Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

On thi tot nghiep dai hoc tieu hoc Tieng viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.68 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN 1. TIẾNG VIỆT. 1.1 Ngôn ngữ nghệ thuật là gì? Tức là ngôn ngữ trong các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. là một mã phức tạp được cấu tạo nên từ hệ thống tín hiệu ( ngôn ngữ tự nhiên) Chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện ở chỗ tín hiệu ngôn ngữ tức đặc trưng nghĩa, đặc trưng âm thanh trở thành yếu tố tạo thành hình tượng, muốn thực hiện được chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật phải có những đặc trưng chung là: Tính cấu trúc, tính hình tượng, tính cá thể, tính cụ thể hóa. 1.2 Các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật 1.2.1 Tính cấu trúc của ngôn ngữ nghệ thuật: - Là tính chất theo đó các yếu tố ngôn ngữ trong một tác phẩm gắn bó qua lại với nhau để cùng thực hiện nhiệm vụ chung, phải phù hợp cho nhau để đạt đến một hiệu quả diễn đạt chung -Phải có sự gắn bó với nhau và sự thống nhất trong hệ thống trong tác phẩm, hệ thống trong tác phẩm đấy là thuộc tính của các đơn vị ngôn ngữ lớn ( chương, tiểu thuyết, đoạn văn, khổ thơ…) còn là thuộc tính các đơn vị nhỏ ( câu, từ…) những từ bình thường. Ví dụ: Tóm tắt tác phẩm của Nam Cao với cái tên là “ Đôi Mắt” Toàn bộ hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm được tác giả chọn lọc và sắp xếp một cách hợp lí để nói lên cách nhìn cách đánh giá của con người đối với hiện thực để cuối cùng tác giả có được cái tên tác phẩm rất giản dị mà sâu xa “ Đôi mắt”. -Tính cấu trúc đặt ra vấn đề về phạm trù nào đó đã liên kết các phương tiện ngôn ngữ đa dạng nên một chỉnh thể phạm trù đó được nhà nghiên cứu gọi là phạm trù hình tượng tác giả. -Hình tượng tác giả diễn tả hai khái niệm gắn bó với nhau. + Đó là người sáng tạo ra thế giới nghệ thuật của tác phẩm là người đại diện cho những quan điểm, tư tưởng nghệ thuật nhất định thể hiện trong tác phẩm + Đó là cấu trúc lời nói ngôn từ vốn là trung tâm tổ chức của tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên cấu trúc lời nói của hình tượng tác giả này không hạn chế trong khuôn khổ của lời nói tác giả thật sự vì trong một số thể loại văn học không có lời nói tác giả chỉ có lời nói của người kể chuyện, người tường thuật, của nhân vật. Vd: Đời thừa của Nam Cao Qua những ý nghĩ, lời nói của nhân vật Hộ, Nam Cao đã gởi gắm nhiều quan niệm tiến bộ, nhân đạo về nghệ thuật. Khi người kể chuyện không thay thế tác giả thì lời nói thật sự của tác giả diễn đạt trực tiếp và đầy đủ “hình tượng tác giả”, phản ánh lập trường của tác giả, những sự.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> đánh giá và cảm xúc của tác giả như khi có người kể chuyện thay thế tác giả qua biến thể tác giả… Vd: Lão Hạc- Nam Cao.. 12.2 Tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật - Trong ngôn ngữ học và đặc biệt là trong phong cách học thì tính hình tượng được xác định là một thuộc tính của nghệ thuật. Nó không chỉ là lôgic thông tin mà chứa đựng cảm giác, tri giác, sự truyền cảm thông qua hình tượng ngôn ngữ. Ví dụ: Buổi chiều chứa máu ngổn ngang những mảnh bom.(vũng bom) Vũng bom là một hình tượng ngôn từ, nét nghĩa thường trực bao giờ cũng có nước cộng hưởng với máu ở câu trước là hiện tượng liên tưởng có sức truyền cảm mạnh mẽ tạo cảm giác, tri giác. - Có thể nói bất kì từ ngữ nào của ngôn ngữ phi nghệ thuật trong điều kiện của ngữ cảnh nhất định đều có thể tạo thành một từ nghệ thuật. Vd: Quả chanh này chua hơn quả chanh kia. Em ơi giọng em chua lắm. - Song như thế không có nghĩa là mỗi từ của ngôn ngữ phi nghệ thuật xuất hiện trong văn bản nghệ thuật đều bắt buộc phải cải tạo thành ngôn ngữ nghệ thuật. Trong văn bản nghệ thuật bao giờ cũng có những vị trí trống rỗng(bao bì) .