Sự ảnh hưởng của Phật Giáo và
Thiền trong công việc sáng tạo và thể
nghiệm nghệ thuật sân khấu đương đại
Năm 1993, trong thời gian viết vở kịch Trở về,[1] tôi đã đi dự một khoá tu
Thiền Vipassana 10 ngày trên Blue Mountain. Vipassana là một pháp môn Thiền
thuộc truyền thống Phật Giáo nguyên thủy. Cả khoá tu 10 ngày được diễn ra trong
sự im lặng tuyệt đối, chỉ trừ phần vấn đáp. Khoá tu đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến
nội dung và hình thức biểu diễn của vở kich Trở về được công diễn năm 1994 tại
nhà hát Belvoir Street, Sydney. Ảnh hưởng của Thiền bàng bạc trong toàn bộ vở
diễn từ lời thơ đến âm nhạc, cảnh trí, những chuyển động của cơ thể, và âm thanh
của nước.
Trở về đi người hỡi trở về đi
Với hơi thở của người trong từng giây từng phút
Trong nỗi im lặng đến tận cùng sâu thẳm
Ngước mắt lên trời nghe tiếng chim kêu
Nhìn xuống đất nghe thời gian đang thở...
Trở về đi... trở về đi
Chỉ còn lại niềm im lặng
Và thời gian đang chuyển mình trong hơi thở
Phải chăng sự ‘Trở về’ ở đây không chỉ là sự ‘Trở vế’ một nơi chốn hay
một mảnh đất xa xôi nào đó bằng thân xác phàm tục này, mà ở đây còn là sự ‘Trở
về’ một quê hương trong ký ức, trong tâm tưởng, là sự ‘Trở về’ với đất trời, với
muôn loài, và sau cùng là sự ‘Trở về’với chính mình, trở về với từng hơi thở, từng
khoảnh khắc, từng bước chân, từng nụ cười.
Khoá tu Vipassana 10 ngày đó không chỉ ảnh hưởng riêng đến vở kịch Trở
về, mà còn ảnh hưởng đến công việc làm nghệ thuật sân khấu của tôi sau này.
Năm 1995, tôi sang Indonesia để học thêm, nâng cao về chuyên môn trong
lãnh vực sân khấu. Tôi được học với Rendra, là đạo diễn, kịch tác gia, diễn viên và
nhà thơ Indonesia. Nơi tôi học là tại đoàn kịch Bengkel của đạo diễn Rendra.
“Bengkel” có nghĩa là “sự chuẩn bị”. Đoàn kịch Bengkel nằm ở một vùng quê có
tên là Cipayung gần thủ đô Jakarta, trong một trang trại có ruộng lúa, ao thả cá, rất
nhiều cây ăn quả, và tất nhiên là có cả sân khấu. Chương trình học mỗi ngày là
thức dậy lúc 5 giờ sáng và ngồi thiền một tiếng đồng hồ. Sau đó là làm ruộng,
chăm gia súc như dê, bò, gà, vịt, cho cá ăn, hái trái cây, lợp mái nhà, v.v... cho đến
12 giờ trưa. Buổi chiều có hai tiếng đồng hồ luyện tập một môn võ thuật bắt nguồn
từ võ Thiếu Lâm. Khoảng năm giờ chiều mỗi ngày, cùng với những học sinh và
diễn viên của đoàn kịch Bengkel, chúng tôi chạy dưới cơn mưa, băng qua những
cách đồng, qua những khu vườn của người dân và ngửi thấy mùi rơm rạ cháy khi
họ đang nấu bữa cơm tối. Chúng tôi bơi qua một dòng sông nhỏ và ngồi nhìn mặt
trời lặn. Chúng tôi chạy trở về khi bóng tối đã đổ xuống. Tiếp theo đó là trọn buổi
tối dành cho luyện tập về chuyên môn sân khấu. Hai tháng học tập tại đoàn kịch
Bengkel của Rendra đã cho tôi một bài học có giá trị về cách áp dụng Thiền và võ
thuật vào trong nghệ thuật sân khấu đương đại, đó là: trực tiếp thự hành trong cuộc
sống và công việc thường ngày.
