Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank (Luận văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.23 KB, 66 trang )

1

LỜI NĨI ĐẦU
Ngày nay, sự bùng nổ về cơng nghệ, thơng tin và kỹ thuật kết hợp với tính năng
động của thị trường đã làm xuất hiện nhiều loại hình kinh doanh và sản xuất mới, tuy
nhiên để theo kịp với xu hướng và sự phát triển nhanh chóng này thì khơng phải mọi
doanh nghiệp, tổ chức đều có đủ khả năng về tài chính. Do đó, hiện nay một trong
những vấn đề quan trọng nhất để các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế tiến hành kinh
doanh hiệu quả là phải huy động đủ vốn từ các nguồn khác nhau để đáp ứng đủ cho q
trình đó.
Với chức năng là trung gian tín dụng, hoạt động của các NHTM và các TCTD
hiện nay đóng vai trị quan trọng trong việc huy động vốn cho hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Các NHTM thực hiện huy động nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức, cơ quan, cá nhân … và sử dụng nguồn vốn này để
cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn trong hoạt động kinh tế, góp phần kích thích q trình
ln chuyển vốn của tồn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất.
Hiện nay, cho vay là một hình thức cấp tín dụng chủ yếu trong hoạt động tín
dụng của các NHTM tại Việt nam. Trong q trình cho vay, các NHTM phải có trách
nhiệm với khoản tiền cho vay, đảm bảo thu hồi được vốn và lãi, nên việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm tiền vay là điều tất yếu tại các ngân hàng. Cũng như các NHTM
khác, Techcombank (Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương) cũng thực hiện các
biện pháp bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các biện pháp bảo đảm
tiền vay, các NHTM cịn gặp một số khó khăn, đặc biệt trong vấn đề xử lý tài sản bảo
đảm.
Với lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Ngân
hàng Techcombank” cho báo cáo thực tập của mình. Trong đề tài này, các biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản bao gồm: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng;
bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn
vay. Đây là ba biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản quan trọng được các NHTM và
các TCTD nói dung và Techcombank nói riêng sử dụng.


Báo cáo này bao gồm ba phần sau:


2

I/ Cơ sở pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm
II/ Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài
sản và việc xử lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng Techcombank
III/ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm tại ngân
hàng Techcombank


3

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
TMCP
TCTD
DVKH
SME
Techcombank
Nghị định 165/1999/NĐ-CP
Nghị định 178/1999/NĐ-CP

Nghị định 163/2006/NĐ-CP
Nghị định 05/2005/NĐ-CP

Bộ luật dân sự
Thương mại cổ phần

Tổ chức tín dụng
Dịch vụ khách hàng
Khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam
Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày
29/12/1999 về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín
dụng
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày
29/11/2006 về giao dịch bảo đảm
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của
Chính phủ về ban hành quy chế bán đấu giá tài sản

Nghị định 08/2000/NĐ-CP

Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày
10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm

TTLT 03/2001/TTLT-NHNNBTP-BTC-TCĐC

Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTPBCA-BTC-TCĐC ngày 23/04/2001 hướng dẫn việc
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các
tổ chức tín dụng
Thơng tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTP-BTNMT
ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và
Môi trường hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất

TTLT 05/2005/TTLT-BTPBTNMT


Quyết định 1627/2001/QĐNHNN

Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001 về việc
ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối
với khách hàng


4

Quyết định 127/2005/QĐ-NHNN

Quy chế về bảo đảm bằng tài sản
tại ngân hàng TMCP Kỹ Thương
Việt Nam

Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của
TCTD đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết
định số 1627/2001/QĐ-NHNN
Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của Ngân hàng
TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Ban hành kèm theo
quyết định số 238/QĐ-HĐ ngày 23/02/2001 của
Chủ tịch Hội Đồng quản trị Ngân hàng TMCP Kỹ
Thương Việt Nam)

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô chú, các anh chị tại PHÒNG PHÁP

CHẾ - NGÂN HÀNG TECHCOMBANK đã giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn
thành tốt thời gian thực tập và báo cáo tốt nghiệp của mình.


5

Với thầy cô giáo trong KHOA LUẬT – TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
QUỐC DÂN, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô đã giúp đỡ em trong 4
năm học tập ở trường cũng như trong thời gian thực tập, đặc biệt là cô giáo PGS.TS
NGUYỄN THỊ THANH THỦY, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện
cho em hoàn thành xuất sắc bài báo cáo tốt nghiệp “Pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại
Ngân hàng Techcombank” của mình.

TRẦN HỒNG NHUNG
KHOA LUẬT K48
2006 - 2010

CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
I/ KHÁI QUÁT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ CÁC BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH


6

1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1 Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho vay của các tổ

chức tín dụng.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp cần có nguồn
vốn tốt. Nguồn vốn này có thể là vốn tự có, và có thể là vốn vay từ các ngân hàng và
các TCTD. Chính vì thế, trong khoảng 10 năm trở lại đây, Chính phủ đã ban hành nhiều
văn bản pháp lý xung quanh vấn đề bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay,
khơng có một văn bản có hiệu lực pháp lý nào định nghĩa về “bảo đảm tiền vay”. Ngày
29/12/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền
vay của các tổ chức tín dụng (sau đây gọi là Nghị định 178/1999/NĐ-CP) trong đó có
định nghĩa “bảo đảm tiền vay” như sau: “Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp luật để thu hồi được các
khoản nợ đã cho khách hàng vay” (Điều 2.1 Nghị định 178/1999/NĐ-CP). Tuy nhiên,
ngày 29/11/2006, Chính phủ lại ban hành Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo
đảm (sau đây gọi là Nghị định 163/2006/NĐ-CP), thay thế cho Nghị định
178/1999/NĐ-CP. Nghị định 163/2006/NĐ-CP không đưa ra định nghĩa về “bảo đảm
tiền vay” mà chỉ quy định thế nào là “bên bảo đảm”, “bên nhận bảo đảm”, “bên bảo
đảm ngay tình”. Như vậy, trong tất cả các văn bản pháp lý có hiệu lực tính đến năm
2009, khơng một văn bản nào đưa ra khái niệm chuẩn về “bảo đảm tiền vay”. Tuy vậy,
với quan điểm riêng của mình và căn cứ vào các quy định của Nghị định
163/2006/NdĐ-CP thì “bảo đảm tiền vay” chính là “những biện pháp được các TCTD
áp dụng cho các hoạt động tín dụng của mình với mục đích làm tăng khả năng thu hồi
khoản tiền đã cho vay”.
Với định nghĩa trên, ta thấy bảo đảm tiền vay có ba vai trị chính và quan trọng
nhất, đó là:
Thứ nhất, bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý để các TCTD thu hồi khoản nợ của
khách hàng đối với mình.
Trước khi cho vay một khoản tiền, các TCTD thường yêu cầu khách hàng của
mình phải đảm nảo cho khoản tiền vay bằng tài sản để lương trước sự rủi ro trong hoạt
động kinh doanh của khách hàng. Thơng qua hợp đồng tín dụng, hai bên thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Trường hợp khách hàng
vay khơng có khả năng trả nợ, ngân hàng có tồn quyền quyết định việc xử lý tài sản

bảo đảm đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và sử dụng tài sản đó để khấu trừ vào


