Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Đi tìm vẻ đẹp trong ca dao dân ca. docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.45 KB, 7 trang )

ĐI TÌM VẺ ĐẸP CA DAO DÂN CA


HỒ TĨNH TÂM

Tôi xin bắt đầu bài viết này từ một câu ca dao mà tôi bắt gặp năm 1988, tại Vũng
Liêm, do một cô giáo sinh đọc ngoài cửa phòng nghỉ của tôi, nhưng cố tình cho tôi nghe
được.
Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng
Dẫu thương cho lắm cũng chồng người ta
Câu ca dao bình thường thôi, nhưng phải nghe đúng ngữ điệu của cô gái ấy, tình
cảm của cô gái ấy, mới thấm hết cái hay rất thật của nó. Bởi vậy ở Nam Bộ, bên cạnh đờn
ca vọng cổ và bản vắn, còn có một hình thức rất phổ biến là ca ra bộ - nghĩa là người ca
phải vừa hát vừa ra bộ bằng gương mặt, ánh mắt, thân hình, đôi bàn tay, bàn chân… để
diễn tả cho hết tình cảm của mình gởi trong câu hát. Trong phạm vi bài này, tôi xin phép
nhận xét về ca dao dân ca Nam Bộ dưới góc độ ấy. Của một vùng văn hóa rộng lớn đã
sản sinh ra nó.
Trước hết xin nói qua về sự hình thành vùng văn hóa Nam Bộ

I. TỪ VÙNG VĂN HÓA CỔ TRUYỀN NAM BỘ ĐẾN VÙNG VĂN HÓA NAM BỘ
HÔM NAY
Theo những khám phá của các nhà khảo cổ học, con người đã có mặt ở vùng đất
Nam Bộ khá lâu đời. Nếu căn cứ theo những di chỉ cư trú và di cốt của con người ở Óc
Eo, Ba Thê, Núi Nổi… thì từ cách đây 4.000 đến 5.000 năm, con người đã có mặt ở vùng
đất còn chứa nhiều nước mặn, sình lầy, cây dại và dã thú này; đồng thời họ cũng để lại
nhiều dấu ấn văn hóa khá đặc trưng về vùng miền, mà sinh động và thiết thực nhất là ở
vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Rất tiếc là các di tích của nền văn minh ấy
chỉ cho chúng ta thấy rằng, nền văn minh ấy chỉ hứng khởi lên khoảng vài trăm năm rồi
bị chìm lấp trong lòng đất miền Tây, với những hình ảnh hư ảo còn lại của một vương
quốc Phù Nam, hay một "nước Chí Tôn" trong sử sách, bia ký cổ.
Công cuộc mở đất phương Nam, khẳng định vùng văn hóa phương Nam, chỉ thật


