Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu Cung tiền - lãi suất cơ bản đồng tiền chuyển đổi pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.98 KB, 4 trang )

Câu hỏi 1: Thế nào là dòng tiền tự do chuyển đổi? Phân tích những điểm lợi và bất lợi của việc cho phép tự do
chuyển đổi tiền tệ?
Đồng tiền tự do chuyển đổi là là quyền chuyển đổi đồng nội tê sang 1 ngoại tệ bất kỳ theo tỷ giá xác định mà
không gặp bất cứ trở ngại nào.
Tiền tệ có ba chức năng là: thước đo giá trị,trung gian trao đổi và chức năng bảo tồn giá trị. Trên thị trường
quốc tế, các đồng tiền được trao đổi, mua bán với nhau tuỳ theo nhu cầu phát sinh từ mục đích thanh toán hoặc
đầu tư. Đồng tiền có tính chuyển đổi cao được thị trường quốc tế sử dụng cả ba chức năng. Người ta sử dụng
làm phương tiện thanh toán theo tập quán quốc tế những đồng tiền mạnh có tính lịch sử do uy tín, vị thế của nền
kinh tế. Các đồng tiền đó cũng được sử dụng như các tài sản tài chính và là đơn vị tính toán trên thị trường quốc
tế. Như vậy, đồng tiền có tính chuyển đổi cao có đặc điểm là được chấp nhận một cách rộng rãi trong các giao
dịch về thanh toán và tiền tệ ở trong nước và quốc tế. Đặc điểm này mang yếu tố khách quan và chủ quan. Về
khách quan, đó là đồng tiền mạnh, có uy tín, được thị trường tin tưởng chấp nhận. Về chủ quan, đó là ý chí của
Nhà nước, thông qua quy định về quản lý ngoại hối cho phép dùng đồng nội tệ mua ngoại tệ trong các giao dịch
được phép, hoặc được mang ra và chuyển đổi ở thị trường quốc tế.
Ưu điểm :
Dồng tiền có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với quốc tế, hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế đối ngoại
phát triển, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như tạo vị thế cho
quốc gia trên thị trường quốc tế.
+ Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ. Đây là yếu tố
cơ bản, là điều kiện khách quan tạo sức mạnh và niềm tin lâu dài vào đồng nội tệ
Đồng tiền có tính chuyển đổi cao cũng sẽ làm giảm hiện tượng đô la hóa, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành
chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Để thực hiện điều này cần phải :
+ Các chính sách về tài chính - tiền tệ phải hướng tới mục tiêu kiểm soát lạm phát và tạo vị thế cho đồng nội
tệ.
+ Chính sách quản lý ngoại hối thông thoáng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, trong đó thực
hiện một cơ chế tỷ giá linh hoạt
+ Các thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường vốn) phải được hình thành, phát
triển đồng bộ, hoạt động có hiệu quả
+ Hệ thống các định chế tài chính phát triển, thực hiện các giao dịch tiền tệ một cách thuận lợi với chi phí
thấp
Nhược điểm :


