Những CEO xuất sắc nhất thế giới
Morten T. Hansen, Herminia Ibarra và Urs Peyer trên Harvard Business Review -
Thu Hương dịch
Tuần Việt Nam
Càng ngày, mối quan tâm của ban quản trị, các nhà quản lý cao cấp và các nhà đầu
tư về cách quản lý doanh nghiệp của CEO càng lớn. Thuốc thử thực sự về tài lãnh
đạo của một CEO kéo dài suốt cả quá trình nắm giữ chức vụ điều hành của CEO
đó.
Bài báo này chỉ ra tên tuổi của các CEO hàng đầu đã đạt được những thành tích đáng
kinh ngạc ở các công ty lớn trong thời gian đảm nhiệm chức vụ, hoặc với những người
vẫn còn nắm chức vụ này cho đến ngày 30/9/2009. Để có được kết quả này, chúng tôi đã
thu thập dữ liệu từ gần 2000 CEO trên toàn thế giới.
Chắc chắn rằng không có gì phải thắc mắc khi Steve Jobs, CEO tài ba của hãng máy tính
Apple đứng đầu danh sách. Tuy nhiên, danh sách của chúng tôi cũng chứa đựng một vài
ngạc nhiên nhỏ. Bạn sẽ bắt gặp một số gương mặt không mấy tiếng tăm ở những vị trí
hàng đầu, trong khi một số tên tuổi nổi tiếng không nằm trong 50 (thậm chí 100 hay 200)
người dẫn đầu danh sách. Phải thừa nhận rằng danh sách của chúng tôi không có nhiều
điểm chung với danh sách những CEO được ngưỡng mộ nhất hay đắt giá nhất đã từng
được công bố.
Khi phân tích dữ liệu để tìm ra yếu tố nào đóng vai trò quan trọng đưa một CEO lên hàng
đầu trong danh sách, chúng tôi phát hiện ra nhiều điều đáng ngạc nhiên hơn nữa. Mặc dù
người ta vẫn cho rằng bối cảnh có ảnh hưởng lớn, chúng tôi vẫn thấy những người đứng
đầu danh sách đến từ các công ty có trụ sở ở các quốc gia và các ngành khác nhau. Tiểu
sử của các CEO cũng quan trọng, cũng như những gì mà họ kế thừa từ những người tiền
nhiệm.
Phân tích của chúng tôi nhấn mạnh ảnh hưởng của một CEO đến sự thay đổi của công ty,
bên cạnh tác động của những yếu tố như ngành, quốc gia và các khuynh hướng kinh tế.
Điều này lại một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng mục tiêu, phương
pháp dài hạn để đánh giá một CEO và đưa ra các thông tin cho CEO về việc tìm kiếm và
lập kế hoạch nhân sự kế thừa.
3 CEO xuất sắc nhất thế giới: Steve Jobs, Yun Jong-Yong, Alexey B. Miller.
Thành tích của các CEO được đánh giá như thế nào?
Các ứng cử viên cho bảng xếp hạng đến từ các công ty cổ phần niêm yết đại chúng trong
danh sách chỉ số Standard & Poor's Global 1200 hoặc nằm trong nhóm BRIC 40 đã được
công bố năm 1997. Các công ty đến từ các nền kinh tế mới nổi với sự phát triển kinh tế
đáng khâm phục như Braxin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đóng vai trò quan trọng trong
danh sách này. Những CEO có tên trong danh sách phải bắt đầu đảm nhận vị trí công tác
từ sau tháng 1/1995 đến trước tháng 12/2007. Đó là lý do vì sao bạn không nhìn thấy
những tên tuổi như cựu CEO của GE - Jack Welch, nhà đầu tư siêu việt Warren Buffet,
nhà sáng lập và CEO của tập đoàn Oracle Larry Ellision, và ông chủ đáng kính của tập
đoàn Microsoft - tỷ phú Bill Gates. Họ đều bắt đầu đảm nhận công tác trước năm 1995.
