Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (820.55 KB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

---------------------

LÊ VĂN ĐIN

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

LÊ VĂN ĐIN

ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH
LỊCH SỬ TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2014

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Lê Văn Thịnh

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, tơi đã hồn thành luận văn tốt
nghiệp với đề tài: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác bảo tồn và phát
huy giá trị các di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2014. Tôi xin cam đoan
đây là kết quả của quá trình làm việc nghiêm túc và khoa học của bản thân tôi
dựa trên những nguồn tài liệu đáng tin cậy và có tham khảo các bài viết của
các tác giả đi trước.
Hà Nội, ngày 30/11/2015
Học viên

Lê Văn Đin


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn với đề tài: “ Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo
công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm
2014” Không chỉ là công sức của riêng tơi, ngồi sự cố gắng nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Lịch sử, Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, lớp cao học
(Khóa 2013 – 2015) cùng cơ quan, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã nhiệt
tình giúp đỡ, tạo điều kiện giúp tơi hồn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gủi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
thầy Lê Văn Thịnh – người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn trong suốt q
trình thực hiện để tơi hồn thành luận văn của mình.
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, có kế thừa

một số các thành quả của một số những người đi trước.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn của tơi sẽ khơng tránh
khỏi những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các
thầy cơ giáo và các bạn.
Hà Nội, tháng 12/2015
Học viên

Lê Văn Đin


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................. 4
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 5
Chƣơng 1:CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ
TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI TỪ NĂM
1998 ĐẾN NĂM 2003 ....................................................................................... 8
1.1. Những nhân tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích lịch sử ở tỉnh Yên Bái .......................................................................... 8
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................... 8
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ...................................................................... 14
1.1.3. Thực trạng công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử ở Yên
Bái trước năm 1998......................................................................................... 15
1.2. Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị
các di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2003 ............................................ 21

1.2.1. Chủ trương của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng bộ Yên Bái. .............. 21
1.2.2. Q trình chỉ đạo cơng tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử
của Đảng bộ Yên Bái....................................................................................... 28
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 36


Chƣơng 2: CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CÁC DI
TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG BỘ YÊN BÁI TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM
2014 ................................................................................................................. 38
2.1. Chủ trƣơng của Đảng và sự lãnh đạo của Đảng bộ ............................ 38
2.1.1. Chủ trương của Đảng ........................................................................... 38
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Yên Bái ................................................. 48
2.2. Đảng bộ tỉnh Yên Bái chỉ đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích lịch sử từ năm 2004 đến năm 2014................................................... 52
2.2.1. Chỉ đạo công tác điều tra, xếp hạng, bảo tồn, tu bổ và tơn tạo các di
tích lịch sử. ...................................................................................................... 52
2.2.2. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, xây dựng cơ sở hạ tầng phát huy giá trị
các di tích ........................................................................................................ 69
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 73
Chƣơng 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ......................... 75
3.1. Một vài nhận xét ..................................................................................... 75
3.1.1. Ưu điểm ................................................................................................. 75
3.1.2. Hạn chế ................................................................................................. 79
3.2. Một số kinh nghiêm chủ yếu ................................................................. 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 91
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 107


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu
tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới
để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hố Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn,
khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Di tích
lịch sử văn hóa là tài sản vô cùng quý giá của mỗi dân tộc, đất nước, và của cả
nhân loại, là nơi gìn giữ những giá trị văn hóa tơt đẹp của lồi lồi người.
Chính vì vây, việc giữ gìn và phát huy những giá trị lịch sử văn hóa quả thực
khơng phải là điều đơn giản. Trong những năm qua công tác bảo tồn, tu bổ,
tơn tạo di tích, nhằm phát huy các giá trị văn hóa được các cấp, các ngành và
tồn xã hội quan tâm.
Yên Bái là tỉnh có nhiều dân tộc anh em với sự đa dạng về bản sắc văn
hóa, tiếp giáp và là đầu mối giao thông giữa các tỉnh Tây Bắc và Việt Bắc.
Đất đai khá phong phú và tốt tươi, có sự đa dạng về khí hậu, là điều kiện phát
triển kinh tế chính trị văn hóa của tỉnh. Là vùng đất có bề dày văn hóa lịch sử,
có một hệ thống di tích lịch sử ở khắp các địa phương trong tỉnh.Hệ thống di
tích lịch sử này vừa là niềm tự hào, vừa là một tài sản vơ cùng q giá của
Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh n Bái.
Hệ thống di tích lịch sử khơng chỉ phục vụ đời sống tinh thần, tâm linh,
tín ngưỡng của nhân dân địa phương mà còn là một động lực phát triển kinh
tế xã hội của tỉnh Yên Bái đặc biệt là ngành kinh tế du lịch. Nhận thức được
vai trò và tầm quan trọng của việc gin giữ giá trị của hệ thống di tích trên tồn
tỉnh. Nên Đảng bộ tỉnh Yên Bái rất quan tâm đến công tác bảo tồn, phục hồi
và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa của tỉnh.Ngồi ra các văn bản có
1


tính pháp quy của nhà nước, của tỉnh ban hành nhiều quy định chính sách cụ
thể, để bảo tồn và phát huy những giá trị di tích lịch sử văn hóa trên tồn tỉnh.

