Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.97 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Khi trong miệng xuất hiện vết loét trịn hoặc elip, nhiều khi có đốm trắng ở giữa gây
nóng rát và đau nhiều, kèm theo đó là hơi miệng, hơi thở khơ, tiểu tiện khó… hãy tận
dụng các loại rau cỏ sẵn có sau:
Theo Đơng Y, nhiệt miệng phát sinh do hoả độc, nhiệt độc, thấp nhiệt ở tỳ, vị, tâm, can,
thận; hay gặp nhất là ở tỳ vị. Hoả độc, nhiệt độc bốc lên sinh lở loét, đau nóng rát, miệng
hơi, khơ miệng, lưỡi đỏ. Phương pháp chữa trị nhiệt miệng theo Đông Y là dùng các bài
thuốc, thảo dược thanh nhiệt giải độc, dưỡng âm, lương huyết.
<b>Thảo dược dùng trong</b>
<b>Thảo dược dùng ngoài</b>
Củ cải trắng: Giã củ cải sống 300g rồi vắt lấy nước hịa thêm một ít nước lọc, súc miệng
ngày 3 lần, dùng 2 ngày khỏi.
Cỏ mực: rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hịa với ít mật ong. Dùng bông
thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bôi 2 - 3 lần.
Do cỏ mực tính mát, có tác dụng thanh nhiệt kết hợp với mật ong vừa có tính sát trùng,
vừa có tính thẩm thấu, hút chất nước ở vết thương khiến cho vi khuẩn, nhất là nấm khơng
có điều kiện phát triển… nên bài thuốc này còn được dùng để chữa đẹn, đẹn vơi, tưa lưỡi
của trẻ nhỏ, có cơng hiệu tốt.
Lá bù ngót (rau ngót): rửa sạch, chỉ lấy lá, giã nát, ép lấy nước cốt, hịa với ít mật ong.
Dùng bơng thấm thuốc bôi vào chỗ sưng đau, lở loét. Ngày bơi 2 - 3 lần. Có tác dụng
giống như cỏ nhọ nồi.
Mất tiếng và khản tiếng y học cổ truyền gọi chung là “hầu âm”. Bệnh phát mạnh mất
tiếng đột ngột (cấp tính) gọi là “bạo âm” cịn kéo dài lâu ngày “mạn tính” gọi là “cửu âm”
hay “thanh á” hay “thất âm”.
Mất tiếng mới phát thuộc “thực chứng”, liên quan chủ yếu tới tạng phế; trường do ngoại
cảm phong hàn hay phong nhiệt, hoặc đàm trọc úng trệ, gây bế tắc thanh khiếu, làm cho
chức năng tuyên phát và túc giáng của tạng phế bị rối loạn mà gây nên bệnh.
yếu, khiến “hư hỏa” thiêu đốt cơ quan phát âm, mà dẫn tới hiện tượng tiếng nói bị khản
hoặc hồn tồn khơng thể phát ra âm thanh.
Trên lâm sàng, Đông y chia làm 4 thể bệnh:
Thể phong hàn: triệu chứng thường thấy là phát bệnh nhanh, tiếng nói khơng rõ, âm
khàn, đau đầu, sổ mũi, ho không ra tiếng, lạnh run phát sốt.
Đối với trường hợp mất tiếng do “phong hàn” dùng gừng già 10g, củ cải 100g. Củ cải nấu
sôi khoảng 3-5 phút, thêm gừng vào, lại nấu thêm 3-5 phút là được; ăn củ cải và uống
nước. Dùng chữa mất tiếng do nhiễm lạnh, có tác dụng tốt.
Thể phong nhiệt: triệu chứng thường thấy là phát ra âm thanh không rõ, âm thanh nặng
đục, miệng nóng, cổ khơ, ho ra đờm vàng đặc.
Bạng đại hải 3 trái, hãm nước sôi uống trong ngày; liên tục 7 ngày là 1 liệu trình. Có tác
dụng chữa mất tiếng, khản tiếng do “phong nhiệt”, kèm theo sốt, họng đau, miệng khát,
tâm phiền, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng.
Thể phế nhiệt: triệu chứng chủ yếu là đổ mồ hơi, âm khàn, miệng khơ họng nóng, ho
khan không đờm.
Dùng giá đỗ xanh 300g - 500g rửa sạch, giã nát, chế thêm chút nước đun sôi để nguội,
chắt lấy nước, chia ra uống.
Thể phế thận âm hư: triệu chứng thường thấy là bệnh khởi phát từ từ, dần dần âm khàn,
họng khô lâu ngày không hết, hoặc ho khan không đờm, tâm ngũ phiền nhiệt, choáng
váng ù tai, lưng gối mỏi nhừ.
100ml; chia 2 lần uống trong ngày vào sáng sớm và chiều tối. Dùng chữa mất tiếng do
phế thận âm hư, hư hỏa bốc lên thiêu đốt thanh quản.
Dưới đây là một số bài thuốc y học cổ truyền dùng cho người có bệnh ung thư máu. Nên
tham khảo thêm ý kiến của nhà chuyên môn trước khi dùng.
