Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Tac gia van hoc 8 HK I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.86 KB, 41 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Thanh Tịnh Thanh Tịnh (1911-1988), tên thật là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).. [sửa]Thân. thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 12 tháng 12 năm 1911[1] tại làng Dương Nỗ, ngoại ô Huế. Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán đến năm 11 tuổi, thì theo học chữ Quốc ngữ tại trường tiểu học (trường Đông Ba) và trung học (trường Pellerin của giáo hội Thiên Chúa giáo) ở Huế. Đỗ bằng Thành chung, năm 1933, ông đi làm ở các sở tư rồi sau đó làm nghề dạy học. Thời gian này, ông bắt đầu viết văn, làm thơ và cộng tác với các báo Phong hóa, Ngày nay, Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ Năm, Thanh Nghị, Tinh Hoa...Sáng tác đầu tay của ông là truyện "Cha làm trâu, con làm ngựa" đăng trên Thần kinh tạp chí (1934). Năm 1936, Thanh Tịnh cho xuất bản tập thơ Hận chiến trường. Năm 1941, ông và hai bài thơ của ông ("Mòn mỏi" và "Tơ trời với tơ lòng") được Hoài Thanh- Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (1942). Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Thanh Tịnh làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ. Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Sau đó, ông tham gia phụ trách đoàn kịch Chiến Thắng của Bộ Tổng tư lệnh Quân đôi nhân dân Việt Nam. Năm 1945, ông tham gia phụ trách rồi làm Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau, ông thôi làm lãnh đạo, để chuyên sáng tác. Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), và trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội khóa I, II. Ngoài ra, ông còn là Ủy viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, và mang cấp bậc Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Namtrước khi nghỉ hưu. Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Hiện phần mộ ông đặt tại núi Thiên Thai phía Tây thành phố Huế.. [sửa]Tác. phẩm. Tác phẩm của Thanh Tịnh đã xuất bản:. [sửa]Trước. 1945. . Hận chiến trường (thơ, 1936). . Quê mẹ (truyện ngắn, 1941). . Chị và em (truyện ngắn, 1942). . Ngậm ngải tìm trầm (truyện ngắn, 1943). [sửa]Sau . 1945. Sức mồ hôi (thơ và ca dao, 1954).

<span class='text_page_counter'>(2)</span> . Những giọt nước biển (tập truyện ngắn, 1956). . Đi từ giữa mùa sen (truyện thơ, 1973). . Thơ ca (thơ, 1980). . Thanh Tịnh đời và văn (1996).. [sửa]Tặng. thưởng. Nhà thơ Thanh Tịnh đã được tặng thưởng: . Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951-1952) cho những bài độc tấu xuất sắc.. . Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2007.. Ngoài ra, ông còn là người chiếm giải nhất (bài Lời cuối cùng) đồng hạng với nhà thơ Phạm Đình Bách trong cuộc thi thơ tháng Hai do báo Hà Nội báo tổ chức năm 1936[2].. [sửa]Nhận. xét. Khi đi học, Thanh Tịnh đã ham thích văn chương. Hai nhà văn Pháp là Alphonse Daudet và Guy de Maupassant có ảnh hưởng không nhỏ đến văn phong của Thanh Tịnh sau này. Tuy nhiên, ông không thành công trong lĩnh vực viết truyện dài (Xuân và sinh, 1944), nhưng được người đọc yêu mến qua thơ và truyện ngắn. Trước 1945, thơ ông mang phong cách lãng mạn đậm nét. Trong những bài tiêu biểu như Tơ trời với tơ lòng, Vì đàn câm tiếng, Muôn bến, Rồi một hôm...đều mượt mà, tinh tế, hàm súc nhưng hơi buồn và in rõ dấu ấn bâng khuâng, thơ mộng của truyền thống văn hóa, tinh thần xứ Huế. Trong các tập truyện ngắn Quê mẹ (1941), Chị và em(1942), Ngậm ngải tìm trầm (1943) đều có nhiều truyện đẹp, trong sáng và gợi cảm. Sau 1945, trong kháng chiến, Thanh Tịnh đã khai sinh ra hình thức độc tấu. Nó thường là một bài văn ngắn, có tính chất tự sự, hoặc là đề cập đến những vấn đề thời sự và xã hội. Ngôn ngữ của tấu thường giản dị pha chút dí dỏm. Cách diễn đạt thường là nói, ngâm hay hát hò chỉ là phụ... Thơ trữ tình của Thanh Tinh từ 1945 trở về sau, nhìn chung không nổi bật. Ông viết thiếu lắng đọng, thiếu tinh tế, trừ một số bài viết theo phong cách lãng mạn mà ông đã thành công trước đây... [3]. Nguyên Hồng Nguyên Hồng (1918 – 1982) là nhà văn có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại.. Tiểu sử . Tên thật của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, sinh ngày 5 tháng 11 năm 1918 ở Nam Định[1]. Những tác phẩm của ông mang một tình cảm nhân đạo thống thiết . Sinh trưởng trong một gia đình nghèo, mồ côi cha, từ nhỏ theo mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo.. . Nguyên Hồng ham đọc sách từ nhỏ. ông thường dành tiền thuê sách để đọc và dường như đọc hết những quyển sách mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Loại sách Nguyên Hồng thích thuở nhỏ là truyện lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều nhất..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> . Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn" đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Tiểu thuyết "Bỉ vỏ" là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những "con người nhỏ bé dưới đáy" như Tám Bính, Năm Sài Gòn.... . Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao,Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.. . Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957.. . Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là "Núi rừng Yên Thế".. . Ngòi bút của Nguyên Hồng bênh vực người nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn, những con người yếu thế nhưng bao giờ cũng cố vươn lên đấu tranh để bảo vệ nhân phẩm của mình.. . Nguyên Hồng qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang). Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.. Các tác phẩm chọn lọc . Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938 ). . Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941);. . Những ngày thơ ấu (hồi ký, 1940);. . Qua những màn tối (truyện, 1942);. . Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942),. . Quán nải (tiểu thuyết, 1943);. . Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943);. . Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943);. . Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943 );. . Vực thẳm (truyện vừa, 1944 );. . Miếng bánh (truyện ngắn, 1945);. Nam Cao Nam Cao (1915-1951) là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.. Thân thế và sự nghiệp Thời niên thiếu Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri [Có nguồn ghi là Trần Hữu Trí], sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917.[1] Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. [2].

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Thân phụ ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Thân mẫu ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.. Đến với văn nghiệp Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời. Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê,Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du,Nguyệt. Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn..... Tham gia hoạt động cách mạng Tháng 4 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức này. Bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương[cần dẫn nguồn]. Ông cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên tạp chí Tiên Phong. Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn Cười ở NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới. Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.[3].