Đây là những vị trí chỉ có giá trị về mặt giao tiếp, không có hoặc có ít giá trị về mặt nghệ thuật. - Lời nói nghệ thuật không phải là phương tiện truyền đạt, những hình tượng tồn tại trong một hình thức này hay hình thức khác mà bản thân thể sự hiện của hình tượng này. - Ngôn ngữ của tác phẩm nghệ thuật không phải là cái vỏ ngoài của hình tượng mà là hình thức duy nhất trong đó hình tượng có thể tồn tại được.Tuy nhiên không phải các yếu tố đều có vai trò như nhau trong chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ nghệ thuật. Có nghĩa là các đơn vị ngôn ngữ phân biệt theo tính chất và mức độ tham gia vào việc diễn đạt hình tượng. - Vai trò quyết định trong việc diễn đạt hình tượng nghệ thuật thuộc về đơn vị ngôn ngữ mà việc phức hợp chức năng của chúng trong tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự biến đổi nội dung khái niệm của chúng. Vd: Trích Non nước ngàn dặm của Tố Hữu Con thuyền rời bến sang Hiên Xuôi dòng sông Cái, ngược dòng sông Bung Chập chùng thác Lửa, thác Chông Thác Dai, thác Khó, thác Ông, thác Bà Thác, bao nhiêu thác cũng qua.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời Từ “Thuyền” trong câu thơ cuối là đơn vị có sự biến đổi nội dung khái niệm, do sự kết hợp độc đáo giữa thuyền( sự vật cụ thể) với trên đời (chỉ cái trừu tượng). chúng ta phải chuyển sang bình diện nghĩa thứ hai “ chiếc thuyền ta trên đời” ẩn dụ một nội dung thông tin mới con đường cách mạng rung cảm thẩm mỹ ở người đọc thấy được quan điểm lập trường bình giá của tác giả. Sự biến đổi nội dung khái niện của từ thuyền đã được chuẩn bị bởi một ngữ cảnh mà các thành tố của ngữ cảnh này cũng chịu sự biến đổi ngữ nghĩa nhất định. Ngoài nghĩa đen chúng được diễn đạt một đặc trưng chung được thực tại hóa do kết quả của cách sử dụng. Từ láy “ chập chùng” được viết ở đầu câu diễn đạt sự mạnh mẽ, dự báo đoạn đường đi xa gian khó. -Những đơn vị từ vựng ngữ âm được sử dụng trong dòng thơ đầu không trực tiếp diễn đạt quan điểm thái độ của chủ thể tường thuật đối với những khái niệm được miêu tả trong thực tế. Song chúng là bộ phận bất khả y của một chỉnh thể thống nhất. Mức xuất phát mở đầu đi đến sự biến chuyển của từ. -Trong việc biểu đạt ngôn ngữ nghệ thuật có hai loại đơn vị: Đơn vị ngôn ngữ có sự biến đổi nội dung, khái niệm. Đơn vị ngôn ngữ diễn đạt đặc trưng chung được thực tại hóa trong ngữ cảnh. -Sự biến đổi nội dung khái niệm và sự thực tại hóa đặc trưng ngữ nghĩa chung là hai giai đoạn của một quá trình thống nhất của sự cải biến chức năng thẩm mỹ của các đơn vị ngôn ngữ trong tác phẩm nghệ thuật. - Những phương tiện của tính hình tượng trong nghĩa hẹp là những phương tiện tu từ và biện pháp tu từ. Song tính hình tượng nảy sinh ra không chỉ do việc sử dụng phương tiện tu từ và biện pháp tu từ này, những từ thông dụng, không có tính hình tượng cũng có thể trở thành những từ có tính hình tượng chừng nào trong việc sử dụng chúng người ta phát hiện ra cá tính của chủ thể tác giả hoặc nhân vật. Tóm lại chức năng thẩm mỹ của đơn vị ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật, nói khác đi tính hình tượng của đơn vị ngôn ngữ có nghĩa là tính tương quan của nó với hình tượng chủ thể tác giả hoặc nhân vật. - Tính hình tượng là tính có lí do nghệ thuật của yếu tố tác phẩm. Sự kết hợp trong yếu tố đó ý nghĩa định danh với ý nghĩa chung hơn vốn bắt đầu từ sự hành chức của nó trong văn bản nghệ thuật. - Ngôn ngữ có tính hình tượng là ngôn ngữ có khả năng tái hiện hiện thực, làm xuất hiện ở người đọc những biểu tượng thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, những biểu tượng vận động của người, vật, cảnh đời…được nói tới trong tác phẩm. Ví dụ: Mùa xuân con chim én mới, Rộn đồng chiêm chấp chới trời xanh ( Tố Hữu ) Từ chấp chới gợi ra như vẽ dáng bay của chim én: vút lên cao nhưng không thẳng một đường mà thành từng nấc theo từng nhịp cụp xòe của đôi cánh. Nó cũng rất.