Tuy nhiên cho đến nay, q trình lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy
các di tích lịch sử văn hóa từ năm 1998 đến năm 2014 của Đảng Bộ tỉnh Yên
Bái vẫn chưa được nghiên cứu và trình bày một cách có hệ thống, tồn diện.
Việc nghiên cứu những chủ trương, biện pháp của tỉnh Yên Bái về công tác
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, nhằm làm rõ vai trị lãnh đạo của Đảng bộ
đối với công tác bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp, thực hiện
đúng theo tinh thần của Nghi Quyết Trung Ương V (khóa VIII) của Ban chấp
hành Trung Ương Đảng tháng 6 năm 1998. Từ đó, góp phần đánh giá một
cách khách quan, khoa học công tác lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa,
gắn liền với việc phát triển kinh tế địa phương. Góp phần tổng kết kinh
nghiệm quá khứ phục vụ thực tiễn công tác hiện nay; giúp cho Đảng bộ, cấp
ủy có thêm luận cứ khoa học trong xác định chủ trương, biện pháp trong công
tác khôi phục giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa trong toàn tỉnh ở những
giai đoạn tiếp theo.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh dạn quyết định chọn vấn đề
“Đảng Bộ, tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2014” làm luận văn Thạc sỹ Lịch sử của
mình, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Với mục đích làm rõ
thực trạng cơng tác bảo tồn và phát huy các di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh
Yên Bái, từ đó rút ra những bài học trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa di tích.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cơng tác bảo tồn di tích lịch sử văn hóa là vấn đề đang được Đảng, Nhà
nước các cấp các ngành các địa phương quan tâm, vấn đề này cũng được
nhiều nhà khoa học đặc biệt quan tâm.
2


Những cơng trình đề tài nghiên cứu về lý luận chung về vấn đề bảo tồn
và phát huy di tích lịch sử văn hóa: Nguyễn Đăng Duy, Trịnh Minh Đức

(1993) Bảo tồn di tích lịch sử văn hóa, Nhà xuất bản Văn hóa Hà Nội, nghiên
cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo tồn di tích lịch sử ở nước ta;
Dương Văn Sáu (2000), Di tích lịch sử Văn hóa, Danh thắng cảnh Việt Nam,
Nhà xuất Bản Đại học Quốc gia Hà Nội trình bày các địa danh lịch sử - văn
hóa, danh thắng của Việt Nam; Nguyễn Đình Thanh, Lê Minh Lý (2008), Di
sản văn hóa bảo tồn và Phát triển, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh,
trình bày hiện trạng bảo tồn và phát huy ở một số di sản văn hóa tiêu biểu ở
Việt Nam; Đặc biệt là Nguyễn Văn Quang (2004), Tiền sử và Sơ sử Yên Bái,
Nxb Khoa học và Xã hội đây là cuốn sách trình bày hệ thống di tích lịch sử
thời kỳ tiền sử và sơ sử của tỉnh Yên Bái, tác giả đã đi sâu nghiên cứu khảo
sát di tích đồ đá cũ trên các đồi gị, các di tích sơ kì đá mới trong các hang
động đá vơi, các di tích hậu kì đá mới ở thềm cổ sơng Hồng. Bên cạnh đó tác
giả cũng chỉ ra trên vùng đất Yên Bái có một số di tích khảo cổ đặc biệt quan
trọng- nơi tàng chữ tư liệu vật chất phong phú đa dạng độc đáo có khả năng
bảo tồn, nghiên cứu, thăm quan và phát huy tác dụng thực tiễn cao. Tỉnh Ủy –
Hội đông nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2003), Tỉnh Yên Bái một
thế kỷ (1900- 2000). Xí nghiệp in Bộ Công Nghiệp Hà Nội, đây là cuốn sách
với nội dung trình bày lịch sử Yên Bái trong một thế kỷ từ 1900 đến năm
2000.
Ngồi ra có một số các bài đăng trên các tạp chí, Lưu Trần Tiêu (2002)
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Việt Nam. Hà Văn Tấn (2005) Bảo vệ di
tích lịch sử văn hóa trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Phạm Minh Châu (2011) Sức sống cho sự tồn tại của di sản Việt Nam;
Nguyễn Thế Hùng (2013) Công tác bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
năm 2013 và phương hướng nhiệm vụ trọng tâm năm 2014; Nguyễn Quốc
3


Hùng (2014) Vài nét suy nghi về “Yếu tố gốc” cấu thành di tích. Nguyễn
Viết Cường (2014) Bảo tồn di tích trong bối cảnh hiện nay. Những bài báo,

những cuốn sách trên đều đề cập tới vấn đề di sản văn hóa lý luận chung, đối
với cơng tác đối với công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích lịch sử
văn hóa.
Tuy nhiên vẫn chưa có một cơng trình cụ thể nào viết về cơng tác bảo
tồn và phát huy giá trị di tích tỉnh Yên Bái, một cách chuyên sâu trực tiếp vấn
đề: “Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo công tác bảo tồn và phát huy giá trị các
di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2014” dưới góc độ lịch sử Đảng cộng sản
Việt Nam.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ chủ trương, giải pháp và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái
đối với công tác bảo tồn và Phát huy giá trị các di tích trên địa bàn tỉnh từ
năm 1998 đến năm 2014. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhận xét và đúc rút
kinh nghiệm nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chủ trương,
giải pháp trong công tác bảo tồn phát huy giá trị các di tích trong giai đoạn
tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp và hệ thống hóa nguồn tài liệu liên quan đến đề tài.
- Nêu và phân tích những nhân tố tác động đến chủ trương, giải pháp và
q trình chỉ đạo cơng tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử của
Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối trên địa bàn tỉnh.
- Đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong cơng tác bảo tồn, phát huy giá
trị các di tích lịch sử của Đảng bộ tỉnh, đồng thời đúc rút những kinh nghiệm
chủ yếu có ý nghĩa tham khảo cho hiện tại.
4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu Những chủ trương, giải pháp và sự chỉ đạo
công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử của Đảng bộ tỉnh Yên Bái