Y học cổ truyền chia bệnh làm 2 thể gồm: Thể huyết nhiệt - triệu chứng thường gặp là,
sốt, đau đầu, chảy máu cam, chảy máu răng lợi, môi khô lưỡi đỏ mạch sác...
Phép trị trong trường hợp này là “thanh nhiệt giải độc, lương huyết chỉ huyết”, bài thuốc
có thể dùng gồm các vị thuốc: sừng trâu nước, đan bì 12-20g, xích thược 20g, tử thảo
20g, bản lam căn 20g, đại thanh diệp 20g, huyền sâm 20g, bán chi liên 40g.
Cịn với thể khí âm đều hư - triệu chứng biểu hiện hay gặp là, người mệt mỏi, ra mồ hôi
nhiều, sốt âm ỉ, chán ăn, miệng khát, chảy máu răng, chất lưỡi đỏ.
Phép trị trong trường hợp này là “ích khí dưỡng âm”, bài thuốc hay dùng gồm các vị
thuốc: nhân sâm 8g, đảng sâm 16g, mạch môn 40g, sinh địa 40g, địa cốt bì 20g, tri mẫu
Nga truật
<b>Một số bài thuốc khác</b>
mao căn (mỗi loại 24g), hoàng dược tử 10g.
Bài này dùng cho trường hợp bệnh bạch huyết cấp tính - bệnh phát gấp, lấy triệu chứng
sốt thấp, thiếu sức làm chủ yếu, kèm theo sắc mặt xanh xao, đầu choáng, mắt mờ, tim hồi
hộp, thở ngắn, ra mồ hơi trộm, lưỡi nhạt, phì nộn, nướu có mụn lở.
Cách dùng: sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Đan sâm
Hoặc dùng bài thuốc gồm: thanh cao 10g, sơn đậu căn 10g, hoàng dược tử 10g, hạ cát
thảo 15g, miết sinh giáp, thiên môn đông, bạch hoa xà thiệt thảo, huyền sâm (mỗi loại
24g), bán chi liên 15g, đại hoàng 3g.
Tri mẫu
Dùng cho trường hợp bệnh bạch huyết cấp tính, phát khởi lấy can tỳ sưng to làm chứng
chủ yếu, có khối u trong bụng, ấn vào cảm thấy cứng, xoang bụng căng đầy, không muốn
ăn uống. Chất lưỡi tím nhạt.
Với những trường hợp bạch huyết mãn tính có thể dùng các bài thuốc như: trần bì 9g,
phật thủ phiến 9g, cam thảo 9g, khương trúc 9g, tiêu lục khúc 12g, tiêu hương hương cốc
nha 12g, sao mạch nha 12g, tô diệp cánh 12g. Chủ trị các chứng: bệnh bạch huyết mãn
tính, ăn không ngon.
Cách sắc các bài thuốc trên: Nước thứ nhất cho các vị thuốc vào nồi cùng 3 chén nước,
nấu còn lại 1 chén, chắt nước ra. Nước thứ hai cho 2 chén nước vào nồi, nấu còn lại nửa
chén. Hòa hai nước lại, chia làm 3 lần
<b>Kê huyết đằng tên khoa học là Sargentodoxa cubeata (Oliv), dân gian còn gọi là cây </b>
<b>dây máu, là loại dây leo, thân gỗ hình trụ trịn hoặc hơi dẹt, mặt cắt có những vịng </b>
<b>gỗ đồng tâm hoặc khơng đồng tâm, nhựa màu đỏ nâu giống như máu gà.</b>
Cành lá nhẵn, lá mọc so le gồm ba lá chét hình mác, đầu nhọn hoặc tù, mặt trên nhẵn,
dưới có lơng nhám. Hoa màu vàng nâu, mọc thành chùy ở đầu cành hoặc kẽ lá. Quả loại
đậu, dẹt thường có một hạt màu nâu.
sưng đau, tê thấp, đau lưng, mỏi gối, chân tay tê bại, ra mồ hôi, kinh nguyệt không đều.
Liều dùng 12-40g. Trường hợp huyết khơng hư mà thiên về ứ trệ, phụ nữ có thai khơng
dùng.
Một số bài thuốc thơng dụng có kê huyết đằng:
Bài 1: Chữa các chứng khí hư, huyết thiếu, người mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt dùng kê
huyết đằng 16g, hà thủ ô đỏ 12g, đương quy 12g, nhân sâm 10g, thục địa 12g, đan sâm
12g. Hoặc dùng kê huyết đằng giao, đại bổ khí huyết, đem kê huyết đằng sắc đặc, cô
thành cao lỏng, ngày uống 1 thìa canh pha với rượu hoặc nước chín để uống.
Bài 2: Trường hợp chân, đùi sưng đau xuất hiện sợi mạch cứng rắn như chuỗi thừng, đau,
nóng, rát, đỏ, tiểu tiện vàng, rêu lưỡi vàng nhớt, do nhiệt độc thấp trọc ngăn trở đường
mạch lạc ở dưới, phải thanh lợi thấp nhiệt, giải độc thông kinh, hoạt huyết. Dùng kê
huyết đằng 30g, ngưu tất 15g, mộc qua 15g, xích thược 15g, 9g, thương truật 9g, đào
nhân 9g, trạch tả 9g, ô dược 6g, trạch lan 30g, sắc uống.
