Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số phương pháp trong dạy học lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.94 KB, 25 trang )

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG THCS
1. Lời giới thiệu
Trước những yêu cầu cao của thời đại mới, đòi hỏi ngành giáo
dục phải đào tạo được những con người phát triển tồn diện, có đủ đức, đủ tài,
đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Ý thức được điều đó, ngành giáo dục đã và đang
thực hiện công cuộc đổi mới trong cách dạy và học trong các trường phổ thông
để đạt được mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
cho đất nước.
Công cuộc đổi mới này diễn ra
trên các phương diện: đổi mới về chương trình, sách giáo khoa, về phương
pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, mơn học, trong đó có bộ môn lịch sử ở
trường THCS.
Trong Luật giáo dục sửa đổi năm 2010,
điều 28.2, đã nêu rõ: Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh.
Điều cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp
dạy học Lịch sử nói riêng ở trường THCS có ý nghĩa rất lớn là hướng tới hoạt
động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, giáo viên là người tổ chức,
hướng dẫn HS học tập, chống lại lối dạy học đọc chép, thói quen học tập thụ
động. Để thực hiện được điều này và để nâng cao hơn nữa chất lượng bộ môn
lịch sử, tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến "“Một số phương pháp trong dạy học
lịch sử ở trường THCS”
Trong q trình nghiên cứu khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
rất mong quý thầy cơ tham khảo, đóng góp ý kiến để giúp tơi rút ra kinh
nghiệm và hoàn chỉnh hơn cho sáng kiến của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


2. Tên sáng kiến:
“Một số phương pháp trong dạy học lịch sử ở trường THCS”
1


3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên:
Địa chỉ tác giả sáng kiến:
Số điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Học sinh trường THCS nhưng tập trung chủ yếu ở khối 8,9.
- Chương trình lịch sử cấp THCS.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
1. Cơ sở lí luận:
Trong nhiều thập kỉ qua, trong lĩnh vực giáo dục, việc đổi mới
và vận dụng các phương pháp dạy học là vấn đề được đề cập và bàn luận sôi nổi
trên các diễn đàn, các phương tiện thơng tin nghe nhìn, các nhà nghiên cứu giáo
dục, nghiên cứu phương pháp dạy học đã không ngừng nghiên cứu tiếp thu
những thành tựu mới của lí luận dạy học hiện đại, đưa nền giáo dục nước ta
ngày một phát triển hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đất nước.
Đổi mới PPDH nói chung, PPDH lịch sử - một mơn học đặc thù cần
có phương pháp giảng dạy phù hợp nói riêng ở trường THCS có ý nghĩa rất lớn
là hướng tới hoạt động học tập lịch sử tích cực, chủ động, vận dụng linh hoạt
sáng tạo các kiến thức đã tiếp thu được của học sinh. Giáo viên là người tổ
chức ,hướng dẫn học sinh học tập chống lại lối dạy học đọc chép, thói quen học
tập thụ động, lười suy nghĩ, lười tư duy, ỷ lại của học sinh.

Vậy để thực hiện điều này đồng thời nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng giảng dạy bộ môn lịch sử, nâng cao khả năng nhận thức, khả năng phát
triển tư duy của học sinh, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số phương pháp
trong dạy học lịch sử ở trường THCS”
2. Cơ sở thực tiễn:

2


Trong nhiều năm qua với PPDH truyền thống GV là người chủ động
cung cấp kiến thức cho học sinh thông qua các sự kiện, hiện tượng lịch sử chủ
yếu có trong SGK, học sinh tiếp nhận một cách thụ động. Các phương pháp giáo
viên thường sử dụng là thuyết trình, “thầy giảng trị nghe” theo lối đọc chép
....khơng phát huy được tính chủ động sáng tạo trong nhận thức và trong tư duy
của HS.Một số lượng khơng ít HS khơng biết sử dụng SGK, sử dụng tài liệu
tham khảo và đặt câu hỏi tìm hiểu, trao đổi trong một bài học lịch sử. Từ đó dẫn
đến hạn chế về sự nhận thức của HS trong học tập bộ môn lịch sử.
Với một số phương pháp trong dạy học lịch sử ở trường THCS, Gv sẽ là
người tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập của HS, HS chủ động tiếp thu
kiến thức và tự giác tìm tịi, khám phá những điều chưa biết. Cùng với các đồ
dùng trực quan, máy chiếu....sẽ kích thích sự ham hiểu biết, tìm tịi khoa học và
phát triển khả năng nhận thức, khả năng tư duy, sáng tạo của HS.
PHẦN II: NỘI DUNG
I.

Thực trạng

1.

Thuận lợi:


Trong nhiều năm gần đây, bộ môn Lịch sử được các cấp, các ngành quan tâm
hơn như tuyển sinh lớp 10 THPT chuyên, thi học sinh giỏi cấp huyện - tỉnh, và
thậm chí đối với những em đạt giải cao trong các kì thi học sinh giỏi mơn Lịch sử
cấp quốc gia còn được Nhà nước tiến hành lễ trao giải thưởng và vinh danh tại Văn
Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) và nhiều chính sách quan tâm, khuyến khích khác
đối với các em nên cũng đã động viên được rất nhiều em yêu thích và tích cực học
tập bộ mơn Lịch sử
Giáo viên có đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức – kĩ
năng, máy vi tính… phục vụ cho việc giảng dạy.
Đội ngũ GV ở các nhà trường nói chung ln say mê với nghề nghiệp, đầu
tư thời gian cho chuyên môn và thường xuyên trao đổi kiến thức chuyên môn với
đồng nghiệp trong và ngồi nhà trường cũng như ln có nhu cầu tìm hiểu cái
mới, cái hay trong bài giảng.
Các nhà trường có kết nối internet nên việc truy cập thơng tin về chun mơn
có nhiều thuận lợi. Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa và nhiều em có sách tham
khảo, biết truy cập vào trang veb để lấy thông tin, kiến thức nên cũng có nhiều
thuận lợi cho việc học tập trên lớp cũng như ở nhà.
3


2. Khó khăn:
Tơi nhận thấy trong q trình giảng dạy bộ mơn lịch sử ở các nhà
trường cịn gặp những khó khăn : GV chun sử cịn ít, một số giáo viên chưa thực
sự tâm huyết với nghề, say nghề, thiết bị phục vụ cho việc dạy học còn thiếu;
chương trình SGK lịch sử đặc biệt khối 8,9 thời lượng kiến thức dài, khó, khơ khan
đối với HS; các tài liệu tham khảo cho bộ mơn cịn rất ít ở các nhà trường (và đối
với các vùng nông thôn, việc tìm mua tài liệu lịch sử là rất khó khăn).
Qua thực tế giảng dạy của bản thân và nhiều đồng nghiệp trường bạn, và
nhiều phương tiện nghe nhìn thường xuyên nói tới, tơi nhận thấy một thực tế trong