7

khoản nợ của khách hàng. Để hoạt động kinh doanh tiến hành thuận lợi, đảm bảo lợi ích
của các bên, TCTD dùng các biện pháp bảo đảm tiền vay đảm bảo cho ngân hàng thu
hồi nợ.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm giảm rủi ro trong hoạt động tín
dụng của các TCTD.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD là điều không thể tránh khỏi. Các
TCTD cho khách hàng vay tiền với mục đích gián tiếp đầu tư khoản tiền đó, thơng qua
các hoạt động kinh doanh, hoạt động sản xuất, dự án đầu tư… của khách hàng và thu
lợi nhuận từ khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, các dự án kinh doanh, sản xuất hay đầu tư của
khách hàng không phải lúc nào cũng diễn ra sn sẻ và có lợi nhuận. Điều này phụ
thuộc vào sự biến động của thị trường và cơ hội kinh doanh của khách hàng, là những
yếu tố khó đốn trước (mặc dù khi đi vay, khách hàng ln đưa ra lý do thuyết phục
nhất, thể hiện khả năng thu lời cao nhất để TCTD cho mình vay tiền). Vì vậy, ngân
hàng cần áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để đảm bảo rằng trong trường hợp khách
hàng của mình khơng thể trả khoản nợ đã vay, ngân hàng vẫn có thể thu hồi khoản tiền
đã cho vay (một phần hoặc tất cả khoản vay). Bảo đảm tiền vay là biện pháp giúp ngân
hàng giảm rủi ro trong hoạt động cho vay tài chính của mình.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay bảo vệ quyền lợi và hạn chế tranh chấp xảy ra giữa
các bên tham gia hoạt động tín dụng.
Trong hợp đồng tín dụng được kí kết giữa khách hàng và các TCTD, các bên có
quyền thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với tài sản bảo đảm.
Trong trường hợp khách hàng khơng trả nợ được khoản tiền đã vay, TCTD có toàn
quyền đối với tài sản bảo đảm theo như đã thỏa thuận trong hợp đồng và quyền lợi của
TCTD sẽ không bị xâm phạm. Tranh chấp giữa khách hàng vay và TCTD cũng sẽ được
hạn chế bởi các bên chỉ bị xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận đã nêu trước đó trong

hợp đồng tín dụng.
1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản.
Hiện nay trong các văn bản pháp luật hiện hành, không một văn bản nào đưa ra
định nghĩa về “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản”. Căn cứ vào cách giải thích từ
ngữ quy định tại Điều 2 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ta có thể hiểu “biện pháp bảo đảm
tiền vay bằng tài sản” chính là việc sử dụng tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.


8

Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định rõ các biện pháp nào là biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản, tuy nhiên Khoản 1 Điều 3 Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP
lại quy định: “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản
của khách hàng vay; Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.”
Về bản chất, bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính là việc bên bảo đảm xác nhận
trong hợp đồng tín dụng về quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản mà bên bảo
đảm đưa ra để bảo đảm cho khoản vay của mình, trong trường hợp bên bảo đảm khơng
thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Bên nhận bảo đảm sẽ có tồn quyền quyết định đối với
tài sản đó. Nếu bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp chính tài sản của khách hàng
vay thì đối tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của
người bảo đảm. Tài sản đó được đem ra bảo đảm cho chính nghĩa vụ trả nợ của người
đó đối với ngân hàng. Nếu bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo
lãnh thì đối tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là sự cam kết. Khi nghĩa vụ đã cam kết
giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo đảm bị vi phạm thì bên bảo lãnh mới sử dụng
tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nếu bảo đảm tiền vay
bằng tài sản hình thành từ vốn vay thì tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương
lai.
Như vậy, nhìn chung các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản có những đặc

điểm sau:
Thứ nhất: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là sự thỏa thuận của các
bên tham gia quan hệ tín dụng.
Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi, bổ sung năm 2004 quy định:
“TCTD có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc khơng có
bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và
chịu trách nhiệm về quyết định của mình. TCTD khơng được cho vay trên cơ sở cầm cố
bằng cổ phiếu của chính TCTD cho vay.”
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hồn tồn khơng bắt buộc, và
phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, các bên
thỏa thuận để bảo đảm quyền lợi của mình khơng bị xâm phạm khi một bên vi phạm
hợp đồng tín dụng.


9

Thứ hai: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp mang tính
dự phịng.
Tính dự phịng của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thể hiện ở chỗ
tài sản bảo đảm chỉ được đem ra xem xét và giải quyết khi người đi vay không thực
hiện được nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình đối với bên cho vay.
Tính dự phịng này giúp kích thích người đi vay nâng cao nghĩa vụ trả nợ của mình. Tài
sản của họ sẽ không bị xử lý nếu họ thực hiện đúng theo thỏa thuận đã nêu trong hợp
đồng bảo đảm tiền vay, hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Các loại biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định tại Khoản 1 điều
318 BLDS 2005. Trên thực tế có những biện pháp sau: cầm cố, thế chấp bằng tài sản
của khách hàng; bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay, là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được ngân hàng
áp dụng:

- Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 BLDS 2005).
Việc chuyển giao tài sản bảo đảm trong cầm cố là chuyển giao thực tế, do đó chỉ
được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản khi bên nhận cầm cố hoặc người
thứ ba được bên nhận cầm cố ủy quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản cầm cố có thể
do bên nhận cầm cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ ba giữ tài sản.
(Điều 16 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
- Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây
gọi là bên nhận thế chấp) và khơng chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp
(khoản 1 Điều 342 BLDS 2005).
Hợp đồng cầm cố tài sản và thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, ghi rõ
giá trị tài sản và thời hạn đảm bảo.
Có hai điểm khác biệt quan trọng giữa hai biện pháp cầm cố và thế chấp mà ta
cần lưu ý như sau:


10

Thứ nhất: Việc chuyển giao tài sản: Nếu áp dụng biện pháp cầm cố thì tài sản
phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ.
BLDS 2005 không căn cứ vào việc phân biệt tài sản bảo đảm là động sản hay bất
động sản để quy định hình thức hợp đồng bảo đảm là cầm cố hay thế chấp, mà căn cứ
vào tiêu chí là khả năng dịch chuyển của tài sản. Nếu là cầm cố tài sản thì phải chuyển
giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố. Cịn nếu là thế chấp tài sản thì không
phải chuyển giao tài sản từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp mà bên thế chấp
chỉ phải giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng của mình đối với tài sản
cho bên nhận thế chấp.
Thứ hai: Người thứ ba giữ tài sản cầm cố và người thứ ba giữ tài sản thế chấp.

Trong trường hợp thế chấp, việc người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải do cả hai
bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận và thống nhất ý kiến, đồng thời người này
có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 352 và Điều 353 BLDS 2005. Còn
trường hợp cầm cố, việc người thứ ba giữ tài sản hồn tồn do ý chí của bên nhận cầm
cố thông qua việc ủy quyền. Thực chất, quan hệ giữa bên nhận cầm cố và người thứ ba
giữ tài sản cầm cố là quan hệ độc lập mang tính chất của hợp đồng gửi giữ tài sản. Do
đó, ngay cả khi người thứ ba giữ tài sản thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm
trước bên cầm cố về việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 332 BLDS
2005 và các nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa thuận.
- Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa
vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận
về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361 BLDS 2005).
Thông qua biện pháp bảo lãnh, chủ nợ (bên có quyền) có được một con nợ dự bị
(bên có nghĩa vụ), bên cạnh con nợ chính. Trong quan hệ tín dụng, khách hàng vay trở
thành con nợ của ngân hàng thơng qua hợp đồng cho vay. Đó là con nợ chính. Cịn
người bảo lãnh cho khách hàng vay sẽ phải thực hiện nghĩa vụ như con nợ, nếu con nợ
khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, dựa trên cam kết bảo lãnh. Đó chính là con
nợ dự bị.


11

Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một quan hệ độc lập, có thể
phát sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong trường hợp bảo lãnh có thù lao)
hoặc phát sinh từ quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Bên bảo lãnh phải có tài sản
lớn hơn tài sản mà họ đứng ra bảo lãnh.

Thay đổi về các biện pháp bảo lãnh.
BLDS 2005 không định nghĩa “bảo lãnh bằng tài sản” như các văn bản trước đây
và cũng khơng có quy định về việc cấm các bên xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự theo hình thức “bảo lãnh bằng tài sản” và trong trường hợp
này gọi là bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.
BLDS 2005 đưa ra quy định riêng về xử lý tài sản bảo lãnh. Điều 369 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được
bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nghĩa vụ thì bên
bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh”.
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay và các điều kiện về tài sản bảo đảm.
1.3.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay.
Với ba vai trị chính và quan trọng của bảo đảm tiền vay như đã phân tích tại
Phần 1.1 – Chương I (là cơ sở pháp lý để các TCTD thu hồi khoản nợ của khách hàng
đối với mình và là biện pháp giúp giảm rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD),
biện pháp bảo đảm tiền vay được hầu hết tất cả các ngân hàng và các TCTD hiện nay áp
dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản lại được ưu tiên sử dụng rộng rãi và thường xuyên
hơn cả. Các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản có độ an toàn cao hơn những khoản vay
áp dụng các biện pháp bảo đảm khác. Trường hợp có vi phạm hợp đồng và có tranh
chấp giữa bên vay (khách hàng) và bên cho vay, thì độ rủi ro của khoản vay có tài sản
bảo đảm cũng giảm thấp hơn so với các khoản vay khơng có tài sản bảo đảm. Với sự
biến động khó lường của thị trường, sự cạnh tranh cao giữa các nhà sản xuất, những
khó khăn khơng thể đốn trước được trong q trình hoạt động kinh doanh … khiến
thua lỗ, phá sản có khả năng xảy ra cao. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản sẽ
tăng độ an toàn cho các khoản vay, hạn chế các tổn thất của các TCTD khi khách hàng


12

khơng có khả năng trả nợ cho khoản tiền mình đã vay. Như vậy, tài sản bảo đảm đóng

vai trị quan trọng, chủ yếu nhất trong hoạt động cho vay của các TCTD.
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP định nghĩa về tài sản bảo đảm như
sau: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự đối với bên nhận bảo đảm”.
Tài sản được dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay rất phong phú và đa dạng. Ngoài
các loại tài sản được quy định tại BLDS 2005: Bất động sản và động sản; quyền tài sản,
hiện nay pháp luật Việt Nam cũng cho phép sử dụng tài sản hình thành trong tương lai
làm tài sản bảo đảm nghĩa vụ. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định:
“Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời
điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành
trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch
bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên
bảo đảm.”
Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong
tương lai thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc tồn bộ tài sản bảo đảm,
bên nhận bảo đảm có các quyền đối với một phần hoặc tồn bộ tài sản đó. Ví dụ: “Ngân
hàng nhận bảo đảm bằng cơng trình xây dựng hình thành trong tương lai, thì khi bên
bảo đảm hồn thành hạng mục nào của cơng trình, ngân hàng cũng có ngay quyền xử lý
đối với hạng mục đó để thu hồi nợ, chứ không phải chờ đến khi cơng trình được hồn
thành đồng bộ mới được coi là tài sản bảo đảm.”
Đối với tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm
chưa đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý. Ví dụ:
“Ngân hàng tài trợ vốn để xây dựng nhà ở và nhận bảo đảm bằng chính ngơi nhà sẽ
được xây, thì ngân hàng có quyền xử lý ngơi nhà để thu hồi nợ kể cả khi con nợ chưa
làm thủ tục cấp sổ hồng.”
Tài sản hình thành trong tương lai là đối tượng của quan hệ thế chấp. Bên thế
chấp có nghĩa vụ tạo điều kiện để bên nhận thế chấp thực hiện quyền giám sát, kiểm tra
quá trình hình thành tài sản. Việc giám sát, kiểm tra của bên nhận thế chấp khơng được
cản trở hoặc gây khó khăn cho việc hình thành tài sản.
“Tài sản hình thành từ vốn vay” về bản chất chính là tài sản hình thành trong

tương lai, tuy nhiên giá trị tài sản được tạo nên bởi một phần hoặc toàn bộ khoản vay
của khách hàng vay. Trên thực tế, ngân hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn


13

vay để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đã được đầu tư vào tài sản đó, đặc
biệt, lại phải xác định số tiền vay cho phù hợp với quy định số tiền vay phải nhỏ hơn
giá trị tài sản đem bảo đảm. Xảy ra tình trạng này là vì tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ
vay, ngân hàng chỉ có thể đánh giá tài sản hình thành trong tương lai thông qua các hồ
sơ, giấy tờ liên quan mà khách hàng vay cung cấp, tuy nhiên giá trị tài sản hình thành
trong tương lai lại thay đổi lên xuống khó lường tùy theo biến động của thị trường.
Chính vì vậy, các ngân hàng và TCTD thường thắt chặt hạng mục cho vay thế chấp
bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
1.3.2. Các điều kiện để tài sản trở thành tài sản bảo đảm.
Như đã phân tích tại phần 1.3.1, tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành rất phong phú và đa dạng, nhưng không phải tất cả các loại tài sản đều có thể
được sử dụng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Để trở thành tài sản bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ thì tài sản phải thoả mãn một số điều kiện sau:
Thứ nhất: Tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền sở hữu hợp
pháp của bên bảo đảm (Điều 320 BLDS 2005).
“Điều 320 BLDS 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo
đảm và được phép giao dịch.
2. Vật dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình
thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở
hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm
được giao kết.”
Điều kiện này được đặt ra bởi trên thực tế, khi bên bảo đảm không thực hiện
được nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm thì tài

sản bảo đảm lúc này sẽ bị đưa ra phát mại để thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng
tín dụng. Do đó, tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Để chứng minh được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, bên bảo đảm phải
xuất trình các giấy tờ, tài liệu, và các văn bản có liên quan thể hiện quyền sở hữu hợp
pháp của mình đối với tài sản đó.
Tài sản thuộc sở hữu của nhiều người đem ra làm tài sản bảo đảm phải được cam
kết bằng văn bản của các đồng sở hữu và tài sản đó khơng có tranh chấp.
Tài sản thuộc sở hữu tập thể, tài sản của doanh nghiệp liên doanh, công ty cổ
phần, cơng ty TNHH phải có nghị quyết bằng văn bản của Hội đồng quản trị hoặc Đại


14

hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên đồng ý và ủy quyền cho người đại diện vay
vốn và ký hợp đồng bảo đảm. Tài sản của hộ gia đình phải có cam kết đồng ý của các
đồng sở hữu trong gia đình.
Tuy nhiên, có một ngoại lệ nằm ngoài quy định này. Đối với Doanh nghiệp Nhà
nước khi cầm cố tài sản của nhà nước giao cho doanh nghiệp để vay vốn ngân hàng thì
tài sản đó chỉ phải thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp đó và là tài
sản được dùng để bảo đảm tiền vay (khoản 3 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
Thứ hai: Tài sản bảo đảm tiền vay phải được phép giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của
pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm. Tài sản bị hạn chế giao dịch, lưu
thông với những điều kiện nhất định thì vẫn được coi là tài sản được phép giao dịch,
nhưng khi xử lý tài sản bảo đảm thì phải tn thủ đầy đủ điều kiện đó.
Điều kiện này bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm. Trong trường hợp
bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên
nhận bảo đảm vẫn giữ được quyền và lợi ích của mình. Nếu tài sản bảo đảm thuộc loại
tài sản bị pháp luật cấm giao dịch, bên nhận bảo đảm sẽ không được đảm bảo về mặt
pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm và sẽ gặp nhiều tổn thất. Do đó, tài sản bảo đảm phải

là tài sản được phép giao dịch.
Thứ ba: Tài sản không có tranh chấp.
Bên bảo đảm phải chứng minh và cam kết bằng văn bản về tình trạng khơng có
tranh chấp quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo
đảm tiền vay.
Thứ tư: Giá trị tài sản bảo đảm tiền vay có thể lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá
trị nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 5 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
Các quan hệ bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của các bên và được ghi nhận
trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm. Chính vì vậy pháp luật hiện nay
khơng đưa ra giới hạn cụ thể cho giá trị tài sản bảo đảm được các bên thỏa thuận. Điều
5 Nghị định 163/206/NĐ-CP quy định: “Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để
bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 324 Bộ luật
Dân sự thì các bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn
tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”


15

Những tài sản bảo đảm thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ được dùng để bảo đảm
tiền vay tại các TCTD. Riêng đối với tài sản bảo đảm là giá trị quyền sử dụng đất thì
điều kiện của tài sản bảo đảm sẽ do pháp luật về đất đai quy định.
Việc không ấn định tỉ giá cụ thể giữa khoản tiền vay và giá trị tài sản bảo đảm đã
mở rộng hơn quyền tự do kinh doanh của các TCTD, phần nào đó tạo ra những cơ hội
mới để các TCTD cạnh tranh bình đẳng với nhau.
2. Các biện pháp bảo đảm tài sản bằng tiền vay theo quy định của pháp luật hiện
hành.
2.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay và của
bên bảo lãnh.
2.1.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng
vay và của bên bảo lãnh.

Cùng với những nguyên tắc chung của bảo đảm tiền vay bằng tài sản, mỗi biện
pháp bảo đảm tiền vay cụ thể lại có những nguyên tắc riêng nhất định. Những nguyên
tắc này mang tính định hướng, buộc các bên bảo đảm (bao gồm khách hàng vay là bên
cầm cố, thế chấp tài sản và bên bảo lãnh) và bên nhận bảo đảm (ngân hàng và các
TCTD) phải tuân theo khi tham gia vào quan hệ tín dụng bảo đảm tiền vay bằng cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh (bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba).
Nghị định 163/2006/NĐ-CP hiện nay khơng có điều luật cụ thể nào quy định về
các nguyên tắc của bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay,
bảo lãnh của bên thứ ba. Tuy nhiên, trên thực tế, khi tham gia vào các quan hệ tín dụng
bảo đảm tiền vay, các bên thường tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Khi vay tiền tại ngân hàng và các TCTD, khách hàng phải đem tài sản
của mình ra cầm cố, thế chấp, hoặc phải được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đồi với ngân hàng, các TCTD, trừ trường hợp được
TCTD cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đây là ngun tắc đầu
tiên trong mọi giao dịch tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.
Thứ hai: Việc lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp
của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba giữa khách hàng vay và ngân hàng,
các TCTD phải được lập thành văn bản cụ thể.


