Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu Sử Thuyết Họ Hùng 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.77 KB, 7 trang )

Sử Thuyết Họ Hùng
Cổ sử Trung Hoa và những dấu?
- Sai lầm lớn nhất của các sử gia Hán tộc là kết cấu lịch sử dân tộc – quốc gia mình một cách máy móc thiếu biện chứng, bỏ quên yếu tố thời gian.




Bản đồ Trung Hoa ngày nay
- Lãnh thổ Trung Hoa tới điểm “hạn” khoảng đầu công nguyên, tức là mốc thời gian mà
lãnh thổ không thể trương nở tự do được vì nó tiến đến một đường biên với các dân tộc,
quốc gia khác, từ điểm này sự xê dịch biên giới luôn là kế quả của một cuộc chiến, với
Trung Hoa từ mốc lịch sử này các cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa Hán tộc và
lân bang đều được ghi vào sách sử.
- Ta thử làm một con tính đơn giản, dân số Trung Hoa đời Tần khoảng 20 triệu người,
2000 năm sau là 1.200 triệu người tức tăng 60 lần, lấy tỉ lệ này ước tính dân số nhà Hạ
trước Tần 2.000 năm, vương triều đầu tiên trong Tam Đại của Trung Hoa, thì dân Trung
hoa liệu có được bao nhiêu người ?; với số dân như vậy dàn trải trên diện tích gần bằng
diện tích Trung Hoa ngày nay là điều không thể có. Lý do rất đơn giản là điều kiện vật
chất kỹ thuật không cho phép, với phương tiện lưu thông chính là đôi chân thì không thể
có một nhà nước mà lãnh thổ rộng tới vài triệu ki-lô mét vuông bao gồm 9 châu: Duyện,
Ký, Thanh, Từ, Dự, Kinh, Dương, Lương, U như đã ấn định trên bản đồ Trung Hoa cổ;
các sử gia Hán tộc đều thành thực tin rằng lãnh thổ Trung Hoa to lớn như thế vì cổ sử
Trung Hoa từ thời vua Chuyên Húc (2513 –n 2345 trước CN), đời vua Nghiêu (2357
trước CN) thậm chí cả đến đời Thần Nông, một vì vua của truyền thuyêt xa xôi lắm, lãnh
thổ Trung Hoa đã tiếp giáp với Giao Chỉ hay Giao Châu, cũng có sách chép là Nam Giao
tức lãnh thổ Việt Nam ngày nay.
- Sử gia Hán tộc đã sai lầm khi tạo nên một lịch sử không có sự phát triển, quốc gia cũng
chỉ là một cơ thể sống, có sinh ra, có lớn lên rồi tới điểm dừng hay hạn. Cũng như con
người sinh ra chỉ khoảng 2 – 3 kg lớn lên tới độ 23 – 25 tuổi là điểm dừng thì nặng
khoảng 50 – 60 kg, còn “Hán Quốc” mới khai sinh đã to bằng tuổi 20 – 25, đã có 9 châu
mênh mông thiên địa …. đúng là thần nhân trong thần thoại….