Vị thuốc kê huyết đằng.
Bài 3: Nếu đau lưng, mỏi gối, đau các khớp chân, tay dùng kê huyết đằng 16 g, cẩu tích
12g, tục đoạn 12g, xuyên khung 12g, dây đau xương 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia
2-3 lần.
Bài 4: Trường hợp chân tay lạnh phần nhiều ở chi dưới, đồng thời có cảm giác tê mỏi,
phải trừ hàn, hoạt huyết, ôn kinh lạc dùng kê huyết đằng 30g, quế chi 12g, hắc phụ 12g,
can khương 10g, đương quy 15g, xích thược 15g, xuyên khung 15g, hoàng kỳ 15g, thục
địa 15g, ngưu tất 10g, nhũ hương 6g, một dược 6g. Sắc uống ngày một thang.
Bài 6: Trường hợp kinh nguyệt không đều dùng kê huyết đằng 16g, nghệ vàng 6g, ngưu
tất 10g, ích mẫu 12g sắc uống. Nếu kèm theo triệu chứng bầu vú trướng, bụng dưới đau,
trướng khó chịu do khí trệ, huyết ứ, dùng kê huyết đằng 16g, hương phụ chế 12g, chỉ
thực 8g, xuyên khung 12g, sung úy tử 8g, ô dược 6g, sơn tra 8g, đương quy 12g, trạch lan
12g. Sắc uống ngày một thang.
Nhãn là loại quả ngon được trồng phổ biến khắp nơi trên đất nước ta, nhưng nhiều và
ngon nhất là nhãn ở Hưng Yên. Bộ phận thường được dùng làm thuốc là long nhãn (cùi
nhãn đã được phơi hay sấy khô). Long nhãn cịn có tên khác là lệ chi nơ, á lệ chi...
Mùa hè, vào tháng 7-8, khi nhãn chín chọn quả to, cùi dày, để nguyên vỏ đem phơi nắng
to, hoặc sấy nhẹ lửa, cho đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc bên trong. Đem bóc vỏ, bỏ
hạt, lấy cùi, rồi sấy nhẹ lửa (50 - 60o C) cho đến khi khơ, sờ khơng dính tay. Long nhãn
có mùi thơm, vị ngọt đậm đặc biệt. Loại long nhãn cùi dày, khô, to mảnh, nhuận mềm,
màu vàng cánh gián, có mùi thơm, khơng chua, khơng lẫn các tạp chất khác, khơng mốc,
sờ khơng dính tay, nếm vị ngọt đậm là tốt. Loại long nhãn cùi mỏng (nhãn trơ) màu nâu
nhạt là kém.
Long nhãn.
Theo y học cổ truyền, long nhãn là một vị thuốc có tác dụng dưỡng huyết, an thần, vào
hai kinh tâm và tỳ, thường được dùng chữa suy nhược cơ thể, bổ thần kinh, mệt mỏi, mất
ngủ, hay quên, hoảng hốt,... Liều dùng hằng ngày 6 - 15g dưới dạng thuốc sắc, chế cao
hoặc ngâm rượu uống. Dùng riêng hoặc phối hợp với những vị thuốc khác.
Chữa suy nhược cơ thể, thiếu máu: Long nhãn 15g , hạt sen 20g, hồng táo 15g, lạc nhân
15g, gạo nếp 50g. Tất cả các vị trên cho vào nồi để nấu cháo ăn ngày 2 lần vào buổi sáng
và chiều tối. Dùng 10-15 ngày.
Bổ tâm, an thần: Long nhãn 200g, liên nhục 200g, táo tàu 200g, táo nhân 200g, hồi sơn
200g, lá vơng nem 150g, cam thảo 130g. Long nhãn, táo tàu, lá vông nem nấu thành cao
lỏng; liên nhục, hoài sơn, táo nhân sao giòn, tán nhỏ, rây bột mịn. Trộn cao và bột, đánh
đều, làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 20-40 viên chia làm 2 lần.
Chè sen.
Chữa mất ngủ: Long nhãn 50g, sắc uống. Hoặc: Long nhãn 9g, toan táo nhân 9g, khiếm
thực 15g, sắc uống trước khi đi ngủ.
Chữa thiếu máu, mất ngủ, thể trạng mệt mỏi: Long nhãn 16g, đương quy 12g, hoàng kỳ
12g, thục địa 16g. Sắc uống ngày một thang, chia hai lần, uống ấm. Dùng 10 - 15 ngày.
Chữa kém ăn, mất ngủ, mồ hôi trộm, mệt nhọc: Cao ban long 40g, long nhãn 50g. Sắc
long nhãn với nước. Thái nhỏ cao ban long cho vào nước sắc long nhãn. Đun nóng để hịa
tan. Để nguội, thái thành từng miếng mỏng. Trước khi đi ngủ tối và sáng sớm uống mỗi
lần 10g cao này.