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> chính xác và nó hợp với cách bay của loài én. Ngôn ngữ nghệ thuật muốn có hình tượng trước hết phải chính xác. 1.2.3. Tính cá thể hóa trong ngôn ngữ nghệ tuật - Tính cá thể trong ngôn ngữ nghệ thuật được hiểu là dấu ấn phong cách của tác giả trong ngôn ngữ nghệ tuật. Dấu ấn phong cách tác giả là đặc điểm bản chất thuộc về điều kiện bắt buộc của phong cách nghệ thuật. Nó không được đặt ra với ngôn ngữ phi nghệ thuật. Lưu ý: Trong một số văn bản chính luận, văn bản khoa học, trong lời nói sinh hoạt hằng ngày của một số người, người ta có thể kể đến vài nết riêng về chi tết trong vận dụng ngôn ngữ cá nhân trong đó chưa phải là dấu ấn phong cách riêng của tác giả. Dấu ấn phong cách tác giả cũng không có trong các tác phẩm văn học dân gian truyền miệng. Dấu ấn phong cách tác giả chỉ có thể có trong tác phẩm nghệ thuật với tư cách là một thể thống của cấu trúc tu từ học, một hệ thống tu từ học hoàn chỉnh được liên kết lại bởi hình tượng tác giả, bởi ý định thẩm mỹ, bởi chủ đề tư tưởng của tác phẩm. - Tính cá thể hóa của ngôn ngữ tác phẩm nghệ thuật thể hiện ở tính cá thể hóa của ngôn ngữ tác giả. Mỗi tác giả đều có một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng. Điều đó được thể hiện ở sở trường ngôn ngữ, sự ưa thích sử dụng một loại phương tiện ngôn ngữ nhất định. Vd: Nguyễn Công Hoan ưa dùng ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày, khẩu ngữ (tác phẩm của ông gần gũi với người dân) - Tính cá thể hóa của ngôn ngữ còn thể hiện ở từng sự vật, từng cảnh, từng nhân vật của từng tác phẩm. Trong tác phẩm đó cảnh vật, người không giống nhau thì ngôn ngữ nghệ thuật cũng không giống nhau - Tính cá thể hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật là cái độc đáo, đặc sắc, không lặp lại, những cái riêng trong sáng tác là lối nghĩ, lối cảm, lối thể hiện; những cái riêng trong từ ngữ, ngữ cảm, biện pháp tu từ không rời rạc, như có vẻ chệch lại với cái toàn thể,cái hệ thống của ngôn ngữ chung. Sự phân tích, sự giải thích ngôn ngữ của một nhà văn đòi hỏi sự phân tích những cấu trúc vốn làm thành và xác định hệ thống. 1.2.4. Tính cụ thể hóa của ngôn ngữ nghệ thuật - Tính cụ thể hóa của ngôn ngữ nghệ thuật là thuộc tính rộng lớn nhất của lời nói nghệ thuật. Nó giải thích bản chất sự tác động của từ ngữ nghệ thuật đến người đọc, giải thích đặc trưng của lời nói nghệ thuật như là đặt trưng của hoạt động sáng tạo. Nó giải thích bí mật của các quy luật sáng tạo nghệ thuật. Từ ngữ trong từ điển chỉ diễn đạt khái niệm. Từ ngữ trong sinh hoạt hằng ngày không chỉ diễn đạt khái niệm mà còn diễn đạt cả biểu tượng theo một nghĩa nào đó nó đã cụ thể hóa..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Còn trong ngữ cảnh của lời nói nghệ thuật thì từ ngữ không chỉ diễn đạt biểu tượng mà còn diễn đạt hình tượng nghệ thuật. Nhà văn trong quá trình sáng tác cũng sử dụng từ mà mọi người cũng sử dụng. Thế nhưng những từ này khi xuất hiện trong những ngữ cảnh trong tác phẩm không phải là cái biểu đạt các khái niệm các biểu tượng sơ đẳng mà là để biểu đạt hình tượng nghệ thuật. - Sự cụ thể hóa nghệ thuật thể hiện nhờ cách lựa chọn và tổ chức các phương tiện ngôn ngữ. Tham gia vào việc chuyển từ bình diện khái niệm của ngôn ngữ sang bình diện hình tượng của tác phẩm có thể là các đơn vị của tất cả các cấp độ. Đặc biệt những từ ngữ có nghĩa hẹp thì sẽ có gợi hình ảnh đậm nét. Vd: Các cấp độ: Lượn, liệng, chao, xập xòe, thoi thóp, phấn phơi, lưa thưa, khấp khuỷu… dùng những từ ngữ này thay cho những từ ngữ khái quát là một cách tiêu biểu nhất tạo hình tượng cụ thể tác động vào trí tưởng tượng người