Sau khi trở về từ Indonesia, tôi đã cùng người bạn Úc, Bruce Keller, thành
lập đoàn kịch Citymoon vào cuối năm 1995.[2] Ảnh hưởng của Phật Giáo và
Thiền đã có mặt trong nhiều vở diễn của đoàn kịch Citymoon, rõ nét nhất là trong
vở kịch Tìm Trâu được biễu diễn tại Chùa Phước Huệ vào cuối tháng Hai và đầu
tháng Ba năm 2001. Vở kịch Tìm Trâu được dàn dựng với sự hợp tác của đoàn
kịch Citymoon và đoàn Powerhouse Youth Theatre, và đặc biệt có sự giúp đỡ và
ủng hộ của Chùa Phước Huê. Vở kịch Tìm Trâu được bắt đầu với ý tưởng là sử
dụng khuôn viên của chùa Phước Huệ làm bối cảnh chính cho vở kịch. Cốt chuyện
của vở kịch Tìm Trâu là sự khai triển trên nội dung, tinh thần và tư tưởng của
Thập Mục Ngưu Đồ (‘Mười bức tranh chăn Trâu’ Thiền Tông). Anh Hoàng Ngọc-
Tuấn cùng Bruce Keller viết kịch bản; tôi cùng Bruce Keller và Michael
McLaughlin là đồng đạo diễn.
Nội dung của ‘Mười bức tranh chăn Trâu’ là nói về ‘đường lối tu tâp, làm
sao làm chủ được tâm, bắt được tâm. Và tâm ở đây là con trâu.’[3] Từ ‘Mười bức
tranh chăn Trâu’, mười màn kịch đã được sáng tạo và được biểu diễn tại mười địa
điểm khác nhau trong chùa Phước Huệ. Khán giả được chia làm sáu nhóm và cùng
xem chung bốn màn của vở kịch, sáu màn còn lại của vở kịch được diễn làm sáu
lần cho riêng từng nhóm, bởi vì mỗi nhóm có một hành trình riêng. Đây là một cấu
trúc biểu diễn sân khấu mới, không bị lệ thuộc và hạn chế bởi những lề luật sân
khấu cổ điển; khán giả không chỉ ngồi xem mà còn được tham dự vào quá trình
diễn biến của vở kich. Cảnh cuối cùng của vở kịch là khán giả cùng hoà nhập với
diễn viên để đi tìm lại đôi giầy hoặc đôi dép của mình đã được cởi ra trước khi đi
vào chánh Điện. Hàng trăm đôi giầy/dép nằm la liệt trên sân chùa ngoài chánh
Điện, và trong âm thanh trầm bổng của tiếng hát, tiếng đàn, tiếng sáo và tiếng
trống, gần hai mươi diễn viên thuộc những nền văn hoá, sắc tộc khác nhau, và
hàng trăm khán giả vừa chuyển động, vừa múa, vừa đi tìm lại đôi dép của mình.
Hình ảnh đó giống như câu thơ ‘... đi chân đất, mặc vải thô, tôi hoà nhập vào dòng
người trên thế gian...’. Hình ảnh đó cũng giống như bức tranh thứ mười, bức tranh
cuối cùng của Thập Mục Ngưu Đồ, là một ‘vị sư thõng tay đi vào chợ, tay ôm bầu
nước, tay chống gậy tre, làm bạn với bợm nhậu và phường thọc huyết heo’.[4] Có
không? Cái mới và cái cũ, phương Đông và phương Tây đã được thở chung hơi
thở của Thiền trong vở kịch Tìm Trâu tại chùa Phước Huệ.