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Qua đời Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình).[1] [4]. Quan điểm nghệ thuật . Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói,nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945,đấy mới thực sự tự giác đầy đủ về những nguyên tắc sáng tác của ông.. . Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động; chính vì vậy, Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng.. . Đời thừa (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu , bác ái, công bằng. Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện.. . Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn".. Các đề tài chính Trước cách mạng tháng 8 1. Người Trí thức nghèo: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn nghèo, viên chức nhỏ - Đó là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. 2. Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945. Sau cách mạng tháng 8.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 1. "Đôi mắt", tác giả thể hiện một cái nhìn, một quan điểm, một sự thay đổi đối với thời cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều và quan sát nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách nghĩ [cần dẫn nguồn] 2. sau cách mạng tháng 8 nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật[cần dẫn nguồn] 3. những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật cho giới nghệ sĩ đương thời[cần dẫn nguồn] 4. "Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao " Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than".. Phong cách nghệ thuật Đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt. . động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người".. . Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao.. . Thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của "Những truyện không muốn viết", tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống vànghệ thuật. Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát.Ông có phong cách nghệ thuật triết lí trữ tình sắc lạnh. Có nhà nghiên cứu đã ví. . ông với nhà văn Lỗ Tấn của Trung Quốc với phong cách Téc-mốt (Phiên âm tiếng việt có nghĩa là cái phích nước) Và quan niệm nghệ thuật của ông là " Nghệ thuật vị nhân sinh ( nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm " nghệ thuật vị nghệ thuật" ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX. Tác phẩm Kịch . Đóng góp (1951). Tiểu thuyết . Truyện người hàng xóm (1944) - Báo Trung văn Chủ nhật.. . Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956)[4], ban đầu có tên Chết mòn - Nhà xuất bản Văn Nghệ.. . Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.. . Truyện ngắn. . Ba người bạn. . Đón khách. . Nửa đêm. . Bài học quét nhà. . Nhỏ nhen. . Phiêu lưu. . Bẩy bông lúa lép. . Làm tổ. . Quái dị.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> . Cái chết của con Mực. . Cái mặt không chơi được. . Chuyện buồn giữa đêm vui. . Cười. . Con mèo. . Con mèo mắt ngọc. . Chí Phèo (1941). . Đầu đường xó chợ. . Điếu vaaaa.    . Đôi mắt (1948) Đôi móng giò Đời thừa (1943). . Lang Rận. . Lão Hạc (1943). . Mong mưa. . Một truyện xu-vơ-nia. . Một đám cưới (1944). . Mua danh. . Mua nhà. . Một bữa no. . Người thợ rèn. . Nhìn người ta sung sướng. . Những chuyện không muốn viết. . Những trẻ khốn nạn. . Nghèo. . Nụ cười. . Nước mắt. Đòn chồng. . Quên điều độ. . anh tẻ. . Rửa hờn. . Sao lại thế này?. . Thôi về đi. . Giăng sáng (1942). . Trẻ con không được ăn thịt chó. . Truyện biên giới. . Truyện tình. . Tư cách mõ. . Từ ngày mẹ chết. . Xem bói. Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý với Văn Tân Địa dư các nước Châu Âu (1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi(19669), Địa dư Việt Nam (1951).. Danh hiệu tôn vinh . Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật năm 1996.[5]. . Tên Nam Cao được đặt tên cho Đường phố tại Quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội; Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh; Thành phố Đà Nẵng[6]; Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai; Thành phố Rạch Giá, Tỉnh Kiên Giang và một số địa phương khác.. Ngô Tất Tố Ngô Tất Tố (1894 – 20 tháng 4 năm 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954.. Tiểu sử.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Xuất thân Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.. Viết văn, làm báo Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo. Ông viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu tiền, tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản Đà đã vào Sài Gòn. Mặc dù không thật sự thành công trong cuộc thử sức ở Nam Kì, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo chuyên nghiệp. Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Tân Thôn Dân...[1] Sau gần ba năm ở Sài Gòn, Ngô Tất Tố trở ra Hà Nội. Ông tiếp tục sinh sống bằng cách viết bài cho các báo: An Nam tạp chí, Thần chung, Phổ thông, Đông Dương, Hải Phòng tuần báo, Thực nghiệp, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba, Tương lai, Công dân, Đông Pháp thời báo, Thời vụ, Hà Nội tân văn... với 29 bút danh khác nhau như : Thục Điểu, Lộc Hà, Lộc Đình, Thôn Dân, Phó Chi, Tuệ Nhơn, Thuyết Hải, Xuân Trào, Hy Cừ... Trong thời gian những năm 1936-1939, Ngô Tất Tố viết nhiều tác phẩm chỉ trích quan lại tham nhũng phong kiến. Hà Văn Đức, trong bài viết Ngô Tất Tố - Nhà văn tin cậy của nông dân (báo Nhân dân, ngày 10 tháng 6 năm 1997), cho biết năm 1935, Ngô Tất Tố từng bị chánh sở mật thám Hà Nội gọi lên "để mua chuộc", nhưng ông từ chối. Ngoài ra, nhiều lần Ngô Tất Tố bị cấm viết báo và bị trục xuất khỏi Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Năm 1939, chính quyền thuộc địa ra lệnh cấm tác phẩm Tắt đèn. Nhà Ngô Tất Tố ở Bắc Ninh bị nhà chức trách khám xét và ông bị bắt giam ở Hà Nội vài tháng.. Sau Cách mạng tháng Tám Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, Ngô Tất Tố tham gia vào ủy ban giải phóng ở xã Lộc Hà quê ông. Ngô Tất Tố là đảng viênĐảng Cộng sản Việt Nam, nhưng chưa rõ ông gia nhập đảng năm nào. Năm 1946, Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và lên Việt Bắctham gia kháng chiến chống Pháp. Thời gian này, Ngô Tất Tố đảm nhiệm cương vị Chi hội trưởng chi hội văn nghệ Việt Bắc, hoạt động ở Sở thông tin khu XII, tham gia viết các báo Cứu quốc khu XII, Thông tin khu XII, tạp chí Văn nghệ, báo Cứu quốc trung ương... Ngoài ra, ông còn viết văn. Ngô Tất Tố được bầu vào vị trí ủy viên Ban chấp hành Hội văn nghệ Việt Nam tại đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất (1948). Ông qua đời ngày 20 tháng 4 năm 1954 tại Yên Thế, Bắc Giang. Không rõ Ngô Tất Tố có bao nhiêu người con, nhưng ông có bốn con trai đã trưởng thành là Ngô Mạnh Duẩn, Ngô Thúc Liêu (liệt sĩ), Ngô Hoành Trù (kĩ sư chế tạo máy), Ngô Hải Cao (liệt sĩ) và ba người con gái là Ngô Thị Khiết, Ngô Thị Miễn và Ngô Thanh Lịch (đại biểu quốc hội). Chồng bà Lịch, tiến sĩ Cao Đắc Điểm là một nhà nghiên cứu khá tích cực về Ngô Tất Tố.. Nghề Nghiệp. [2].

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Nhà báo Ngô Tất Tố không chỉ là nhà văn mà còn là một nhà báo nổi tiếng. Các tác giả nghiên cứu Di sản báo chí Ngô Tất Tố - ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp phát triển báo chí thủ đô do Hội nhà báo thành phố Hà Nội thực hiện năm 2004 với người đứng đầu là giáo sư, nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ cho biết họ tìm thấy 1.350 tác phẩm (gần 4.500 trang) đã đăng báo của Ngô Tất Tố với 26 bút danh khác nhau. Năm 2005, tại hội thảo Những phát hiện mới về thân thế và tư cách nhà văn hóa của Ngô Tất Tố, một thống kê khác được công bố cho biết trong 28 năm làm báo, Ngô Tất Tố đã viết gần 1.500 bài (mới tìm thấy 1.360 bài) cho 27 tờ báo và tạp chí với 29 bút danh. Ngô Tất Tố viết nhiều thể loại báo chí, trong đó tiểu phẩm và phóng sự là hai thể loại đã giúp ông thành danh. Ông còn phụ trách nhiều chuyên mục của nhiều tờ báo hàng ngày và hàng tuần. Nhà văn, nhà báo kỳ cựu Vũ Bằng, trong Mười bốn gương mặt nhà văn đồng nghiệp (Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 2004), từng khẳng định "Ngô Tất Tố là một huấn luyện viên của tôi trong nghề báo". Di sản báo chí của Ngô Tất Tố trở thành những tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toán diện và trung thực xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Các tác giả trong đề tài nghiên cứu nói trên kết luận rằng tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố đạt được năm thành tựu cơ bản: thuyết phục, truyền cảm, điển hình hóa mà không hư cấu; nghệ thuật trào lộng, đả kích và phong cách đậm đà bản sắc dân tộc. Về thái độ làm báo, Ngô Tất Tố được đánh giá là một nhà báo có dũng khí, trung thực, thẳng thắn, nhạy bén và cập nhật tình hình khuẩn cấp. Nhà nghiên cứu ông nghiên cứu rất nhiều thể loại khác nhau. Phong cách Chủ nghĩa hiện thực về người nông dân Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán ở Việt Nam trước 1945 với các tác phẩm tiêu biểu như Tắt đèn, Việc làng, Tập án cái đình. Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) từng khen ngợi Tắt đèn là "một tiểu thuyết có luận đề xã hội hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có thể gọi là kiệt tác, tùng lai chưa từng thấy". Phong Lê, trên Tạp chí Sông Hương tháng 12 năm 2003, gọi những tác phẩm viết về nông thôn của Ngô Tất Tố là "một nhận thức toàn diện và sâu sắc, đầy trăn trở và xúc động về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam" đạt đến "sự xúc động sâu xa và bền vững" Ấn tượng bao trùm về Tắt đèn là một bức tranh đời sống sắc sảo, góc cạnh và chi tiết trên tất cả mọi chân dung và đối thoại, không trừ ai, trong số mấy chục nhân vật có tên hoặc không tên, xoay quanh một hình tượng trung tâm là chị Dậu. Nhịp điệu của Tắt đèn là một hơi văn mạnh mẽ và rắn rỏi từ đầu đến cuối. [3] Từ một góc nhìn khác, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, trong bài Ngô Tất Tố và một cách thích ứng trước thời cuộc trích từ cuốn Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2005), viết Tắt đèn là một thiên tiểu thuyết "rất xúc động" khiến người đọc có thể "nhiều phen ứa nước mắt". [4] Còn thiên phóng sự Việc làng được coi là một trong những tác phẩm báo chí toàn diện và chi tiết nhất về bộ mặt nông thôn Việt Nam trước năm 1945. Phong Lê, trong bài đã dẫn, cho rằng Việc làng phản ánh "tận chiều sâu những cội rễ của cả hai mặt phong tục và hủ tục, nó tồn tại dai dẳng đến thế, không chỉ đến thời Ngô Tất Tố viết Việc làng, mà cả cho đến hôm nay".[3].