từ năm 1998 đến năm 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến công tác
bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử của Đảng bộ tỉnh Yên Bái.
Do tỉnh n Bái có rất nhiều các di tích lịch sử nên luận văn chỉ đề cập
đến một số các di tích lớn như: Di tích lịch sử danh Thắng Hồ Thác Bà huyện
n Bình; di tích lịch sử đền Đơng Cuông; đền Nhược Sơn huyện Văn Yên;
Khu mộ Nguyễn Thái Học; Lễ đài sân vận động Bến Âu Lâu, Thành Phố Yên
Bái, Ruộng bậc thang huyện Mù Cang Chải, khu khảo cổ học Thác Y Đại Cại
Lục Yên ….
Về không gian trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
Về thời gian từ năm 1998 - năm thực hiện Nghị Quyết Trung ương V
(tháng 6 năm 1998) khóa VIII đến năm 2014.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liêu mà luân văn sử dụng là:
- Các văn kiên của Đảng; các hội nghị Trung ương Đảng, chương trình
của Chính Phủ, của Bộ văn hóa thơng tin và Du lịch về bảo tồn và phát huy
các di tích lịch sử;
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, các Chương trình của Ủy ban
Nhân dân tỉnh Yên Bái, các Báo cáo tổng kết của Sở Văn hóa thể thao và Du
lịch tỉnh Yên Bái.

5


- Các sách báo, tạp chí, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến công
tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử nói chung và với công tác
bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử tại tỉnh n Bái nói riêng.
5.2.Phương pháp nghiên cứu

Trên cở sở của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
cộng sản Việt Nam về văn hóa, luận văn sử dụng phương pháp Lịch sử,
phương pháp lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp ấy. Đồng thời luận
văn còn sử dụng một số phương pháp khác, như phương pháp phân tích, tổng
hợp nhằm đánh giá chính xác những chủ trương, biện pháp cơng tác bảo tồn
và phát huy giá trị các di tích lịch sử của Đảng bộ tỉnh Yên Bái
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng
nhằm trình bày những kết quả đã đạt được trong q trình tỉnh n Bái thực
hiện cơng tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày q trình Đảng bộ tỉnh n Bái lãnh đạo cơng tác
bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử từ năm 1998 đến năm 2014, qua
đó góp phần nghiên cứu lịch sử tỉnh Yên Bái nói chung, và Đảng bộ tỉnh Yên
Bái nói riêng.
- Từ thực tiễn lịch sử, luận văn khái quát một số ưu điểm, hạn chế và đúc
rút những kinh nghiệm chủ yếu về công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di
tích lịch sử của Đảng bộ tỉnh.
- Những kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho các
trường văn hóa, phục vụ cơng tác nghiên cứu và quảng bá cho tiềm năng du
lịch của tỉnh Yên Bái.

6


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liêu tham khảo, phụ lục, Luận văn
được chia làm 3 chương:
Chương 1.Chủ trương và sự chỉ đạo bảo tồn, phát huy giá trị các di tích
lịch sử của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 1998 đến năm 2003.
Chương 2.Công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử của

Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2004 đến năm 2014.
Chương 3. Một số nhận xét và kinh nghiệm.

7


Chương 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO BẢO TỒN, PHÁT HUY
GIÁ TRỊ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2003

1.1. Những nhân tố tác động đến công tác bảo tồn và phát huy giá
trị các di tích lịch sử ở tỉnh Yên Bái
1.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Yên Bái
Yên Bái nằm ở vị trí địa lý 21018’ đến 22017’ vĩ độ Bắc và 103056’1050 06’ kinh Đơng. Tồn tỉnh có tổng diện tích tự nhiên 6882,92 km2, chiều
từ Đơng sang Tây dài 120km, từ Bắc xuống Nam là 100km, trải dọc đôi bờ
sông Thao, thuộc khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc với Trung du Bắc
Bộ; Đông Bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang; Đông Nam giáp tỉnh
Phú Thọ; Tây Nam giáp tỉnh Sơn La và Phía Tây Bắc giáp tỉnh Lào Cai. Từ
xa xưa, Yên Bái có một vị trí trọng yếu về quân sự kinh tế của nước ta. Tỉnh
n Bái có diện tích tự nhiên là 6.887, 77km2 với 1 thành phố Yên Bái, 1 thị
xã Nghĩa Lộ và 7 huyện là: Lục Yên, Văn Yên, Mù Cang Chải, Trấn Yên,
Yên Bình,Văn Chấn và Trạm Tấu. Với 159 xã 10 thị trấn và 11 phường.[1, tr.
43].
n Bái có địa hình cấu tạo khá đa dạng và phức tạp (đồng bằng phù sa
ven sông Thao, đồng bằng phù sa cổ lượn sóng, đồi tháp đỉnh trịn, đồi bát úp
dốc thoải, bồn địa thung lũng, núi cao rãnh sâu, cao nguyên đá vôi dốc đứng).
Do độ dốc lớn (trung bình 40 – 500, nhiều nơi 60 – 700, vùng thấp 25 – 400 lại
chia cắt mạnh, cao dần từ đông sang tây và từ nam lên bắc). Nên n Bái có
độ cao trung bình so với mực nước biển là 600m