đọc. Sự cụ thể hóa nghệ thuật có thể đặt được bằng một phương thức đặt biệt gọi là sự dẫn dắt bằng động từ. Nhà văn gọi tên từng động tác, từng giai đoạn biến đổi của trạng thái bằng động từ kết quả là nhiều động từ được sử dụng trong một đoạn văn tường thuật, miêu tả đưa đến tác dụng khích thích trí tưởng tượng của người đọc và tạo ra biểu tượng về sự tiến triển của từng giai đoạn và sự vận dụng hình tượng nói chung. Ví dụ: So sánh hai văn bản( một là ngôn ngữ phi nghệ thuật và một là ngôn ngữ nghệ thuật) Văn bản ngôn ngữ phi nghệ thuật: “ Con ngựa của Thào Khang khỏe và hăng, bước ra khỏi tàu là muốn phi ngay, thế mà bây giờ mới bước xuống đã chực ngã vật ra ” -> đây là ngôn ngữ giao tiếp hằng ngày. Văn bản ngôn ngữ nghệ thuật: “ Con ngựa của Thào Khang cưỡi khỏe, thật hăng, lúc sớm bước từ trong tàu ra, nguẩy đuôi, ỉa một bãi, bốn vó tức tối muốn nhâng nháo phi ngay, thế mà bây giờ mới chỉ thò cẳng ngoặm vào lưng một con lũ ngang cái suối nhỏ đã lảo đảo, chệnh choạng, yếu vó, muốn quăng mình xuống.” -Tính cụ thể hóa nghệ thuật còn mở rộng ra qua các hình thức giao tiếp ( độc thoại và đối thoại), phương tiện diễn đạt( tường thuật, miêu tả, biện luận, trữ tình…) và các phương tiện tu từ, biện pháp tu từ. Nhờ đó mà nó đạt được tính thẩm mĩ trong văn bản gây ấn tượng sâu sắc đến người đọc. II. các phương tiện tu từ của tiếng việt 2.1. Phương tiện tu từ từ vựng 2.1.1. Từ láy * Định nghĩa. Là những từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những quy tắc nhất định sao cho quan hệ giữa các tiếng trong từ vừa điệp vừa đối hài hòa với nhau về âm, về nghĩa có giá trị biểu trưng hóa. Vd: Anh ánh, bàn bạc, bát ngát, chín chắn…. * Phân loại: - Để phân loại từ láy người ta thường căn cứ vào.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> + Số lượng âm tiết trong từ láy + Sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu tạo của các thành tố trong từ láy. ** Từ láy đôi. # Từ láy hoàn toàn: là những từ láy có sự đồng nhất, tương ứng hoàn toàn giữa thành phần cấu tạo của hai thành tố. Ví dụ: lăm lăm, phau phau, đùng đùng, bừng bừng. Tuy nhiên láy không phải lặp lại âm thanh nguyên vẹn nó lặp lại âm thanh có sự biến đổi theo quy tắc hòa phối ngữ âm. Sự biến đổi để được biểu hiện ở các mức độ. + Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng giống hệt nhau. Ví dụ: xanh xanh, ngầu ngầu, lù lù, rào rào. + Từ láy đôi hoàn toàn có sự khác nhau về thanh điệu. Ví dụ: đo đỏ, tim tím, hay hảy, phơi phới Trong trường hợp này cả hai tiếng đều mang thanh trắc thì một tiếng bao giờ cũng chuyển sang thanh bằng từ âm vực. Ví dụ: nhẻm nhẻm -> nhem nhẻm; mởn mởn -> mơn mởn; chậm chậm - > chầm chậm. Do đó dễ đọc, dễ nghe, có tác dụng biểu trưng hóa. + Từ láy đôi hoàn toàn có sự khác nhau về âm cuối. Ví dụ: p – m: chiếp chiếp -> chiêm chiếp. t – n: sát sát -> san sát. Nhạt nhạt -> nhàn nhạt K – ng: vặc vặc -> vằng vặc Tức tức -> tưng tức # Từ láy bộ phận là từ láy trong đó có sự phối hợp ngữ âm của từng bộ phận âm tiết theo quy tắc nhất định. + Từ láy âm: là từ láy trong đó âm đầu được láy lại Ví dụ: tung tăng, ngô nghê, to tát, thập thò, bập bềnh, rỉ rả, xí xóa, đểnh đoản, thỏ thẻ… + Từ láy vần: là từ láy trong đó phần vần được trùng lặp ở cả hai âm tiết còn phụ âm tách biệt nhau. Ví dụ: lẩm cẩm, lất phất, lác đác, bịn rịn, tần ngần, bầy hầy, buâng khuâng, bèo nhèo, chưng hửng… # Một số lưu ý về từ láy đôi: + Các tiếng trong chữ viết không có phụ âm đầu. Ví dụ: ấm áp, êm ái, ít ỏi, im ắng, ồn ào, ì ạch, í ới, ấp úng, oái ăm, óc ách, ộp ệp… + Một số từ xét về ngữ âm là từ láy nhưng cả hai âm tiết đều có nghĩa. Ví dụ: gậy gộc, nhún nhảy, vùng vằng, ngẩn ngơ. + Các trường hợp thanh điệu không theo quy tắc nhóm thanh giữa các tiếng trong từ láy. Ví dụ: âu sầu, ôm đồm, ủ rủ, ngoan ngoãn, do dự, ….