16

Thứ ba: TCTD có quyền quyết định lựa chọn tài sản đủ điều kiện để làm bảo
đảm cho khoản vay của mình cũng như quyết định lựa chọn bên thứ ba bảo lãnh bằng
tài sản cho khách hàng vay.
Thứ tư: Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình, tài
sản là giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng đối với bên bảo
lãnh là Doanh nghiệp Nhà nước. TCTD và bên bảo lãnh có thể thoả thuận việc áp dụng
hoặc không áp dụng biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp bên bảo lãnh là TCTD thì việc thực hiện bảo

lãnh theo quy định về bảo lãnh ngân hàng quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 1997,
sửa đổi bổ sung năm 2004 và các quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ năm: Đối với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất có đủ điều
kiện làm tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của pháp luật thì việc thế chấp, bảo
lãnh đồng thời cả giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hay tách rời là do
các bên thoả thuận. Trường hợp các bên thoả thuận thế chấp, bảo lãnh tách rời giữa tài
sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất thì TCTD nhận bảo đảm phải có khả
năng quản lý tài sản trong q trình cho vay và xử lý được tài sản đó để thu hồi nợ nếu
khách hàng vay không trả được nợ.
2.1.2. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng
vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là công cụ để thực hiện giao dịch bảo đảm, tạo ra
mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay. Hợp đồng bảo đảm tiền vay là
cơ sở pháp lý, trong đó quy định cụ thể các điều khoản mà hai bên đã thoả thuận để
thực hiện việc cho vay, quản lý và sử dụng khoản vay, tài sản bảo đảm, phương thức thu
hồi nợ, biện pháp xử lý tài sản bảo đảm và phương thức giải quyết tranh chấp (nếu có).
Điều 327 và Điều 343 BLDS 2005 quy định: “hợp đồng cầm cố, thế chấp phải
được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính”.
Trong trường hợp pháp luật có quy định thì hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được cơng
chứng, chứng thực hoặc đăng ký. Ngồi ra, Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 1997,
sửa đổi bổ sung năm 2004 và Điều 17 Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng (sau đây gọi là Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN) quy định nội
dung chính của hợp đồng tín dụng phải có nội dung về hình thức bảo đảm tiền vay, giá


17

trị tài sản bảo đảm và phương thức xử lý tài sản bảo đảm... Như vậy, TCTD hồn tồn

có thể đưa các nội dung chủ yếu của biện pháp bảo đảm vào hợp đồng tín dụng mà
khơng cần phải lập thành văn bản riêng. Điều này giúp bộ hồ sơ cho vay của TCTD vừa
đảm bảo căn cứ pháp lý vừa đơn giản.
Bên cạnh việc ghi nhận hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được lập thành văn bản,
pháp luật đã dành cho các bên (bên nhận cầm cố, thế chấp và bên cầm cố, thế chấp)
quyền được thoả thuận công chứng hay chứng thực hợp đồng cầm cố, thế chấp ngoại
trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp một tài sản được cầm cố, thế chấp để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ trả nợ tại các TCTD thì mỗi lần cầm cố, thế chấp phải được lập thành văn bản
và việc cầm cố phải được đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngồi ra, bên
cầm cố, thế chấp phải thơng báo cho TCTD nhận cầm cố, thế chấp tiếp theo về các lần
bảo đảm trước đó, nếu khơng thơng báo thì phải bồi thường khi có thiệt hại xảy ra cho
bên bị thiệt hại (Điều 324 BLDS 2005). Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Nghị
định 08/2000/NĐ-CP) quy định các trường hợp sau phải đăng ký tại cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm:
“ a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký
quyền sở hữu;
b) Việc cầm cố, thế chấp tài sản không thuộc quy định tại điểm a, khoản 1 Điều
này nhưng các bên thoả thuận bên cầm cố, bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản;
c) Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ;
d) Văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm”.
Hợp đồng cầm cố, thế chấp đã đăng ký thì có giá trị pháp lý đối với người thứ
ba, kể từ thời điểm đăng ký cho đến khi hết hiệu lực đăng ký. Tuy nhiên, việc đăng ký
và Giấy chứng nhận đăng ký giao dịch bảo đảm khơng có giá trị xác nhận tính xác thực
của giao dịch bảo đảm (hợp đồng cầm cố, thế chấp). Nghĩa là, nếu hợp đồng cầm cố,
thế chấp vơ hiệu thì việc trước đó hợp đồng cầm cố, thế chấp đã đăng ký giao dịch bảo
đảm cũng không làm cho hợp đồng đó trở nên có hiệu lực.
Hợp đồng cầm cố, thế chấi có những nội dung chính sau:
- Ngày, tháng, năm, địa điểm ký hợp đồng;

- Tên, địa chỉ các bên;


18

- Nghĩa vụ được bảo đảm: nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay đối với TCTD.
Nghĩa vụ này bao gồm tiền vay (nợ gốc), lãi vay, lãi quá hạn, các khoản phí (nếu có)
được ghi trong hợp đồng tín dụng mà khách hàng vay phải trả theo quy định của pháp
luật, trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi vay, lãi q hạn, các khoản phí (nếu có)
khơng thuộc phạm vi bảo đảm nghĩa vụ;
- Mô tả tài sản cầm cố, thế chấp;
- Giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp;
- Bên giữ tài sản, giấy tờ của tài sản cầm cố, thế chấp;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên;
- Các thoả thuận về trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế
chấp;
- Các thoả thuận khác.
(Căn cứ vào Phụ lục I - Mẫu hợp đồng thế chấp)
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là một hợp đồng song vụ và các bên trong hợp đồng
đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Các bên phải thực hiện đúng những điều
khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng.
2.2. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Ngồi biện pháp bảo đảm tiền vay phổ biến bằng tài sản cầm cố, thế chấp của
khách hàng vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, ngân hàng và các TCTD cịn sử
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay khác đó là biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
hình thành từ vốn vay.
Khoản 3 Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 và
Điều 320 BLDS 2005 cũng ghi nhận các quy định cho phép dùng tài sản hình thành
trong tương lai để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Tuy khắc phục được nhược điểm phiền hà và tốn kém của biện pháp cầm cố, thế