sự định hình từ những cuộc di dân lớn của người Việt ở TK XVI và đầu TK XVII. Đó là
quá trình di dân tự nhiên, quá trình di dân cơ chế và quá trình chuyển cư tại chỗ. Quá
trình di dân tự nhiên là quá trình di dân lẻ tẻ, chưa đủ để định hình bản sắc văn hóa của
vùng đất. Chỉ đến khi nhà Nguyễn tiến hành những cuộc di dân cơ chế lớn từ vùng Ngũ
Quảng vào, kết hợp với sự di dân cơ chế sau thất bại của nhà Minh trước triều Mãn
Thanh (do Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên, Mạc Cửu cầm đầu), cùng với việc di
dân cơ chế trước TK XV của những lớp cư dân cổ Khơme đến từ nhiều vùng trên đất
nước Campuchia, tràn về theo sông Tiền, sông Hậu để tránh họa diệt tộc của vua chúa
Xiêm La, và sự di dân cơ chế của người Chăm Hồi giáo đến vùng Châu Đốc, kết hợp với
quá trình chuyển cư tại chỗ của cộng đồng các tộc người để lập làng lập ruộng, vùng văn
hóa mang bản sắc Nam Bộ mới thật sự hình thành. Chính nhờ quá trình chuyển cư tại
chỗ, mới có việc thúc đẩy sự gần gũi giữa các nhóm dân cư, giữa các cộng đồng dân tộc,
Muốn tìm hiểu đặc trưng vùng văn hóa, tất nhiên phải lấy đặc điểm tính cách con
người làm trung tâm để xem xét. Bởi vì con người là chủ nhân của mọi ngôn ngữ và hành
động, tác động sâu sắc đến âm nhạc, sân khấu, văn học, cũng như kiến trúc, hội họa, lễ
hội và phong tục… Tất nhiên, đó là cộng đồng những tộc người cùng chung sống trên
nền địa địa lý tự nhiên của vùng phù sa cổ miền Đông và vùng phù sa mới miền Tây Nam
Bộ, mà tâm lý tính cách bị chi phối khá mạnh bởi hoàn cảnh địa lý, kinh tế - xã hội và
quá trình phức hợp của nó theo từng bước phát triển của vùng dân cư rộng lớn này. Tất
nhiên, chúng ta không thể phân chia rạch ròi từng vùng văn hóa trên cả nước, nhưng căn
cứ vào những đặc điểm văn hóa khu biệt nhất định, chúng tôi tạm gọi là vùng địa văn hóa
Nam Bộ để làm tiêu chí xem xét.
Theo đó, nhiều nhà nhân chủng học, dân tộc học… đều có chung nhận định tương
đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ, tựu trung gồm những nét chính sau đây: hào
hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
Ca dao dân ca Nam Bộ là bộ phận hợp thành của một phần văn hóa các tộc người
chung sống trong cộng đồng cư dân Nam Bộ, nó có sự ảnh hưởng, giao lưu và hội nhập
lẫn nhau rất lớn; chính vì vậy, theo thời gian, nó càng ngày càng phát triển với một diện
mạo đặc trưng, tương đối khu biệt so với các nền văn hóa của các vùng miền khác nhau
trong cả nước. Chẳng hạn: dân ca Tây Bắc thường có đường nét giai điệu mềm mại, tiết

tấu khoan thai, như các điệu hát Sli, hát lượn, hát xòe hoa...; dân ca Tây Nguyên thường
có đường nét giai điệu mạnh mẽ, tiết tấu nhanh, dồn dập...; dân ca Trung Bộ thường
chậm, buồn, thiết tha, man mác với các điệu hò hụi, hò khoan, lý hoài nam.... Dân ca
Nam Bộ là tổng hòa của nhiều tính cách, tạo thành những mới lạ trong giai điệu, tiết tấu
cũng như trong ca từ - mà chỉ riêng hát lý đã chứng tỏ sự giàu có đến vô cùng tận, từ lý
con cóc, lý con nhái, lý con cá trê, lý con chuột, lý con mèo, lý đương đệm, lý cái phảng,
lý cây ổi, lý cây bần, lý chim quyên, lý bình vôi, lý bờ đắp, lý hố mơi, lý bốn cửa quyền,
lý cá ông, lý con kiến, lý con cua, lý con khỉ, lý bánh canh, lý bánh bò, lý ba xa kéo chỉ,
lý trái mướp, lý lựu lê, lý con sáo, lý con ngựa, lý lu là, lý tú lý tiên, lý úp lá khoai, lý cây
khế, lý kêu đò… và… độc đáo tới mức… có luôn cả lý chun mùng (lý cánh cửa). Rồi thì
hò Nam Bộ. Có hò trên cạn, hò dưới nước, hò đối đáp, hò huê tình. Rồi lại còn hát ru, hát
đưa linh… Cả một kho tàng dân ca, dân nhạc, dân vũ đồ sộ đến choáng ngợp. Tất cả vẫn
đang tồn tại trong dân gian và tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dân gian. Muốn đến
được với kho tàng phong phú và đồ sộ ấy, chúng ta nhất thiết phải đi sâu vào thâm nhập
cuộc sống của nhân dân, của cộng đồng các tộc người Nam Bộ. Và tất nhiên, chúng ta
cũng cần phải có phương pháp nghiên cứu văn hóa dân gian địa phương, tùy theo giác độ
tiếp cận và lợi ích của từng ngành khoa học. Theo đó, có thể coi khâu sưu tầm là cái bắt
đầu của mọi cái bắt đầu. Vì vậy chúng ta cần phải đề ra một số phương hướng như sau:
1. Phân vùng và tìm kiếm sự hình thành các vùng văn hóa dân gian địa phương. Vì văn
hóa dân gian địa phương là một hệ thống chặt chẽ, phát triển trong tiến trình lịch sử của
dân tộc, nhưng đồng thời nó cũng rất cụ thể, mang tính chất địa phương, tính chất vùng
và tộc người, in rõ dấu ấn các thời đại, giai đoạn lịch sử.
2. Tìm hiểu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian địa phương. Vì văn hóa dân gian không
phải là một lĩnh vực đơn nhất mà tồn tại ở những loại hình cụ thể, với những tác phẩm cụ
thể của nó. Loại hình và sự biểu hiện của loại hình qua những tác phẩm của nó là những
cấp độ cơ bản, đơn vị cơ bản, qua đó, ta nghiên cứu cơ cấu nội tại của văn hóa dân gian
địa phương.
3. Tìm hiểu đặc thù của từng loại hình văn hóa dân gian ở địa phương. Những đặc thù
của các loại hình văn hóa dân gian ở địa phương thường được biểu hiện ở các dấu hiệu đề
tài, hình thức chức năng sinh hoạt. Các dấu hiệu này thường có sự liên quan chặt chẽ với