- Như vậy làm sao ta có thể lý giải một việc rất nhất quán trong cổ sử Trung Hoa. Liên
tiếp từ thời Thần Nông tới Chuyên Húc và sau là vua Nghiêu …, kinh Thư, Thiên Nghiêu
Điển viết: “vua Nghiêu mệnh hy thúc trạch Nam Giao…” Nam Giao, Giao Chỉ là một địa
danh, một vùng đất đã có từ thời Thái cổ trong lịch sử Trung Hoa và liên tục cho đến đời
Tống; vua Tống vẫn phong cho vua Đại Việt là: “Giao Chỉ Quận Vương” trước khi nâng
cấp lên “An Nam Quốc Vương”, sự việc đó chỉ cách nay một ngàn năm và được ghi chép
rõ ràng trong sách sử. Tìm lời giải đáp cho câu hỏi hóc búa nhưng kỳ thú này dẫn dắt đến
một sử thuyết, và khi sử thuyết này được minh chứng sẽ làm đảo lộn toàn bộ lịch sử
Trung Hoa, Việt Nam và Đông Nam Á.
- Chính sử Trung Hoa đều cho rằng thủy tổ dân tộc mình là Bào Hy, Thần Nông. Thần
Nông là kết cấu ngôn ngữ Việt, nếu theo Hán ngữ phải viết là Nông Thần; đây không
phải là trường hợp duy nhất vì ta gặp nhiều trường hợp như thế trong Ngũ Kinh, như: Đế
Ất, Hậu Tắc,… Hậu Nghệ, V.v… Vậy các vua này là vua Việt hay vua Hán? Thêm vào
đó các địa danh của Trung Hoa đầy dẫy ngôn ngữ Việt, như: Hồ Nam, Hồ Bắc, Sơn
Đông, Sơn Tây, … Hán tự dùng ‘sơn hà’ là ‘núi’ và ‘sông’ để chỉ lãnh thổ quốc gia, như
sông phương bắc, sông phương nam, núi phương tây, núi phương đông, … vậy theo Hán
ngữ phải ghi là Bắc Hà, Nam Hà, Đông Sơn, Tây Sơn …, còn Hà Bắc, Hà Nam, Sơn
Đông, Sơn Tây là kết cấu theo Việt ngữ?
- Lịch sử về văn minh Trung Hoa cũng có một số điểm mà ta không hiểu nỗi.
- “Thời nhà Hạ (2200 trước CN) người dân đã biết ‘tát nước vào ruộng’…” rõ ràng câu
này chỉ sự canh tác lúa nước; nước là điều kiện đầu tiên trong: “nước, phân, cần, giống”
mà nền khoa học nông nghiệp Việt Nam đã tổng kết từ xa xưa; nước quan trọng đến nỗi
“việc dẫn thủy nhập điền” được coi như một thành tựu khoa học, phản ánh trình độ văn
minh của một dân tộc. Sự việc này khó hiểu ở chỗ: lãnh thổ nhà Hạ ở vùng Hoàng Hà
(theo chính sử Trung Hoa) đâu có trồng được lúa nước … cây được trồng chính ở miền
Bắc Trung Hoa là kê và lúa mì. Các chứng cứ về khảo cổ học và các ngành khoa học
khác như nông học, thổ nhưỡng đã xác định như vậy.
- Ngày nay qua các di chỉ trong lòng đất, ngành khảo cổ học đã xác định được nơi sinh tụ
thời cổ xưa của Hán tộc là bờ sông Hoàng Hà. Hán tộc là tộc người xây dựng được nền
văn minh rất sớm, họ đã bước vào thời gọi là văn hóa gốm đỏ cách đây khoảng 8.000

năm, địa bàn của họ dịch chuyển từ tây sang đông dọc theo sông Hoàng Hà với các nền
văn hoá gốm đỏ, gốm đen, rồi gốm xám. Vùng đất từ Thiểm Tây tới Hà Nam ngày nay.
Vào đời Thương lãnh thổ Trung Hoa là vùng đất nằm ởgiữa 4 tỉnh: Hà Nam – Hà Bắc –
Sơn Đông – Sơn Tây. Qua đời Chu thì chuyển về vùng Sơn Tây ngày nay, theo đó ta có
thể xác định Hán Quốc cổ là quốc gia lục địa chưa tiến đến bờ biển; nhưng sử Trung Hoa
lại ghi: “Từ đời Thương dân Trung Hoa đã biết dùng vỏ sò làm tiền để trao đổi hàng
hóa…”, nên trong Hán tự đã cấu thành bộ ‘bối’ nghĩa là ‘vỏ sò’, ‘vỏ hến’ để tạo nên các
từ liên quan đến việc giao thương, buôn bán … nhưng dân sinh sống sâu trong lục địa thì
lấy vỏ hến, vỏ sò ở đâu ra?
- Sử Trung Hoa cũng ghi là vào đời Thương đã biết dùng voi trong chiến trận …, nhưng
lãnh thổ nhà Thương ở vùng sông Hoàng Hà thì làm gì có voi, voi Á Châu chỉ sống ở
miền xích đạo và nhiệt đới, … không lẽ sử Trung Hoa sai lầm lớn đến thế?
Hai loại “vật liệu” nền tảng của văn hóa Trung Hoa là mai rùa và tre đều không phải là
sản vật tự nhiên của miền Bắc Hoàng Hà. Người ta đã đào được ở An Dương thuộc phần
Bắc Hoàng Hà thuộc tỉnh Hà Nam, hàng vạn mai rùa và xương thú có khắc “Hoa tự” cổ
và coi đây là căn cứ để xác định trung tâm văn minh Trung Hoa … nhưng ở miền Bắc
Hoàng Hà không hề có loại rùa lớn đó sinh sống, khoa học đã chỉ rõ như thế; loại rùa có
mai lớn để khắc chữ chỉ sinh sống ở sông Dương Tử hay Trường Giang. Lại nữa, Dịch
Lý vào đời nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch là sách dịch được khắc trên mai rùa
(qui = rùa; tàng = chứa). ta có thể giải thích hợp lý sự việc trên là nhà Thương trước khi
chuyển về lưu vực Hoàng Hà đã có thời gian sinh tụ ở lưu vực Dương Tử hay Trường
Giang và chính là ở đấy đã phát minh ra “kỹ thuật” khắc chữ trên mai rùa; sau này dù di
chuyển đến địa điểm mới vẫn về chốn cũ đem mai rùa đi để sử dụng. Tương tự, tre có
hàng trăm loại khác nhau; nhưng tre lớn, bản đủ rộng làm thành các thẻ để viết chữ và kết
thành sách chỉ có ở vùng xích đạo và nhiệt đới, ngay cả ở Tứ Xuyên nằm trong vùng bình
đới, cũng chỉ có loại tre lớn nhất gọi là tre đực hay tầm vông; thì nhà Chu ở Sơn Tây làm
gì có tre lớn để làm sách, viết chữ? Đối chiếu sinh cảnh thực sự cộng thêm nghiên cứu
qua ghi chép trong Kinh Thư, Kinh Thi, và Kinh Dịch ta thấy không thể xaỊ̃y ra được.
Thí dụ: Đại Tượng Truyện của Quẻ Dự trong Kinh Dịch chép: “Sấm nổ trên đất, Tiên
Vương dĩ tác nhạc, Sùng Đức ân tiến chi Thượng Đế dĩ phối tổ khảo…” Quẻ Dự là Quẻ