Địa hình của n Bái có thể chia như sau:Vùng thấp: nằm ở tả ngạn và
lưu vực sông Hồng, lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung
8


du do các đỉnh núi phẳng, nằm sàn sàn như bát úp chạy dài liên tiếp tạo ra các
thung lũng bằng phẳng và cánh đồng chạy dọc theo triền sông.
Vùng cao: Nằm ở hưu ngạn sông Hồng và cao nguyên giữa sơng Hồng
và sơng Đà, có nhiều dãy núi cao chạy liên tục theo hướng Tây Bắc – Đơng
Nam, nhìn xa như một bức tường thành che kín cả bầu trời phía tây, tạo nên
khung cảnh khá hùng vĩ đồ sộ.
Dãy Hồng Liên Sơn khi đến Xà Phình, Pú Lng tạo ra các đỉnh Pú
Song Sung (2986m), Lũng Cung (2913m), Xu Phin (2814m). Núi ở đây sườn
rất dốc, bị các thung lũng hẹp chia cắt sâu tạo ra biên độ chênh lệch tới hàng
ngàn mét. Ở phía đơng nam, dãy Hoàng Liên Sơn kết thúc một cách đột ngột
từ Nghĩa Lộ đến đèo Lũng Lơ, nơi có đường n Bái – Sơn La chạy qua để
lại một vùng đồi và núi thoải tỏa rộng từ hữu ngạn sông Hồng tới tả ngạn
Sông Đà, tạo ra vô số thung lũng sông và những bồn địa phù xa bồi đắp khá
rộng ở Tú Lệ, Gia Hội và nhất là đồng bằng Nghĩa Lộ (Mường Lị rộng
2300ha lớn thứ nhì Tây Bắc). Dãy núi Lùng Búng với các đỉnh Thảm, Khe
Cao, Khe Địa đã tách cao nguyên Ngòi Thia, Ngòi Vần qua đèo Khe Đạo,
cao 900m nối liền Nghĩa Lộ với Yên Bái. Vùng cao cịn có tả ngạn sơng Hồng
với dãy núi Con Voi (1400m) cùng nhiều đỉnh núi như núi Bon, Mỏ Vẹt hạ
dần độ cao hướng về đơng nam. Ngồi ra cịn có vùng núi đá vơi Lục n nối
liền với dãy Tây Côn Lĩnh của Hà Giang.
Những đặc điểm địa hình khiến cho n Bái có các loại rừng: Nhiệt
đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Trong khu vực rừng á nhiệt đới của
tỉnh có nhiều loại cây gỗ kim (pơmu, thông, sa mộc, sam mộc ), xen lẫn cây lá
rộng thuộc họ sồi, dẻ, đỗ quyên. Ở độ cao trên 2000m, rừng hỗn giao giảm
dần, pơ mu mọc thành rừng kín, cao tới 40- 50m đường kính thân có cây tới

1.5m. Cao hơn nữa là các cánh rừng thông xen kẽ các tầng cây bụi nhỏ rồi
đến trúc lùn, cây họ cói, cây họ hoa hồng, cây họ thạch Nam.Độ cao hạ dần
9


khí hậu ấm áp hơn làm cho lớp phủ thực vật rừng có điều kiện phát triển. Bên
cạnh các loại gỗ quý như: nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ, pơ mu; cây thuốc quý
như đẳng sâm, sơn tra, hà thủ ô… động vật quý hiếm như hổ, báo, cầy hương,
lợn rừng, vượn, khỉ chăn, tê tê…
Xen kẽ các khu rừng lớn là các mặt bằng với nhiều bãi cỏ rộng có khả
năng phát triển chăn ni đại gia súc hoặc mở mang du lịch sinh thái dịch vụ.
Tuy nhiên các loại rừng kể trên nay chỉ còn trong các khu vực núi thuộc
huyện Văn Yên, Lục Yên, Trạm Tấu, Mù Cang Chải
Đặc trưng khí hậu Yên Bái: là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm mưa
nhiều nhiệt độ cao. Do đó, tổng lượng bức xạ tới 100-140Kcal/cm2 và cân
bằng bức xạ ln dương. Hàng năm có từ 1200- 2000 giờ nắng, mùa hè gấp
đôi mùa đông.Tổng nhiệt độ từ 8000 – 85000C ở vùng núi cao giảm xuống
70000C.Nhiệt độ trung bình ít biến động trong năm (từ 18- 24 0C), cao nhất từ
37- 390C thấp nhất từ 2 -40C.Gió thịnh hành là gió mùa đơng bắc và gió mùa
đơng nam. Mưa nhiều nhưng phân bố không đều, lượng mưa trung bình từ
1800mm – 2000mm/năm, cao nhất đến 2204mm, thấp nhất là 1106mm. Một
số tiểu vùng khí hậu vào tiết xuân thường có mưa dầm triền miên.
Bên cạnh nền độ ẩm cao trên phần lãnh thổ n Bái cịn có một vùng
khô hạn. Độ ẩm quanh năm của tỉnh là 85- 87% trung bình cao nhất là 97%
thấp nhất là 67% .
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, địa phương cũng chịu nhiều ảnh
hưởng do thời tiết gây ra. Mùa đơng nhiều đợt gió lạnh buốt tràn về, đầu mùa
hè những đợt gió tây nóng tràn sang gây tổn hại đến sức khỏe con người, súc
vật, cây trồng.
Chế độ thủy văn: Đặc điểm địa hình và khí hậu như trình bày ở trên đã

tạo cho Yên Bái một hệ thống sơng ngịi khá dày đặc với hai trục sơng lớn:

10


sông Hồng và sông Chảy cũng như hướng núi hai con sơng đều bắt nguồn từ
phía bắc, chảy vào n Bái theo hướng tây bắc- đông nam, tạo lên hệ sinh
thái thung lũng sông rất rõ rệt, chi phối sâu sắc môi trường tự nhiên ở khu vực
này.
Sông Hồng dài 1149 km chảy theo hướng tây bắc - đông nam do vận
động tạo sơn của dãy Hymalaya, bắt nguồn từ Trung Quốc chảy vào Lào Cai,
qua hết Yên Bái cắt đôi vùng đất, chia tỉnh thành hai khu vực: Khu vực đông
và khu vực tây. Đoạn sông Hồng ở Yên Bái dài khoảng 100km, phía thượng
lưu sơng hẹp độ dốc cao, nhiều dãy núi chạy ra giáp bờ sông, càng về xi,
lịng sơng càng mở rộng dần, tạo nên các giải đồng bằng hẹp ở vùng trên và
mở rộng dần ở phía hạ lưu. Do thung lũng càng xuống càng được mở rộng
nên dòng chảy quanh co khúc khuỷu hơn, tạo nên một số khúc vịng lớn, ơm
lấy một số vùng bằng phẳng trù phú. Chính những vùng này đã trở thành địa
bàn cư trú rất thuận lợi cho các cư dân cổ. Đoạn sông Hồng chảy trên đất Yên
Bái có nhiều suối lớn nhỏ đổ vào. Đáng kể nhất là Ngịi Hóp, Ngịi Thia, Ngịi
Lâu, Ngịi Vần. Đa phần những con ngịi này nằm ở hữu ngạn sơng Hồng.
Trong đó lớn nhất là Ngịi Thia có độ dài 160km, bắt nguồn từ núi Phu Sa
Phìn cao 2874 m. Ngịi Thia có vai trị quan trọng góp phần mở rộng địa bàn
sinh tụ của con người. Lưu lượng sông Hồng bình qn từ 4000 –
5000m3/giây và có độ chênh lệch lớn giữa mùa khô và mùa mưa.
Sông Chảy bắt nguồn từ Hà Giang, có hướng dịng chảy gần như song
song với sông Hồng, nhập với sông Lô ở Đoan Hùng (Phú Thọ). Sơng Chảy
có độ dài chảy trong tỉnh n Bái là khoảng 85km. Tuy không dài bằng sông
Hồng, song sông Chảy lại chảy qua một miền núi đá vôi cao hơn, độ dốc lớn
hơn, lịng sơng hẹp hơn ở phần thượng nguồn nên dịng chảy có phần xiết

hơn, tới vùng Đại Đồng núi bỗng lùi xa, tạo nên một dải đồng bằng mầu mỡ,
trù phú khí hậu thống đãng, một địa bàn sinh tụ nhiều thời. Nay vùng này đã
11


trở thành hồ Thác Bà, cảnh quan đã thay đổi. Sơng Chảy có nhiều suối chảy
vào, đặc biệt là các suối Đại Cại (Tân Lĩnh), Ngòi Biệc, Ngòi Úc, Ngòi Lẫu,
Suối Tân Hương… trong đó Ngịi Biệc là lớn hơn cả.
Khống sản: Được hình thành trên nền trầm tích cổ, Yên Bái là một địa
bàn chứa khá nhiều loại khoáng sản, từ quý hiếm đến thông dụng. Theo bản
đồ bản đồ khống sản, ở n Bái có trên 200 điểm mỏ, trong đó có 170 điểm
đã được khảo sát, đang được khai thác hoặc chuẩn bị khai thác và trên 30
điểm thuộc loại mỏ cổ, hầu hết đã chấm dứt khai thác (Sở Khoa học công
nghệ Yên Bái 1998). Đặc điểm chính của khống sản tỉnh n Bái là phân bố
rải rác, có nhiều chủng loại mỏ đá 47 điểm, mỏ sắt 37 điểm, mỏ đồng 5 điểm,
mỏ trì kẽm 10 điểm có trữ lượng khơng nhiều.Tuy nhiên có những mỏ lại có
hàm lượng khá cao.
Đặc biệt mỏ đá ở Yên Bái khá phong phú về chủng loại và có chất
lượng khá cao. Cao cấp nhất là loại đá quý và bán quý như Rubi (còn gọi là
Hồng Ngọc), ngọc, ngọc bích….Những loại đá này tập trung ở vùng Lục n,
n Bình, và dọc theo lưu vực sơng Chảy.
Các mỏ sắt tập trung nhiều ở phía tây của tỉnh như các huyện Trấn Yên,
Văn Yên, Văn Chấn và Mù Cang Chải. Các mỏ đồng đều nằm ở phía tây
huyện Văn Yên, Trấn Yên, các mỏ kẽm nằm ở Mù Cang Chải.
Nhìn chung các mỏ đá phân bố tập trung ở phía đơng, cịn các mỏ kim
loại tập trung ở phía tây tỉnh. Ngoài ra phải kể đến nguồn đá cuội sơng suối
rất dồi dào có mặt ở khắp nơi trong tỉnh mà tập trung chủ yếu theo dọc bờ
sông Hồng và sông Chảy và hàng trăm suối lớn nhỏ thuộc lưu vực của hai
sông này.
Động vật, thực vật : Dù địa hình và khí hậu n Bái đa dạng và phức