Nếu được tham gia vào danh sách, chắc chắn những CEO tài ba này sẽ chiếm những vị trí
không tồi.
Trong số 1999 CEO có tên trong bảng xếp hạng, 731 người còn đang ở vị trí điều hành
khi việc đo lường thành tích kết thúc. Họ đến từ 48 quốc gia khác nhau và điều hành
những công ty có trụ sở ở 33 nước. Tuổi trung bình của những CEO này là 52, và những
người còn đang ở vị trí công tác có thời gian điều hành trung bình là 6 năm. Chỉ 1,5%
trong số đó là phụ nữ, và chỉ 15% làm việc trong những công ty có trụ sở không đặt ở tổ
quốc của mình. Có thể thấy thị trường lao động cung cấp các nhà điều hành chưa phải là
một thị trường toàn cầu.
Nhìn vào danh sách 1999 nhà điều hành và tự hỏi, nếu dựa trên tiêu chí lợi nhuận cổ
phiếu, nhà điều hành nào đã dẫn dắt doanh nghiệp của mình vượt xa các công ty khác
trong cùng quốc gia và cùng ngành? Xếp hạng của chúng tôi kết hợp ba tiêu chí: ảnh
hưởng mang tính quốc gia, ảnh hưởng mang tính ngành, và thay đổi mức vốn hóa thị
trường trong thời gian đảm nhận vị trí của các CEO. Tất nhiên, lợi tức cổ đông không
phải là tiêu chí duy nhất để đo lường thành tựu, và tiêu chí này đã lãng quên sự đóng góp
mà công ty tạo ra cho các bên liên quan. Nhưng đây vẫn được coi là một chỉ tiêu cơ bản
đối với các CEO của công ty niêm yết. Và đây cũng là chỉ tiêu quan trọng cho tất cả mọi
người.
Danh sách được hình thành như thế nào?
Các tiêu chí so sánh:
Các dữ liệu kinh tế lấy từ kho dữ liệu Datastream và Worldscope của
Reuters được sử dụng để tính lợi nhuận ngày trong suốt thời gian điều
hành của các CEO (tính đến 30/9/2009 với các CEO còn đang tại nhiệm).
Chúng tôi cũng tính toán lợi nhuận theo ngày cho 3 năm tiếp theo (nếu có
thể). Ba tiêu chí được sử dụng có đặc điểm như sau:
Lợi nhuận sau khi loại trừ các ảnh hưởng mang tính quốc gia
Đầu tiên, chúng tôi tính ra tổng mức tăng lợi nhuận cổ đông (kể cả tái đầu
tư lợi tức) trong quá trình điều hành của CEO. Sau đó loại trừ lợi nhuận
trung bình mà các công ty khác cùng quốc gia đạt được trong cùng thời kỳ
ra khỏi con số này. Điều này giúp chỉ số không bị ảnh hưởng bởi biến
thiên chung mà trị trường mang lại.
Lợi nhuận sau khi loại trừ các ảnh hưởng mang tính ngành
Chúng tôi cũng loại trừ mức tăng chung của ngành để đảm bảo rằng kết
quả còn lại không chịu tác động của các biến thiên mang tính ngành.
Thay đổi mức vốn hóa thị trường
Mức vốn hóa thị trường cổ phiếu trong quá trình điều hành của CEO cũng
được đưa vào so sánh. Chỉ số này được xác định sau khi cân nhắc mức
lạm phát ở quốc gia tương ứng và quy đổi sang USD theo tỷ giá của năm
2006. Chúng tôi đưa thêm vào chỉ số này giá trị của cổ tức và cổ phiếu
được mua lại sau khi điều chỉnh lạm phát và tiền tệ, và trừ đi giá trị của cổ
phiếu đã được phát hành.