dạy học lịch sử ở trường THCS là rất nhiều em HS khơng u thích mơn học vì
kiến thức nhiều, khó nhớ, khô khan, các ngành nghề mở ra đối với các em u
thích học lịch sử khơng nhiều, (và hầu hết hiện nay các nhà trường trung học phổ
thơng rất ít có khối C, và có thì các em học sinh theo học rất ít, cũng như các
trường đại học như Học viện báo chí và tuyên truyền, Học viện an ninh, …. môn
thi dành cho khối C cũng giảm dần thay vào đó là các khối khác), đa số các em đều
coi đó là mơn phụ cho nên chưa thực sự u thích và có ý thức học tập bộ môn này,
học sinh bị động, lúng túng trong tư duy, tiếp thu kiến thức một chiều dẫn đến hiện
tượng không nắm được nội dung kiến thức của bài một cách có hệ thống, thậm chí
có hiện tượng nhầm lẫn các sự kiện và bản chất của các sự kiện hiện tượng lịch sử,
không rút ra được bài học kinh nghiệm. Đối với việc bồi dưỡng HSG thì vận động
các em tham gia vào đội tuyển là vơ cùng khó khăn (đặc biệt là với các em lớp 9),
nhiều bậc phụ huynh khơng cho con em mình tham gia vào đội tuyển, mà chỉ chú
trọng vào các môn khoa học tự nhiên, hoặc là các mơn học có liên quan thi vào lớp
10 THPT, mơn Lịch sử ít được quan tâm. Thi tốt nghiệp thì khơng em nào muốn
tham gia chọn thi (ví dụ chẳng hạn như kì thi tốt nghiệp THPT năm 2014 – 2015
vừa qua có những trường khơng em nào đăng kí thi mơn lịch sử, nếu có chọn thì tỉ
lệ thi cũng rất thấp, năm 2017 các em chọn thi tổ hợp các môn khoa học xã hội
trong đó có mơn sử tăng lên và chiếm tỉ lệ cũng khá cao nhưng mục đích của nhiều
em chọn thi vì các mơn này thi dưới hình thức trắc nghiệm nên các em nghĩ sẽ dễ
làm hơn và tránh bị điểm liệt, và cũng chỉ để xét tốt nghiệp)…nên đây cũng là một
trong những nguyên nhân làm giảm sút môn học.
Từ thực trạng chung trên nhằm nâng cao nhận thức, phát triển tư duy trong dạy
học lịch sử THCS, nâng cao chất lượng bộ mơn, học sinh u thích học lịch sử tôi
nghiên cứu đề tài: “Một số phương pháp trong dạy học lịch sử ở trường THCS”
II. Nội dung một số phương pháp trong dạy học lịch sử ở trường THCS:
4


Để nâng cao khả năng nhận thức, khả năng tư duy của học sinh

trong học tập lịch sử, và nâng cao chất lượng bộ môn lịch sử ở cấp THCS,
chúng ta có thể sử dụng linh hoạt một số phương pháp sau:
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề
- Phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo
- Phương pháp trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử
- Phương pháp sáng tạo với bản đồ tư duy
1. Phương pháp dạy học nêu vấn đề:
1.1. Khái niệm:
Dạy học nêu vấn đề không phải là một phương
pháp riêng biệt mà là sự tổng hợp của nhiều phương pháp. Dạy học nêu vấn đề
giúp phát huy tư duy độc lập của học sinh, trong đó giáo viên phải tạo tình
huống có vấn đề, nêu vấn đề ra và tổ chức, thúc đẩy hoạt động sáng tạo tìm tịi
của học sinh để giải quyết vấn đề đặt ra.
1.2. Đặc điểm của dạy học nêu vấn đề:
- Trong dạy học lịch sử, giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề và
tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề cho toàn bộ bài học, hoặc từng phần của
bài học những vấn đề mâu thuẫn như sau:
Mâu thuẫn về những điều chưa biết và đã biết của học sinh về
một sự kiện
Mâu thuẫn về việc tìm hiểu nguồn gốc nảy sinh sự kiện
Mâu thuẫn trong cách nhận xét, đánh giá các sự kiện
- Trong khi tổ chức cho học sinh tiếp thu kiến thức mới, giáo viên hướng
dẫn học sinh giải quyết các vấn đề dễ như:
Giải quyết về nguồn gốc, hoàn cảnh, cơ sở dẫn đến các sự kiện
lịch sử
Nêu và khẳng định giá trị các sự kiện tiêu biểu
Nhận xét, đánh giá vi trí, vai trị các sự kiện
- Dạy học nêu và giải quyết có vấn đề là phương tiên có hiệu quả đề biến
tri thức thành niềm tin thông qua việc tự lực suy nghĩ sáng tạo. Trong dạy học
nêu và giải quyết vấn đề, việc liên hệ với cuộc sống và sử dụng kinh nghiệm

5


sống của học sinh không đơn thuần để minh họa những kết luận về mặt lí thuyết
mà cịn là tiêu chuẩn đánh giá của việc giải quyết vấn đề
- Sử dụng phương pháp nêu và giải quyết vấn đề trong dạy học lịch sử sẽ
tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tính tích cực ở mức độ cao, vì bản thân tình
huống có vấn đề là nguồn kích thích sự sáng tạo của học sinh, đồng thời nó thể
hiện cá thể hóa HS trong q trình hoạt động học tập, khiến tính tự lập của các
em nâng cao trong q trình giải quyết tình huống có vấn đề
Tóm lại: Dạy học nêu và giải quyết vấn đề đã khơi gợi hoạt
động tư duy đọc lập của học sinh, qua đó đảm bảo sự chú ý và sự tiếp thu tích
cực, có chủ đích của học sinh. Phương pháp này là đặt vấn đề nào đó cần giải
quyết, nhưng khơng đưa ra cách giải quyết trực tiếp mà kích thích học sinh tìm
tịi lời giải đáp. 1.3. Các ví dụ chứng minh việc áp dụng phương pháp dạy học
nêu và giải quyết vấn đề
Qua quá trình dạy học, riêng bản thân tơi, ngồi sử dụng linh hoạt hợp lí
nhiều phương pháp dạy học khác, tôi thấy việc áp dụng phương pháp nêu và giải
quyết vấn đề trong dạy học môn lịch sử là rất cần thiết, không chỉ đối với học sinh
mà cả đối với giáo viên .Vì dạy học nêu và giải quyết vấn đề đã khơi gợi hoạt
động tư duy độc lập của học sinh, tạo cơ hội cho học sinh thể hiện tính tích cực ở
mức độ cao, rèn cho các em tính tự lập trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Qua đó, giáo viên đánh giá được mức độ học tập, khả năng nhận thức của từng
em.
Nhìn chung các vấn đề được đặt ra trong mỗi mục của bài, nhưng cũng có
vấn đề phức tạp nêu ngay từ đầu giờ có thể chia thành những vấn đề riêng, những
vấn đề này sẽ được học sinh giải quyết dần trong suốt giờ học. Cuối giờ, việc khái
quát những lời giải đáp cho các vấn đề riêng sẽ cung cấp lời giải đáp cho toàn bộ
những vấn đề chung
Ví dụ 1: Khi dạy tiết 17. Bài 12: Nhật Bản giữa thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX

Vấn đề đặt ra ở mỗi mục của bài học nhưng với mục 1 của bài (I.Cuộc Duy
tân Minh Trị), giáo viên nêu câu hỏi đầu giờ nhằm định hướng nhận thức cho học
sinh, kích thích sự chú ý của các em hướng vào nội dung cơ bản của bài, giáo viên
đưa ra câu hỏi và yêu cầu học sinh sẽ giải đáp sau khi học xong mục I là: Vì sao
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khi hầu hết các nước châu Á trở thành
thuộc địa và phụ thuộc các nước tư bản phương Tây thì Nhật Bản vẫn giữ được
độc lập và còn phát triển kinh tế nhanh chóng, trở thành nước đế quốc chủ nghĩa?
6


Và vì sao cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản lại có sức cuốn hút đối với các nước
châu Á noi theo trong đó có Việt Nam ?
Với các câu hỏi trên, giáo viên sẽ hướng dẫn gợi ý để học sinh có thể tìm ra
các ý sau:
- Hồn cảnh Nhật tiến hành cuộc Duy tân Minh Trị
- Nội dung cuộc Duy tân Minh Trị (về kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự)
- Kết quả cuộc Duy tân Minh Trị : cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX,
Nhật Bản thoát khỏi nguy cơ trở thành thuộc địa, phát triển thành một nước tư bản
công nghiệp
- Giáo viên khẳng định chính từ kết quả đạt được hết sức to lớn của Nhật
Bản như vậy nên nhiều nước châu Á muốn noi theo. Ở Việt Nam, đầu thế kỷ XX,
các sĩ phu yêu nước ở Việt Nam, tiêu biểu là cụ Phan Bội Châu muốn noi gương
Nhật Bản để canh tân đất nước, bằng chủ trương Đông Du, đưa thanh niên yêu
nước Việt Nam sang Nhật học .
Ví dụ 2: Sau khi học xong tiết 22, 23. Bài 15: Cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 và cuộc đấu tranh để bảo vệ cách mạng 1917-1921.
Với phần I của bài học này: hai cuộc cách mạng ở nước Nga năm 1917, giáo viên
có thể đưa ra tình huống học tập để học sinh giải quyết bằng các câu hỏi như sau:
Câu 1: Tình hình nước Nga trước cách mạng ?
Câu 2: Nêu diễn biến của cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Mười Nga

năm 1917 ?
Câu 3: Vì sao ở nước Nga năm 1917 lại có hai cuộc cách mạng ?
Câu 4: Lập bảng so sánh về cách mạng tháng Hai và cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917 ?
Với câu hỏi 1,2 giáo viên gợi ý để học sinh trả lời - câu hỏi này với mức độ dành
cho học sinh từ trung bình trở lên.
Riêng câu hỏi 3,4 dành cho học sinh khá - giỏi - Giáo viên gợi ý để dẫn dắt học
sinh vào câu trả lời.
Câu 3: Cuộc cách mạng thứ nhất bùng nổ tháng Hai năm 1917 đã lật đổ chế độ
Nga hoàng song lại dẫn tới tình trạng hai chính quyền song tồn tại - đó là cuộc
cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, sau đó giáo viên dẫn dắt học sinh so sánh dể
7


thấy được sự khác nhau giữa cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới với cuộc
cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ, yêu cầu học sinh cho ví dụ cụ thể.
Cuộc cách mạng thứ hai bùng bổ vào tháng Mười năm 1917 do Lê-nin và Đảng
Bôn- sê –vich Nga vạch kế hoạch thực hiện thắng lợi, lật đổ chính phủ lâm thời
tư sản, thiết lập chính quyền thống nhất tồn quốc của Xơ viết - đó là cuộc cách
mạng vô sản.
Câu 4: Học sinh lập bảng theo mẫu :
Nội dung

CM tháng Hai

CM tháng Mười

Lãnh đạo

Đảng Bôn- sê –vich


Lê-nin và Đảng Bôn- sê –vich

Động lực

Công – nông - binh

Công – nơng - binh

Nhiệm vụ

Lật đổ chính phủ Nga hồng

Lật đổ chính phủ lâm thời tư sản

Tính chất

cuộc cách mạng dân chủ tư sản

cuộc cách mạng vơ sản

Ví dụ 3: Tiết 21. Bài 23: Ôn tập lịch sử thế giới cận đại (phần từ năm 1917 đến
năm 1945)
Tình huống đặt ra là em hãy cho biết trong số các sự kiện lịch sử thế giới từ
năm 1917 -1945, em hãy chọn năm sự kiện tiêu biểu nhất và nêu lí do vì sao em
chọn sự kiện
Với câu hỏi này địi hỏi học sinh phải chủ động suy nghĩ, liên hệ với kiến thức
toàn bộ phần lịch sử thế giới hiện đại đã học ở lớp 8 để trả lời được các ý cơ bản
sau:
1, Cách mạng XHCN tháng Mười Nga, lần đầu tiên CNXH trở thành hiện

thực ở 1 nước - mở ra thời kỳ mới: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
2, Cao trào cách mạng 1918-1923 - Đảng cộng sản ra đời ở một số nước,
Quốc tế cộng sản thành lập (quốc tế thứ 3).
3, Phong trào độc lập dân tộc ở các nước phụ thuộc và thuộc địa giai cấp vô
sản trưởng thành.
4, Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 chủ nghĩa phát xít ra đờì ở
1 số nước.

8


5, Chiến tranh thế giới thứ hai 1939-1945: nguyên nhân, diễn biến, kết cục,
tính chất và bài học rút ra từ cuộc chiến tranh.
Ví dụ 4: Tiết 20. Bài 13.Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918)
Sau khi học xong bài –giáo viên đưa ra câu hỏi: Em hãy cho biết chiến tranh
thế giới thứ nhất để lại hậu quả gì đối với nhân loại? Từ đó em rút ra bài học gì?
bản thân em phải có trách nhiệm gì đối với đất nước, với loài người ?
Với câu hỏi này sẽ kích thích sự độc lập suy nghĩ của học sinh và mỗi học
sinh sẽ nhận thức rõ vai trò của mình đối với đất nước nói riêng và nhân loại nói
chung sẽ phải làm gì để bảo vệ nền hịa bình thế giới...
Ví dụ 5: đối với một số bài có kênh hình, gv u cầu học sinh quan sát lược đồ
hoặc hình ảnh ở một số bài sau đó trả lời được các câu hỏi mà giáo viên đưa
ra, như một số bài dưới đây.
Tiết 46. Bài 29. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và những
chuyển biến về kinh tế, xã hội ở Việt Nam
Hình 99 - Nơng dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc

Bức ảnh này được sử dụng khi dạy mục II, ý 1- Các vùng nông thôn. GV cho HS
quan sát ảnh và gợi mở một số câu hỏi để HS thảo luận:
- Quan sát ảnh, em thấy người nông dân đang làm gì?

