh dạn tự tin trong giao tiếp với
những người xung quanh,trẻ còn hạn chế trong việc bày tỏ ý kiến của mình với người
khác... Chính vì thế chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các loại từ trong các
từ, biết sử dụng nhiều loại câu, bằng con đường giao tiếp thường xuyên, có hệ thống
của trẻ với người lớn về những sự vật, sự việc trẻ được nhìn thấy trong sinh hoạt hằng
ngày. Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. “ Trẻ lên
ba cả nhà học nói”, điều này thật đúng. Chính yếu tố này đòi hỏi người lớn phải
hướng trẻ vào thế giới xung quanh, phát triển ở trẻ năng lực quan sát, nhận biết các đồ
vật, hiện tượng khác nhau, đồng thời cho trẻ làm quen với hoạt động của người lớn.
Có như vậy mới phát triển được mặt hiểu ý nghĩa của lời nói, khả năng phát âm, các
chức năng giao tiếp và điều quan trọng nhất là ở chỗ làm sao cho trẻ khơng những
nắm vững từ mà cịn học sử dụng chúng theo ý mình. Điều này khơng tự đến, nhu cầu
sử dụng ngữ điệu vào giao tiếp cần phải được giáo dục, quan hệ của người lớn đối với
trẻ có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kịp thời lời nói cho trẻ, thái độ quan
tâm, thận trọng, hết mình của cơ giáo tạo ra sự phát triển những tình cảm tích cực và
những phản ứng khác nhau, thiếu những thứ đó khơng thể tạo ra được mối quan hệ
chặt chẽ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Những tác động sư phạm phải được tiến hành
thường xuyên và hướng vào tất cả các mặt phát triển thần kinh- tâm lý của trẻ, chỉ có
sự phát triển tồn diện như vậy ở trẻ mới hình thành được ngơn ngữ. Song để làm
được điều đó quả thực không đơn giản.
Vậy làm thế nào để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi, giúp trẻ phát triển hài
hoà và toàn diện về nhân cách. Chính vì thế tơi quyết định chọn đề tài: "Một số biện
pháp nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3-4 tuổi tại đơn vị
công tác", một vấn đề đang được quan tâm trong giáo dục Mầm non hiện nay.
2. Phạm vi áp dụng của đề tài:
Việc giáo dục phát triển ngơn ngữ cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở



lĩnh vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được nhưng bản thân tôi là một giáo viên
đang dạy lớp 3- 4 tuổi nên tôi muốn tập trung nghiên cứu và tìm kiếm các biện pháp
nhằm khắc phục các hạn chế về ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi. Đề tài của tôi đã được áp
dụng tại đơn vị và được các đơn vị bạn trong Huyện áp dụng và có khả năng áp dụng
cho các đơn vị bạn trong tỉnh và ngoài tỉnh trong vấn đề giáo dục phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 3 – 4 tuổi trong trường MN.
3. Điểm mới của đề tài:
Xuất phát từ vai trị quan trọng của “Giáo dục phát triển ngơn ngữ” đối với trẻ,
tôi thấy việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một việc làm vô cùng quan trọng
và có ý nghĩa. Nhưng làm thế nào để giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có
hiệu quả? Điều này quả khơng dễ dàng đối với tất cả các giáo viên mầm non.
Với đề tài này có thể đã có nhiều đồng nghiệp ở các đơn vị bạn nghiên cứu nhưng
với đề tài của tơi nó có những điểm mới đó là tơi đã tập trung nghiên cứu và vận dụng
các biện pháp như: Làm tốt công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân
thơng qua việc tự tìm tịi, bồi dưỡng bản thân, chia sẻ với đồng nghiệp… Từ việc nắm
rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và xác định đúng những phần cịn hạn chế trong ngơn
ngữ của trẻ trong lớp; Tổ chức tốt các hoạt động giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thông qua các hoạt động hàng ngày; làm tốt công tác tuyên truyền cho các bậc phụ
huynh về cách giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ để nâng cao chất lượng giáo dục
phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi để giúp trẻ phát triển tồn diện về nhân cách,
đạo đức, trí tuệ và ngơn ngữ, qua đó giúp trẻ tự tin trong giao tiếp.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng vấn đề.
Năm học 2019 - 2020, tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo 3 4. Cơ sở nơi tôi công tác thuộc vùng nông thôn với điều kiện cơ sở vật chất cịn nhiều
khó khăn, phần lớn là sự trong chờ vào đầu tư hỗ trợ của cấp trên. Nhận thức của trẻ
chưa đồng đều nên trong công tác giảng dạy cũng gặp khó khăn. Bản thân là giáo viên
và cũng là một người dân sống tại địa phương, tôi xác định rõ vai trị trách nhiệm của
mình cùng với các đồng nghiệp phấn đấu đưa nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ đề
ra. Để đạt được kết quả tốt hơn thì việc làm đầu tiên là nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ. Bản thân tơi khi bước vào thực hiện đề tài này gặp những thuận lợi và

khó khăn sau:
1.1. Thuận lợi.


Được sự quan tâm của PGD&ĐT, UBND xã, nhà trường đã được sửa chữa và xây
dựng thêm một số phòng học rộng rãi thoáng mát, đồ dùng dạy học bên trong lớp
học của cô và trẻ tương đối đầy đủ tạo điều kiện cho q trình lên lớp.
Bản thân tơi được sự quan tâm tận tình, chỉ đạo sâu sát của Ban giám hiệu nhà
trường về bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng sư phạm và được cung cấp một
số trang thiết bị phục vụ cho việc làm quen văn học như tranh ảnh, băng đĩa kể
chuyện, máy chiếu, truyện tranh và nhiều đồ dùng đồ chơi phong phú hấp dẫn khác….
Được tham gia các lớp tập huấn, tham gia thao giảng cụm, trường, dự giờ các tiết
dạy mẫu về chuyên đề làm quen văn học như: Kể chuyện, đọc thơ nên bản thân đã
tích lũy được một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
Bản thân tơi ham tìm tịi học hỏi, thích khám phá những cái hay, cái lạ, say sưa
nghiên cứu bài soạn, linh hoạt sáng tạo nhiều cái mới trong giảng dạy, có ý thức phấn
đấu vươn lên, có năng khiếu kể chuyện, đọc thơ, có trình độ chun mơn và năng lực
sư phạm vững vàng, đặc biệt tơi có một chút về năng khiếu hội họa nên cũng một
phần nào thuận tiện trong việc thiết kế sa bàn, vẽ tranh ảnh….
Nhà trường thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền với phụ huynh về cách
ni dạy con khoa học, do đó phụ huynh đã tin tưởng vào chương trình chăm sóc ni
dưỡng của nhà trường và đưa con em của mình đến trường học đầy đủ.
Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh đã quan tâm đến việc chăm sóc giáo dục
các cháu, có sự ủng hộ về vật chất và tinh thần góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc giáo dục trẻ.
Trẻ ngoan ngỗn và thích hoạt dộng vui chơi, đi học đều.
1.2. Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên thì cũng cịn rất nhiều khó khăn:
Trường Mầm non nơi tôi công tác nằm trên địa bàn xã là khu vực nơng thơn,
người dân chủ yếu nói giọng địa phương, điều này gây khó khăn trong việc dạy tiếng