Sau vở kịch Tìm Trâu, tôi tiếp tục học thêm về Thiền, tham dự những khoá
tu Thiền của nhóm Sen Búp ở Sydney theo truyền thống của thầy Thích Nhất
Hạnh, đồng thời học thêm về khí công và võ thuật Thiếu Lâm tự. Một số vở kịch
sau đó của Citymoon như Beat Box Vox Pop [5] (2001), Heartland [6] (2002),
Mười một khúc cảm [7] (2004), v.v... đều phảng phất ít nhiều tinh thần của Phật
giáo và Thiền.
Gần đây nhất, vở kịch thể nghiệm một người diễn có tên Màu vàng không
phải màu vàng, đã vô tình mang đậm một số tư tưởng, triết lý của Phật Giáo và
Thiền một cách tự nhiên, không gò ép. Vở kịch Màu vàng không phải màu vàng “
là câu chuyện về chính tôi và không phải về chính tôi. Về những người bạn của tôi
mà cũng không thật sự là về những người bạn của tôi. Về cuộc sống và cái chết mà
cũng không phải về cuộc sống và cái chết.” Màu vàng không phải màu vàng
“không thật sự là câu chuyện về bất cứ điều gì cả, nhưng về rất nhiều điều. Những
điều luôn có mặt trong quá khứ, trong hiện tại và trong tương lai. Những điều luôn
hiện hữu trong chính tôi và chính bạn. Những điều ta không thể đặt tên, ta không
thể thấy, ngay cả ta không thể chạm đến nhưng ta có thể cảm nhận và nghe trong
sự im lặng tuyệt đối. Những điều đôi khi bất ngờ hiện ra trước mắt ta, và nếu ta đủ
kiên nhẫn, đủ may mắn, ta có thể thấy chúng trước khi chúng vụt biến mất.”[8]
Vở kịch Màu vàng không phải màu vàng “kể câu chuyện của một hoạ sĩ tên
là Henry và một cô gái điếm. Henry vẫn thường gặp cô gái điếm ấy trong những
giấc mơ, và chàng quyết định tìm gặp nàng trong đời sống thực. Chàng tìm thấy
nàng ở một trong những ngôi nhà chứa mà chàng đã đến. Chàng trở lại nơi ấy
nhiều lần trong suốt một năm để vẽ chân dung nàng cho một cuộc triển lãm hội
hoạ của chàng. Trong đêm khai mạc cuộc triển lãm, chàng đến đón nàng, nhưng
người quản lý nhà chứa nói rằng nàng đã không còn làm việc ở đó cả một năm rồi,
vì nàng đã chết từ năm trước. Ðêm khai mạc cuộc triển lãm đã diễn ra rất thành
công, nhưng người hoạ sĩ đã không đến, và sau đó không ai tìm thấy chàng ở đâu
cả. Ngày hôm sau đêm khai mạc, mọi hoạ tiết trong tất cả các hoạ phẩm đều biến
mất, chỉ còn để lại những khung vải trắng. Những khung vải trắng ấy tiếp tục đổi
màu như một lăng kính, từ một màu thành nhiều màu, xanh, vàng, đen, đỏ, tím,
lục...”[9]
Hình như giáo lý vô thường, vô ngã và duyên khởi của đạo Phật... cứ nhè
nhẹ bay lơ lửng trong vở kịch Màu vàng không phải màu vàng. Cô gái điếm có
thật hay không có thật? Ai là người họa sĩ có tên Henry? Những họa phẩm và cả
những màu sắc đang thay đổi kia có hay không có? Dưới đây là một bài thơ trong
vở kịch:
Tôi nhìn vào mắt tôi và thấy em, gương mặt em, thân thể em, thấy hàng
triệu năm về trước, thấy hàng triệu năm về sau không đổi thay trong sự chuyển
dịch không ngừng.
Có phải em là cô gái tôi đã gặp hôm tuyết rơi đầy trời phủ kín mặt em? Hay
em là cô gái điếm trong giấc mơ của người nghệ sĩ? Hay em là người tình của lửa
đã tấu lên khúc nhạc dạo đánh thức giấc ngủ kẻ điên để hắn hát lên bài ca điên.