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nhà văn giao thời Ngô Tất Tố là một nhà nho lão thành, thấm sâu nền văn hóa cũ, từng mang lều chõng đi thi, từng đỗ đạt. Trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, nhà văn Vũ Bằng (1913-1984), có thời gian cùng làm việc với Ngô Tất Tố, từng kể lại là ở ông có chất thầy đồ cổ lỗ đến như thế nào. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố không hoàn toàn là một người lạc hậu, nhất là trong những tác phẩm của ông. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: "Trong khi về mặt tính cách, người ta thấy Ngô Tất Tố gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ (thế kỷ 20) (những Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn...) thì tác phẩm của ông lại thường được xếp cạnh tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng nghĩa là thuộc về một giai đoạn chín đẹp của thế kỷ này, những năm 30 huy hoàng".[4] Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô Tất Tố thể hiện rõ nét trong tác phẩm Lều chõng. Tiểu thuyết này được đăng tải dần trên báo Thời vụ từ năm 1939 và sau đó được xuất bản thành sách năm 1941. Lều chõng ra đời trong bối cảnh đang dấy lên phong trào phục cổ, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, những giá trị tinh thần và tôn ti trật tự của giáo lý Khổng Mạnh, những tập tục cũ ở nông thôn, trên quan trường và ở các gia đình phong kiến. Lều chõng ghi lại một thiên phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong những ngày cuối cùng, dưới triều Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch của những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến và được coi là lời chỉ trích sâu sắc những tồn tại của nền văn hóa cũ. Trong lời giới thiệu Lều chõng (nhà xuất bản Văn học, 2002), có đoạn: "Tác phẩm của Ngô tất Tố như một lời cải chính, hơn thế, một bản tố cáo chế độ khoa cử lỗi thời và thấp thoáng sau mỗi chương, mỗi hàng chữ là một nụ cười chế giễu, có khi là tiếng cười ra nước mắt". Tuy nhiên, Lều chõng không chỉ mang ý nghĩa phê phán. Vương Trí Nhàn nhận xét: "Mặc dù sự khuôn phép trong thi cử được miêu tả trong Lều chõng như một cái gì cực kỳ vô lý, song trong cái khung tưởng rất chật hẹp đó, nhân vật Đào Vân Hạc... vẫn thanh thoát tự do trong cách sống", cho thấy "cái nhìn lưu luyến với quá khứ" của chính Ngô Tất Tố. Hơn thế, đó không phải chì là sự tiếc thương xoàng xĩnh, nó cho thấy "sự cắt đứt của Ngô Tất Tố, mà cũng là của nhiều người đương thời, với quá khứ, sự thích ứng với hoàn cảnh mới, nền văn hoá mới, là quyết liệt, song cũng là có tình có lý đến như thế nào". [4] Sự thích ứng của Ngô Tất Tố đã mang đến những kết quả rõ rệt trên con đường văn nghiệp của ông. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự thay đổi ở Ngô Tất Tố: "ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán có tư tưởng mới" (Nhà văn hiện đại). Tóm lại, qua những trang viết của mình, Ngô Tất Tố cho thấy ông là đại diện tiêu biểu cho những thay đổi của một lớp người trí thức trong giai đoạn giao thời, sự dung hòa tương thích giữa nền văn hóa mới và cũ.. Tác phẩm . Ngô Việt Xuân Thu (dịch, 1929). . Hoàng Hoa Cương (dịch, 1929). . Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ (truyện ký lịch sử, 1935). . Đề Thám (truyện ký lịch sử, viết chung, 1935). . Tắt đèn (tiểu thuyết, báo Việt nữ, 1937), (Mai Lĩnh xuất bản, 1939).

<span class='text_page_counter'>(11)</span> . Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết, báo Thời vụ, 1939-1944), (Mai Lĩnh xuất bản, 1952). . Tập án cái đình (Phóng sự,1939). . Thơ và tình (dịch thơ Trung Quốc, 1940). . Đường thi (sưu tầm, chọn và dịch, 1940). . Việc làng (phóng sự, báo Hà Nội tân văn, 1940-1941), (Mai Lĩnh xuất bản, 1941). . Thi văn bình chú (tuyển chọn, giới thiệu, 1941). . Văn học đời Lý (tập I) và Văn học dời Trần (tập II) (trong bộ Việt Nam văn học) (nghiên cứu, giới thiệu, 1942). . Lão Tử (biên soạn chung, 1942). . Mặc Tử (biên soạn, 1942). . Hoàng Lê nhất thống chí (dịch, tiểu thuyết lịch sử, báo Đông Pháp, 1942). . Suối thép (dịch, tiểu thuyết, 1946). . Trước lửa chiến đấu (dịch, truyện vừa, 1946). . Trời hửng (dịch, truyện ngắn, 1946). . Duyên máu (dịch, truyện ngắn, 1946). . Doãn Thanh Xuân (dịch, truyện ngắn, 1946-1954). . Địa dư các nước châu Âu (biên soạn chung với Văn Tân, 1948). . Địa dư các nước châu Á, châu Phi (biên soạn chung với Văn Tân, 1949). . Địa dư Việt Nam (biên soạn, 1951). . Nữ chiến sĩ Bùi Thị Phác (kịch bản chèo, 1951).. . Đóng góp (kịch, 1951). . Kinh dịch (chú giải, 1953). . Ngô Tất Tố và tác phẩm (tuyển tập, 2 tập, Nhà xuất bản Văn học, 1971, 1976). Hans Christian Andersen.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Hans Christian Andersen (2 tháng 4, 1805 – 4 tháng 8, 1875; tiếng Việt thường viết làHen Crít-tan Anđécxen) là nhà văn người Đan Mạch chuyên viết truyện cổ tích cho thiếu nhi. Trong tiếng Đan Mạch, tên ông thường được viết là H.C. Andersen.. Tiểu sử Thời niên thiếu và con đường đến với văn Andersen sinh ra ở Odense, Đan Mạch vào ngày 2 tháng 4 năm 1805. Cha của Andersen luôn tin rằng ông có thể có mối quan hệ với dòng dõi quý tộc và theo như một nhà thông thái ở Hans Christian Andersen Center, bà nội của ông từng nói rằng gia đình của họ từng là thuộc giai cấp trên trong xã hội. Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng những câu chuyện trên là vô căn cứ. Gia đình ông có những mối liên hệ với quý tộc Đan Mạch, nhưng đó chỉ là quan hệ về công việc. Tuy nhiên, có thuyết cho rằng Andersen là một đứa con bất hợp pháp của người trong hoàng tộc còn lại ở Đan Mạch, một sự thật ủng hộ cho thuyết này là vua Đan Mạch đã ưu ái Andersen khi ông còn trẻ tuổi và đã trả các khoản tiền học phí cho ông. Nhà văn Rolf Dorset khẳng định rằng diều đó cũng không chứng minh được đó là khoản thừa kế của Andersen. Andersen đã biểu lộ trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi còn là một cậu bé, tính cách đó được nuôi dưỡng bởi sự nuông chiều của cha mẹ và sự mê tín của mẹ ông. Ông thường tự làm cho mình các món đồ chơi, may áo cho các con rối và đọc tất cả các vở kịch, hầu hết là những vở kịch của William Shakespeare và của Ludvig Holberg. Trong suốt thời thơ ấu, ông có một tình yêu nồng nhiệt đối với văn học. Ông được biết đến vì thuộc làu các vở kịch của Shakespeare và tự trình diễn các vở kịch bằng những con rối gỗ. Ông cũng có hứng thú với nghệ thuật nói đùa, và hỗ trợ trong việc đề xướng ra hội những người thích đùa giữa những người bạn của ông . Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá.Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tớiCopenhagen (tiếng Đan Mạch: København) tìm việc làm diễn viên trong các nhà hát. Ông có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ông vỡ giọng. Một người bạn đã khuyên ông làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn. May mắn ông đã vô tình gặp được vua Frederik VI của Đan Mạch. Nhà vua rất thích cậu bé kỳ lạ này và đã gửi ông vào một trường học La tinh ở Slagelse. Trước khi được nhận vào trường học, Andersen đã thành công trong việc xuất bản câu chuyện đầu tiên của ông - The Ghost at Palnatoke's Grave (Bóng ma ở ngôi mộ Palnatoke) vào năm 1822 . Mặc dù là một học sinh chậm tiến (có lẽ là không học được) và không thích thú với việc học, Andersen học ở cả Slagelse và ở một trường ở Helsingør cho tới năm 1827. Andersen sau này đã tả những năm tại Slagelse và Helsingør là những năm đen tối nhất trong cuộc đời vì bị hành hạ khi sống trọ tại nhà người thầy và vì các bạn cùng lớp lớn tuổi hơn.. Sự nghiệp văn học Năm 1829, nhà hát kịch hoàng gia đã diễn vở nhạc kịch Kjærlighed paa Nicolai Taarn eller Hvad siger Parterret (Tình yêu ở tháp nhà thờ thánh Nicolas) của Andersen. Những năm tiếp theo, ông lại tiếp tục thành công với các vở diễn và câu chuyện của mình. Ông đã đi chu du khắp châu Âu, qua Đức, Thụy Sĩ, Pháp, Ý... nhưng vẫn giữ được niềm đam mê văn học trong suốt cuộc đời mình. Năm 1831, nhiều tác phẩm tiểu thuyết của ông đã được phát hành. Khi đi chu du, Andersen đã gặp được rất nhiều người nổi tiếng đương thời như Victor Hugo, Heinrich Heine, Honoré de Balzac, Alexandre Dumas cha và cả nhà văn Charles Dickens. Cảm giác khác biệt, thường kết thúc trong nỗi đau, là một chủ đề quán xuyến thường tái diễn trong công việc của ông. Chuyện này được cho là do cuộc sống nghèo khổ trước kia, tính giản dị và đặc biệt là trong sự thiếu thốn về đời sống tình dục và lãng mạn. Giới tính của ông gây ít nhiều tranh cãi và được bao gồm trong phần sau. Tuy nhiên, sự hấp dẫn của Andersen lại nằm ở thể loại truyện cổ tích. Năm 1835, ông bắt đầu sáng tác truyện kể nhan đề Chuyện kể cho trẻ em tại Ý. Từ đó, hầu như mỗi năm Andersen cho ra đời một truyện. Ấn bản thứ ba của truyện cổ Andersen, được xuất bản năm 1837, đã mang đến nhiều tác phẩm cổ tích nổi tiếng nhất của ông như "Nàng tiên cá", "Bộ quần áo mới của hoàng đế", "Vịt con xấu xí" ....

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Vào mùa xuân năm 1872, Andersen ngã khỏi giường và bị thương nghiêm trọng. Ông không bao giờ bình phục được nhưng đã sống tới 4 tháng 8 năm 1875, chết dần trong yên lặng ở một ngôi nhà tên là Rolighed (có nghĩa là sự yên tĩnh), gần Copenhagen. Thi thể của ông được mai táng ở Assistens Kirkegård ở khu Norrebro thuộc Copenhagen. Vào thời điểm ông chết, ông đã là một nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng. Năm 2005, khắp thế giới kỉ niệm 200 năm ngày sinh và những cống hiến của ông.. Tác phẩm Truyện thiếu nhi Sau đây là một số tác phẩm truyện thiếu nhi tiêu biểu của Andersen: . Bà chúa Tuyết (Sneedronningen).                 . Bộ quần áo mới của hoàng đế (Keiserens nye Klæder) Cái bóng (Skyggen) Cái chuông (Klokken) Câu chuyện của một người mẹ (Historien om en Moder) Chú chim họa mi (Nattergalen) Chú lính chì dũng cảm (Den standhaftige Tinsoldat) Con ngỗng hoang (De vilde Svaner) Cô bé bán diêm (Den lille Pige med Svovlstikkerne) Cô bé tí hon (Tommelise) Cu nhớn và cu con (Lille Claus og store Claus) Đôi giầy đỏ (De røde Skoe) Gia đình hạnh phúc (Den lykkelige Familie) Nàng tiên cá (Den lille Havfrue) Nàng công chúa và hạt đậu (Prindsessen paa Ærten) Ngôi nhà cổ (Det gamle Huus) Thiên thần (Engelen) Vịt con xấu xí (Den grimme Ælling). Đánh giá Ông được sánh ngang với những bậc danh nhân văn hóa của nhân loại. Tác phẩm của ông được dịch ra 90 thứ tiếng, xuất bản gần 500 lần với hơn 70000000 bản [1]. Đó là những cuốn sách bán chạy nhất hành tinh. Sau đây là lời nhận định của các nhà nghiên cứu Việt Nam về Anđécxen: "Bằng sức mạnh của ngôn từ hiếm có, trí tưởng tượng nhiệm màu mà trong sáng, cốt truyện hấp dẫn, lối kể chuyện có duyên, pha lẫn giữa bút pháp hiện thực và huyền ảo, tác phẩm của Anđécxen đã đạt đến sự hoàn hảo của một nghệ sĩ "độc nhất vô nhị, trước và sau ông chưa hề có". " [2] Nhà văn Nga Pautôpxki nhận định: " Trong mỗi chuyễn cổ tích cho trẻ con của Anđécxen còn có một truyện cổ tích khác mà người lớn mới có thể hiểu hết ý nghĩa của nó". [3].