- Tại sao họ phải kéo cày thay trâu?
- Vì sao người nơng dân phải lao động vất vả như vậy nhưng vẫn bị đói?
9


- Em có suy nghĩ gì về đời sống của người nông dân Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc?
Trên cơ sở ý kiến của HS, GV chốt lại những nội dung cơ bản và khẳng định dưới
ách thống trị của thực dân Pháp người nơng dân Việt Nam bị bóc lột đến cùng
cực, đời sống của họ vơ cùng khó khăn, vì vậy họ ln đi đầu trong các cuộc đấu
tranh địi tự do, no ấm và là lực lượng đơng đảo nhất của cách mạng.
* Ngồi những câu hỏi tình huống đưa ra ở mỗi phần, mỗi bài, giáo viên có thể
tiến hành kiểm tra sau khi học sinh học xong một bài, một chương, giúp học sinh
củng cố kiến thức thơng qua những bài tập cụ thể. Gv có thể giao cho học sinh
làm ở nhà hoặc làm ở lớp khi có thời gian như một số bài tập sau:
Bài 1: So sánh hai thái độ, hai kiểu hành động của nhân dân và triều đình Huế
trước sự xâm lược của thực dân Pháp:
Thái độ
Nhân dân

Hành động

- Kiên quyết chống xâm lược - Anh dũng chống trả chúng tại
ngay từ khi Pháp nổ súng xâm Đà Nẵng dẫn đến làm thất bại kế
lược nước ta
hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”
- Kiên quyết chống trả khi địch của địch
tấn công Gia Định và các tỉnh - Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra
Nam Kì
quyết liệt chống sự mở rộng

- Thái độ "bất tn lệnh"triều chiếm đóng của thực dân Pháp
đình của nhân dân dân và các sĩ và chống sự nhu nhược của triều
đình
phu u nước

Triều đình

- Khơng kiên quyết, động viên - Bỏ lỡ thời cơ khi địch đánh Gia
nhân dân chống Pháp
Định
- Bỏ lỡ nhiều thời cơ để hành - Kí hiệp ước 1862 để mất 3 tỉnh
động
miền Đơng Nam Kì, sau đó để
- Nhu nhược, ươn hèn, ích kỉ vì mất nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kì
quyền lợi dòng họ bán rẻ dân - Đàn áp phong trào đấu tranh
tộc
của nhân dân

Bài 2: Lập niên biểu những sự kiện lịch sử chính cuả dân tộc từ năm 1858 -1884
theo mẫu : thời gian, sự kiện
10


Với bài này yêu cầu các em chỉ lập những sự kiện lịch sử chính nhất của dân tộc
từ năm 1858-1884
Như vậy qua các bài tập ở trên rèn luyện cho học sinh kỹ năng lập niên biểu về
các sự kiện lịch sử quan trọng, kỹ năng so sánh, tổng hợp, khái quát, từ đó giúp
các em nắm chắc kiến thức cơ bản của bài
Tương tự, sau mỗi bài học, mỗi chương, mỗi phần giáo viên có thể ra các bài tập
giúp học sinh củng cố kiến thức.

Nếu là bài tập giao về nhà, giờ sau nhất thiết giáo viên phải kiểm tra và chữa bài
cho các em để kịp thời khắc phục những thiếu sót về mặt kiến thức, kỹ năng. Có
thể khuyến khích việc học tập và làm bài tập của học sinh bằng hình thức chấm
vở bài tập cho điểm để động viên
Ngoài các bài kiểm tra chúng ta có thể đánh giá học sinh thơng qua các
hoạt động học tập trên lớp: ý thức xây dựng bài, hồn thành trách nhiệm được
giao trong hoạt động nhóm, kỹ năng thực hành, thái độ, tư tưởng tình cảm.....
Tuy nhiên trong một đề kiểm tra ngoài kiến thức cơ bản dành cho tất cả đối tượng
học sinh thì cần có những câu hỏi tự luận mở mang tính chất tổng hợp, khái qt,
phân tích, so sánh, địi hỏi học sinh phải tìm tịi, suy nghĩ, liên hệ các nội dung bài
học để vận dụng khi làm bài. Có như thế giáo viên mới có thể phát hiện được
những nhân tố mới, những học sinh có năng lực thực sự trong học tập bộ mơn, từ
đó bồi dưỡng cho các em trong đội tuyển học sinh giỏi
2. Phương pháp sử dụng các tài liệu tham khảo.
2.1. Vị trí :
Có nhiều quan điểm khác nhau về vị trí của tài liệu tham khảo trong dạy học lịch
sử đó là:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: Không cần phải sử dụng tài liệu tham khảo
trong dạy học bộ mơn. Vì nội dung sách giáo khoa là pháp lệnh, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc này là đủ.
- Quan điểm thứ hai cho rằng: Sử dụng tài liệu tham khảo là cần thiết vì nó
góp phần cụ thể hố cho các sự kiện lịch sử điển hình, làm cho nội dung bài
giảng phong phú về kiến thức, giờ học sẽ sinh động và hấp dẫn học sinh hơn.
- Quan điểm thứ ba là quan điểm chiếm đa số cho rằng: Sử dụng tài liệu tham
khảo là cần thiết. Nhưng vấn đề cơ bản là lựa chọn tài liệu nào cho phù hợp và
sử dụng ở mức độ nào cho phù hợp.
11


Do đặc trưng của bộ môn lịch sử nên các tài liệu có ý nghĩa quan trọng góp

phần khơi phục tái hiện các hình ảnh quá khứ và là bằng chứng về tính chính
xác, tính cụ thể của sự kiện, hiện tượng lịch sử. (Theo sơ đồ của tiến sĩ Đai-ri thì
ơ số 1 chỉ phần tài liệu khơng có trong SGK, giáo viên đưa thêm vào bài giảng
nhằm minh họa kiến thức cơ bản cho bài học – đây chính là những tài liệu tham
khảo mà giáo viên đưa vào bài giảng và cũng là yếu tố làm cho bài giảng sinh
động, hấp dẫn tạo nên sự hứng phấn, kích thích tư duy của học sinh). Tài liệu
lịch sử là nguồn kiến thức quan trọng trong quá trình giảng dạy nên cần phải
được chọn lọc, thẩm định và sử dụng ở một mức độ vừa phải nhưng chính xác
để đảm bảo tính vừa sức và yêu cầu nhận thức của học sinh THCS.
Việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp cho học sinh có cơ sở nắm
chắc bản chất các sự kiện, hình thành các khái niệm, hiểu rõ quy luật và rút ra
bài học lịch sử. Đồng thời cịn rèn cho học sinh thói quen tự học tập, nghiên cứu
và sưu tầm tư liệu lịch sử góp phần phát triển tư duy lịch sử ở các em. Tài liệu
còn là phương tiện cần thiết giúp học sinh hiểu rõ hơn nội dung sách giáo khoa
là con đường nâng cao chất lượng dạy- học lịch sử ở nhà trường THCS.
2.2. Các loại tài liệu tham khảo.
2.2.1 Tài liệu lịch sử:
- Tài liệu lịch sử gốc: Bao gồm các văn kiện, tài liệu có liên
quan trực tiếp đến sự kiện, ra đời vào thời điểm xảy ra sự kiện như các văn tự
cổ, các hiệp ước, tuyên ngôn… Dùng để dẫn chứng, minh họa cho bài học như:
“Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” (Pháp); “Tuyên ngôn độc lập” (Chủ
tịch Hồ Chí Minh).
- Tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các tác phẩm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (của Mac và Ăngghen) “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin”; “Bản án
chế độ thực dân Pháp”; “Đường cách mệnh” (của Chủ tịch Hồ Chí Minh).
- Sách tư liệu lịch sử : Các truyện kể về Nguyễn Trãi, Bác Hồ…
2.2.2. Tài liệu liên môn:
- Các tác phẩm văn học viết, văn học dân gian như: Bình Ngơ Đại cáo,
Hồng Lê nhất thống chí, Con Rồng Cháu Tiên; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh; Bánh
chưng, Bánh giầy; Sự tích Trầu Cau; Quả dưa hấu; Sự tích Cổ loa và chuyện