chấp tài sản, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay vẫn có
những nhược điểm riêng của nó. Cụ thể, nó mang độ rủi ro cao hơn so với các biện
pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản thông thường khác. Lý do của nhược điểm này là do
tài sản chưa có thực tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm mà sẽ được hình thành
trong tương lai. Việc xác định giá trị của tài sản hình thành trong tương lai rất khó khăn
bởi khơng thể chắc chắn tài sản trong tương lai sẽ có giá trị như lúc giao kết hợp đồng
đã nhận định. Sự khác nhau về hoàn cảnh kinh tế và xã hội sẽ dẫn đến giá trị của tài sản
hình thành trong tương lai có thể tăng lên hoặc giảm đi. Bởi nhược điểm trên mà ngân


19

hàng và các TCTD rất chặt chẽ trong việc cho vay với tài sản bảo đảm là tài sản hình
thành từ vốn vay. Khi ký hợp đồng bảo đảm tiền vay hình thành từ vốn vay, ngân hàng
và TCTD thường giữ các giấy tờ để xác minh quyền sở hữu hợp pháp của chủ sở hữu
tài sản đó. Hiện nay pháp luật cũng có rất nhiều quy định cụ thể về biện pháp cho vay
với tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay nhằm mục đích bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên tham gia giao kết hợp đồng bảo đảm.
Như vậy, pháp luật hiện nay quy định nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản (cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay hoặc của bên bảo lãnh, tài sản
bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn vay). Việc áp dụng biện pháp bảo đảm nào là do
thỏa thuận giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng bảo đảm. Các bên thỏa thuận sử
dụng biện pháp bảo đảm phù hợp nhất với mình và đồng thời vẫn bảo đảm được quyền
và lợi ích của đối tác cịn lại.
II/ XỬ LÝ TÀI SẢN VÀ NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH.
1. Xử lý tài sản bảo đảm.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xử lý tài sản bảo đảm.
Xử lý tài sản bảo đảm chính là việc ngân hàng và các TCTD thực hiện các biện
pháp đối với tài sản bảo đảm tiền vay của khách hàng để thu hồi nợ. Trong các văn bản

pháp luật đã ban hành cho tới thời điểm này, chưa có một văn bản nào đưa ra định nghĩa
cụ thể và chính xác về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
Khoản 1 Điều 56 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định trường hợp xử lý tài sản
bảo đảm khi: “Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Tài sản bảo đảm tiền vay phải được xử
lý theo các phương thức mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên
không xử lý được theo phương thức thức đã thoả thuận, TCTD có quyền bán, chuyển
nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ, xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Như vậy, xử lý tài sản bảo đảm là một giai đoạn trong tồn bộ q trình bảo đảm
tiền vay bằng tài sản. Trong giai đoạn này, ngân hàng và các TCTD sẽ thực hiện các
biện pháp đối với tài sản bảo đảm để thu hồi khoản nợ mà mình đã cho vay có sự vi


20

phạm nghĩa vụ của khách hàng vay, bên bảo lãnh theo những cam kết đã thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản trong quan hệ tín dụng thực chất là một bộ phận
của bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bởi: quan hệ bảo đảm tiền vay được thiết lập
trên cơ sở thỏa thuận của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm về việc áp dụng các biện
pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (vì trả nợ vay là một loại nghĩa vụ dân sự). Mục
đích thực hiện các biện pháp bảo đảm đều nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ đối với bên có quyền.
*) Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nhằm mục đích thu hồi khoản nợ của TCTD đã
cho khách hàng vay khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ.
Khi ngân hàng và các TCTD cho khách hàng vay tiền, họ biết rằng có thể sẽ có
những rủi ro bất ngờ xảy ra cho khách hàng của mình và dẫn đến việc thu hồi nợ của
mình gặp nhiều khó khăn, có thể là khơng thể thu hồi lại vốn đã cho vay ban đầu. Chính
vì vậy tài sản bảo đảm được sử dụng để đảm bảo ngân hàng và các TCTD có thể thu hồi

khoản vay đã cấp cho khách hàng.
Việc xử lý tài sản bảo đảm khơng phải là mục đích mà ngân hàng và các TCTD
hướng tới khi họ cho khách hàng vay tiền. Chỉ khi bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ với
bên nhận bảo đảm thì xử lý tài sản bảo đảm mới được xét đến nhằm mục đích thu hồi
nợ. Xử lý tài sản bảo đảm cần được thực hiện một cách nhanh chóng để TCTD có thể
đảm bảo khả năng thanh tốn, khả năng chi trả và cấp tín dụng cho nền kinh tế.
*) Chủ thể của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đa dạng và được trao quyền
mạnh mẽ hơn chủ thể trong việc xử lý tài sản bảo đảm thông thường.
Việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp trong các giao dịch dân sự thường thơng qua
việc u cầu các cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá nếu các bên khơng có thỏa thuận
khác. Tuy nhiên, trong hoạt động cho vay của ngân hàng và các TCTD thì việc xử lý tài
sản bảo đảm địi hỏi phải nhanh chóng bởi nó là nguồn cung ứng vốn năng động cho
nền kinh tế. Ngân hàng và các TCTD được thành lập và hoạt động với những điều kiện
cấp phép chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, chịu sự giám sát
thường xuyên trong hoạt động nghiệp vụ, kể cả việc cho vay và bảo đảm tiền vay.
Chính vì vậy, ngân hàng và các TCTD là chủ thể được trao quyền tương đối lớn so với
các chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm trong giao dịch dân sự, kinh tế khác.
Mặt khác, trên thực tế hiện nay, lượng khách hàng của ngân hàng và các TCTD
là rất lớn và không ngừng tăng lên. Việc vi phạm hợp đồng tín dụng có khả năng xảy ra