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Xéc-van-tét Xéc- Van-Tét (1547-1616) là nhà văn người Tây Ban Nha. ông sinh tại Ancala đơ Hênarex, một thị trấn gần thủ đô Madrid, trong một gia đình quí tộc nghèo, bố làm nghề thầy thuốc. Thủa nhỏ Xec- Van- Tét học ở Valađôlit, lớn lên chuyển đến học ở thủ đô, tốt nghiệp đại học. Ông từng làm thư kí cho Hồng y Giáo chủ Accaviva, từng theo Hồng y về nước Itallia, từng tham gia quân đội Tây Ban Nha đóng trên đất Italia. Năm 1571, trong một trận thủy chiến, ông bị trọng thương, cụt tay trái. 5 Năm sau ông giải ngũ. Trên đường về Tây Ban Nha, ông bị bọn cướp biển bắt làm tù binh, giam giữ ở Angiê (Châu Phi). Năm 1580, ông được trả tự do. Vì gia đình khánh kiệt, ông phải trở lại đời lính. Năm 1584, ông giải ngũ và lập gia đình. Ông viết kịch để kiếm sống. 1587, ông xin được làm nhân viên môi giới cho việc thu mua quân lương, quân nhu. Năm 1597, phải ngồi tù vì để thiếu tiền quĩ. ông ra tù được giao việc thu thuế, có điều kiện đi nhiều nơi. Vì không thanh toán được khoản tiền thiếu thuế, năm 1602 ông lại phải ngồi tù. Vợ ông vì hoàn cảnh nghèo túng đã phải bỏ nhà vào Tu viện. Ông từ trần ngày 23/4/1616. Các tác phẩm chính: Galatêa, truyện thôn giã, thể hiện khát vọng giải phóng cá tính và tự do luyến ái; Cuộc du ngoạn trên đỉnh núi Pacnaxơ, trường ca nói về các nhà văn, nhà thơ đương thời; Truyện làm gương, gồm 12 truyện ngắn, vài chục vở kịch, nhưng đã thất lạc hầu hết. Đôn kihôtê, tiểu thuyết, nhại tiểu thuyết hiệp sĩ. Cuộc đời nhiều biến động thăng trầm, hoàn cảnh xô đẩy đến nhiều nơi khiến cho Xéc- van- tét có vốn sống vô cùng phong phú, giúp ông có nhiều chất liệu sáng tác. Chủ đề trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Xec- Van- tét là sự lố bịch, lỗi thời của xã hội phong kiến cũng như những mặt trái của xã hội tư bản.ông là nhà văn đã có những đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa văn học nhân loại. Nhiều nhà nghiên cứu từng đánh giá rất cao giá trị nghệ thuật của Đôkihôtê, coi đây là tác phẩm mở ra thời đại mới cho thể loại tiểu thuyết. Đôkihôtê đã đưa tên tuổi cuả Xéc- van -tét trở thành nhà văn tầm cỡ thế giới như Sêcxpia, Rabơle...Dưới ngòi bút tuyệt vời điêu luyện của ông, hình ảnh các nhân vật như Đônkihôtê, Sanchô cứ hiển hiện, ám ảnh tâm trí, trở thành niềm say mê của bạn đọc nhiều thế hệ, thuộc nhiều quốc gia trên thế giới..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> O. Henry O. Henry (tên thật là William Sydney Porter, tên khai sinh là William Sidney Porter;1862–1910) là nhà văn nổi tiếng người Mỹ .Truyện ngắn của O.Henry nổi tiếng là dí dỏm, dễ hiểu, giàu tình cảm và luôn có những cái kết bất ngờ một cách khéo léo.. Tiểu sử O. Henry sinh dưới tên William Sydney Porter ngày 11 tháng 9 năm 1862 tạiGreensboro, Bắc Carolina, Hoa Kỳ. Tên lót của ông là Sidney, nhưng sau đó được đổi thành Sydney năm 1898. Cha ông là bác sĩ Algernon Sydney Porter (1825–1888), và mẹ là Mary Jane Virginia Swain Porter (1833–1865). Họ cưới nhau ngày 20 tháng 4 năm 1858. Bà mẹ ông qua đời vì bệnh lao khi ông mới được 3 tuổi. Sau đó, Porter và cha chuyển về sống với bà nội. Ngay từ khi còn bé, Porter đã tỏ ra rất ham đọc. Ông đọc mọi thứ mình có, từ các tác phẩm kinh đển cho tới tiểu thuyết rẻ tiền. và ông theo học tại trường tư do bà cô mình,Evelina Maria Porter,làm chủ cho đến năm 1876. Sau đó ông tiếp tục theo học ở trường trung học Lindsey Street dưới sự bảo trợ của cô mình tới năm 15 tuổi. Năm 1879, ông làm việc cho hiệu y dược của ông chú, và sau đó, năm 1881, khi 19 tuổi, ông lấy bằng dược sĩ. Tháng 3 năm 1882, khi bắt đầu có triệu chứng bệnh lao lây từ bà mẹ, ông được gửi đến sống trong một trang trại chăn nuôi ở Texas với hy vọng khí hậu nơi đồng nội giúp vượt qua cơn bệnh – tương tự như nhân vật chính trong truyện Hygeia at the Solito. Ít lâu sau, ông đã thử viết những truyện ngắn đầu tay và mấy mẩu truyện vui cười cho các nhật báo miền Tây-Nam Hoa Kỳ. Kế đến, ông làm tại một cơ quan địa chính và lần lượt qua nhiều công việc khác nhau: vẽ kỹ thuật và kiến trúc, thư ký, đầu bếp nhà hàng, làm nhân viên cho công ty địa ốc, xưởng in, v.v. Hầu như từ mỗi ngành nghề, O. Henry đều có thể góp nhặt tư liệu cho các truyện ông viết. Porter chuyển đến Austin năm 1884 vàcó một cuộc sống khá sôi nổi ở đây. Ông tham gia hát và cả diễn kịch. Thực ra, Porter là một ca sĩ và cả nhạc sĩ giỏi. Ông có thể chơi cả ghi-ta và măng-đô-lin. Ông còn tham gia và nhóm hát "Hill city Quartet". Ở đây, Porter gặp và yêu Athol Estes, cô con gái 17 tuổi của một gia đình giàu có nhưng không được sự đồng ý của gia đình cô. Tới tháng 7 năm 1887, Porter và Athol bỏ trốn gia đình, và sau đó họ trở thành vợ chồng. Đứa con trai đầu tiên của họ chết ngay sau khi sinh (năm 1888). Sau đó, tháng 9 năm 1889, họ có con gái đầu lòng, tên là Margaret Worth Porter Đến năm 1894, ông lập nên tờ tuần san hài hước The Rolling Stone và làm chủ bút. Tờ báo này không mấy thành công, trở nên chết yểu sau một năm. Ông cũng làm phóng viên cho báo khác và thỉnh thoảng đóng góp vẽ hí họa. Kế đến, ông làm nhân viên ngân hàng First National Bank ở thành phố Austin, Texas. Năm 1896, nhà nước mở cuộc điều tra vì tình nghi ông biển thủ tiền của ngân hàng. Trước đấy khá lâu, ông đã phản đối là không thể nào cân đối sổ sách kế toán của ngân hàng vì việc quản lý tại đây quá lỏng lẻo. Mặc dù bố vợ ông đã chi trả hộ khoản tiền thất thoát, chính quyền liên bang vẫn muốn truy tố tội hình sự. Nếu ông chấp nhận ra hầu tòa, có lẽ ông đã được tha bổng vì số tiền liên quan chỉ nhỏ nhoi và có thể bào chữa là do lỗi lầm kế toán. Nhưng bạn bè ông khuyên ông nên trốn lánh. Ông nghe theo và bỏ đi đến nước Honduras ở Trung Mỹ – và có tư liệu cho vài truyện phiêu lưu lấy bối cảnh từ vùng đất này. Sáu tháng sau, nghe tin vợ mình đang đau nặng, ông trở về Mỹ. Nhà cầm quyền đợi đến khi vợ ông qua đời mới đem ông ra xét xử. Đến lúc này thì sự kiện bỏ trốn đi khỏi nước là yếu tố rất bất lợi cho ông. Tuy thế, ông bị kết mức án tù nhẹ nhất có thể được là 5 năm. Trong nhà tù ở thành phố Columbus, Ohio, ông làm dược tá cho bệnh viện nhà tù, có thời giờ sáng tác để gửi tiền cho con gái, và bắt đầu dùng bút hiệu O. Henry. Sau khi đã qua hơn 3 năm trong tù, nhờ tư cách tốt ông được trả tự do sớm vào năm 1901. Ông đến cư ngụ tại thành phố Pittsburgh, Pennsylvania..