<span class='text_page_counter'>(7)</span> + Xét về cấu trúc thì trật tự giữa các tiếng trong từ láy không thể thay đổi được. Tuy nhiên một số từ láy đôi vẫn có thể thay đổi được. Ví dụ: thẫn thờ -> thờ thẫn Thiết tha -> tha thiết Lửng lơ -> lơ lửng ** Từ láy ba: là những đơn vị gồm ba tiếng có sự hòa phối ngữ âm với nhau. Ví dụ: sạch sành sanh, dửng dừng dưng, tất tần tật, tuốt tuồn tuột, sát sàn sạt. - Có nhiều từ láy ba còn tồn tại song song với từ láy đôi tương ứng. Ví dụ: cỏn còn con – cỏn con; dửng dừng dưng – dửng dưng, sát sàn sạt – sát sạt. - Quy tắc biến đổi thanh điệu của từ láy ba thường gặp như sau: + Tiếng thứ hai của từ láy ba thường mang thanh bằng. Ví dụ: tửng từng tưng, lơ tơ mơ.. + Tiếng thứ ba và tiếng thứ nhất đối lập nhau về bằng trắc hoặc âm vực cao thấp. Đối lập bằng trắc Ví dụ: dửng dừng dưng, mảy mày may, tỉ tì ti. Đối lập âm vực cao thấp Ví dụ: khít khìn khịt, tuốt tuồn tuột, tất tần tật - Đại đa số từ láy ba đều là từ láy hoàn toàn. Có rất ít từ láy bộ phận, chỉ có một số từ như: tơ lơ mơ, lờ tờ mờ, lù tù mù ** Từ láy tư là từ láy gồm bốn tiếng trong thành phần cấu tạo. - Đại đa số từ láy tư được cấu tạo trên cơ sở từ láy đôi bộ phận. Từ láy đôi ban đầu được coi là phần gốc và mang ý nghĩa từ vựng. Ví dụ: bập bà bập bềnh – bập bềnh; đủng đà đủng đỉnh – đủng đỉnh; vội vội vàng vàng – vội vàng. - Một số trường hợp hai cặp từ tạo thành đều có nghĩa từ vựng do đó không nhất thiết xác định thành tố gốc Ví dụ: lông bông lang bang, cà rịch cà tang, cà lăm cà lắp. - Một số từ trong đó hai tiếng đi liền nhau không tạo thành từng cặp một và chỉ có một tiếng mang nghĩa thì đơn vị láy cơ sở có thể không phải là từ láy đôi. Ví dụ: xa lắc xa lơ, ù ù cạc cạc, thưa rểnh thưa rảng… - Phân loại: + Từ láy tư được cấu tạo trên cơ sở từ láy đôi: Lặp lại hai lần từ láy đội cơ sở Ví dụ: hì hà hì hục, lúng ta lúng túng Hai tiếng ở phần láy và hai tiếng ở phần gốc tách xen nhau theo kiểu cặp đôi. Ví dụ: thơ thẩn -> lơ thơ lẩn thẫn Xăng xít -> lăng xang lít xít Xơ xác -> xơ rơ xác rát Láy lại trực tiếp từng tiếng của tờ láy đôi cơ sở Ví dụ: hăm hở -> hăm hăm hở hở Lầm lì -> lầm lầm lì lì.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Cặm cụi -> cặm cặm cụi cụi + Từ láy tư không được cấu tạo tren cơ sở từ láy đôi: Ví dụ: trống -> trống huếch trống hoác, trống lỗng trống lơ Rậm -> rậm rì rậm rịt Bò -> bò lăn bò càng. 2.1.2. Từ hội thoại - Là phương tiện tu từ từ vựng được dùng trong lời nói miệng,đặt biệt trong đối thoại hằng ngày. Vd: Chắc da : no - Từ hội thoại mang màu sắc biểu cảm, cảm xúc, giúp đắc lực cho người nói bày tỏ, tái tạo cuộc sống thực. * Từ dùng trong lời nói sinh hoạt hằng ngày, đối thoại: + Dùng những từ ngữ xưng hô trong gia đình, trong giao tiếp xã hội theo quan hệ thứ bậc tuổi tác. Ví dụ: ông / cháu; bác / cháu; anh / em; chị / em. + Dùng đại từ “ tôi ” trung tính, lịch sự. Ví dụ: Đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” đến nửa chừng,Bác dừng lại và bỗng hỏi: -Tôi nói , đồng bào nghe rõ không? Một triệu con người cùng đáp ,tiếng vang như sấm: -Co...o... ó...! Từ giây phút đó ,Bác cùng với cả biển người đã hoà làm một (Những năm tháng không thể nào quên) -> “ Tôi ”:Tạo cho người nghe cảm giác gần gũi thân thiết ,không có khoảng cách , đánh dấu bước ngoặt trong quan hệ giữa lãnh tụ và nhân dân =>thể hiện quan hệ dân chủ trong chế độ mới. + Dùng lối dài hay khiêm, tức là nâng người đối thoại với mình lên một bậc và tự hạ mình một bậc. Ví dụ: Ông hỏi gì nhà cháu ạ! + Thường dùng: tôi, chúng tôi, ta, chúng ta ( ngôi thứ nhất ) và các từ ngữ để xưng hô: ông, bà, các ông các bà, anh, chị, các anh chị ( ngôi thứ hai ), các ông bà ấy, các anh chị ấy ( ngôi thứ ba ). - Từ hội thoại mang màu sắc biểu cảm, cảm xúc. Dùng để tái tạo cuộc sống thực. + Không dùng đại từ nhân xưng. + Dùng đại từ nhân xưng trong trường hợp thân mật đến suồng sã. Ví dụ: tao, mày, nó, hắn… + Dùng đại từ xưng hô để nhấn mạnh quan hệ gia đình. Ví dụ: ông / cháu; bố / con, anh / em…thường dùng trong gia đình. . Trường hợp người trên nói với kẻ dưới, hoặc khi tỏ ra miệt thị hoặc mệnh lệnh cũng không dùng đại từ nhân xưng, hoặc có thể dùng từ tao, mày… Ví dụ: Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> ( Trích “ Đề đèn Sầm Nghi Đống ” ) -> Xưng “đây” với Sầm Nghi Đống => quan hệ ngang hàng ,thể hiện thái độ coi thường, khinh thị + Dùng ngôi gộp: ta, chúng ta cũng có màu sắc thân mật. Ví dụ:“ Ngày mai chúng tôi làm lễ thành hôn, mời thầy đến dự.” + Từ “ mình ” có vị trí đặc biệt, có thể dùng trong ba ngôi: . Ngôi 1: Người nói. Ví dụ:- Mình phải làm bài đã. - Anh em đi chơi với bạn rồi. . Ngôi 2: Người nghe . Ví dụ: - Mình về mình có nhớ ta chăng. - Anh em có nhà không? . Ngôi 3: Người, vật được nói đến. Ví dụ: - Hắn thấy mình học kém hẳn đi. - Em đã đi học chưa con? à Danh từ khi dùng làm từ ngữ xưng hô có thể dùng ở cả ba ngôi. 2.2 Phương tiện tu từ ngữ nghĩa Là cách định danh thứ hai có tác dụng gợi hình, gợi cảm như ẩn dụ, tu từ, nói quá, nhân hóa,khoa trương, nói tránh. Vd Tác phẩm chim báo bão, báo bão sắp dữ dội + Chia làm 2 loại : - Dùng hình ảnh về số lượng: phóng đại, thu nhỏ, nói giảm đi. - Dùng hình ảnh về chấy lượng: ẩn dụ, bổ sung, xã hóa, vật hóa, dẫn ngữ. 2.2.1 Nhân hóa Là một loại ẩn dụ trong đó từ nữ biểu thị dấu hiệu thuộc tính của con người được dùng để biểu thị dấu hiệu thuộc tính của đối tượng không phải của con người nhằm làm đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu và người nói có thể bày tỏ thái độ, tâm tư của mình. Vd:. 2.2.1 Nhân hóa - Về mặt hình thức, nhân hóa có thể được cấu tạo + Dùng những từ chỉ tính chất, hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải của con người Ví dụ: Lúa đã chen vai đứng cả dậy (Trần Đăng Khoa) Vì sương nên núi bạc đầu Biển lay bởi gió hoa sầu vì mưa. (Ca dao).