nhau.
4. Tìm hiểu sự giao lưu văn hóa của các địa phương. Vì trong quá trình vận động trên hai
trục không gian và thời gian, văn hóa dân gian của các địa phương luôn tác động qua lại
lẫn nhau. Văn hóa dân gian ở địa phương này thu hút những tinh hoa của văn hóa dân
gian ở địa phương kia và ngược lại. Quá trình giao lưu văn hóa của các địa phương chịu
sự tác động của những quy luật lịch sử - xã hội cơ bản.
Xuất phát từ nền văn minh sông nước, tìm hiểu văn hóa Nam Bộ, tất nhiên phải
tìm hiểu nền văn minh nông nghiệp theo kiểu "làm nương rẫy". Dấu ấn của nền văn minh
này để lại dấu ấn rất đậm nét trong ca dao dân ca.
Gió đưa gió đẩy
Về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá
Về đồng ăn cua
Bắt cua làm mắm cho chua
Gởi về quê mẹ đỡ mua tốn tiền

Mẹ mong gả thiếp về vườn
Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh

Trên đất giồng mình trồng khoai lang
Trên đất giồng mình trồng dưa gang
Hỡi cô gánh nước đường xa
Còn bao gánh nữa để qua qua gánh giùm

Hoa trong vườn nhà ai
Đưa làn hương ngược gió
Lẫn trong mùi cây cỏ
Anh biết tìm em đâu
(Phaka Kroong- dân ca Khơme)


Bên kia sông có một vườn dâu
Em biết đâu chính tay anh trồng
Đưa em đi con nước xuôi dòng
Em biết không, lòng anh xôn xao?
Anh cùng em qua sông hái dâu
Em nuôi tằm cái áo viền bâu
Áo em mặc kín đáo bít bòng
Mọi việc phải do mình yêu nhau
(Oum tuk- dân ca Khơme)

…..

Từ nền văn minh miệt vườn này, ta thấy xuất hiện chiếc đòn gánh của đồng bào
Khơme có hai mấu ở hai đầu. Nó không chỉ để gánh, nó còn là thứ vũ khí để chống đỡ
khi cần; và khi mệt mỏi vì công việc, nó còn là chiếc ghế để ngồi rất đắc dụng. Chính
cộng đồng các tộc người cùng chung lưng mở đất, biến vùng đất phù sa mới trầm thủy
thành nền văn minh miệt vườn miệt ruộng, đã nổ lực mở rộng quan hệ ra phía biển, đã
biến cả một vùng đất hoang sơ thành nền văn minh bản địa phát triển rất cao- trên cơ sở
nền văn minh Ấn Độ giáo, có sự hội nhập với nhiều nền văn minh khác.
Thâm nhập thực tế, phải bắt đầu từ việc tiếp xúc với cộng đồng dân cư. Bởi dân
cư là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, là lực lượng áp dụng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật nhằm tiến hành những đổi mới trong tất cả các quá trình sản xuất, là lực lượng
đấu tranh xã hội và cải tạo thiên nhiên, là lực lượng xây dựng và hình thành những tư
tưởng và lối sống mới của thời đại ngày nay. Khi tiếp xúc với các cộng đồng dân cư của
khu vực, chúng ta cần phải ý thức rằng, chính dân cư là bộ phận chứa đựng nhiều đặc
trưng về dân tộc, tôn giáo, phong tục, tập quán, những thói quen và đặc điểm về sản xuất,
phụ thuộc vào những nhân tố xã hội, tộc người và điều kiện thiên nhiên của các vùng sinh
thái cụ thể.
Về góc độ dân cư, đồng bằng châu thổ sông Cửu Long là một vùng dân cư hỗn
hợp, với nhiều nguồn gốc địa phương khác nhau, đa dạng về mặt tín ngưỡng và tôn giáo,