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Năm sau, ông định cư hẳn tại Thành phố New York, cố giấu tung tích mình là tù phạm cũ. Từ lúc này, các truyện ngắn của ông bắt đầu xuất hiện đều đặn trên các báo hàng ngày và tạp chí. Mười tập truyện lần lượt được ra đời trong thời gian 1904-1910. Sau những năm tháng cùng quẫn, mặc dù đến lúc này đã trở nên nổi danh và có tiền nhuận bút khá, O. Henry vẫn không được hưởng hạnh phúc vào những năm cuối đời: cuộc hôn nhân thứ hai thiếu hạnh phúc, khó khăn về tài chính vì chi tiêu quá cao, lại thêm tái phát chứng lao phổi lây từ bà mẹ và tật nghiện rượu nhiễm từ ông bố. Ông qua đời một cách khổ sở tại Thành phố New York ngày 5 tháng 6 năm 1910 do bệnh lao cộng thêm chứng xơ gan. Thêm ba tập truyện được ấn hành sau khi ông mất. Năm 1919, Hội Nghệ thuật và Khoa học (Society of Arts and Sciences) thiết lập "Giải thưởng Tưởng niệm O. Henry" (O. Henry Memorial Awards), hàng năm trao cho những truyện ngắn xuất sắc. Tại Việt Nam đã có nhiều bản dịch một số truyện ngắn của O. Henry. Gần đây nhất là quyển "Người du ca cuối cùng" do Nhà xuất bản Văn Học xuất bản. Truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng đã được đưa vào chương trình văn học nhà trường.. Tác phẩm Có lẽ nhờ cuộc đời phong phú của tác giả nên các truyện ngắn của O. Henry (tổng cộng gần 400 truyện cộng thêm vài bài thơ) cũng thể hiện các nét đa dạng của xã hội Mỹ đương thời. Người ta có thể tìm thấy những nhân vật làm các nghề mà chính tác giả đã trải qua, và còn nữa: chủ cửa hiệu, nhân viên bán hàng, ký giả, họa sĩ, bác sĩ, diễn viên sân khấu, thợ cắt tóc, cảnh sát, thanh tra, dân đi tìm vàng, cũng có những người vô nghề nghiệp vô gia cư, và kể cả kẻ tội phạm và tù nhân. Những bối cảnh trong các truyện ngắn cũng phong phú, với nhiều truyện lấy Thành phố New York - nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông - làm bối cảnh, cộng thêm những mẩu chuyện phiêu lưu trong vùng Trung và Tây-Nam nước Mỹ. Tất cả đều biểu hiện khung cảnh xã hội kinh tế nước Mỹ vào thời khoảng cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, lúc đường Thành phố New York còn được thắp sáng bằng đèn ga, người còn dùng xe ngựa để di chuyển, nhiều dân chăn bò (cowboy, hay "cao bồi") vẫn còn sống bờ sống bụi và xem pháp luật bằng nửa con mắt, dân đi tìm vàng tự lập nên những thị trấn mới rồi "tự cai tự quản", v.v. Điểm đặc sắc trong truyện ngắn của O. Henry là những tình tiết ngẫu nhiên, có lúc khắc nghiệt hoặc oái oăm hoặc mỉa mai, nhiều lúc khôi hài hoặc dở khóc dở cười, để rồi kết thúc trong bất ngờ làm người đọc hoặc thích thú nhưng không quá sướng thỏa, hoặc bâng khuâng nhưng không quá nặng nề. Những dư hương nhẹ nhàng như thế đọng trong tâm tư người đọc khá lâu. Có lẽ do vậy mà vài truyện của O. Henry đã được chuyển thể qua sân khấu, sau này là điện ảnh và truyền hình, kể cả sân khấu kịch ở Việt Nam. Riêng truyện A retrieved reform, rút tư liệu từ thời gian tác giả ngồi tù (có ý kiến cho là dựa trên chuyện có thật), được chuyển thành kịch sân khấu rất thành công. Nhiều người ngạc nhiên về tính đa dạng trong các truyện của O. Henry. Một ngày, khi ngồi với nhà văn trong một hiệu ăn, một người bạn ông đặt câu hỏi thay cho số đông người đọc: làm thế nào ông kết cấu được các tình tiết, ông tìm đâu ra những cốt truyện như thế? Nhà văn đáp: "Từ mọi nơi. Mọi thứ đều mang câu chuyện". Rồi cầm lấy tờ thực đơn trên bàn ăn, ông nói: "Có một câu chuyện trong bản thực đơn này." Đúng như thế: sau đấy ông viết nên truyện Springtime à la carte.. -Sau hai mươi năm. -Hoàng tử đồng xanh -Căn phòng đủ tiện nghi -Món quà của các thông thái -Chiếc lá cuối cùng.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> -Một cuộc đổi đời. Chyngyz Torekulovich Aitmatov Chyngyz Torekulovich Aytmatov (tiếng Kyrgyz : Чыңгыз Төрөкулович Айтматов) là một nhà văn người Kyrgyzstan – một nước cộng hòa ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về Thể loại. quê hương ông.. Tiểu thuyết Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963).  . Jamilya (1958). . Cây phong non trùm khăn đỏ (1961). . Người thầy đầu tiên (1962). . Mắt lạc đà. . Vĩnh biệt Gyulsary (1966). . Con tàu trắng (1970). . Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov). . Sếu đầu mùa (1975). . Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977). . Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок). . Đoạn đầu đài (1986). . Тавро Кассандры, (1996). . Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998). . Когда падают горы (2006). Vinh danh Chyngyz Aytmatov được trường Đại học Quốc gia Moskva phong tặng hàm giáo sư danh Giải thưởng nổi bật. Anh hùng Kyrgyzstan Anh hùng Lao động Liên bang Soviet Huân chương Hữu nghị Huân chương Lenin Huân chương Cách mạng Tháng Mười Huân chương Cờ Đỏ Huân chương Nụ cười Trẻ emBa Lan. dự..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> PHAN BỘI CHÂU I.- CUỘC ĐỜI VÀG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC: 1. Cuộc đời Phan Bội Châu trước đó tên là Phan Văn San, sau vì trùng tên với Vua Duy Tân (Vĩnh San) mới đổi thành Phan Bội Châu (Bội : đeo; Châu : Ngọc Châu). Phan Bội Châu có biệt hiệu là Sào Nam (lấy từ câu Việt Ðiểu Sào Nam Chi"), tỏ ý luôn thiết tha với quê hương đất nước. Ông còn có một tên hiệu khác là Thị Hán, ngụ ý là hảo hán, một đấng nam nhi lỗi lạc ở đời. Khi viết bài "Pháp Việt đề huề chính kiến thủ" ông lại ký tên là Ðộc Tỉnh Tử. Ông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867, tại Huyện Nam Ðàn, Tỉnh Nghệ An. Thân sinh của ông là ông Phan Văn Phổ, một bậc thâm nho, thông hiểu kinh truyện nhưng không đỗ đạt gì cả, suốt đời đeo đuổi nghề dạy học. Mẹ của ông là Bà Nguyễn Thị Nhàn, cũng xuất thân từ một gia đình thuộc dòng dõi nho học. Bà là một người phúc hậu, thường hay giúp đỡ những người nghèo khổ. Phan Bội Châu đã theo học chữ nho, ông đậu giải Nguyên kỳ thi hương năm Canh Tý (1900). Khác với các nho sĩ thời phong kiến, Phan Bội Châu không xem việc thi cử đỗ đạt là một phương tiện để tiến thân mà ông chỉ coi đó là một cơ hội thuận lợi cho hoạt động chính trị. Cho nên sau khi thi đậu, Phan Bội Châu đã thoát ly gia đình, lao hẳn vào con đường hoạt động cách mạng. Ông là người đã gây dựng phong trào cách mạng theo xu hướng dân chủ tư sản ở đầu thế kỉ XX. Và ông cũng là người có ý thức dùng văn chương để phục vụ cho hoạt động chính trị. Ðầu năm 1904, Phan Bội Châu cùng với Cường Ðể và hơn 20 đồng chí nữa họp tại nhà riêng của ông Nguyễn Hàm, bí mật lập ra một tổ chức yêu nước, theo kiểu hội kín, sau này gọi là Duy Tân hội. Cường Ðể được cử làm Hội chủ. Ðầu năm 1905, theo kế hoạch của Duy Tân hội, Phan Bội Châu xuất dương sang Nhật. Ông nhận trách nhiệm tổ chức phong trào Ðông Du. Ðây là giai đoạn đắc ý nhất của ông. Thời gian này ông cũng sáng tác được nhiều tác phẩm gửi về nước. Lời văn thống thiết, khích lệ của tác giả đã thức tỉnh được lòng yêu nước của nhiều người dân lúc bấy giờ. Nhiều người dân đã tích cực ủng hộ phong trào Ðông Du bằng nhiều hình thức khác nhau. Do dã tâm của đế quốc Nhật và âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, tháng 3 năm 1909 tổ chức Ðông Du bị giải tán, ông bị trục xuất khỏi nước Nhật, phải chạy trốn sang Trung Quốc, rồi Thái Lan. Về sau ông đã đứng ra thành lập "Việt Nam quang phục hội". Ngày 24 tháng 12 năm 1913, ông bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam, đến năm 1917 mới được ra tù. Tổ chức yêu nước do Phan Bội Châu đứng ra lãnh đạo càng về sau càng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Mặc dù lòng yêu nước rất sâu và nhiệt tình cứu nước rất cao nhưng Phan Bội Châu không làm cách gì để thay đổi được tình thế. Ông đã cải tổ "Việt Nam quang phục hội", thành lập "Việt Nam quốc dân Ðảng" nhưng chưa kịp thực hiện những mong ước lớn thì ông đã bị bắt vào năm 1925. Kẻ thù định thủ tiêu ông nhưng việc bị bại lộ. Chúng buộc phải tha ông do gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của dân ta. Chính quyền thực dân bắt ông phải về sống ở Huế. Từ năm 1926 về sau, Phan Bội Châu sống trong cảnh "cá chậu chim lồng", mật thám luôn rình rập, theo dõi ông. Kể từ đó xem như ông đã bị đoạn tuyệt hẳn với hoạt động chính trị. Thời gian này công việc duy nhất của ông là sáng tác. Nhiều tác phẩm được ra đời vào những năm cuối đời của Phan Bội Châu. Phan Bội Châu mất ngày 20 tháng 10 năm 1940. 