phổ thông cho trẻ.
Điều kiện kinh tế của người dân thấp nên việc đóng góp hổ trợ để xây dựng góc
văn học, mơi trường văn học ngồi lớp học như vườn cổ tích… cho trẻ gặp nhiều khó
khăn.
Nhận thức của một số phụ huynh chưa đầy đủ, chưa ý thức được tầm quan trọng
của bậc học Mầm non, chưa chú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Đa số trẻ lần đầu đến trường nên còn nhiều bỡ ngỡ, trẻ còn nhút nhát và chưa
quen với nề nếp lớp học, trẻ nói tiếng địa phương là chủ yếu, một số trẻ cơ thể ốm
yếu, suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến ngơn ngữ như nói ngọng, phát âm khơng rõ ràng.


Nhưng với sự quyết tâm của bản thân, tôi đã khơng ngừng tìm kiếm, học hỏi, sáng tạo
ra những phương pháp nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Mong rằng những việc làm
của tôi sẽ mang lại kết quả nhất định cho trẻ. Đó là lý do tại sao tơi chọn đề tài “Một
số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 – 4 tuổi tại
đơn vị công tác”
* Khảo sát thực trạng:
Qua điều tra thực tế về ngôn nhữ của trẻ trong lớp tôi, tôi nhận thấy kết quả khảo
sát trước khi thực hiện đề tài như sau:
STT

Nội dung khảo sát

1

Khả năng nghe hiểu ngơn
ngữ

4


Trẻ phát âm chính xác từ
ngữ, ít sử dụng ngôn ngữ địa
phương
Trẻ biết đọc thơ diễn cảm, rõ
ràng, đúng ngữ pháp
Trẻ biết kể chuyện diễn cảm,
rõ ràng, đúng ngữ pháp

5

Khả năng giao tiếp tự tin

2

3

Đạt

Tỷ lệ
(%)

Chưa
đạt

Tỷ lệ
(%)

12/21

57,1


9/21

42,9

10/21

47,6

11/21

52,4

12/21

57,1

9/21

42,9

11/21

52,3

10/21

47,7

10/21


47,6

11/21

52,4

Nhìn chung hoạt động của trẻ còn rất chậm, trẻ nhút nhát, sử dụng từ chưa đúng
trong các giờ hoạt động làm quen văn học chưa hứng thú. Với tình hình thực tế của
lớp tôi phụ trách như vậy, nên tôi rất băn khoăn lo lắng suy nghĩ tìm tịi biện pháp
giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua đề tài “Một số biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi tại đơn vị”.
2. Biện pháp
2.1.Biện pháp 1: Phát triển ngôn ngữ thông qua xây dựng môi trường thân thiện.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ Mầm non theo chương trình GDMN hiện hành tập
trung phát triển các kỹ năng nghe, nói, tiền đọc và tiền viết.Chính vì vậy, chúng ta cần
xây dựng mơi trường giáo dục thân thiện, an toàn phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý
trẻ theo lứa tuổi.
* Môi trường ngơn ngữ cho trẻ hoạt động trong phịng, lớp.


Trang trí, sắp xếp phịng, lớp các góc chơi đảm bảo thẩm mĩ, thân thiện, an toàn, phù
hợp với nội dung giáo dục. Có các đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, phong
phú, hấp dẫn trẻ, tạo môi trường ngôn ngữ để trẻ tương tác và phát triển các kỹ năng.
Viết các bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao, câu đố và có hình ảnh minh họa
dán trang trí ở góc học tập, góc văn học, thư viện của bé… để trẻ được làm quen với
văn học chữ viết.
Kỹ năng đọc sớm: Nhận biết các kí hiệu, chữ viết có ý nghĩa; quy luật đọc sách
(từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, từ trang đầu đến trang cuối); sự liên tục của câu
chuyện.