tạp, song nhìn chung đây là vùng nhiệt đới gió mùa, thảm thực vật và động

12


vật mang đặc điểm nổi bật của vùng nhiệt đới, tuy đã có những yếu tố biến
đổi ít nhiều.
Thực vật có thể chia Yên Bái thành ba vành đai thực vật chính như sau:
Vành đai thực vật rừng nhiệt đới ở độ cao từ 600 – 700m đổ xuống, chủ
yếu nằm trong thung lũng sông Hồng, sông Chảy, các bồn địa ở Văn Chấn,
n Bình, Lục n, đặc điểm chính của vành đai này là rừng thứ sinh, gồm
các loại tre, nứa, dây leo, cây thân gỗ thảm thực vật phong phú nhiều tầng.
Vành đai thực vật vùng á nhiệt đới ở độ cao từ 600 – 700m đến 1700m.
Đây là những dãy núi khá cao thuộc dãy núi Con Voi, vùng cao Trạm Tấu,
Văn Chấn, Mù Cang Chải. Thành phần thực vật ở đây đơn giản hơn, phổ biến
là các loại cây thấp, cây bụi, họ dương xỉ, họ lan, họ ráy. Cây gỗ có sồi, giẻ,
sau sau. Đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống, canh tác, khai thác phổ biến ở
vành đai này.
Vành đai thực vật cận nhiệt đới, ở độ cao từ 1700m trở lên bao gồm các
vùng núi cao hiểm trở phía tây, tây bắc, điển hình là dãy núi Hồng Liên Sơn,
quần thể thực vật ở đây mang đặc tính miền ơn đới, rừng có cả cây lá rộng và
cây lá kim nhu sồi, giẻ, pơmu… kết cấu rừng ít tầng (từ 1 đến 2 tầng)
Ngồi các kiểu rừng trên n Bái cịn có xuất hiện một số kiểu rừng
đặc biệt, như rừng nhiệt đới trên núi đá vôi, rừng tre nứa trên đồi gị.
Nhìn chung chỉ có vùng thấp của vành đai nhiệt đới, vùng rừng kiểu địa
bàn đặc biệt là điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự sinh tồn và phát triển của
con người.
Động vật: phát triển trên nền thực vật rất phong phú, quần thể động vật
ở đây cũng trở nên rất đa dạng, những chủng loại động vật cũng được phân bố
theo vành đai khí hậu, và vành đai thực vật khác nhau.[52,tr.17- 28]


13


1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Về kinh tế nhìn chung Yên Bái là một tỉnh nghèo, chậm phát triển, kinh
tế lúa nước là chủ đạo, diện tích ruộng ít lại kém màu mỡ, bị chia cắt manh
mún, thời gian sinh trưởng dài, năng xuất thấp. Một bộ phậm dân cư nhất là
miềm núi, và dân tộc thiểu số cịn đói. Nơng nghiệp nương rẫy đây khá phát
triển, song những năm gần đây đã được hạn chế để bảo vệ rừng, nhờ công
cuộc đổi mới nhiều giống lúa ngắn ngày, năng xuất cao gieo trồng nên đời
sống nhân dân được cải thiện, từ chỗ thiếu đói lương thực, nay đã no đủ và dư
dật. Rừng Yên Bái trước tốt tươi, rậm rạp, nhiều tầng mang đặc trưng rõ của
rừng nhiệt đới, thứ sinh, đến nay đã cạn kiệt, nền kinh tế rừng ngày càng
chiếm vị trí thấp, cây cơng nghiệp chủ yếu là cây chè, nghề chè đang trở
thành nghề kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Có thể nói đặc điểm của nền kinh tế
Yên Bái là nông nghiệp đa canh. Kinh tế vườn đồi theo hình thức trang trại
đang có xu hướng phát triển mạnh ở n Bái.
Nhìn chung Yên Bái là một tỉnh nghèo, trải qua hơn một thập kỷ đổi
mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đã có một tiến bộ, xong vẫn trong tình trạng
chậm phát triển. Đời sống kinh tế và văn hóa cịn có sự chênh lệch khá rõ rệt
giữa các vùng thấp và vùng cao, giữa đô thị vùng sâu và vùng xa. [52, tr. 31]
Dân số: Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc
sinh sống, trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người, 2 dân tộc có từ
2.000 - 5.000 người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người.
Năm 2013, tổng dân số toàn tỉnh là 773.854 người. Mật độ dân số trung
bình là 112 người/km2 tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái,
thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ.
Sự phân bố các cộng đồng dân tộc trên địa bàn tỉnh có những đặc trưng
sau:


14


Vùng thung lũng sơng Hồng chiếm 41% dân số tồn tỉnh, trong đó:
người Kinh 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người
Hmông chiếm 1,3% so với dân số tồn vùng.
Vùng thung lũng sơng Chảy chiếm 28% dân số tồn tỉnh. Trong đó
người Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người
Nùng chiếm 7%... so với dân số tồn vùng.
Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn) chiếm
31% dân số toàn tỉnh. Trong đó: người Kinh là 33%; người Thái 19,2%, Tày
11,8%, Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1% so với dân số
toàn vùng. [18]
Yên Bái với điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị xã hội, đã tạo nên cho
cộng đồng và các dân tộc trong tỉnh với những truyền thống và bản sắc riêng
đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng và phong phú, có nhiều nét
độc đáo riêng.
1.1.3. Thực trạng công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử ở
Yên Bái trước năm 1998.
Từ rất xa xưa, Yên Bái là một bộ phận của Tổ quốc. Thời vua Hùng
Yên Bái thuộc Tân Hưng, thơi Lý thuộc Châu Đăng, thời Trần trong lộ Quy
Hóa, thời Lê đến thời Nguyễn nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.
Vào cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp tiến
hành “Bình định” nước ta, chúng đặt Yên Bái thuộc các Đạo quan binh (1891
- 1900). Ngày 11 tháng 4 năm 1900, thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái
gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại
làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920, Pháp chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên
Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái. Từ đó cho đến
Cách mạng tháng Tám năm 1945, địa dư và đơn vị hành chính của tỉnh Yên


15


Bái không thay đổi. Tháng 5 năm 1955 châu Văn Chấn, Than Uyên chuyển
thuộc khu tự trị Thái – Mèo; một phần thuộc huyện Than Uyên và các xã
Nậm Có, Khau Phạ (Văn Chấn) được tách ra thành lập châu Mù Cang Chải.
Tháng 6 năm 1956, huyện Yên Bình (tỉnh Tuyên Quang) sát nhập vào tỉnh
Yên Bái. Tháng 10 năm 1962 Quốc hội đổi tên khu tự trị Thái – Mèo thành
khu tự trị Tây Bắc.Tháng 12 năm 1962 tỉnh Nghĩa Lộ (thuộc khu tự trị Tây
Bắc) chính thức được thành lập gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phù
Yên. Tháng 1 năm 1976 hợp nhất 3 tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ hai huyện
Bắc Yên và Phù Yên chuyển thuộc tỉnh Sơn La) và Lào Cai thành tỉnh Hoàng
Liên Sơn. Tháng 10 năm 1991 tỉnh Hoàng Liên Sơn chia thành hai tỉnh Yên
Bái và Lào Cai. [3,tr.12]
Yên Bái có nhiều danh thắng và di tích lịch sử, văn hóa mang đậm dấu
ấn lịch sử và giá trị tâm linh, q trình nghiên cứu về hệ thống di tích của tỉnh
Yên Bái được Đảng và Nhà nước quan tâm. Sau cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp của nhân dân ta thành cơng, miền Bắc hồn tồn giải phóng và đi
lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phòng Bảo tồn bảo tàng thuộc Ty Văn hóa
Yên Bái được thành lập khá sớm (từ năm 1957), công tác bảo tồn giá trị di
tích ngày càng được quan tâm. Năm 1960 là mốc đánh dấu sự mở đầu hoạt
động khảo cổ học Yên Bái, đó là việc phát hiện thạp Đào Thịnh, năm 1962
nhân dân lại phát hiện trống đồng Yên Bái, trong trống đồng có nhiều hiện vật
đồng. Do giá trị đặc biệt của của di tích, các nhà nghiên cứu ở Trung ương bắt
đầu để ý đến Yên Bái.
Năm 1963 – 1964 thực hiện chủ trương xây dựng nhà máy thủy điện
Thác Bà, nhà nước đã tổ chức nhiều đoàn khảo cổ học khảo sát nghiên cứu
vùng sông Chảy. Năm 1972 trước khi đóng nước hồ Thác Bà. Viện Khảo cổ
học cho khảo sát lại vùng này, và đã phát hiện thêm một số các di tích, di tích


16


Đồng Gianh Đào Thịnh, Làng Vạc Lục Yên.[50.tr34]. Đây chỉ là những di
tích khảo cổ thời tiền sử.
Sau năm 1972 khi đóng nước thủy điện hồ Thác Bà tồn bộ hệ thống di
tích các đình đền chùa, của hai huyện n Bình Và Lục n, đã bị chìm sâu
dưới lịng sơng Chảy.
Sau Đại Hội Đảng bộ tỉnh Hồng Liên Sơn Lần thứ VI, Mở đầu cho
công cuộc đổi mới, được tiến hàng từ ngày 10- 13 tháng 10 năm 1986, Đại
hội đã nhất trí với chủ trương đổi mới của Đảng. Bên cạnh đó Đại hội cịn bàn
bạc và thơng qua Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế, chính trị,
xã hội, văn hóa, an ninh quốc phịng, xây dựng đảng trong năm năm 1986 –
1990. Để thực hiện phương hướng trên, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã
đề ra 6 nhiệm vụ lớn trong đó: là ổn định phát triển sản xuất, trước tiên khai
thác mạnh mẽ tiềm năng sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp; thực hiện tốt
chính sách cơng bằng xã hội, ổn định và cải thiện một bước đời sống vật chất
và văn hóa của nhân dân đáp ứng tốt về nhu cầu chữa bệnh, đi lại và học hành
và hưởng thụ văn hóa.[4,tr. 79]. Trong năm năm 1986 – 1990 cơng tác bảo
tồn được Đảng bộ tỉnh Hoàng Liên Sơn được chú trọng quan tâm do vậy
trong thời gian này hai di tích lịch sử quốc gia được Bộ Văn hóa – Thơng tin
cơng nhận là di tích lịch sử quốc gia.
Do vậy q trình bảo tồn, khơi phục và phát huy các giá trị di tích
trong thời gian này có bươc phát triển. Từ năm 1986 đến năm 1990 toàn tỉnh
Yên bái mới có hai di tích được cơng nhận là là di tích lịch sử văn hóa. Di tích
Lễ đài Sân vận động phường Hồng Hà thành Phố Yên Bái, được Bộ Văn hóa
– Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch), cơng nhận là di tích
lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo quyết đinh 1288/VH-QĐ; 16/11/1988; Di
tích lịch sử Khu mộ Nguyễn Thái Học và các chiến sỹ cuộc khởi nghĩa Yên