Chấn chồng trên Quẻ Khôn trong quẻ gọi là Địa; Quẻ Chấn là sấm, sấm nổ trên đất là chỉ
dẫn Chấn trên Khôn, nhưng cũng giúp ta hình dung cảnh đánh trống đồng. Trống đồng
còn gọi là trống sấm, Quẻ Lôi, khi đánh úp trên mặt đất là Địa, âm thanh trống đồng là
nhạc tế lễ, ở đây nói rõ là tế Thượng đế và sùng kính tổ tiên. Một quẻ nữa là Quẻ Tiệm
nói đến ‘vũ nghi”, một nghi thức mà người tham gia lễ hội hóa trang bằng lông chim, một
cảnh được khắc hoạ rõ nét trên trống đồng. Dựa trên chính sử thì chắc chắn nhà Chu chưa
hề biết đến trống đồng, vì trống đồng loại I Heger chỉ tìm thấy ở Việt Nam và 2 tỉnh Vân
Nam – Quảng Châu của Trung Hoa, cách Sơn Tây xa lắm. Hiện nay cách nhà nghiên cứu
Trung Hoa đã phải công nhận trống đồng là vật phẩm văn hoá phi Hán, vậy tại sao hơn
2.000 năm Kinh Dịch đã biết về trống đồng, chỉ dẫn cho ta về mục đích sử dụng trống
đồng (tế Thượng đế)? Cũng như đề cập đến tục hoá trang được khắc trên trống đồng?
Dù vua Càn Long nhà Thanh đã tốn không biết bao nhiêu tiền để mua sách và bản đồ,
mất bao công sức để tịch thu sách và bản đồ trong thiên hạ và hơn 300 quan “bác sĩ” cạo
sửa suốt 10 năm trời, sửa không nỗi thì đốt cho phi tang tích, nhưng vẫn bị lọt sổ:
Sách Ngự phê Thông giám Tập Lãm và Thiếu vi Thông giám, quyển Chu Ngoại Kỷ có
đoạn chép (Lê Văn Siêu dịch – Việt Nam Văn Minh Sử) như sau: “Cách 1.000 năm, đến
năm Tân Mão là năm thứ 6 đời vua Thành Vương nhà Chu, phía nam Giao Chỉ có người
‘Việt Thường’ sang Trung Hoa dâng bạch trĩ, qua 2, 3 lần thông ngôn nói rằng ‘đường xá
xa xôi, non sông cách trở sợ rằng một lần thông sứ không hiểu tiếng nhau cho nên phải
qua 3 lần thông ngôn để sang chầu’. Chu Công đáp lời: ‘Đức trạch không khắp tới nơi,
người quân tử không nhận lễ sơ kiến, chính lịch không khắp tới nơi, người quân tử không
nhận người ấy xưng thần.’ Người thông ngôn nói: ‘Tôi vâng mệnh những ông già (bô
lão) nước tôi bảo: ‘Trời không gió dữ, mưa dầm, bể không sóng nổi đã 3 năm, hẳn là
Trung Hoa có thánh nhân, sao không sang chầu.’ Chu Công đem dâng cho vua nhà Chu,
để dâng lên thần linh của tiên vương, rồi đem dâng Cung điều. Đến khi sứ giả về, quên
mất đường, Chu Công cho 5 cỗ biền xa, bốn mặt có diềm che đều làm cách thức chỉ nam,
sứ giả đi xe ấy từ đường bể (sau này) là nước Phù Nam ở cõi đất Cao Miên, thời xưa là
Lâm Ấp, đầy năm trời mới về đến nước (Việt Thường)”.
Sách Thiếu Vi Thống Giám, chú giải: “Việt Thường là ‘Nam phương quốc danh, tại Giao
Chỉ nam’”, có thể dịch là “tên nước nam phương, (một nước) ở phiá nam Giao Chỉ”