Kỹ năng vận động tinh: Mở sách, lật từng trang, chỉ theo tranh hoặc dịng chữ.
Kỹ năng giao tiếp: Lắng nghe cơ hoặc bạn kể chuyện; bắt chước những từ hoặc
câu nói trong truyện; tự kể lại truyện; trả lời những câu hỏi theo truyện; học từ mới.
Kỹ năng nhận thức: Nhớ cốt truyện và tự kể lại; dự đoán diễn biến sẽ xảy ra tiếp
theo của câu chuyện; giải quyết vấn đề nảy sinh trong câu chuyện; liên hệ câu chuyện
với những kinh nghiệm khác.
Tùy vào vị trí của lớp mà giáo viên bố trí góc thư viện gần nơi có nhiều ánh sáng,
n tĩnh, ít người qua lại. Ở đó có thảm, đệm sẽ làm cho góc này trở nên ấm cúng hơn
và mời gọi hơn với trẻ .Trẻ có thể theo đuổi các hoạt động đọc viết do trẻ tự khởi
xướng hoặc tự thực hiện các kỹ năng phát triển của trẻ.
Hình thành góc đọc hấp dẫn nơi mà có những cuốn sách u thích của trẻ ln có
sẵn. Khuyến khích trẻ mang những cuốn sách hay từ nhà đến lớp để cùng chia sẻ. Đặt
một cái đài ở góc đọc, có những chiếc băng đọc chuyện và những quyển truyện tương
ứng trong góc này. Có thêm những chiếc bút chì màu và bút màu với giấy cho trẻ tự
do viết một mình.Hãy làm cho lớp học của trẻ tràn ngập sách. Để sách ở những nơi
vừa tầm với của trẻ. Có những cuốn sách mà cả lớp có thể đọc cùng nhau, những cuốn
sách mà trẻ “có thể đọc được” và những cuốn tạp chí, sách nhiều tranh ảnh.
Ngồi ra, với sự sáng tạo của giáo viên và của trẻ cùng làm những đồ dùng tự tạo
để trang trí góc sách. Những khung rối làm từ các vỏ thùng catton, những cuốn sách
làm từ những bìa lịch cũ, những con rối que, rối bóng , rối ngón tay cho trẻ diễn rối,
tập đóng kịch… cũng sẽ góp phần làm cho góc sách trở nên ngộ nghĩnh và sinh động
hơn rất nhiều. Khuyến khích trẻ cùng cơ trang trí, sắp đặt các đồ dùng trong góc theo
ý thích phù hợp dễ lấy, dễ cất, dễ sử dụng.
Trong lớp học, chúng ta cũng có thể tạo mơi trường chữ viết xung quanh trẻ ví
dụ như: ghi tên các góc chơi, tên các đồ dùng đồ chơi, ghi tên trẻ trên các sản
phẩm….Việc giúp trẻ phát triển ngơn ngữ sẽ càng có hiệu quả hơn khi trong các giờ
hoạt động học có một hệ thống các trị chơi về ngơn ngữ như: Các trò chơi luyện kỹ


năng nghe - nói, nói chuyện vịng trịn, đối tác chuyện trị, bảng “nói chuyện” hàng

ngày (ngày/tháng/thời tiết/sinh nhật), xúc sắc kỳ diệu…
Ngồi việc sắp xếp trang trí mơi trường chữ viết ở xung quang lớp thì trong lớp
tơi cịn tạo cho trẻ một không gian để trải nghiệm qua góc thư viện của bé.
Thư viện của bé có vai trò quan trọng, thư viện của bé là nơi tạo cơ hội cho trẻ
được khám phá, tìm tịi, trải nghiệm, phát triển khả năng sáng tạo. Thư viện có thể tạo
ra sự thay đổi tích cực đối với sự tự tin của trẻ, khả năng học tập độc lập và tinh thần
trách nhiệm về việc học của bản thân trẻ, góp phần giúp nhà trường thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục toàn diện. Xây dựng thư viện của bé với hệ thống Giá sách - Truyện thân
thiện” nhằm tạo môi trường giúp trẻ tích cực, chủ động làm quen với “văn hóa đọc”,
làm quen với cách “đọc” sách, làm quen với các câu chuyện, bài thơ… một cách tự
nhiên và hứng thú hơn, ngồi ra nơi đây trẻ cịn được tìm hiểu, khám phá và trải
nghiệm những sáng tạo của bản thân, được hoạt động với đồ vật, đồ chơi, … tạo cơ
hội để trẻ tích cực hoạt động.
Thư viện được bố trí sắp xếp thuận tiện, hợp lý, đủ ánh sáng, tạo không gian mở
cho trẻ dễ dàng tiếp cận các nguồn thông tin, tư liệu trong thư viện. Việc trang trí góc
sách, đồ dùng đồ chơi phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Tăng cường các điều
kiện cho trẻ được hoạt động cá nhân và theo nhóm nhỏ. Trẻ được rèn luyện khả năng
quan sát, cảm thụ, giúp trẻ yêu thích văn học, phát triển năng khiếu.Thư viện thân
thiện của bé được bố trí đa dạng các góc, như: góc “đọc”, góc vẽ, góc “viết”, góc nghệ
thuật, góc cha mẹ đọc cùng con…Chính vì thế nên khi xây dựng thư viện thân thiện
tôi luôn chú ý đến các yếu tố sau:
+ Yếu tố khoa học: Các loại giá sách truyện được thiết kế khoa học, trẻ có thể
đứng về các phía khác nhau để lựa chọn sách truyện, tranh ảnh...bìa sách được bày
ngay trên mặt giá thuận tiện cho việc lựa chọn và là nơi trưng bày các sản phẩm hoặc
tranh truyện, ảnh tư liệu, chữ số, chữ cái... của cô và trẻ sưu tầm.
+Yếu tố sư phạm, thẩm mỹ: Màu sắc sơn gỗ và vải tự nhiên đảm bảo an tồn
thân thiện, chính xác, hấp dẫn trẻ, dẫn dắt trẻ trong hoạt động, giúp trẻ có những
khoảng khơng gian, thời gian đẹp trong thư viện và góc sách truyện.
+Yếu tố sáng tạo: Sáng tạo trong thiết kế, chức năng sử dụng đa dạng với mọi
hoạt động của trẻ.

+Yếu tố thực tiễn: Hệ thống giá, túi để sách, truyện, học liệu sưu tầm được làm
bằng chất liệu dễ kiếm tìm, an tồn, giá thành hợp lý, có thể phổ biến ở tất cả các cơ
sở giáo dục khác.