<span class='text_page_counter'>(10)</span> “Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gian Những sông vắng lê mình trong bóng tối Những tượng đài lỡ lói rỉ rên than” (Chế Lan Viên) + Coi đối tượng không phải con người như con người và tâm tình trò chuyện với nhau Vd: Núi cao chi lắm núi ơi ? Núi che mặt trời chẳng thấy người thương (Ca dao) Đêm nằm than thở, thở than Gối ơi hỡi gối bạn lan đâu rồi ? (Ca dao) - Do có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm, cảm xúc cho nên nhân hóa được sử dụng rộng rải + Trong sinh hoạt hằng ngày ta thường nghe nói: Con đường lượn vòng, đá đổ mồ hôi, cái bụng muốn đi mà cái chân không muốn bước… + Trong nghệ thuật: gió khóc, gió rền rỉ, trăng chiếu mơ màng, nước biết chao mình, mây vui đón em… Nhân hóa có thể được hiện thực hóa trong một ngữ cảnh nhất định Vd: Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác, tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người, tre anh hùng lao động ! Tre, anh hùng chiến đấu ! (Thép Mới) 2.2.2 Hoán dụ tu từ - ĐN: Là phương thức tu từ thực hiện bằng việc chuyển nghĩa của các từ dựa vào sự gần nhau của từ. - Tương tự giống như ẩn dụ thì phếp hoán dụ bắt nguồn từ khả năng đa dạng, đa bội vủa từ vựng trong các chức năng định danh. - Hoán dụ là đặt một nghĩa bóng cho một từ vốn có nghĩa đen. - Hoán dụ được thực hiện bằng các quan hệ cặp đôi với nhau. + Bộ phận và toàn thể. Vd1: Đàn bà dễ có mấy tay Đời xưa mấy mặc đời này mấy gan Biện pháp : tay, gan, mặc dùng để chỉ chính con người Vd2: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. ( Má hồng: Người phụ nữ) Vd3: Bàn tay ta làm nên tất cả Có sức người sỏi đá cũng thành cơm. ( Bàn tay: Chỉ con người).

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Vd4: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông ( Thôn Đoài, thôn Đông chỉ người con trai hay con gái ở hai thôn) Vd5: Hội nghị đã đủ mặt anh tài ( Mặt chỉ người đàn ông) + Đồ vật và chất liệu Vd1: Vàng bạc đeo đầy người (Vàng bạc là chất liệu dùng để chỉ đồ vật cụ thể như nhẫn, dây chuyền,) Vd2: Nhà chị ấy toàn gỗ ( gỗ là chất liệu để chỉ các đồ vật trong nhà như bàn, ghế, tủ làm bằng gỗ) Vd3: Cửa hàng nhôm kính ( Nhôm kính chỉ những vật dụng làm từ nhôm, kính) + Vật phẩm và con người làm ra nó Vd1: Đọc Nam Cao ta có thể hiểu sâu hơn số phận thấp hèn của người nông dân dưới chế độ cũ.( Đọc Nam Cao = đọc tác phẩm của Nam Cao) Vd2: Toshiba được gọi đầu tiên trong giải bình chọn thương hiệu tiêu biểu năm 2008 ( Toshiba chỉ những người làm ra sản phẩm đó) Vd3: Người lái đò sông Đà luôn đi trên sự chắc lọc của ngôn từ miêu tả. ( Người lái đò sông Đà = Nguyễn Tuân) * Cơ chế và dấu hiệu nhận biết hoán dụ. - Hiện tượng chuyển nghĩa tu từ dựa vào mối quan hệ gần gũi giữa các sự vật, hiện tượng hay khái niệm, trong đó có thể lựa chọn một bộ phận nổi bật để gọi toàn bộ sự vật, hoặc ngược lại lấy tên gọi toàn bộ để chỉ bộ phận của vật. VD: “Người” bao gồm các bộ phận cơ thể ( Đầu, chân,…), dụng cụ (quần áo, nhà cửa,..), hoạt động ( đi, suy nghĩ,…) Dấu hiệu: Khác với ẩn dụ dựa trên mối quan hệ giống nhau, hoán dụ dựa trên mối quan hệ gần nhau. Vì vậy, không có hiện tượng chuyển trường nghĩa như ẩn dụ. Vd: Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng khá nhiều hoán dụ để chỉ nàng Kiều: Đầu xanh, má hồng, gót sen, gót ngọc,… - Cơ chế chuyển đổi chức năng, quy chiếu. Mỗi tín hiệu quy chiếu một đối tượng, một sự vật hay hiện tượng nhất định, nhưng do quan hệ gần gũi có thể thay thế tên gọi, lấy tên sự vật này để gọi sự vật khác. Dấu hiệu: Phải xem xét từ quan hệ gần gũi ấy tên gọi quy chiếu sự vật gì. VD: “ Bóng cây Kơnia” ( bài Bóng cây Knia) ( Bóng cây Knia chỉ cây Knia) 2.3 Phương tiện tu từ cú pháp 2.3.1 Câu đơn đặc biệt. KN: Là câu đơn được cấu tạo là một trung tâm cú pháp chính, có ý nghĩa khái quát, chỉ sự tồn tại hiển nhiên của các sự vật, sự kiện giúp miêu tả chúng như là dạng bày ra trước chúng, như được làm sống lại. * Câu đơn đặc biệt có những giá trị tu từ khác nhau. + Miêu tả sự tồn tại hiển nhiên Vd: Hôi hám, ngứa ngáy, bức rức, bực mình… + Đưa thông tin, bối cảnh thời gian, không gian.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Vd: Đình chiến, các anh bộ đội, đội nón lưới gắn sao kéo về đầy nhà Út (Nguyễn Thi) + Đưa chủ đề vào văn bản Vd: Cây tre Việt Nam, cây tre xanh, nhỉn nhặn, ngay thẳng, thủy chung, can đảm, cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam. * Các loại câu đơn đặc biệt: + Câu khuyết chủ ngữ: Chủ ngữ trong loại câu này tuy vắng mặt không được nhắc đến nhưng có thể xác định nhờ ngữ cảnh. Vd: Đóng cửa lại! Cần thi đua học tốt. Lừ đừ như ông từ vào đền. + Câu tỉnh lược chủ ngữ: Thực chất, đây là loại câu 2 thành phần nhưng nhờ ngữ cảnh, chủ ngữ có thể được phục hồi nguyên dạng nhờ câu đứng trước. VD: Anh có biết vùng này không? Có ( Có = Tôi biết) + Câu có chủ ngữ zero ( hay câu vô chủ) Khi vị từ là những từ thuộc nhóm ý nghĩa chỉ sự tồn tại, xuất hiện, biến mất thì câu mang ý nghĩa tồn tại, không cần có chủ ngữ mà chỉ có trạng ngữ chỉ thời gian, không gian. VD: Trong nhà có khách Đằng kia vừa mọc lên hai cây thị. + Câu đơn đặc biệt trong văn bản. Có một số thành phần vốn là thành phần phụ của cấu trúc câu chính được tách ra khỏi câu chính để nhằm những mục đích nhấn mạnh. VD: Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường của hắn ( Nam Cao) -> Tách trạng ngữ chỉ thời gian. Trong nhà. Nhưng vắng ngắt không có ai cả. ( Ngô Tất Tố) -> Tách trạng ngữ chỉ địa điểm. 2.3.2 Điệp ngữ - Là lặp lại có ý thức nhằm nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những xúc cảm trong lòng người đọc, người nghe. Ví dụ: “ Chiều chiều lại nhớ chiều chiều Đôi o bướm trắng dải điều thắt lưng ” - Có nhiều cách phân chia điệp ngữ: + Theo các yếu tố: điệp từ, ngữ, đoạn, câu… + Theo vị trí: điệp đầu câu, giữa câu, cách quãng, điệp liên tiếp. + Theo tính chất: điệp đơn giản, điệp phức hợp..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Ví dụ: “ Một dân tộc đã gan gốc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan gốc về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! - Điệp ngữ có những giá trị tu từ khác: + Điệp ngữ nối tiếp: tạo ấn tượng mới có tác dung tăng tiến. Vd: Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết. + Điệp ngữ cách quảng có tác dụng âm nhạc Vd: Bài thơ Nhớ rừng (Thế Lữ) Khóc (Tố Hữu) +Điệp ngữ vòng tròn: được dùng nhiều trong thơ trữ tình để diễn tả một cảm giác triền miên Vd: Cùng trong lại mà cũng chẳng thấy, thấy xanh xanh… STOP. CHÚC CÁC BẠN THI TỐT!.

<span class='text_page_counter'>(14)</span>

×