Mị Châu- Trọng Thuỷ ...
12


- Tư liệu về địa lí…
- Các phát minh khoa học…
Đây là những tư liệu sống động, phong phú mà người giáo viên và học
sinh cần có trong dạy và học lịch sử.
2.3. Phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo.
Khi sử dụng tài liệu tham khảo, giáo viên phải xuất phát từ yêu cầu của bài học
để lựa chọn kiến thức đưa vào bài học, phải kết hợp các phương pháp dạy học
đúng với đặc trưng bộ môn. Việc sử dụng tài liệu tham khảo được tiến hành
trong các trường hợp sau:
- Để cụ thể hoá các sự kiện, hiện tượng lịch sử đang học hoặc kiến
thức cơ bản cốt lõi trong sách giáo khoa, để học sinh biểu tượng lịch sử rõ ràng,
cụ thể, sự kiện được truyền tải đến học sinh mang tính hình ảnh, làm cho bài học
sinh động, gợi cảm, kích thích hứng thú học tập của học sinh. Thông thường tài
liệu sử dụng là những trích đoạn ngắn, có nội dung xúc tích, giàu hình tượng,
học sinh có thể tiếp nhận dễ dàng.
Ví dụ: khi dạy bài 30 "Phong trào yêu nước chống Pháp từ đầu thế
kỷ XX đến năm 1918" (Tiết 48 - Lịch sử 8), giáo viên có thể câu chuyện "Quyết
chí ra đi tìm đường cứu nước"(Sách Lịch sử và địa lí lớp 5) về cuộc trao đổi
giữa Nguyễn Tất Thành và anh Tư Lê—sau đó giáo viên nhấn mạnh năm 1911,
với lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Tất Thành từ cảng Nhà Rồng quyết chí
ra đi tìm đường cứu nước .
Hay vẫn ở bài trên, khi giảng về những khó khăn, gian khổ của Nguyễn
Tất Thành sau khi rời cảng Nhà Rồng xuống làm phụ bếp cho tàu Đô đốc La-tusơ Tơ-rê-vin, giáo viên có thể trích một đoạn tư liệu miêu tả cảnh lao động trên
tàu như sau : "Hàng ngày, Thành phải cọ rửa gian bếp lớn trên tàu, sau đó nhóm
lị, rồi khn than, kéo những sọt rau quả, thịt cá, nước đá ....từ dưới hầm tàu
lên. Có lần trong lúc trời giơng bão, Thành đang kéo một sọt nặng trên boong

tàu thì một đợt sóng lớn chồm tới, cuốn lấy thân thể mảnh dẻ của anh và suýt
lôi anh xuống biển. Thật may mắn, vào khoảnh khắc cuối cùng thì anh bám
được vào dây cáp và nhờ đó thốt chết......"
Đoạn trích dẫn trên khơng chỉ cho các em hình cụ thể, sinh động và hấp dẫn
về những khó khăn mà Bác Hồ đã trải qua trên đường đi tìm đường cưú nước, mà
cịn có tác dụng giáo dục sâu sắc về tấm gương của Bác Hồ để các em noi theo.
13


- Để giải thích các sự kiện lịch sử giúp học sinh hiểu được bản chất của nó.
Ví dụ: Khi dạy bài 16: "Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài
trong những năm 1919 -1925 "(Tiết 19 -Lịch sử 9) khi trình bày về ý nghĩa của
việc Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lê-nin, giáo viên trích đọc một đoạn: “…Sau này (năm 1960), Người kể lại
cảm xúc của mình khi đọc Luận cương: "Trong luận cương ấy có những chính
trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tơi cũng hiểu được
phần chính. Luận cương của Lê- nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng
tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo :"Hỡi đồng
bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải
phóng chúng ta!”.
Từ đó, tơi hồn tồn tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba".
(Theo: Hoạt động của Bác Hồ ở nước ngồi,NXB Chính trị Quốc gia 1998)
Trên cơ sở ấy, giáo viên giải thích để học sinh hiểu rõ Luận cương của Lê-nin
đã nâng cao những hiểu biết thực tế của Nguyễn Ái Quốc về công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, làm sáng tỏ con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
Việt Nam: con đường cách mạng vô sản
- Để làm cơ sở chứng minh cho một luận điểm khoa học đã được nêu ra từ trước.
Ví dụ 1: Khi dạy về phần sự xuất hiện của con người trên Trái đất (tiết 3-lịch sử
6), giáo viên đưa trích dẫn câu nói của Ăng-ghen: "Lao động sáng tạo ra con

người và xã hội loài người" rồi giải thích rõ để học sinh hiểu vai trị của lao
động đối với sự tiến hoá của con người và xã hội lồi người .
Ví dụ 2: ngay ở bài 1: “ Sơ lược về môn lịch sử ” (tiết 1- lịch sử 6), sau khi học
xong bài, giáo viên đưa ra và hỏi các em câu hỏi sau: Em hiểu như thế nào về
câu nói "Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống"? (nhà chính trị Rơ-ma cổ Xi –xêrơng). Qua đó, giáo viên nhấn mạnh lịch sử ghi lại những gì đã xảy ra trong quá
khứ, những việc làm, những con người tốt hay xấu, thành hay bại, những gì xấu
tốt của cuộc sống, những cuộc chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa ....lịch sử
giúp chúng ta ngày nay hiểu được những cái hay, cái đẹp để phát huy, cái xấu,
cái khiếm khuyết để tránh bỏ, từ đó chúng ta rút kinh nghiệm cho bản thân, tự
trau dồi đạo đức và sống cho tốt, cống hiến phần sức lực của mình để xây dựng
quê hương đất nước. Lịch sử là cái cân, cái gương cho muôn đời để chúng ta soi
vào. “Lịch sử là thầy dạy của cuộc sống”.
14


Như vậy sẽ có tác dụng tốt trong việc nâng cao nhận thức, giáo dục tư tưởng,
tình cảm và thái độ cho các em học sinh .
- Khi sử dụng tài liệu tham khảo, giáo viên nên chú ý thêm nguồn tài liệu liên
môn. Tuỳ từng nội dung, từng vấn đề lịch sử cụ thể mà giáo viên chọn lọc và
đưa vào bài giảng sao cho phù hợp.
+ Ví dụ 1: Bài 27 "Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
kết thúc 1953-1954", ở phần I.2: Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ( lịch sử 9),
khi giảng về công tác chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ - sự kiện kéo pháo
vào trận địa thì người giáo viên vừa có thể vừa miêu tả kênh hình trong sách
giáo khoa, vừa có thể sử dụng vài câu hát trong bài hát Hị kéo pháo của Hồng
Vân để học sinh có thể hồi tưởng được những khó khăn vất vả cũng như tinh
thần chịu đựng khó khăn, gian khổ hy sinh (đồng chí Tơ Vĩnh Diện dũng cảm hy
sinh thân mình chèn pháo) cùng quyết tâm chiến thắng của các chiến sĩ pháo
binh trong chiến dịch Điên Biên phủ như:
"Hị dơ ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo

Hị dơ ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi
Dốc núi cao cao. Nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi
Vực sâu thăm thẳm. Vực nào sâu bằng chí căm thù?
..........................Thề quyết tâm bắn tan đồn thù "
Hoặc chỉ cần đọc một đoạn thơ của nhà thơ Tố Hữu, nhưng người giáo viên đã
khắc họa được mn vàn khó khăn thử thách, gian khổ và sự quyết tâm của quân
dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ và còn giúp nhớ thêm được anh hùng Bế
Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, anh hùng Phan Đình Giót lấy thân mình
lấp lỗ châu mai, anh hùng Tơ Vĩnh Diện lấy thân chèn pháo
“ …Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng
Chí khơng mịn!
Những đồng chí thân chơn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua thép gai
15


Ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, cịn ơm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện”
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)
Hay như khẳng định chiến thắng lẫy lừng của chiến dịch Điện Biên Phủ có thể
dùng câu thơ sau của Tố Hữu:
"Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng "
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Hay: Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu
+Ví dụ 2: khi dạy phần lịch sử Việt Nam ở lớp 6 "Thời đại dựng nước Văn lang
– Âu Lạc” giáo viên có thể gợi ý và yêu cầu học sinh kể những câu chuyện liên
quan đến thời kỳ này như các truyền thuyết : Con Rồng Cháu Tiên; Sơn Tinh Thuỷ Tinh; Bánh chưng, Bánh giầy; Sự tích Trầu Cau; Quả dưa hấu; Sự
tích Cổ Loa và chuyện Mị Châu- Trọng Thuỷ ... để nâng cao nhận thức, phát
triển tư duy của học sinh về cội nguồn và quá trình phát triển của lịch sử dân tộc
thời Văn Lang - Âu Lạc. Qua đó bồi dưỡng cho các em lịng tự hào, tự tơn dân
tộc.
+ Ví dụ 3: Đối với tài liệu về địa lí, giáo viên có thể kết hợp sử dụng ở nhiều
bài, đặc biệt ở lịch sử lớp 8,9 (khi học về q trình phát triển của phong trào
giải phóng dân tộc ở các châu lục ).....nhằm giới thiệu về vị trí địa lí, tài
ngun của các khu vực đó và là nguyên nhân dẫn tới thực dân phương Tây
xâm lược châu Á, Phi, Mĩ la-tinh. Cụ thể ở bài 11 “Các nước Đông Nam Á
cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX” (Tiết 16 – Lịch sử 8), giáo viên sử dụng
lược đồ “phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX ”, giáo viên giới thiệu về vị trí địa lí, tài ngun của khu vực Đơng
Nam Á: Đông Nam Á là khu vực khá rộng, gồm nhiều nước trên lục địa và
hải đảo, diện tích khoảng 4,5 triệu km 2, có vị trí địa lí quan trọng, nằm trên
đường hàng hải từ Tây sang Đông, nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình
Dương, là khu vực giàu tài ngun (nơng sản, khống sản…). Cùng với đó là
16


chế độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á đang suy yếu, vào nửa sau thế kỷ
XIX, Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây.
Như vậy việc sử dụng tài liệu tham khảo (cả tài liệu lịch sử và tài liệu liên
mơn) đều có vai trị cực kì quan trọng trong dạy học lịch sử. Tuy nhiên khi sử
dụng tài liệu phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh, không chất đống sự
kiện, đảm bảo hiệu quả giáo dục, tránh giáo điều máy móc. Mỗi loại tài liệu có
vị trí và tác dụng nhất định, nếu được sử dụng đúng lúc, kết hợp đúng bài thì

hiệu quả sư phạm của nó rất lớn. Mặt khác, giáo viên phải giải thích xuất xứ của
tài liệu để học sinh có thể tìm tịi ở nhà, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu
của các em.
3. Phương pháp trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử.
3.1. Khái niệm.
Trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử là công việc mà giáo viên nêu ra những
câu hỏi (đã được chuẩn bị sẵn trong bài soạn) để gọi học sinh lần lượt trả lời.
Đồng thời, các em tự đặt câu hỏi cho nhau, trao đổi với nhau trên cơ sở chỉ đạo
dẫn dắt của giáo viên qua đó nhằm đạt được mục đích bài học.
Tóm lại, trao đổi và đàm thoại là một trong nguyên tắc trong dạy học lịch sử
mà người giáo viên nào cũng phải thực hiện ở trên lớp.
3.2.Thực trạng
Trong quá trình dạy và học hiện nay đang nảy sinh một vấn đề cần phải khắc
phục đó là: Một bộ phận giáo viên chưa đổi mới và vận dụng đúng phương
pháp trao đổi đàm thoại trong dạy học lịch sử. Đồng thời, một số lượng khơng ít
học sinh khơng biết cách đặt câu hỏi tìm hiểu, trao đổi với nhau trong một bài
học lịch sử. Từ đó, dẫn đến sự hạn chế về mặt nhận thức của học sinh trong bộ
mơn lịch sử.
3.3. Các hình thức trao đổi, đàm thoại.
3.3.1. Hình thức trao đổi tái hiện:
Hình thức này nhằm gợi lại cho học sinh những kiến thức đã học để làm cơ sở
tiếp nhận kiến thức mới, giúp cho học sinh có khả năng khái qt hố, tổng hợp
hố các sự kiện lịch sử. Từ đó, làm cho quá trình nhận thức của học sinh được
diễn ra liên tục, khơng bị gián đoạn. Hình thức này khơng chỉ giúp học sinh hiểu
sâu kiến thức cũ mà còn làm cơ sở để hiểu thêm phương pháp, kiến thức, tri thức
mới.
17