Chúng tôi tạo ba 3 bảng xếp hạng riêng rẽ từ 1 đến 1999 dựa trên kết quả
của 3 chỉ số nêu trên và lấy giá trị trung bình của 3 thứ tự này làm kết quả
cuối cùng. Sử dụng đồng thời 3 tiêu chí trên giúp phương cách so sánh trở
nên cân bằng hơn. Các công ty nhỏ sẽ lợi thế hơn nếu chỉ sử dụng hai tiêu
chí đầu (bắt đầu từ mức nhỏ hơn sẽ dễ đạt được lợi nhuận lớn hơn) mà bỏ
qua tiêu chí thứ ba, tiêu chí dành cho các công ty có quy mô lớn.
Phân tích
Chúng tôi cũng thực hiện phân tích hồi quy dựa trên dữ liệu của 1999 vị
CEO. Điều này cho phép kiếm soát một số yếu tố và phân lập ảnh hưởng
chúng mang lại (thí dụ như có bằng MBA) đối với xếp hạng của CEO đó
trên danh sách.
Những CEO hàng đầu xuất sắc đến mức nào?
Tính trung bình, 50 vị CEO dẫn đầu danh sách đã mang lại 997%, trung bình 32% một
năm, lợi tức cổ đông (sau khi đã điều chính tỷ giá) trong suốt thời gian tại nhiệm. Loại trừ
các ảnh hưởng mang tính ngành và quốc gia, con số này lần lượt là 30% và 29%. Như
vậy 50 công ty dẫn đầu trung bình mang lại 48,2 tỷ USD cho các cổ đông (sau khi đã
điều chỉnh theo lạm phát, cổ tức, nhượng lại cổ phiếu và phát hành cổ phiếu mới). So
sánh con số này với kết quả của 50 CEO đứng cuối trong danh sách 1.999 người, những
người trong thời gian đảm nhận vị trí của mình đã gây giảm lợi nhuận cổ đông 70%,
trung bình 20% một năm. Nói cách khác, những nhà điều hành thất bại này đã gây thâm
hụt khoảng 18,3 tỷ USD giá trị sở hữu của cổ đông.
Người dẫn đầu vinh quang, ngài Jobs của Apple, đã mang lại mức tăng lợi nhuận lũy tiến
khổng lồ 3.188% (sau khi đã điều chỉnh theo những ảnh hưởng mang tính ngành), trung
bình 34% mỗi năm, cho hãng Apple kể từ khi ông quay trở lại với tư cách một CEO năm
1997, khi công ty đang đứng bên bờ vực phá sản. Cho đến cuối tháng 9/2009, linh hồn
của những trái táo đã đưa giá trị thị trường của Apple tăng thêm 150 tỷ USD.
CEO cán đích ở vị trí thứ 2 là ngài Yun Jong-Yong. Ông tiếp nhận vị trí điều hành hãng
điện tử Samsung của Hàn Quốc từ năm 1996 - 2008 và là mẫu lãnh đạo điển hình không
thích hào quang. Quãng thời gian tại nhiệm của ông đã giúp Samsung chuyển mình từ
một hãng chuyên sản xuất chip nhớ và các sản phẩm bắt chước thành nhà tiên phong
trong lĩnh vực đồ điện tử và điện thoại di động công nghệ cao. Dưới sự điều hành của
ông, giá trị cổ đông của Samsung đã tăng thêm 127 tỷ USD, và mức tăng lợi nhuận là
1.458% (sau khi đã điều chỉnh theo những ảnh hưởng mang tính ngành).
Ông Yun cũng giữ vị trí số 1 trong cuộc đua tranh với các CEO đã thôi vị trí công tác. Hồ
sơ của những CEO này sẽ không thay đổi. Còn với những CEO còn đang tiếp tục điều
hành với hồ sơ mở, chắc chắn sẽ có những cuộc soán ngôi ngoạn mục.
Một trong những CEO hàng đầu nhưng khiêm nhường và đáng kính khác là ngài John
Martin của hãng Gilead Sciences ở vị trí thứ 6. Ông nắm giữ cương vị CEO của công ty
dược phẩm sinh học có trụ sở ở California này từ năm 1996 và mang lại doanh thu
2.054% (sau khi đã điều chỉnh những ảnh hưởng mang tính ngành), trung bình 26% một
năm. Nổi tiếng là một "lãnh đạo trầm lặng", Martin đang nỗ lực để đưa một số loại thuốc
chữa bệnh hiểm nghèo đến với các nước đang phát triển. Ông đang đưa Gilead dẫn đầu
trong việc phát triển loại thuốc chữa AIDS liều dùng 1 viên/ngày và thuốc chống cúm
Tamiflu.