chênh lệch cách xa nhau về lối sống và phong tục tập quán, trình độ phát triển xã hội và
văn hóa, cũng như thói quen canh tác và phong cách làm ăn. Bốn yếu tố tộc người Việt,
Khơme, Chăm, Hoa là rất quan trọng đối với việc thâm nhập thực tế để tìm vẻ đẹp của ca
dao dân ca Nam Bộ, cũng như các loại hình nghệ thuật khác. Yếu tố tộc người và văn hóa
Chăm và Mã Lai - đa đảo, yếu tố Khơme là những yếu tố văn hóa và tộc người cổ xưa
nhất, đã hình thành ở đồng bằng sông Cửu Long từ trước TK XVII. Từ TK XVII về sau,
yếu tố tộc người Việt và văn hóa Việt đã trở thành nhân tố phát triển cơ bản của cả khu
vực châu thổ phù sa mới rộng lớn, bên cạnh sự hòa hợp những yếu tố của tộc người vùng
ven biển nam Trung Hoa. Ngày nay, đứng về mặt toàn vùng châu thổ mà xét, thì tính chất
bao trùm và phổ cập, chính là sự hòa hợp và phát triển của những yếu tố văn hóa của các tộc
người, mà yếu tố văn hóa của tộc người Việt là chủ đạo. Song những đặc trưng văn hóa của
các tộc người anh em khác, vẫn tồn đọng sâu đậm trong nông thôn của nhiều vùng- đặc biệt
là những vùng có tính chất khu biệt như Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, An Giang, Kiên
Giang và Cà Mau. Vì vậy, châu thổ sông Cửu Long, là một vùng đồng bằng duy nhất ở nước
ta, về mặt dân cư và dân tộc, có những đặc trưng nổi bật, mà chúng ta cần phải lưu ý trong
quá trình cải cách nói chung, và quá trình cải cách văn hóa nói riêng.
Tính chất hỗn hợp và đa dạng về mặt dân cư và quá trình xích lại gần nhau, hòa
hợp giữa các dân tộc trong khu vực, là một hiện tượng lịch sử có tính quy luật, bắt nguồn
từ lịch sử di dân và sự hình thành những vùng sinh thái nhân văn của cả khu vực châu thổ
phù sa mới rộng lớn. Nó góp phần hình thành các loại hình dân cư, mà dân cư nông
nghiệp là lại hình dân cư có số dân đông nhất; bao gồm những nhóm dân cư chuyên canh
ruộng nuớc, chuyên canh lúa nổi và chuyên canh về rẫy. Bên cạnh đó, còn có loại hình
dân cư thứ hai là dân cư phi nông nghiệp, bao gồm dân cư thành phố, thị tứ và nhóm dân
cư buôn bán nông sản ở nông thôn (ở đây chúng ta cũng cần kể tới nhóm dân cư làng nổi
Về góc độ tôn giáo, đạo Phật tiểu thừa hầu như là tôn giáo toàn dân của người
Khơme; Hồi Giáo là tôn giáo của toàn thể người Chăm ở Châu Đốc; đạo Hòa Hảo chiếm
khoảng 78% tổng số dân tỉnh An Giang; đạo Cao Đài thì phát triển mạnh ở Bến Tre,
Long An và Tiền Giang.
Phân loại dân cư và dân tộc là hai đối tượng tổng hòa của nhiều hiện tượng xã
hội, là đối tượng của nhiều ngành khoa học xã hội, mà khi thâm nhập thực tế, chúng ta