2. Sự nghiệp thơ văn Có ba thời kỳ sáng tác : - Thời kỳ đầu : Trước khi ra nước ngoài, Phan Bội Châu có viết một số tác phẩm, trong số đó có những tác phẩm tiêu biểu : Hịch Bình Tây thu Bắc, Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư, Song Tuất lục. - Thời kỳ thứ hai : Thời gian hoạt động ở nước ngoài Phan Bội Châu sáng tác rất nhiều tác phẩm và gửi về nước, tiêu biểu như: Hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong quốc sử, Tân Việt Nam, Khuyến quốc dân tu trợ du học văn. - Thời kỳ thứ ba : Ðây là thời kỳ ông bị giam lỏng ở Huế, số lượng tác phẩm ra đời trong giai đoạn này rất lớn nhưng lại không được đánh giá cao về chất lượng. Tác phẩm "Phan Bội Châu niên biểu" được xem là có giá trị nhất. Bên cạnh đó phải kể đến Nam Nữ quốc dân tu tri, Thuốc chữa dân nghèo, Cao đẳng quốc dân,.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Lời hỏi thanh niên, Luân lý vấn đáp và hơn 800 bài thơ Nôm các loại, mấy chục bài phú, văn tế, tạp văn. II.- NỘI DUNG THƠ VĂN PHAN BỘI CHÂU: 1. Thơ văn Phan Bội Châu thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ Do điều kiện thực tế của lịch sử ở Việt Nam, cuộc đấu tranh vì con người trước hết là cuộc đấu tranh giành và giữ độc lập, cho nên văn học Việt Nam luôn đề cập đến truyền thống yêu nước. Tùy theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, sự thể hiện truyền thống yêu nước có khác nhau. Khi chế độ thực dân nửa phong kiến hình thành, dân tộc ta đứng trước một tình hình mới: Muốn là yêu nước thì phải đấu tranh giải phóng dân tộc, mà muốn giải phóng dân tộc thì phải duy tân, chống phong kiến, dân chủ hoá đất nước, hiện đại hoá đất nước và cuối cùng hòa vào cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Ðầu thế kỉ XX nhiều nhà nho yêu nước đã bước đầu nhận ra con đường đó. Họ đưa tư tưởng yêu nước, duy tân vào văn chương tạo thành một phong trào văn học khác trước, phân biệt với văn chương yêu nước thời trung đại. Phan Bội Châu là người sáng tác nhiều nhất, trong thời gian liên tục và lâu nhất. Phan Bội Châu đã làm cho văn học yêu nước có nội dung dân tộc dân chủ cao hơn, có tính chiến đấu, tính nhân đạo cao hơn. Thơ văn yêu nước của Phan Bội Châu tiêu biểu cho một giai đoạn văn học mới, giai đoạn đầu của thời kỳ văn học hiện đại. Yêu nước là một nội dung chủ yếu của văn học Việt Nam. Kể từ khi hình thành nền văn học viết, nội dung ấy không ngừng phát triển và ngày càng mang nhiều sắc thái mới. Ðến với thơ văn yêu nước của Phan Bội Châu, chúng ta sẽ được thấy rõ điều đó. - Tinh thần yêu nước trong thơ văn Phan Bội Châu được thể hiện một cách cụ thể, gần gũi : Khi nói về đất nước các nhà nho xưa thường có những lúng túng do họ còn bị câu nệ bởi những quan niệm cũ, quan niệm "Xã tắc" siêu hình. Phan Bội Châu tuy còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của quan niệm phong kiến nhưng ông đã biết phá bỏ những cái lạc hậu. Tình yêu quê hương đất nước ở ông được thể hiện bằng những tình cảm bình thường, gần gũi nhưng rất sâu sắc. Ðó là : + Tình cảm của con người trước cái đẹp của quê hương đất nước : "Nay ta hát một thiên ái quốc Yêu gì hơn yêu nước nhà ta Trang nghiêm bốn mặt sơn hà Ông cha để lại cho ta lọ vàng Trải mấy lớp tiền vương dựng mở Bốn ngàn năm dãi gió dầm mưa Biết bao công của người xưa Gang sông tấc núi dạ dưa ruột tằm" (Ái quốc ca) + Lòng căm thù giặc : Xuất phát từ lòng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu đã ý thức được trách nhiệm đối với tổ quốc. Ông căm thù những kẻ giày xéo quê hương làng mạc. Ông đã chỉ ra cho mọi người thấy kẻ thù của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán nước và lòng căm thù của ông cũng hướng vào hai đối tượng này. Ghét Pháp, ông ghét tất cả những gì có liên quan đến chúng, kể cả những vật vô tri vô giác (lá cờ, ổ bánh mì, tờ lịch). Ông cương quyết không chấp nhận sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam, ông đã mỉa mai, chỉ trích sự có mặt một cách vô lý của thực dân Pháp trên đất nước ta (Tu hú tranh tổ cà cưỡng). Ðối với bọn tay sai bán nước ông tỏ thái độ khinh miệt, xem thường. Dưới mắt ông, bọn quan lại là những kẻ vô dụng, hèn hạ, chỉ biết bảo vệ cá nhân mình, sẵn sàng khom lưng quì gối trước kẻ thù. + Vạch trần tội ác của kẻ thù : Dùng văn học làm vũ khí để vạch trần tội ác của thực dân Pháp, dòng văn học yêu nước chống Pháp đã xem đó là nhiệm vụ hàng đầu. Nhưng đến thơ văn Phan Bội Châu thì bộ mặt của tên thực dân cướp nước mới được nhận thức cụ thể. Ông đã nói đến chính sách thuế khóa nặng nề, ông chỉ rõ sự thâm độc của chính.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> sách khai thác thuộc địa và ông cũng cho mọi người thấy được sự thật của vấn đề khai hoá. Ông báo trước cho mọi người thấy rồi đây nước ta sẽ nghèo, sẽ hèn, sẽ yếu, sẽ ngu, dân tộc ta đang đứng trước nguy cơ diệt chủng. Mặc dù lời lẽ phân tích của ông chưa sâu sắc nhưng qua tác phẩm người đọc cũng cảm thấy rùn mình, khiếp sợ trước kẻ thù nguy hiểm của dân tộc. + Tình yêu nước của Phan Bội Châu còn được thể hiện qua nỗi xót xa, sự thông cảm đối với người dân nghèo khổ. Ông vô cùng đau xót trước cảnh đói rét lầm than của người dân vô tội. Ông rất thông cảm cho kiếp đời nô lệ của những người dân mất nước phải sống cuộc đời lam lũ giành giật từng miếng cơm, manh áo. Hình ảnh những anh phu xe dưới trời mưa bão, gò lưng kéo chiếc xe nặng chở một tên thực dân béo mập, hay những đứa bé bán bánh vào đêm mưa đã lần lượt xuất hiện trong thơ ông (Phu xe than trời mưa, Ðêm mưa thương người bán bánh rao) + Phan Bội Châu không chỉ bộc lộ tấm lòng yêu nước, mà còn nêu lên một tinh thần sẵn sàng chống giặc cứu nước. Ngay cả thời kỳ bị giam lỏng ở Huế, sống trong hoàn cảnh nguy hiểm, luôn bị uy hiếp, đe dọa, thơ văn ông vẫn còn khí thế hừng hực như khi mới xuất dương : "Ðúc gan sắt để dời non lấp bể Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ" (Bài