Top 10 CEO hàng đầu thế giới (Tên - Công ty - Thời gian tại nhiệm -
Quốc gia - Ngành):
1. Steve Jobs - Apple - 1997-nay - Mỹ - Công nghệ thông tin
2. Yun Jong-Yong - Samsung Electronics - 1996-2008 - Hàn Quốc -
Công nghệ thông tin
3. Alexey B. Miller - Gazprom - 2001-nay - Nga - Năng lượng
4. John T. Chambers - Cisco Systems - 1995-nay - Mỹ - Công nghệ
thông tin
5. Mukesh D. Ambani - Reliance Industries - 2002-nay - Ấn Độ - Năng
lượng
6. John C. Martin - Gilead Sciences - 1996-nay - Mỹ - Y tế
7. Jeffrey P. Bezos - Amazon.com - 1996-nay - Mỹ - Bán lẻ
8. Margaret C. Whitman - eBay - 1998-2008 - Mỹ - Công nghệ thông tin
9. Eric E. Schmidt - Google - 2001-nay - Mỹ - Công nghệ thông tin
10. Hugh Grant - Monsanto - 2003-nay - Mỹ - Nguyên liệu
CEO "ngôi sao" có thành công vượt bậc?
Khi so sánh với các danh sách xếp hạng CEO từng được công bố, một điểm thú vị mà
độc giả có thể nhận ra là sự biến mất của một số tên tuổi. Ví dụ danh sách 30 CEO được
ngưỡng mộ nhất thế giới của Barron công bố năm 2009. Danh sách này hình thành sau
khi tham khảo ý kiến của các nhà đầu tư, phân tích, và các giám đốc điều hành. Có 5 vị
CEO cùng xuất hiện trong danh sách của Barron và top 30 CEO dẫn đầu trong danh sách
của chúng tôi: Steve Jobs của Apple, John Chambers của hãng thiết bị mạng Cisco, Jeff
Bezos của trang web bán hàng trực tuyến Amazon, Hugh Grant của tập đoàn nông hóa
khổng lồ Monsanto của Mỹ, và Terry Leahy từ Tesco, tập đoàn bán lẻ lớn thứ 3 thế giới.
Nhưng có một số tên tuổi khác được Barron "ngưỡng mộ nhất" lại biến mất trong top 50
(thậm chí là 200) của chúng tôi, như: Jamie Dimon của JPMorgan Chase, Satoru Iwata
của Nintendo, Sam Palmisano từ IBM, và Rex Tillerson của Exxon Mobil.
Một vài ngôi sao khác cũng chung số phận như: Carlos Ghosn của Renault-Nissan,
Sergio Marchionne từ Fiat, John Mack của Morgan Stanley, Jeffrey Immelt đến từ
General Electric, Daniel Vasella của Novartis, và thậm chí là Robert Iger của hãng hoạt
hình Walt Disney. Sự biến mất này không nhất thiết là do họ đã điều hành kém cỏi mà
dựa vào kết quả số học của tổng mức tăng lợi tức cổ đông được dùng cho danh sách của
chúng tôi.
Chúng tôi cũng không tìm được mấy điểm tương đồng giữa top 50 của chúng tôi và danh
sách những CEO được trả lương cao nhất của Mỹ. Nguyên nhân có thể là sự khác nhau
về cấu trúc thời gian so sánh. Danh sách của chúng tôi quan tâm đến thành tựu dài hạn,
trong khi danh sách những CEO được trả lương cao nhất của Mỹ chỉ đề cập đến các gói
thù lao. Thế nên cơ hội tương đồng sẽ gia tăng khi so sánh với những danh sách khác