Ngoài ra cũng cần thêm một số phương tiện, học liệu, đồ dùng do giáo viên và trẻ tự
làm đã bổ sung nguồn tư liệu cho thư viện phong phú, đa dạng hơn tạo điều kiện tốt
cho trẻ trong thời gian hoạt động ở thư viện.
Để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ đạt kết quả cao thì giáo viên phải chuẩn bị mơi
trường cho trẻ hoạt động, vì mơi trường đóng vai trị rất quan trọng. Mơi trường có
phù hợp, đa dạng, phong phú thì sẽ gây hứng thú cho trẻ.
*Mơi trường ngơn ngữ cho trẻ hoạt động ngồi lớp học
Mơi trường bên ngồi cũng đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ, môi trường bên ngồi cịn mang yếu tố chi phối đến tư duy, học tập
của trẻ. Vì vậy, nếu giáo viên tạo được mơi trường cho trẻ hoạt động tốt thì sẽ kích
thích trẻ phát triển ngơn ngữ tốt.
Mơi trường ngồi lớp học được thể hiện qua việc vẽ, cắt dán, trang trí hình ảnh
trên các mảng tường và viết chữ minh họa phù hợp với những hình ảnh đó. Những đồ
dùng đồ chơi ngoài trời, vườn rau của bé, vườn hoa, cây xanh cũng được giáo viên
viết chữ phù hợp và qua các lần dạo chơi, tham quan trải nghiệm, hoạt động ngoài
trời…..giáo viên cho trẻ đọc, làm quen nhằm mở rộng thêm vốn từ và phát triển khả
năng phát âm cho trẻ.
Ví dụ: - Nơi để đồ dùng cá nhân của trẻ như: mũ, ba lô, giầy dép, khăn
mặt,...Tôi luôn gắn ảnh kèm theo tên của trẻ. Như vậy, hàng ngày trẻ cất đồ dùng hoặc
sử dụng đồ dùng vừa đúng qui định, vừa biết tên của mình (của bạn).
- Khi cho trẻ tham quan vườn rau, tôi cho trẻ phát âm tên các loại rau ở trên bảng
chỉ dẫn như: Rau muống, rau mồng tơi, cà chua,…để giúp trẻ biết được tên gọi của
các loại rau, giúp trẻ tăng thêm vốn từ.
Ngoài ra trong các hoạt động ở mọi lúc mọi nơi lớp tơi cùng với các nhóm lớp
khác luôn sưu tầm để làm ra những quyển sách hấp dẫn để tham gia cùng nhà trường

xây dựng thư viện xanh của nhà trường, tạo điều kiện cho trẻ được tham gia hoạt động
ở mơi trường ngồi lớp cùng các bạn cùng độ tuổi và các anh chị ở độ tuổi khác.
2.2. Biện pháp 2: Phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động học:
a. Qua hoạt động khám phá khoa học.
- Qua tiết khám phá khoa học cô cho trẻ tìm hiểu về các sự vật, hiện tượng quen thuộc
đối với trẻ. Dạy trẻ khám phá khoa học là giúp trẻ tìm hiểu về đặc điểm nổi bật tính
chất, ích lợi của đối tượng đối với con người. Qua đó hình thành khái niệm ban đầu về
sự vật, hiện tượng nhằm mục đích phát triển ngơn ngữ cho trẻ.
- Đối với các giờ học cô phải sử dụng đồ dùng trực quan, đồ dùng trực quan là nền
tảng để tổ chức việc tích cực ngơn ngữ của trẻ, hệ thống câu hỏi của cô phải rõ ràng,


ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu khơng nói cụt lủn
hoặc cộc lốc.
Ví dụ: Dạy trẻ tìm hiểu về đặc điểm ích lợi của một số loại rau, quả và cách chăm
sóc là giúp trẻ nhận biết tên của rau, quả, gọi đúng tên của rau, quả( rau bắp cải, của
su hào, quả cà chua), nhận biết được đặc điểm nổi bật của một số rau, quả( rau bắp
cải, củ su hào, quả cà chua) và ích lợi của chúng đối với con người và một số món ăn
được chế biến từ chúng. Đồng thời qua đó cơ giáo dục trẻ cách chăm sóc các loại rau,
quả. Cơ có thể đặt câu hỏi:
+ Đây là rau gì? Con thưa cơ cây rau bắp cải ạ.
+ Cây rau bắp cải có dạng hình gì? Con thưa cơ bắp cải có dạng hình trịn ạ.
+ Lá bắp cải có màu gì? Con thưa cô lá bắp cải màu xanh ạ…
b. Qua hoạt động làm quen với các tác phẩm văn học.
- Giờ học này có tác dụng làm giàu vốn từ, phát triển ngôn ngữ ở trẻ, bồi dưỡng năng
lực cảm thụ các tác phẩm nghệ thuật và diễn đạt bằng ngôn ngữ văn học cho trẻ.
Ví dụ: Khi dạy trẻ đọc thơ bài: “Hoa kết trái” thì trẻ sẽ được phát triển vốn từ qua
việc trẻ trả lời các câu hỏi liên quan đến bài do cô giáo đặt ra:
+ Con vừa được đọc bài thơ gì?
+ Bài thơ nói về điều gì?

+ Trong bài thơ nói đến những loại hoa nào?
+ Bài thơ nhắc nhở các bạn nhỏ điều gì?
Qua hoạt động kể chuyện ngoài việc yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi liên quan
đến câu chuyện cơ có thể khuyến khích trẻ kể lại chuyện cùng cơ, nhắc lại một số lời
thoại của các nhân vật.
Trên hoạt động khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngơn ngữ
nói cho trẻ và cịn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm
được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học
thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngơn ngữ cho trẻ thì đồ
dùng phục vụ cho tiết họcphải đảm bảo:
+ Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an tồn và vệ sinh cho trẻ.
+ Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho
việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
+ Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc
phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
Ví dụ 1: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng
quanh”.


Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ,
ngửi.....và qua vật thật tơi sẽ giải thích cho trẻ từ “ sắp vịng quanh”.
- Tơi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn
mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và
khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vịng trịn xếp trồng lên nhau lá non
thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngồi. Bên cạnh đó tơi
cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
+ Cây bắp cải trong bài thơ đượcmiêu tả đẹp như thế nào?(Xanh man mát)
+ Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ)