Bái 2/1930 phường Nguyễn Thái Học thành phố Yên Bái, theo Quyết định số
17


117/VH-QĐ; 05/3/1990 của Bộ Văn hóa - Thơng tin là di tích lịch sử cấp
quốc gia.
Từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6 năm 1991 Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ 7 của Đảng họp tại Hà Nội đã đánh giá 5 năm đổi mới (1986-1990),
thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đề ra phương
hướng nhiệm vụ của cơng cuộc đổi mới tồn diện trong chặng đường tiếp
theo. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, cùng với việc xác định rõ nội dung và tính chất của thời đại, làm nổi
bật nội dung cơ bản: quan niệm tổng quát về xã hội chủ nghĩa mà chúng ta
cần xây dựng và những phương hướng cơ bản để xây dụng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta trong thời kỳ mới. Cương lĩnh chỉ rõ: xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là một xã hội mà nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lục lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hưu về tư
liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân
tộc con ngươi được giải phóng khỏi áp bức, bóc lơt, bất cơng, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc có điều kiện
phát triển tồn diện cá nhân, các dân tộc trong nước bình đẳng giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng và bảovệ tổ quốc. [4,tr.31]
Ngày 12 tháng 8 năm 1991 Quốc hội chia lại tỉnh Hoàng Liên Sơn
thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Ngày 01 tháng 10 năm 1991 tỉnh Yên Bái
chính thức đi vào hoạt động.Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái nhiệm kỳ 1991 –
1995 mở đầu giai đoạn mới trong quá trình phát triển của tỉnh.
Trong giai đoạn này ngành Văn hóa Thơng tin nói chungđứng trước
nhiều vấn đề bức xúc. Hệ thống di tích lịch sử và danh thắng do nhiều nguyên
nhân khác nhau đang ở tình trạng xuống cấp trầm trọng, Chính phủ đã có

quyết định 25/QĐ- TTg về các chính sách đầu tư cho văn hóa, trong đó các di
18


tích được đầu tư tu bổ, tơn tạo bằng nguồn ngân sách Nhà nước, (đối với các
di tích Cách mạng được đầu tư 100% kinh phí). Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng để ngành Văn hóa Thơng tin xây dựng chương trình chống xuống cấp
và tơn tạo các di tích lịch sử -văn hóa ở Việt Nam. Sau khốn 10 trong nông
nghiệp đời sống nông dân được cải thiện song ngành văn hóa thơng tin lại gặp
nhiều khó khăn trong hoạt động: khơng có kinh phí chi cho hoạt động văn hóa
thơng tin ở cấp xã, phường, cán bộ làm cơng tác văn hóa thơng tin ở cấp xã,
phường, khơng có thiết chế văn hóa ở các cấp vừa thiếu vừa lạc hậu…đã làm
cho các hoạt động văn hóa thông tin, ở cơ sở nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, giảm sút nhanh chóng, nhu cầu hưởng thụ văn hóa thơng tin của đồng bào
rất thấp. Đây là vấn đề bức xúc nhất đối với ngành, yếu tố quyết định cho việc
hình thành chương trình phát triển đời sống văn hóa thơng tin cơ sở vùng cao,
vùng sâu, vùng xa. [17, tr. 2]
Trước bối cảnh trên chương trình mục tiêu về văn hóa của Bộ văn hóa
và Thơng tin đã được Chính phủ phê duyệt. Ngày 24 tháng 3 năm 1993 Hội
đồng thẩm định quốc gia đã thẩm định 3 chương trình Quốc gia của Bộ Văn
hóa Thơng tin, đến ngày 16 tháng 8 năm 1994 tại văn bản số: 4739/KG-TW,
Chính phủ cho phép Bộ Văn hóa Thơng tin triển khai ba chương trình mục
tiêu quốc gia.
Một là chương trình chống xuống cấp và tơn tạo các di tích lịch sử văn
hóa ở Việt Nam
Hai là chương trình phát triển điện ảnh Việt Nam.
Ba là chương trình xây dựng phát triển văn hóa vùng cao.
Đến năm 1996 thực hiện sắp xếp lại chương trình mục tiêu quốc gia. Ba
chương trình của Bộ Văn hóa Thơng tin được ghép lại thành một chương
trình, có tên gọi là: “Chương trình văn hóa” tại Quyết định số 19/QĐ-TTg


19


×