cần phải hướng tới, để có thái độ và cách thức tiếp cận tốt nhất. Điều cần xác định là việc
nhìn nhận vị trí đặc biệt của cả vùng châu thổ phù sa mới rộng lớn, nơi gặp gỡ của những
nền văn hóa cổ rực rỡ, là nơi thiên di và sinh tụ của nhiều tộc người trong lịch sử. Đó là
nơi mà các dân tộc Việt, Khơme, Chăm, Hoa đã cùng cư trú bên nhau, khai thác đất đai,
xây dựng cộng đồng và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Đây cũng chính là
những nét văn hóa chung của các cư dân Nam Á tập trung rõ nét ở châu thổ sông Cửu
Long, chứng minh một cội nguồn chung và một xuất nguyên giống nhau, phản ánh trên
tư duy thần thoại và truyện cổ dân gian, ca dao dân ca dân gian của các dân tộc Việt,
Khơme, Chăm, Hoa trên nền quan niệm về nhị nguyên luận vũ trụ, hay thuyết vật chất
nhị nguyên tương phản; trong đó đất, nước, núi và đồng bằng, lục địa và biển, loài có
cánh và và loài thủy sinh tương phản nhau. Bên cạnh đó là các tục thờ đá trong các miếu
thổ thần của người Việt, miếu Ông Bổn của người Hoa và miếu Néak- Tà của người
Khơme; những ngày hội nước với những tục đua ghe và những lễ nghi trong nông nghiệp
vào mùa khô của người Khơme, người Chăm… Đó là dấu vết nhà sàn trong các Sala
chùa Khơme, nhà người Việt vùng Đồng Tháp, An Giang. Đó là phương thức thủy lợi cổ
đào ao chứa nước, như ao Bà Om của người Khơme ở Trà Vinh, ao chứa nước trong rẫy
của người Hoa ở Vĩnh Châu - Bạc Liêu, cách xẻ mương, lên liếp ở các miệt vườn.
Ngoài ra, châu thổ sông Cửu Long còn là một vùng bán đảo chịu ảnh hưởng nặng
của thủy triều và các sông rạch, con nước lớn ròng, do đó yếu tố văn hóa biển và văn hóa
Mã Lai, Inđônôdiên khá rõ nét. Cho nên người Việt vùng Cà Mau, Rạch Gá rất giỏi nghề
đóng ghe xuồng và làm đồ thủ công, người Chăm giỏi nghề đánh cá trên sông… Các
miếu Ông Bổn Đầu Sông và miếu Bà Thiên Hậu rải rác khắp cả vùng châu thổ đã minh
chứng cho nền văn hóa biển của cả vùng đất. Bên cạnh nền văn hóa chung, mỗi dân tộc
trong cộng đồng vẫn có những đặc thù văn hóa truyền thống của dân tộc mình, phản ánh
bản sắc văn hóa riêng. Ở đây, người Việt là dân tộc đa số, chủ thể mà tổ tiên là những
người nông dân từ đồng bằng sông Hồng, từ Ngũ Quảng di cư vào khai thác đất đai, xây
dựng làng xóm, đình chùa, để lại dấu ấn của nền văn minh cây lúa nước, bằng việc đào
đắp kinh mương, làm sống dậy sự trú phú của cả vùng châu thổ phù sa mới. Người Việt
với những nổ lực của mình trước thiên nhiên đầy những tiềm ẩn, thử thách, đã sáng tạo
nên những cá tính và đặc điểm văn hóa đặc sắc và nhiều sản phẩm vật chất phong phú.

Như bưởi Năm Roi Bình Minh, xoài cát Hòa Lộc, cam Cái Bè, vú sữa Lò Rèn, thuốc rê
Cao Lãnh, mắm Châu Đốc, dừa Bến Tre, sầu riêng Chợ Lách, gạo nàng Loan Long An,
mắm tôm chua, mắm tôm chà Gò Công, nem Lai Vung… Đó còn là kỹ thuật dùng phảng

×