+ Búp cải non thì nằm ở đâu? (Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cungcấp thêm vốn từ mới cho
trẻ để ngơn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Ví dụ 2: Qua câu chuyện “Cây rau của thỏ út” tôi sẽ giúp trẻ phát âm một số từ
chưa đúng, Uốn nắn từng chữ, cho trẻ phát âm lại nhiều lần để giúp trẻ ghi nhớ và
phát âm đúng hơn
+ “Thỏ út” thì trẻ thường nói “Xỏ úc”
+ “Khơng” thì trẻ thường nói “hơng”
- Ngồi việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa lỗi nói ngọng, nói lắp cũng vơ
cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều
này và đã kịpthời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ.
- Như vậy thơ truyện khơng những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà cịn
phát triển ngơn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết
sử dụng ngơn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức.
c. Các hoạt động học khác:
* Qua hoạt động giáo dục âm nhạc:
Ở trong giờ học âm nhạc trẻ được tiếp xúc với nhiều dụng cụ âm nhạc như trống,
phách tre tạo nên giai điệu vui tươi kết hợp với vận động theo nhạc một cách nhịp
nhàng. Muốn làm được như vậy địi hỏi trẻ phải có vốn từ nhất là sự giao tiếp bằng
ngôn ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội từ đó giúp trẻ yêu âm nhạc.
* Qua hoạt động vận động:
Trong giờ vận động trẻ có thể chơi các trị chơi vận động kết hợp với âm nhạc như
vừa vận động bài “ Đồn tàu nhỏ xíu” vừa hát qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
Hoặc trong khi trể chơi với vịng cơ có thể kết hợp hỏi trẻ các màu của vịng:
VD: Chiếc vịng này của cơ có màu gì?
Chiếc vịng trên tay cơ có dạng hình gì?


Qua các giờ học trên trẻ được rèn luyện về mặt phát âm, có thêm nhiều từ mới và
biểu tượng ý nghĩa của từ trẻ được rèn luyện thêm về mặt ngữ pháp.Cơ giáo cịn sử

dụng các giờ học này như là một phương tiện để củng cố những ngôn ngữ mà trẻ
thuđược nhận được.
2.3. Biện pháp 3: Qua các hoạt động ngồi giờ học.
a. Phát triển ngơn ngữ thơng qua giờ đón - trả trẻ.
Trong giờ đón trẻ cơ phải tích cực trị chuyện với trẻ và u cầu trẻ trả lời các câu
hỏi của cô rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ: Trong lúc đón trẻ cơ có thể hỏi trẻ một số câu hỏi đơn giản như:
+ Sáng nay ai đưa con đi học? Con thưa cô mẹ con ạ.
+ Con đi bằng phương tiện gì? Mẹ chở con bằng xe máy ạ.
- Đối với trẻ 3 - 4 tuổi do đặc điểm tâm sinh lý của trẻ coi trọng cái tôi của bản thân,
nên cô phải cố gắng nghe trẻ nói hết cảm nhận, ý thích của trẻ. Từ đó, cơ đi sâu vào
trị chuyện để giúp trẻ có cách nhìn nhận đúng nhất về sự vật, sự việc. Ngồi ra, cơ
cũng có thể hỏi trẻ, trị chuyện với trẻ như:
+ Con sao vậy? Con đang gặp vấn đề gì à?
+ Con hãy nói cho cơ biết con muốn gì? Vì sao con lại nghĩ như vậy?
+ Con thử chơi cái trống kia xem sao nhé!
- Cô đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe, khuyến khích trẻ trả lời những câu hỏi đơn giản
của cô.
- Hàng ngày trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Để phối hợp cùng giáo viên trong việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ thì phụ huynh hàng
ngày dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều
hơn với các sự vật, hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
b. Phát triển ngôn ngữ qua các hoạt động vui chơi.
- Đối với trẻ 3 - 4 tuổi, được phát triển ngơn ngữ thơng qua trị chơi là một biện pháp
tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và
trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụngsố vốn từ đó một
cách thành thạo.Qua trị chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngơn ngữ cũng lưu
lốt hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi
xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách
nhẹ nhàng và thoải mái

- Bản thân tơi đã tìm tịi, tham khảo, đọc những tàiliệu sách và tơi thấy rằng trị chơi
này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngơn ngữ của trẻ ngày
càng phong phú.
VD: Trị chơi 1: “Cái gì? Dùng để làm gì?


- Mục đích của trị chơi này là tơi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen
thuộcvà biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngơn ngữ của trẻ cũng được phát triển:
* Chuẩn bị:
+ Đồ dùng để ăn uống (Bát, thìa, cốc, ca...)
+ Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ...)
+ Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
* Tiến hành:
-Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh
đồ dùng đó dùng để làm gì?
- Cơ nói:
+ Cái bát dùng để làm gì? (Cái bát đựng cơm)
+ Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước)
+ Cái mũ để làm gì?
(Cái mũ để đội)
+ Cái áo để làm gì?
(Cái áo để mặc)
.......................
..................
- Sau khi hỏi trẻ xong tơi vận dụng trị chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của
trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng
và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh
về đúng nơi đồ dùng.
VD: Trị chơi 2: “Con muỗi”
* Cách chơi:

- Cơ đứng phía trước trẻ, cơ cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve (Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại theo
nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện, chỉ
xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).
+ Úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. (Nhún vai 2 lần,
dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào
nhau vờ rửa tay)
- Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3-4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất
cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cơ. Qua đó cũng giúp ngơn ngữ của trẻ dần dần được
hình thành trọn vẹn hơn.
VD: Trị chơi 3: Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật: cơ nói trẻ kêu:
+ Con mèo meo meo.
+ Con vịt cạp cạp.


+ Con chó gâu gâu.
Trị chơi đốn được đặc điểm của con vật: Cơ nói trẻ nói.
+ Con gà có 2 chân.
+ Con chó có 4 chân.
VD: Trị chơi 4: “Trị chuyện cùng cơ”
- Qua trị chơi này trẻ được phát âm nhiều,tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ mới qua giao
tiếp với cô.
* Tiến hành:
Trong ngày tuỳ từng thời điểm mà cô dành thời gian vỗ về ôm ấp trẻ, nói chuyện với
trẻ:
*Khi cho ăn:
+ “Bạn Hùng ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy?(Con ăn cơm với thịt ạ)
+ “Bạn Hà ăn được mấy bát cơm rồi?

*Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần nựng trẻ:
+ “Cô Nhung mặc áo đẹp cho Hoàng nhé?” (Vâng ạ)
+ “Áo đẹp này ai mua cho con?” (Mẹ con ạ)
+ Con có biết mẹ mua ở đâu khơng?(Ởchợ ạ)
+ Con có thích mặc áo này khơng? (Có ạ)
* Khi ngồi chơi cơ trị chuyện với trẻ về một chủ đề nào đấy để khơi gợi trẻ được phát
âm nhiều:
+ Bạn Như có bàn tay bé xíu trơng rất đáng u này!
+ Hàng ngày các con phải làm gì để đơi bàn tay luôn sạch?
(Rửa tay ạ)
+ Thế đôi bàn tay để làm gì các con có biết khơng? (Để múa, để xúc cơm, để tơ màu
ạ....)
- Thơng qua trị chơi, các biểu tượng mà trẻ thu nhận trước đây được chính xác hóa
bằng ngơn ngữ.Qua trị chơi, trẻ cịn tập trung vận dụng các tri thức đã thu nhận
được.Trò chơi đã giúp trẻ nhớ ngôn ngữ, đồng thời tạo ra các tình huống về trẻ sử
dụng vốn từ nhữ đã tích lũy được.
- Cô giáo cần tổ chức rộng rãi cho trẻ chơi nhiều trò chơi khác nhau để trẻ sử dụng
những loại câu đơn giản.
- Ngồi những trị chơi tự do, trị chơi có luật cơ giáo sử dụng chơi sáng tạo để phát
triển ngơn ngữ cho trẻ.Qua trị chơi sáng tạo trẻ được giao tiếp với nhau vì vậy ngôn
ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ trong khi chơi.
Ví dụ: Trị chơi bế em cơ nhập vai làm mẹ cho búp bê ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt
chước những từ cơ nói như: búp bê ngoan nào.Mẹ bón cho búp bê ăn nhé.


Trị chơi bán hàng trẻ đóng vai người bán hàng và người mua hàng sẽ có nhưng
lời thoại với nhau như:
+ Cô bán con cá này bao nhiêu tiền?
+ Con cá này 3000 chú ạ!
Trị chơi khám bệnh, trẻ đóng vai bác sĩ và bệnh nhân, trẻ sẽ bắt chước hành động

và lời nói của bác sĩ khi trẻ bị bệnh đi bệnh viện như:
+ Cháu bị đau mấy ngày rùi chị?
+ Dạ cháu bị 2 ngày rồi ạ
+ Giờ chị cho cháu uống thuốc này nhé!
+ Vâng ạ!
c. Phát triển ngôn ngữ qua hoạt động lao động.
Trẻ ở lứa tuổi mầm non chưa phải lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội,
nhưng chúng ta phải giáo dục ý thức lao động cho trẻ, cho trẻ tham gia vào các hoạt
động lao động nhẹ nhàng, lao động tự phục vụ mình. Khi tham gia vào các hoạt động
lao động trẻ được tiếp xúc với thế giới thiên nhiên, với đồ dùng lao động, đồ dùng
sinh hoạt,...Như vậy trẻ có điều kiện hình thành các biểu tượng chưa có và khắc sâu
các biểu tượng đã có. Từ đó trẻ biết sử dụng ngơn ngữ trong sinh hoạt lao động. Vốn
ngơn ngữ của trẻ sẽ tăng lên.
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ các hoạt động lao động như: nhặt lá trên sân trường, tưới
cây, lau lá,… qua đó cung cấp vốn từ cho trẻ.
d. Phát triển ngôn ngữ thơng qua hoạt động ngoại khố
Hoạt động ngoại khố ở trường mẫu giáo là sân chơi mà ở đó trẻ được hoạt động
với sự tham gia của cô giáo, ông bà, cha mẹ trẻ. Các hoạt động ngoại khoá được thiết
kế đa dạng, phong phú, gắn với các nội dung, chủ đề học và chơi của trẻ giúp thay đổi
trạng thái cho trẻ giữa hoạt động động và hoạt động tĩnh. Tăng cường cho trẻ tiếp xúc
với thiên nhiên, khắc phục việc trẻ ở nhiều thời gian trong không gian ở lớp cịn hạn
chế Thơng qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, trẻ học được rất nhiều kỹ năng
sống cần thiết cho bản thân, trẻ được mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân mình, trẻ phát
triển hài hịa các mặt thể chất, nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm - kỹ năng xã hội và
thẩm mĩ theo mục tiêu của chương trình Giáo dục mầm non. Tùy theo các lứa tuổi của
trẻ mà có thể tổ chức các HĐNK như: thăm các khu di tích lịch sữ, thăm nhà bạn,
thăm doanh trại quân đội, thăm trường Tiểu học, hoặc mời phụ huynh đến trị chuyện
với trẻ. Thơng qua các buổi tham quan dã ngoại trẻ sẽ vẽ, kể lại cho mọi người nghe
về những chuyến đi, nêu cảm xúc của bản thân và từ đó ngơn ngữ của trẻ cũng phát
triển ngày càng phong phú, hoàn thiện hơn.



Ngồi ra, chúng ta cũng có thể tổ chức các ngày hội, sự kiện của trường và của
lớp như chúc mừng sinh nhật, mừng ngày của Bà của Mẹ (8/3), chào đón năm
mới...khuyến khích cho trẻ làm MC, những người dẫn chương trình, cùng nhau thỏa
thuận, bàn bạc các tiết mục phân cơng sắp xếp cơng việc chuẩn bị…qua đó trẻ nghe
hiểu lời nói và sử dụng lời nói trong giao tiếp cuộc sống hàng ngày một cách rõ ràng,
mạch lạc.
e. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày.
Ngoài giờ học, giờ chơi, giờ lao động trẻ cịn có giờ ăn, giờ ngủ, giờ vệ sinh cá
nhân. Ở những giờ này, cơ giáo có thể dạy nói cho trẻ. Trong khi giúp trẻ tiến hành
cơng việc hàng ngày, cô giáo cần lựa chọn nội dung thích hợp, cần nói tên những
cơng việc hàng ngày của mình, nói tên các đồ vật, sự vật liên quan đến cơng việc đó.
Ví dụ: Đến giờ vệ sinh cơ có thể hỏi trẻ: Trước khi ăn các con cần phải làm gì?
Rửa tay bằng mấy bước?
Đến giờ ăn cơ hỏi trẻ: Các con nhìn xem hơm nay chúng ta ăn gì nào? Nếu trẻ
khơng biết cơ có thể cung cấp tên gọi, tác dụng của món ăn cho trẻ biết để giúp trẻ mở
rộng vốn từ, vốn hiểu biết của bản thân.
2.4. Biện pháp 4: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh giúp trẻ phát triển
ngôn ngữ trong cuộc sống hằng ngày.
Với phương châm“Trường học là nhà, nhà là trường học”thì việc phối kết hợp
với các bậc phụ huynh là một trong những biện pháp rất cần thiết để giáo dục trẻ. Gia
đình giáo dục tốt, trẻ sẽ có điểm xuất phát tốt và nề nếp tốt. Ngược lại, trẻ sẽ khơng có
gì khi nếu khơng được gia đình quan tâm giáo dục. Như vậy, xuất phát điểm của trẻ là
chưa cơng bằng.Vì vậy, Giáo viên và phụ huynh đều phải tiến hành giáo dục trẻ song
song với nhau. Trong buổi họp phụ huynh đầu năm tôi mạnh dạn trao đổi với phụ
huynh về tầm quan trọng của ngôn ngữ đối với sự phát triển cảu trẻ, để phụ huynh
nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề để cùng nhà trường giáo dục trẻ.
Chính vì thế nên để việc giáo dục trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc đem lại hiệu
quả cao, công tác phối hợp với phụ huynh đóng một vai trị hết sức quan trọng. Cụ