Việc trao đổi tái hiện thường được tiến hành ở đầu giờ hoặc trong tiến trình của

bài giảng cần nhắc lại kiến thức cũ, để nhận thức của học sinh được liên tục có
hệ thống
Ví dụ: Khi dạy bài : “Cuộc kháng chiến chống Tống (10751077)” (Tiết 15 - Lịch sử 7) trước khi đi vào cụ thể diễn biến cuộc kháng chiến
chống xâm lược Tống của nhà Lý, giáo viên có thể đưa ra câu hỏi tái hiện như
sau: trước nhà Lý, nhân dân ta đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Tống
vào năm nào? Kết quả ra sao?
Học sinh sẽ tái hiện lại phần kiến thức đã học và đưa ra câu trả lời đó
là: cuộc kháng chiến chống Tống thời nhà Tiền Lê năm 981, kết quả ta giành
thắng lợi....
Sau đó giáo viên dẫn dắt học sinh vào bài mới: sau thất bại năm 981, nhà
Tống chưa từ bỏ âm mưu xâm lược nước ta. Vậy nhà Tống xâm lược nước ta
nhằm âm mưu gì? Cuộc kháng chiến của nhân dân ta dưới thời nhà Lý như thế
nào? Kết quả ra sao? Nét độc đáo trong cách đánh giặc của Lý Thường Kiệt là
gì? Vậy để lí giải được vấn đề này chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài học hôm
nay” Cuộc kháng.........Tống 1075- 1077”
3.3.2. Hình thức trao đổi, phân tích, khái qt hố:
- Hình thức này giúp học sinh tiếp thu kiến thức lịch sử mang tính lơgíc và
hiểu được bản chất của sự kiện đó. Khi sử dụng hình thức này giáo viên giúp
cho học sinh phân tích và đánh giá các sự kiện lịch sử. Câu hỏi mà giáo viên đưa
ra trao đổi đàm thoại thường liên quan đến các sự kiện cơ bản, đòi hỏi học sinh
phải vận dụng tổng hợp từ nhiều hiện tượng, sự kiện, để từ đó tìm ra bản chất
của sự kiện.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “Trung Quốc cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ
XX” (tiết 15- lịch sử 8). Khi kết thúc phần I. Trung Quốc bị các nước đế quốc
chia xẻ - Học sinh quan sát hình 42 SGK, giáo viên đưa ra câu hỏi: Bức tranh
các nước đế quốc xâu xé cái bánh ngọt Trung quốc nói lên điều gì? Và vì sao
nhiều nước đế quốc lại xâu xé Trung Quốc như vậy?
(Học sinh trả lời –bổ sung, giáo viên kết luận)
Ví dụ 2: khi dạy bài 15 “Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và cuộc
đấu tranh bảo vệ cách mạng (1917 -1921” ( tiết 22,23 – lịch sử 8). Khi kết thúc

bài, giáo viên đưa ra câu hỏi : Vì sao ở nước Nga năm 1917 lại có hai cuộc cách
mạng (Học sinh trao đổi nhóm trả lời)
18


3.3.3. Hình thức trao đổi tìm tịi, phát hiện.
Giáo viên tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh khi
giải quyết các vấn đề phức tạp.
Trong hình thức này giúp cho học sinh huy động so sánh, đối chiếu các sự
kiện lịch sử bằng suy đốn lơgíc và tự giải quyết các câu hỏi mà giáo viên đặt ra.
- Hình thức này gồm có hệ thống các câu hỏi như giúp học sinh hiểu
từng câu hỏi một có liên quan với nhau thành một vấn đề lớn, cơ bản.
- Ví dụ: Khi dạy bài 16 : “Những hoạt động của Nguyễn ái Quốc ở
nước ngoài trong những năm 1919 -1925)”( Tiết 19 – Lịch sử 9), giáo viên có
thể đặt các câu hỏi:
Con đường đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc có gì độc đáo, khác với
con đường truyền thống của lớp người đi trước?
Tại sao Người chọn con đường sang phương Tây?
Tác dụng của hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, tại Liên Xô, Trung
Quốc từ năm 1919 – 1925?
Học sinh trả lời và rút ra được vấn đề cơ bản nhất: theo Người chân lí cách
mạng không phải ở phương Đông mà ở phương Tây, nơi được mệnh danh có tư
tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có nền khoa học kỹ thuật, có nền văn minh phát
triển, Người nhận thức muốn đánh được Pháp thì phải hiểu Pháp...
3.3.4. Hình thức trao đổi ơn tập, củng cố:
- Hình thức này thường được sử dụng trong các bài cuối chương cuối
học kỳ để khái quát hoá những nội dung kiến thức đã học.
- Hệ thống câu hỏi tập trung vào kiến thức của chương hay là cả một
q trình lịch sử.
Ví dụ: Ở bài 14 - “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (từ giữa thế kỉ

XVI đến năm 1917-Tiết 21 lịch sử 8) HS trả lời câu hỏi: Hãy nêu những nội
dung của lịch sử thế giới cận đại? Nội dung nào là cơ bản nhất? Hãy chọn 5 sự
kiện tiêu biểu của lịch sử thế giới cận đại?
3.3.5. Hình thức trao đổi kiểm tra.
- Hình thức này giáo viên xem xét nhận biết của học sinh trong quá
trình học tập. Đây là hình thức được tiến hành thường xuyên khi kiểm tra bài cũ
hoặc
19


xen vào nội dung của bài mới qua đó nắm được khả năng diễn đạt phân tích khái
quát thực hành của học sinh.
Ví dụ: Trước khi đi vào học nội dung bài 12 “Nhật Bản giữa thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX” (tiết 17 - lịch sử 8) GV đặt câu hỏi kiểm tra bài cũ: Tại sao
cuối thế kỉ XIX Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của thực dân
phương Tây?
( HS trả lời - bổ sung - GV kết luận). Sau đó GV đi vào bài với câu hỏi gợi
mở để các em sẽ dần giải đáp trong nội dung bài học: Vì sao cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX, trong khi hầu hết các nước châu Á trở thành thuộc địa và phụ thuộc
các nước phương Tây thì Nhật Bản vẫn giữ được độc lập và cịn phát triển kinh
tế nhanh chóng, trở thành nước đế quốc chủ nghĩa?
- Với 5 hình thức trên phương pháp trao đổi, đàm thoại được thực hiện
bằng cách giáo viên đưa ra câu hỏi sau đó gợi ý, dẫn dắt học sinh thực hiện.
Nhưng phải tuân thủ nguyên tắc chung là câu hỏi đưa ra không được quá khó
hoặc quá dễ và đáp ứng được yêu cầu sau:
+ Câu hỏi phải rõ ràng ngắn gọn, nêu được vấn đề cơ bản để học sinh
hiểu đúng và sâu sắc, học sinh phải có các thao tác tư duy.
+ Câu hỏi phải mang tính chất bài học nhận thức, tạo cảm giác cho
học sinh qua đó giúp học sinh đối chiếu giữa cái đã biết hoặc chưa biết để trả
lời.

( Đây là loại câu hỏi phổ biến nhất)
+ Câu hỏi phải mang tính vừa sức với học sinh.
Câu hỏi tìm tòi phát hiện chỉ nên đặt ra cho học sinh khối 8, 9 khi mà nhận
thức của các em đã được nâng lên. Tuy nhiên giáo viên không được để cho học
sinh chủ quan, thoả mãn với câu trả lời của mình.
3.4. Các câu hỏi thường dùng trong phương pháp trao đổi, đàm thoại.
Để đảm bảo được 3 yêu cầu cơ bản trên đây giáo viên có
thể xây dựng câu hỏi làm 5 loại sau:
Câu hỏi nêu lên sự phát sinh, phát triển của những sự kiện, hiện tượng
lịch sử điển hình.
Loại câu hỏi này thường hỏi về nguyên nhân, diễn biến của cuộc khởi
nghĩa, kháng chiến hoặc thái độ của một giai cấp nào đó.