Dồng tiền tự do chuyển đổi có rất nhiều ưu điểm nhưng để xây dựng được 1 đồng tiền tự do chuyển đổi đúng
nghĩa không phải dễ
Hạn chế Việt Nam đang áp dụng với giao dịch vãng lai và giao dịch vốn.
Giao dịch vãng lai: hình thành cơ bản xu hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai so với quy định của IMF. Chỉ
còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của doanh nghiệp FDI, hạn chế chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài của các cá nhân
Giao dịch vốn: có một số nới lỏng hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài và điều kiện vay nợ nước ngoài,
các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc thoả thuận, ký kết hợp đồng vay vốn nước ngoài, sau đó phải
thực hiện đăng ký khoản vay với NHNN (trừ trường hợp là doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ tự cân đối
ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI
Câu 2 : Lãi suất cơ bản, lãi suất liên ngân hàng, qua đêm ảnh hưởng như thế nào đến khối tiền tệ ??
Tình hình biến động lãi suất năm qua:
Sau hơn hai năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi suất cơ bản (LSCB) đã được NHNN điều chỉnh tăng lên
mức 8,75% từ 01/02/2008 và nhảy vọt lên mức 12% từ 19/05/08. Chưa đầy 1 tháng sau đó, từ ngày 11/06/09,
LSCB đã được đẩy lên mức đỉnh – 14%. Cùng với LSCB, lãi suất tái chiết khấu (LSTCK), lãi suất tái cấp vốn
(LSTCV) cũng liên tiếp được điều chỉnh tăng với đỉnh tương ứng là 13% và 15% áp dụng trong khoảng thời
gian từ 11/06/08-20/10/08. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD cũng được điều chỉnh tăng trong khi lãi suất
DTBB bị điều chỉnh giảm. NHNN còn phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các NHTM.
Chính sách tiền tệ thắt chặt với hàng loạt các động thái quyết liệt trên đã tạo ra một lực hút mạnh thu hút tiền từ
lưu thông đồng thời làm giảm mạnh cấp tín dụng từ các NHTM ra thị trường. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn
đứng và đẩy lùi từ đỉnh điểm 3,91%/tháng (tương đương 25,2%/năm) trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn
trong quý 3 và thậm chí âm trong các tháng cuối năm. Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%
Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và
lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. LSCB đã hạ dần từ đỉnh 14% xuống 13% (từ 21/10/08), 12% (từ
05/11/08) và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong vòng 1 tháng cuối năm 2008 (11% từ 21/11/08, 10% từ
05/12/08, 8,5% từ 22/12/08) trước khi giữ ổn định ở mức 7% cho tới như hiện nay. Cùng với LSCB, LSTCK,
LSTCV cũng được điều chỉnh giảm; các NHTM được bán tín phiếu bắt buộc trước hạn; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được nới lỏng dần đi kèm với việc điều chỉnh lãi suất DTBB. Các công cụ trên đã tác động mạnh tới thị trường,
làm tăng dần mức cung tiền cho nền kinh tế. Tăng trưởng tín dụng 2008 đạt ~ 23% (bằng gần ½ mức tăng của
năm 2007), riêng 6 tháng đầu năm 2009 đạt ~ 17,1%, tăng ~ 17,8% so với cùng kỳ 2008. Tăng trưởng tín dụng

đã góp phần chặn đà suy giảm, ổn định kinh tế vĩ mô.
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn
hạn. Trước tiên, lãi suất này là yếu tố quyết định mức lãi mà nhà đầu tư phải trả nếu giả định họ phải đầu tư
bằng tiền đi vay. Khi lãi suất cơ bản tăng, lãi suất áp dụng trên tiền huy động sẽ tăng theo=> Hạn chế được hoạt
động đi vay=> do đó giảm được lượng tiền mạnh có được tung ra thị trường, bên cạnh đó lãi suất cơ bản tăng sẽ
kích thích người dân tiết kiệm=> hạn chế được lượng tiền mặt lưu thông=> cung tiền giảm.
Lãi suất cơ bản giảm sẽ có tác động ngược lại, Lượng cung tiền sẽ tăng
Lãi suất cơ bản được xem là một loại lãi suất tham chiếu quan trọng trên thị trường. Nhìn chung nó thay đổi
chậm hơn hầu hết các lãi suất khác, do nó nằm trong tầm kiểm soát của các tổ chức cho vay.
Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết khấu là lãi suất mà ngân hàng trung ương (ngân hàng
Nhà nước) đánh vào các khoản tiền cho các ngân hàng thương mại vay( tiền gửi có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn)
để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là
một trong những công cụ của
chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền
Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi (dự trữ của ngân hàng) để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của
ngân hàng trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng thương
mại và dự trữ của ngân hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc do ngân hàng trung ương quy định. Khi tỷ lệ dự trữ
tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân nhắc
việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các chi phí
liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường

Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơnlãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp
tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ
ngân hàng trung ương mà không phải chịu bất kỳ thiệt hại nào.

Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để cho
tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải
vay tiền từ ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất
thường từ phía khách hàng.

Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, ngân
hàng trung ương có thể buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến cho số nhân tiền tệ
giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất
chiết khấu giảm xuống thì các ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân tiền tệ
tăng lên dẫn đến tăng lượng cung tiền
Lãi suất tái cấp vốn: cũng tương tự như lãi suất chiết khấu
/> />Lãi suất thị trường liên ngân hàng:
Là lãi suất vay nóng của các ngân hàng khi tỷ lệ dự trử bắt buộc của ngân hàng nhỏ hơn quy định khi báo cáo
cho Ngân hàng TW. => ảnh hưởng đến số nhân tiền tệ=> cung tiền tăng
Hiện nay, Ngân hàng TW đang áp dụng lãi suất tái cấp vốn 7%, Lãi suất tái chiết khấu 5% và lãi vay qua đêm
và cơ bản là 7%.
Các ngân hàng chỉ được huy động tối đa 150% lãi suất cơ bản, thống đốc Nguyễn Văn giàu hạn chế mức tăng
trưởng tín dụng là 30%, cộng thêm với chính sách hỗ trợ lãi suất hiện đang áp dụng kể từ khi gói kích cầu thứ
nhất được thông qua=> Lượng tiền lưu thông ra thị trường tăng, các khoản tiết kiệm có kỳ hạn giảm=> lượng
cung tiền tăng do lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên.
Câu 3: Chính sách kích cầu ảnh hưởng tới cung tiền như thế nào?
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản: (i)Với doanh nghiệp:
giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với dân cư: trợ cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN,
giảm VAT, đào tạo lao động; (3) Về phía Chính Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh
xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu.
Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất mà ở đó vai trò của hệ thống ngân hàng và các
công cụ chính sách tiền tệ một lần nữa lại được phát huy mạnh mẽ.
Đến hết tháng 20/10/2009, tổng dư nợ cho vay HTLS của toàn hệ thống ngân hàng đã đạt 413,205.69 tỷ đồng
Để đối phó với suy thoái, Chính Phủ của hầu hết các nước đều đưa ra các gói hỗ trợ lên tới hàng ngàn tỷ USD
với cách thức chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp: mua tài sản xấu, sở hữu vốn của các tập đoàn tài chính và tập đoàn
công nghiệp lớn; chi tiền cho người nộp thuế, người tiêu dùng; thưởng tiền cho người hủy xe cũ, mua xe mới,
… Gói hỗ trợ của Chính Phủ Việt Nam được định lượng là 1 tỷ USD (trên 17.000 tỷ đồng) với cách làm rất
sáng tạo, rất linh hoạt, rất “made in Việt Nam”. Phần lớn tiền hỗ trợ không được chi trực tiếp mà được hỗ trợ
gián tiếp thông qua hỗ trợ lãi suất. Bằng cách này chúng ta đã kích thích tăng trưởng mạnh tín dụng, giúp các
doanh nghiệp có được nguồn vốn giá rẻ nên giảm được giá thành sản phảm, duy trì ổn định sản xuất, kích thích

được nhu cầu trong nước, …
Cũng đã có nhiều ý kiến trái chiều về chính sách hỗ trợ lãi suất của Chính Phủ rằng can thiệp như vậy sẽ làm
méo mó hoạt động của các NHTM, làm như vậy thực chất là kích cung chứ không phải kích cầu, nên hạ lãi suất
thay vì “trợ giá” qua lãi suất, nên hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và người dân, …. Và công bằng mà nói,
chính sách này cũng đã gây ra một số tác động không mong muốn như: làm thay đổi cung cầu vốn ngoại tệ và
VND (nhu cầu vay vốn VND tăng mạnh, một số khách hàng trả nợ trước hạn, trả nợ vay ngoại tệ chuyển sang
vay bằng VND, …); tạo sức ép cho tỷ giá,…
Tuy nhiên, sau hơn nửa năm thực hiện hỗ trợ lãi suất, thực tệ ngày càng minh chứng cho tính đúng đắn của
công cụ này. Thứ nhất, số tiền hỗ trợ của Chính Phủ có quy mô không lớn, sẽ không có tác dụng đáng kể nếu
chi hỗ trợ trực tiếp cho doanh nghiệp và dân cư; chưa kể quá trình thực hiện có thể phát sinh nhiều tiêu cực. Thứ
hai, nếu hạ lãi suất chúng ta có thể bị rơi vào “bẫy thanh khoản”[1], các NHTM không huy động được và cũng
không cho vay được. Và rõ ràng là nếu không tăng được tín dụng cho nền kinh tế thì việc kích cầu chẳng có ý
nghĩa gì. Thứ ba, hỗ trợ lãi suất qua tín dụng sẽ khuyến khích thúc đẩy sản xuất, kích thích tiêu dùng và vẫn
đảm bảo các NHTM vẫn huy động được. Thứ 4, số tiền hỗ trợ qua tín dụng được khuyếch đại lên nhiều lần (~
32 lần) tạo ra một nguồn vốn lớn cho đầu tư và tiêu dùng xã hội.
Tương tự như gói kích cầu thứ hai, nó cũng tưng ra thị trường một số lượng lớn tiền ra lưu thông=> khuyếch đại
lên=>làm tăng lượng cung tiền
Bản thân cung tiền tệ sự sự chuyển đổi giữa các gói M1, m2 và m3 do đó tổng của chúng không thay đổi khi
thay đổi các yếu tố như tiết kiệm kỳ hạn , không kyhan , hợp đồng repo....


×