thể, qua những lúc đón trẻ, trả trẻ, những buổi họp phụ huynh đầu năm, họp sơ kết
học kì I, họp cuối năm, tôi luôn trao đổi với phụ huynh về tầm quan trọng của việc
phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh. Đây là nơi trao đổi thông tin với
phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề để tôi đánh máy nội dung phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp dán ở bảng tuyên truyền.


Thông qua các buổi hợp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội dung
phát triển ngôn ngữ cho trẻ đến các bậc phụ huynh.
Thơng qua giờ đón trẻ, tơi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ, vệ
sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng của trẻ để cùng
phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Trao đổi tuyên truyền với phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện, tâm
sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trị chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, mạnh lạc, tốc
độ vừa nghe để trẻ nghe cho dễ. Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng, khơng
nên bắt trước những từ trẻ nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay những từ trẻ nói sai
cho trẻ để trẻ bắt chước được cho đúng.
Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho
trẻ. Tránh khơng nói tiếng địa phương, tập cho trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi, cần tránh
cho trẻ nghe những hình thái ngơn ngữ khơng chính xác...
Ví dụ: Bố mẹ khi đón trẻ về nhà thường xun trị chuyện cùng trẻ như: Hôm nay
con đi học cô cho con ăn gì? Đến lớp con có ngoan khơng? Hơm nay cơ dạy con bài
thơ gì?....Từ những câu hỏi trị chuyện đơn giản như vậy cũng đã góp phần phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Tuyên truyền để ông bà, bố mẹ, người thân của trẻ thường xuyên đọc thơ, kể
chuyện cho trẻ nghe hàng ngày, dành thời gian kể chuyện, đọc truyện, đọc thơ cho
trẻ nghe trước khi đi ngủ, lắng nghe trị chuyện, giải thích với trẻ những từ, những
điều trẻ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, trôi
chạy, bổ sung vốn từ cho trẻ. Từ đó nhận ra sự phát triển ngơn ngữ, tình cảm cũng

như khả năng nhận thức của trẻ.
Vận động phụ huynh sưu tầm thêm tranh ảnh, tạp chí, rất nhiều mẫu chuyện, bài
thơ, đồng dao, ca dao hay, mới lạ trong các chủ đề. Các nguyên vật liệu như len, vải
vụn, xốp, nguyên vật liệu phế thải như bìa cứng, lịch củ, tạp chí, lon bia, chai nhựa để
tơi có thể làm rối, đồ đùng, đồ chơi phục vụ cho trẻ.
3. Kết quả đạt được
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng hệ thống các giải pháp trên tôi nhận thấy
chất lượng ở lĩnh vực phát triển ngơn ngữ của lớp tơi đã có sự phát triển vượt bậc ở
trên tất cả các đối tượng: Trẻ, phụ huynh, giáo viên
3.1. Đối với trẻ:
- Trẻ có vốn từ vựng rất tốt, có thể biểu đạt nhu cầu của bản thân bằng vốn từ đã có
của mình.
- Trẻ mạnh dạn, tự tin giao tiếp với bạn bè và mọi người xung quanh.
- Trẻ nói đúng ngữ pháp có thể sử dụng câu đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ.


- Khả năng phát âm của trẻ tốt và chuẩn hơn
Sau đây là bảng khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến
Tổng số trẻ lớp tôi là 21 trẻ:
STT

Nội dung khảo sát

1

Khả năng nghe hiểu ngơn
ngữ
Trẻ phát âm chính xác từ
ngữ , ít sử dụng ngơn ngữ
địa phương

Trẻ biết đọc thơ diễn cảm,
rõ ràng, đúng ngữ pháp
Trẻ biết kể chuyện diễn
cảm, rõ ràng, đúng ngữ
pháp
Khả năng giao tiếp tự tin

2

3
4

5

Đạt

Tỷ lệ (%)

Chưa
đạt

Tỷ lệ (%)

19/21

90,4

2/21

9.6


17/21

80,9

4/21

19,1

19/21

90,4

2/21

9.6

19/21

90,4

2/21

9.6

18/21

85,7

3/21


14,3

3.2: Đối với giáo viên:
Giáo viên linh hoạt, sáng tạo khơng bị gị bó khi tổ chức các hoạt động cho trẻ
nhất là hoạt động chung có mục đích học tập và hoạt động góc. Nắm vững được đặc
điểm tâm lý, đặc điểm ngôn ngữ của từng trẻ để từ đó đưa ra những biện pháp giáo
dục ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ thích hợp hơn.
Giáo viên biết quan sát ghi chép để theo dõi đánh giá quá trình phát triển những
kỹ năng cần thiết cho việc nói,và diễn đạt …. của trẻ nhằm điều chỉnh các biện pháp
giáo dục đối với từng cá nhân trẻ.
3.3: Đối với phụ huynh:
Đa số phụ huynh đã hiểu được ý nghĩa của việc phát triểnngôn ngữ mạch lạc cho
trẻ. Đồng thời phụ huynh cũng đã cùng phối hợp với cô giáo ở lớp để rèn thêm ngôn
ngữ cho trẻ ở nhà, gần gũi trò chuyện với trẻ nhiều hơn, hạn chế nói tiếng địa phương
khi giao tiếp với trẻ, giúp trẻ tự tin khám phá những từ vựng mới mẽ.
Ngoài ra phụ huynh cịn hưởng ứng tích cực trong việc làm đồ dùng và sưu tầm tranh
ảnh phù hợp với chủ đề, kiếm tìm các nguyên vật liệu và phụ giúp giáo viên làm đồ
dùng, trang trí lớp học góp phần phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ giúp trẻ hứng
thú .