21

cao. Vì vậy, nếu ngân hàng và các TCTD cũng áp dụng hoàn toàn việc xử lý tài sản bảo
đảm theo con đường thông thường, thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc
huy động và quay vịng vốn của các TCTD sẽ bị chậm trễ, dẫn đến nghẽn tắc trong hoạt
động huy động vốn của TCTD. Việc trong cho ngân hàng và các TCTD quyền hạn cụ
thể, đặc biệt và lớn hơn so với các chủ thể có chức năng xử lý tài sản bảo đảm trong
giao dịch dân sự, kinh tế khác là hoàn toàn hợp lý. Tất nhiên, những trường hợp xử lý
tài sản bảo đảm mà pháp luật có quy định cụ thể riêng biệt thì các TCTD vẫn phải tuân

theo quy định của pháp luật, không được tự ý xử lý tài sản bảo đảm theo ý chí riêng của
một bên.
*) Thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phát sinh khi có sự vi phạm nghĩa vụ
Về nguyên tắc, việc xử lý tài sản trong giao dịch dân sự được phát sinh khi đến
hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ vi phạm cam kết. Trước thời hạn đó, nếu
các bên khơng có thoả thuận thì bên có quyền không được xử lý tài sản bảo đảm. Tuy
nhiên, trong quan hệ tín dụng ngân hàng, nghĩa vụ được bảo đảm rộng hơn, bao gồm
nghĩa vụ trả nợ vay khi đến hạn, nghĩa vụ sử dụng vốn vay đúng mục đích của khách
hàng, nghĩa vụ cung cấp thơng tin về việc sử dụng vốn của khách hàng và nghĩa vụ thực
hiện các cam kết khác.(1) Vì vậy, trong bảo đảm tiền vay thì thời điểm phát sinh xử lý tài
sản bảo đảm sẽ xảy ra khi đến hạn trả nợ mà khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ
hoặc khi khách hàng vay vi phạm các cam kết khác về việc sử dụng vốn với TCTD thì
việc xử lý tài sản không cần phải đợi đến thời điểm khoản nợ đến hạn trả nợ.
Tóm lại, với các đặc điểm của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay đã đặt ra yêu
cầu về việc xây dựng cơ chế điều chỉnh, cơ chế hỗ trợ xử lý tài sản bảo đảm trong lĩnh
vực tín dụng ngân hàng vừa đảm bảo nguyên tắc cơ bản chung của giao dịch bảo đảm,
vừa phù hợp với đặc điểm riêng của việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.

(1)

Đào Minh Tú: “Rủi ro và quản lý rủi ro trong hợp đồng tín dụng”. Tạp chí Ngân hàng số 4/2006

1.2. Các nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm
Việc xử lý bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các TCTD được thực hiện theo
các nguyên tắc cơ bản sau:
*) Nguyên tắc thoả thuận


22


Bản chất của quan hệ bảo đảm tiền vay là một quan hệ hợp đồng nên quan hệ
bảo đảm tiền vay cũng được hình thành trên cơ sở thoả thuận. Đó là sự thoả thuận giữa
TCTD và khách hàng vay về các biện pháp bảo đảm tiền vay và các phương thức xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay khi khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ trong hợp đồng tín
dụng hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Nguyên tắc thỏa thuận được thể hiện ở các điểm sau:
- Thoả thuận về việc xử lý tài sản được thiết lập tại thời điểm ký kết hợp đồng
bảo đảm tiền vay. Đây là cơ sở pháp lý để xử lý tài sản bảo đảm tiền vay.
- Thoả thuận được thiết lập tại thời điểm xử lý tài sản. Điều đó có nghĩa là tại
thời điểm xử lý tài sản bảo đảm tiền vay các bên vẫn có thể thoả thuận khác với thoả
thuận ban đầu hoặc bổ sung mới, hoặc thậm chí có thể thay thế tài sản bảo đảm nếu các
bên có thoả thuận.
- Trường hợp các bên có thoả thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm nhưng
không thoả thuận cụ thể về việc xử lý tài sản bảo đảm thì về ngun tắc các TCTD vẫn
có quyền xử lý tài sản bảo đảm khi khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ. Trong trường
hợp này, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, tài sản bảo đảm sẽ được xử
lý thông qua bên thứ ba (có thể là tồ án hoặc trọng tài).
*) Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao
dịch bảo đảm tiền vay
Nguyên tắc này được quy định rõ trong Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLTNHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC, theo đó việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước hết
phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các TCTD vì các TCTD có một vai trị
quan trọng trong hoạt động huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân (mục I phần A
những quy định chung trong TTLT 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BTC-TCĐC).
Khách hàng vay khi cần lượng vốn lớn nằm ngồi khả năng của mình thì mới
đến ngân hàng và các TCTD để thỏa thuận một khoản vay. Điều này khiến khách hàng
vay thường lâm vào thế bị động bởi họ là người cần tiền, cịn ngân hàng và các TCTD
lại là người có quyền quyết định khoản vay. Các TCTD sẽ dễ dàng đưa ra các yêu cầu
không hợp lý và bất lợi cho khách hàng vay. Ngược lại, nếu ngân hàng khơng có các
biện pháp bảo đảm thì bản thân ngân hàng sẽ gặp nhiều rủi ro bởi có khả năng rơi vào
tình trạng mất mát vốn. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của cả bên đi vay và bên cho vay.


23

Nguyên tắc này đòi hỏi việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay cần có quy trình cụ
thể, chặt chẽ hoặc xử lý tài sản thông qua bên thứ ba (có thể là trọng tài hoặc tồ án).
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm khi xử lý cũng cần được pháp luật quy định nhằm
bảo đảm mức giá xử lý tài sản hợp lý, đồng thời tôn trọng sự thoả thuận, cho phép bên
bảo đảm được tham gia quá trình xử lý tài sản.
*) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm công khai, khách quan
Nguyên tắc này vừa đảm bảo không mất vốn và thu nợ tối đa của TCTD, vừa
bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên bảo đảm có tài sản bị đưa ra xử lý thơng qua
phương thức bán cơng khai, có sự tham gia của bên thứ ba hoặc giao cho bên thứ ba xử
lý tài sản.
*) Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm nhanh chóng
Đây là một nguyên tắc cần thiết trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để đảm bảo
khả năng thanh toán, chi trả của TCTD, đồng thời hạn chế triệt để thiệt hại cho TCTD
và khách hàng vay do tài sản bảo đảm bị xuống cấp, hư hỏng, mất giá, không luân
chuyển được nguồn vốn và khách hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản vay tại ngân
hàng.
Tóm lại, việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của ngân hàng và các TCTD cần
phải tuân thủ các nguyên tắc trên. Điều này đóng vai trị quan trọng trong việc bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm tiền vay.
2. Các quy định về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của pháp luật hiện hành.
2.1. Thủ tục xử lý tài sản bảo đảm.
Xử lý tài sản bảo đảm là một khâu quan trọng trong toàn bộ quá trình cho vay
của các NHTM và các TCTD. Theo quy định tại Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP,
thời điểm thực hiện xử lý tài sản bảo đảm tiền vay được hiểu là khi đến hạn trả nợ mà

bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho
vay thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm đã thoả thuận trong hợp đồng bảo
đảm, hợp đồng tín dụng.
Các TCTD có thể xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trước hạn trong trường hợp
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Khách hàng là doanh
nghiệp bị phá sản hoặc bị phát hiện việc cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm điều
kiện sử dụng vốn và các cam kết khác tại hợp đồng tín dụng.
Thủ tục cần thiết để thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay bao gồm:


24

- Bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm về việc xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay trước khi tiến hành xử lý tài sản. Nội dung văn bản phải nêu rõ
lý do xử lý tài sản bảo đảm, loại tài sản, phương thức xử lý tài sản bảo đảm, giá trị
nghĩa vụ được bảo đảm tại thời điểm tiến hành xử lý tài sản bảo đảm, thời hạn và địa
điểm chuyển giao tài sản.
- Bên nhận bảo đảm phải đăng ký thông báo xử lý tài sản bảo đảm tại cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm (điểm d khoản 1 Điều 2 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP).
- Bên bảo đảm phải có trách nhiệm kết hợp với bên nhận bảo đảm thực hiện bàn
giao tài sản bảo đảm. Trường hợp bên bảo đảm cố tình giữ tài sản bảo đảm, khơng giao
tài sản cho bên nhận bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền can thiệp buộc bên bảo đảm phải giao tài sản bảo đảm.
- Thời hạn xử lý tài sản bảo đảm được các bên thoả thuận. Nếu khơng có thoả
thuận thì người xử lý tài sản có quyền quyết định về thời hạn xử lý, nhưng không được
trước 7 ngày đối với động sản hoặc 15 ngày đối với bất động sản, kể từ ngày thông báo
về việc xử lý tài sản bảo đảm, trừ trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị mất giá trị
hoặc giảm sút giá trị, quyền địi nợ, giấy tờ có giá, vận đơn thì người xử lý tài sản có
quyền xử lý ngay. (Khoản 2 Điều 61 và Điều 62 Nghị định 163/2006/NĐ-CP).
- Sau khi thực hiện thủ tục xử lý tài sản bảo đảm và chuyển nhượng quyền sở

hữu tài sản, chuyển quyền sử dụng đất cho bên mua, bên nhận bảo đảm tiến hành thanh
toán thu nợ từ việc xử lý tài sản và xoá đăng ký xử lý tài sản, xoá đăng ký giao dịch bảo
đảm (khoản 1 Điều 23 Nghị định 08/2000/NĐ-CP).
2.2 Các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.
Biện pháp xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện trước hết theo thoả thuận đã quy
định trong hợp đồng bảo đảm, hợp đồng tín dụng mà bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm
ký kết. Nếu khơng có thoả thuận về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm
có thể lựa chọn các biện pháp sau: (được quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 59 Nghị đinh
163/2006/NĐ-CP)
- Bán tài sản bảo đảm
- Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm.
- Nhận các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba trong trường hợp thế chấp
quyền đòi nợ
2.2.1. Bán tài sản bảo đảm.


25

Bán tài sản bảo đảm là biện pháp thông dụng thường được ngân hàng và các
TCTD sử dụng. Thực tế, các khoản vay của khách hàng từ ngân hàng và TCTD phổ
biến là tiền mặt. Vì vậy, mục đích của ngân hàng và các TCTD là thu lại chính khoản
tiền đã cho vay và lãi suất. Tài sản bảo đảm tiền vay có thể khơng hữu dụng cho ngân
hàng, nhưng họ ln cần tiền để duy trì hoạt động cung cấp vốn của mình. Đồng thời
biện pháp bán tài sản bảo đảm cũng đảm bảo được tính khách quan bởi nó xác định
chính xác nhất giá trị thực của tài sản bảo đảm tại thời điểm bán trên thị trường, giúp
các bên giải quyết nợ một cách nhanh chóng và thuận tiện.
Bán tài sản bảo đảm là việc bên nhận bảo đảm, hoặc bên bảo đảm hoặc các bên
phối hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba bán tài
sản bảo đảm cho người mua. Bên thứ ba này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân và

được thực hiện quyền thu hồi nợ hoặc xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp
luật.
Các chủ thể được bán tài sản bảo đảm bao gồm:
- Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm theo thoả thuận hoặc theo quy định
của pháp luật nếu không xử lý được tài sản theo thoả thuận (trừ trường hợp tài sản bảo
đảm là quyền sử dụng đất và các tài sản khác mà pháp luật quy định phải được tổ chức
bán đấu giá). Trường hợp này, bên nhận bảo đảm phải thông báo công khai về việc bán
đấu giá tài sản bảo đảm trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp ký hợp
đồng bán tài sản bảo đảm.
- Khách hàng vay (bên bảo đảm) hoặc bên bảo lãnh hoặc các bên cùng phối hợp
bán tài sản bảo đảm theo thoả thuận.
- Bên thứ ba bán tài sản bảo đảm theo uỷ quyền của bên nhận bảo đảm hoặc uỷ
quyền của bên bảo đảm (khách hàng vay), bên bảo lãnh. Thủ tục về việc bán tài sản bảo
đảm thông qua trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản
được quy định tại Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về ban
hành quy chế bán đấu giá tài sản (sau đây gọi tắt là Nghị đinh 05/2005/NĐ-CP).
Bên bán tài sản và bên mua tài sản phải thành lập hợp đồng mua bán bằng văn
bản. Bên bán tài sản được trực tiếp ký kết hợp đồng mua bán, chuyển nhượng và làm
các thủ tục chuyển nhượng tài sản.
Nhờ đặc tính chính xác và nhanh gọn, thuận tiện của mình, biện pháp bán tài sản
bảo đảm thường được ngân hàng và các TCTD áp dụng.


×