Trong đoạn trích dẫn trên có nhiều điều phải bàn như tên nước, phương hướng nhưng
điểm chính yếu thứ nhất ta cần xem xét: nhà Chu ở đâu mà sứ lại xuống thuyền về nước ở
biển (sau này là) Phù Nam, Cao Miên? Rõ ràng là nhà Chu không thể ở Sơn Tây cách xa
biển Phù Nam ít nhất 3.000 km. Thứ hai ta xét: nước Việt Thường không thể ở gần Cao
Miên mà ở rất xa vì đi thuyền một năm mới tới. (Sách sử hiện nay cho là miền Trung
Việt Nam trước đây là Việt Thường). Tới đây ta lại phải thêm một câu hỏi: Việt Thường
là nước nào và ở đâu?
Thêm một vấn đề nữa:
Sử Trung Hoa viết về nhà Tần như sau: Nhà Tần chọn cho mình đức Thủy là đức đã
thắng nhà Chu đức Hoả, màu đỏ, và nhà Tần chọn cho mình màu đen, từ ngựa tới cờ quạt
đều màu đen.
- Số 6: cái gì cũng số 6, trục xe 6 tấc, xe vua do 6 ngựa kéo. Tháng chọn là tháng 10, bắt
đầu mùa đông, ở đây rõ ràng sử gia Trung Hoa đã vận dụng Dịch Lý vào sử, ta hãy xem:

- Nếu nhà Tần chọn Hành Thủy, màu đen, số 6, mà ở Thiểm Tây, Tứ Xuyên, nhà Chu
không thể ở nơi nào khác ngoài Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây (xin xem bản đồ) tức
là ở phía nam Tứ Xuyên, Thiểm Tây vì sử ghi rõ nhà Chu: đức Hoả, màu đỏ (Thực ra thì
nhà Chu không phải đức Hoả và màu đỏ; sử học Trung Hoa đã cố gán ép các nguyên lý
của Dịch học vào lịch sử đời Tần để phục vụ cho mục đích của họ, về mục đích của họ sẽ
có phần xem xét ở phần sau; còn về nhà Chu thì đích thực ở phương Tây nên thuộc hành
Kim, màu trắng).
- Bản đồ Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc chắc chắn không phải do người Trung
Hoa lập, lý do đơn giản trong bản đồ thời này ngoài: Vị Thủy, Hoài Thủy, Kỳ Thủy,
V.v…(tức là Sông Vị, Sông Hoài, Sông Kỳ, V.v…) lại còn có cả: Hà Thủy và Giang
Thủy … 2 con sông chính của Trung Hoa. Hà và Giang là gì? Không lẽ người Trung Hoa
không biết điều rất ư là đơn giản đó mà còn thêm chử Thủy vào; chỉ có người không phải
là người Trung Hoa tưởng là tên riêng nên mới thêm chữ Thủy vào để chỉ con sông, hay
do bởi không phải là tiếng mẹ đẻ của mình nên họ mới sơ xuất do quán tính và cẩu thả
khi định danh nên mới có tên 2 con sông kỳ khôi là: “Sông …… Sông” (Giang = sông và
Hà = sông).

- Còn một thực tế khó giải thích nữa: Sông Dương Tử hay Trường Giang được coi là mốc
phân ranh Bắc – Nam của Trung Hoa, theo chính sử thì trước thời Xuân Thu Chiến Quốc
Trung Hoa chưa biết đến miền Nam, khảo cổ học đã xác định dân miền Hoa Bắc thuộc về
chủng Mongoloid, còn Hoa Nam thuộc ngành Mongoloid phương Nam, cứ theo lịch sử
thì từ Bào Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Hạ Vũ, Thành Thang … tất cả là người Mongoloid
cùng chủng với Mãn, Mông, Kim, Liêu V.v… Như thế sẽ có một hệ quả là: những người
mang đặc điểm nhân chủng nam Mongoloid không phải là người Trung Hoa? hay, họ bị
diệt quốc và bị đồng hoá thành người Trung Hoa? Điều này thật khó nói vì chính họ lại là
dân “đa số” ở Trung Hoa hiện nay, và đối với người Trung Hoa huyết thống là điều cực
kỳ quan trọng, không có chuyện họ gọi người khác giống là tổ tiên được; ở đây cũng

×