Qua bảng khảo sát trên chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt khi áp dụng sáng kiến
vào quá trình giảng dạy của giáo viên. Tất cả các nội dung khảo sát đều thể hiện rõ sự
tiến bộ của trẻ
III. PHẦN KẾT LUẬN:
1. Ý nghĩa của đề tài.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người, là một nhân tố quan trọng
trong sự phát triển nhân cách, không có một phương tiện giao tiếp nào có thể sánh
được với ngơn ngữ. Trong giao tiếp, nhờ có ngơn ngữ mà con người có khả ngăng

hiểu biết lẫn nhau. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan
trọng nhất của giáo dục Mầm non.Vì ngơn ngữ sẽ giúp trẻ bày tỏ, trao đổi và giao tiếp
với nhau trong học tập cũng như vui chơi.Thông qua hoạt động dạy phát triển ngôn
ngữ sẽ giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc, rõ ràng hơn. Chính vì thế ngơn ngữ cịn là
phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư
duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hố cho trẻ. Ngơn ngữ góp phần đào tạo
các em trở thành con người hoàn thiện.Cho nên việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đúng
lúc và phù hợp với từng lứa tuổi là điều hết sức cần thiết. Phát triển ngơn ngữ mạch
lạc là cái đích cuối cùng của việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Vì vậy để trẻ đạt hiệu
quả cao thì giáo viên cần tổ chức hoạt động này một cách khéo léo, nhằm phát triển tư
duy, trí tưởng tượng cũng như năng lực sử dụng ngôn ngữ cho trẻ. Dạy trẻ phát triển
ngôn ngữ cũng là dạy trẻ biết giao tiếp, cũng là dạy trẻ học làm người. Không chỉ về
ngôn từ, cấu trúc câu mà cả học về cái tâm, cái tình, cái hồn, hay nói cách khác là học
giá trị của người đó. Với trẻ thơ thì đây là sự khởi đầu nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong q trình hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ. Vì vậy khi gần
trẻ, người lớn phải có ý thức nói năng mẫu mực, khơng nói lắp, nói ngọng hay nhái
giọng, lời nói phải có văn hóa, lịch thiệp để làm gương cho trẻ noi theo.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất lượng
giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường mầm
non nơi tơi giảng dạy nói riêng. Tơi xin mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
* Đối với lãnh đạo các cấp:
Hỗ trợ cho nhà trường kinh phí để nâng cấp khn viên sân trường, xây dựng
vườn cổ tích cho trẻ để nhà trường thuận lợi hơn trong việc tổ chức các hoạt động tập
thể nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Đối với nhà trường:


- Tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên về chuyên đề
“Giáo dục phát triển ngơn ngữ cho trẻ” với các hình thức phong phú, sinh động và

hiệu quả hơn.
- Quan tâm, tham mưu với các cấp mua sắm thêm nhiều đồ dùng dạy và học, đặc biệt
là tranh ảnh,đồ dùng trực quan tạo môi trường thoải mái, hứng thú cho trẻ học tập, vui
chơi để trẻ có cơ hội thể hiện hết khả năng của mình.
- Trang bị thêm tài liệu về chuyên đề cho giáo viên và tạo điều kiện cho giáo viên
được tham gia các đợt tham quan học tập ở các trường trong tỉnh và ngoài tỉnh.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngoại khóa, cho trẻ đi dạo chơi nhằm giúp trẻ
mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp với bạn với những người xung quanh.
* Đối với giáo viên:
- Tăng cường hơn nữa công tác làm đồ dùng đồ chơi: rối, tranh, các thể loại sách...
Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, có óc
sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ
hứng thú và hoạt động một cách tích cực.
- Thường xuyên bổ sung và thay đổi các hình thức trong giáo dục phát triển ngôn ngữ
cho trẻ một cách sáng tạo.
- Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa
học, nhẹ nhàng, thoải mái để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Giáo viên phải chuẩn mực trong lời nói, trau chuốt giọng đọc thơ, kể chuyện thật
diễn cảm.
- Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao chun
mơn nghiệp vụ và trình độ nhận thức.
* Đối với phụ huynh:
- Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu kiến
thức một cách có hệ thống, liên tục.
- Chuẩn mực trong ngơn ngữ giao tiếp hằng ngày,lời nói phải có văn hố, hạn chế nói
giọng địa phương, khơng nói ngọng, nói lắp, nhái giọng
- Phụ huynh cần trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, ni dưỡng và
giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà.
- Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các nguyên
vật liệu sẵn có ở địa phương để phục vụ cho việc làm đồ dùng đồ chơi phát huy được

khả năng sáng tạo của trẻ.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi đã nghiên cứu và vận dụng vào
thực tiễn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 - 4 tuổi
nơi tôi công tác nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách, phẩm chất,


thẩm mỹ, trí tuệ và ngơn ngữ. Song trong q trình viết nghiên cứu vẫn cịn những
thiếu sót nhất định, bản tơi rất mong được sự góp ý xây dựng của các bạn đồng
nghiệp, các cấp lãnh đạo giúp cho bản sáng kiến của tơi được hồn thiện và có tính
khả thi cao hơntrong việc giáo dục phát triển ngơn ngữ cho trẻ mầm non nói chung và
trẻ 3 - 4 tuổi nói riêng.


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG


XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC LỆ THUỶ



×