20


Ví dụ: Nêu nguyên nhân bùng nổ của phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở khu vực Đơng Nam Á cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX? (tiết 16 – Lịch sử
8)
-

Câu hỏi nêu lên bản chất, đặc trưng của các sự kiện lịch sử
Ví dụ: Tại sao nói ĐCSVN ra đời (3.2.1930) là bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng Việt Nam? (tiết 22 – Lịch sử 9)

- Câu hỏi nêu mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử điển hình.
Ví dụ: Tại sao nói ĐCSVN ra đời là một tất yếu lịch sử? Vai trò của Nguyễn Ái
Quốc trong hội nghị thành lập Đảng như thế nào? (tiết 22 – Lịch sử 9)
- Câu hỏi về việc sử dụng kiến thức đã học để tìm hiểu về các kiến thức lịch sử
mới.

Ví dụ: Vì sao nói cuộc Duy Tân Minh Trị (năm 1868) là một cuộc cách mạng tư
sản? ?(tiết 17 – bài 12 – Lịch sử 8)
- Câu hỏi mang tính chất bài tập nhận thức (loại câu hỏi này thường giao cho
học sinh về nhà làm bài tập)
Ví dụ: Lập bảng so sánh hai thái độ, hai kiểu hành động của nhân dân và triều
đình Huế trước sự xâm lược của thực dân Pháp? (Lịch sử 8)
Tóm lại: Trong các loại câu hỏi trên tuỳ thuộc vào từng yêu cầu của
bài học mà giáo viên đặt ra câu hỏi cho phù hợp (Câu hỏi dùng trong phương
pháp này chủ yếu xoay quanh vấn đề: Tại sao? Vì sao? Như thế nào?). Khi đặt
câu hỏi giáo viên phải suy nghĩ kỹ, phải có sự chuẩn bị sẵn hệ thống câu hỏi
trong bài soạn và phải có đáp án của câu hỏi đó, giáo viên phải hướng dẫn gợi ý
để học sinh trả lời, có sự nhận xét đánh giá câu trả lời của các em và tiếp tục gọi
em khác trả lời bổ sung để câu trả lời được hoàn chỉnh.
8. Những thông tin cần bảo mật: không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
Các em học sinh THCS đặc biệt khối 8,9; thiết bị dạy học, sách giáo
khoa, sách giáo viên, sách giáo khoa môn lịch sử 6,7,9; phân phối chương trình
giảng dạy mơn lịch sử, các tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học môn lịch
sử có liên quan.
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc có thể thu được do áp dụng chuyên đề
theo ý kiến của tác giả
21


Việc áp dụng một số PP phát triển khả năng nhận thức của HS, qua thực tế
giảng dạy các em đã có tiến bộ rõ rệt, hoạt động học tập của các em đi vào nề
nếp, chất lượng học sinh đại trà tăng lên: số HS yếu kém giảm, số HS từ trung
bình cũng như khá giỏi tăng.
Kết quả học tập của HS tăng có sự chuyển biến rõ rệt. Phần lớn các em đã
biết sử dụng, biết khai thác nội dung kênh chữ, kênh hình trong SGK, biết trả

lời câu hỏi mà giáo viên đưa ra, nhiều em có khả năng sưu tầm tài liệu rất tốt.
Tuy nhiên, so sánh thì thấy ở các lớp A hiệu quả cao hơn các lớp BC
Với PP sáng tạo với BĐTD HS rất hào hứng nhưng đại đa phần là các em có
học lực khá thể hiện tốt, cịn các em yếu kém cịn gặp nhiều khó khăn khi vẽ
BĐTD.
Như vậy, trên đây tơi vừa trình bày một số PP nhằm phát triển khả
năng tư duy lịch sử của HS, nâng cao chất lượng bộ mơn lịch sử, mỗi PP có đặc
trưng riêng nên người GV sử dụng như thế nào cho hiệu quả tùy thuộc vào điều
kiện trường lớp, tùy từng đối tượng học sinh. Cùng với đó GV kết hợp đổi mới
công nghệ thông tin chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao cho bộ môn lịch sử, nâng
cao nhận thức lịch sử của HS, các em sẽ yêu quý bộ môn lịch sử.
11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử:
ST
T

Tên tổ chức/ cá
nhân

Địa chỉ

Học sinh khối 8,9 Trường THCS

Phạm vi/ Lĩnh vực áp
dụng sáng kiến
Học sinh bậc THCS

Như vậy: Với một số phương pháp phát triển khả năng nhận thức lịch sử
của HS: phương pháp sử dụng SGK; phương pháp trao đổi đàm thoại; phương
pháp sử dụng tài liệu tham khảo và phương pháp sáng tạo với bản đồ tư duy
trong dạy học lịch sử cùng với việc sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác

như khai thác và sử dụng đồ dùng trực quan, ứng dụng CNTT, dạy học tích hợp
liên mơn như hiện nay… chắc chắn nếu GV sử dụng tốt, kết hợp linh hoạt các
PP và phù hợp với từng nội dung kiến thức cụ thể sẽ đem lại kết quả cao. HS sẽ
lĩnh hội tốt kiến thức, phát huy được năng lực nhận thức, năng lực tư duy, khả
năng tích cực chủ động, sáng tạo của HS trong học tập. Từ đó có tác dụng giáo
dục tư tưởng, đạo đức, phẩm chất, hình thành thế giới quan khoa học cho học
22


sinh. Hình thành cho các em lịng tự tin, ý chí quyết tâm trong học tập đồng thời
hình thành cho học sinh lòng trung thực, tinh thần tập thể, ý thức giúp đỡ nhau
trong học tập và trong cuộc sống.
Trên đây là phần trình bày mà tơi đã rút ra được trong quá trình giảng
dạy tại trường Trung học cơ sở cũng như trong quá trình học tập, tham gia các
chuyên đề thay sách giáo khoa của ngành giáo dục, tham gia các chuyên đề
giảng dạy của đồng nghiệp các trường THCS trong huyện. Tuy nhiên để có được
đề tài này, tôi đã tham khảo và tiếp thu ý kiến của đồng nghiệp cũng như dựa
vào tài liệu sách giáo viên và sách giáo khoa, và một số tài liệu tham khảo về
phương pháp dạy học khác để rút ra kinh nghiệm riêng cho mình.
Vì tuổi đời, tuổi nghề cịn ít, cịn thiếu kinh nghiệm nên tơi rất
mong nhận đ
ược sự đóng góp của đồng nghiệp, của tổ chun mơn để
sáng kiến của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Phan Thị Ngọc Liên, Trần Văn Tự, Phương pháp dạy học lịch sử, NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1999
2. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), Lịch sử 6,7,8,9,
SGK và SGV, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004, 2005
3. Thạc sĩ: Tạ Thị Thúy Anh, Hướng dẫn trả lời câu hỏi và bài tập
lịch sử 6,8,9 NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2011
4. Nguyễn Thị Côi (Chủ biên), Hướng dẫn sử dụng kênh hình
trong sách giáo khoa lịch sử Trung học cơ sở (Phần lịch sử Việt Nam), NXB
Giáo dục Việt Năm 2010
5. Trịnh Đình Tùng (Chủ biên), Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong
sách giáo khoa lịch sử THCS (Phần lịch sử thế giới), NXB Giáo dục, 2009
6. Trần Đình Châu (Chủ biên), Đổi mới phương pháp dạy học và
sáng tạo với bản dồ tư duy, NXBGDVC Việt Nam, 2011

24


25


×