ca chúc tết thanh niên) Lòng yêu nước của Phan Bội Châu sâu sắc, giàu sức chiến đấu nhưng bước vào giai đoạn mới của cách mạng những lời kêu gọi của ông không đi vào quần chúng với sức mạnh bão táp như xưa. Thời đại đã tiến lên phía trước và nội dung thơ văn ông không theo kịp. Ông không giải đáp được những vấn đề mà quần chúng đã bắt đầu quan tâm, đòi hỏi - Yêu nước gắn liền với vấn đề cách mạng : Mặt tiến bộ trong tư tưởng yêu nước của Phan Bội Châu chính là sự đổi mới trong quan niệm về yêu nước và đường lối cứu nước. Là một người từng xuất thân từ cửa Khổng sân Trình nhưng Phan Bội Châu đã có một thái độ rất dứt khoát đối với chế độ phong kiến. Với ông, yêu nước không nhất thiết phải yêu vua, đất nước này càng không phải là của vua. Vì thế chống giặc cứu nước là vì nòi giống, dân tộc Việt Nam chứ không vì một triều đại hay một dòng họ nào cả. Ông đã đưa ra chủ trương chống phong kiến triệt để. Khác với các nho sĩ yêu nước ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, Phan Bội Châu đứng lên chống Pháp là để giành lại độc lập và tiến tới xây dựng xã hội mới, không cần có vua. Tiến bộ hơn một số nho sĩ cùng thời như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đã đặt ra nhiệm vụ giải phóng đất nước bằng con đường bạo động cách mạng. Ông từng nêu rõ "Thù dân tộc không lấy máu rửa không sạch". Thơ văn ông tràn trề tinh thần quyết chiến đấu, ngùn ngụt như lửa, ồ ạt như lũ : "Lắng xuống mà suy nghỉ rồi hăng hái vùng lên vung tay mà hô lớn : kẻ thù, kẻ thù, ta thề phải tiêu diệt hết rồi mới ăn cơm sáng". Theo quan niệm của Phan Bội Châu nhiệm vụ cứu nước là rất quan trọng và cấp bách trong hoàn cảnh hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề cải cách xã hội, tiến lên xây dựng một chế độ mới, chế độ dân chủ tư sản, theo gương Nhật Bản cũng là rất cần thiết, phải thực hiện ngay trong thời điểm bấy giờ. Với ông tất cả những việc làm trên là yêu nước, là đóng góp lớn cho xã hội, là cứu nguy cho giống nòi. - Yêu nước gắn liền với vấn đề dân chủ : Phan Bội Châu đã đưa ra quan niệm tiến bộ về người dân trong xã hội. Ông đã đi đến khẳng định đất nước là của dân, đấu tranh chống giặc cứu nước là để bảo vệ nòi giống, đồng bào Việt Nam. Ông đã lấy tư tưởng dân chủ làm động lực đấu tranh giành độc lập. Hơn nữa, Phan Bội Châu đã xác lập vai trò làm chủ xã hội của người dân. Ông đã nói về quyền làm chủ của người dân, cho nên trong trách nhiệm để mất nước tội của người dân cũng không nhỏ. Sơ kết: Với Phan Bội Châu yêu nước không còn là tình cảm cao quý chỉ có ở một số ít người mà là phẩm chất phổ biến của mọi người. Yêu nước không thể chỉ là yêu thương chung chung mà là ghét xâm lược, không chịu làm nô lệ, biểu hiện thành hành động hy sinh cứu nước. Tinh thần yêu nước ở Phan Bội Châu cũng là tinh thần quyết chiến chống xâm lược. Trong tình thế lúc đó, theo Phan Bội Châu duy tân là để mở mang dân trí, nâng cao dân khí để có thêm sức mạnh đánh Pháp..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 2. Chủ trương đoàn kết rộng rãi Phan Bội Châu đã thấy được điều tai hại của việc mất đoàn kết, việc chia rẽ dân tộc. Ông cho rằng một trong những nguyên nhân giúp Pháp chiếm được đất nước ta và đặt được ách đô hộ lên đất nước ta một cách vững vàng là do nhân dân ta "Xung khắc bất hòa": "Nỗi ngu dại nói không kể xiết Lại ngờ nhau chẳng biết tim nhau Coi nhau như thể quân thù Thù mong nhau hại ghét cầu nhau hư Bụng có hợp thì nhà mới hợp Lòng đã tan thì nước cũng tan" (Hải ngoại huyết thư) Từ đó ông đã đi đến khẳng định sức mạnh của đoàn kết. Và ông cũng đã đưa ra một chủ trương đoàn kết rộng rãi, không phân biệt giai cấp, đẳng cấp, tôn giáo, thể hiện một niềm tin vững chắc vào sức mạnh của đoàn kết. Tuy nhiên, ông chưa thấy rõ lực lượng tiên tiến nhất của xã hội có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ cứu nước, chưa nhận thức được đầy đủ về vai trò của người nông dân để nhìn về họ như một lực lượng nòng cốt của phong trào cách mạng. 3. Lý tưởng mới và chủ nghĩa anh hùng tiến bộ : 3.1- Lý tưởng mới : Thơ văn Phan Bội Châu, trong chừng mực nhất định, đã nêu lên được một lý tưởng mới cho cuộc sống và đã sáng tạo được mẫu người lý tưởng cho thời đại. Lý tưởng đó là cứu nước. Ông cho rằng mục đích tốt đẹp nhất của đời người, lý tưởng tốt đẹp nhất của đời người là làm sao cứu được nước, vì cứu nước cũng tức là cứu mình. Lý tưởng ấy thật cao quý nhưng nó lại không chút gì cao xa cả, ai cũng có thể theo được. Ông đã nêu lên mẫu người lý tưởng trong xã hội, đó là người yêu nước, có lòng căm thù giặc, dám xả thân vì đất nước. Ví dụ : các nhân vật anh hùng trong tác phẩm "Trùng quang tâm sử". 3.2- Chủ nghĩa anh hùng tiến bộ : Người anh hùng xuất hiện trong sáng tác của Phan Bội Châu là những con người bình thường nhưng làm được việc phi thường. Với ông không có sự phân biệt nam nữ, đẳng cấp, tôn giáo, giàu nghèo... trong quan niệm về người anh hùng. Và có anh hùng hữu danh thì cũng có anh hùng vô danh. Có anh hùng thành công thì cũng có anh hùng thất bại. Mặt khác, Phan Bội Châu còn nói đến quan niệm về tập thể anh hùng. Trong lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước của dân tộc không chỉ có cá nhân anh hùng mà còn có cả tập thể anh hùng. III.- NGHỆ THUẬT LÀM THƠ PHAN BỘI CHÂU 1. Thể loại : Ông đã vận dụng hầu hết các thể loại văn học của thời kỳ trung đại và hiện đại. Các loại văn cử tử như phú, đường luật, câu đối; hình thức cổ điển như ký, minh, cổ phong, từ, luận; các hình thức dân tộc như lục bát, song thất; các hình thức dân gian như vè, hát dặm, ca dao, chèo; các hình thức mới như nghị luận, truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, báo chí, hồi ký.v.v... Phan Bội Châu đều sử dụng đến và sử dụng không phải là không thành thạo. 2. Ngôn ngữ : Ngôn ngữ trong sáng tác của Phan Bội Châu còn chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ trong văn học trung đại. Nhưng tác giả đã thể hiện sự cố gắng lớn khi tạo cho nó có tính chất giản dị, dễ hiểu. Tất cả không ngoài mục đích nhằm đạt hiệu quả tuyên truyền. 3. Nhân vật : Nhân vật trong tác phẩm của Phan Bội Châu đã đạt đến mức độ đa dạng, phong phú. Ông đã đề cập đến nhiều hạng người trong xã hội, tập trung thể hiện con người yêu nước. Các nhân vật của ông đã bớt dần tính ước lệ..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> 4. Văn chữ Hán của Phan Bội Châu khác với văn chữ Hán thời trung đại. Nó không sao tránh khỏi một số nề nếp của văn cử tử nhưng nó đã nhẹ nhàng hơn, rành mạch hơn, thông tục hoá hơn, chú trọng nội dung hơn hình thức, nó có một phong cách riêng. Nhiều người cho rằng văn chữ Hán của Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của loại văn Tân văn tùng báo và của Lương Khải Siêu. 5. Giọng văn của Phan Bội Châu hùng hồn thống thiết, bừng bừng nhiệt tình cách mạng. 6. Phan Bội Châu đã cố gắng cách tân trong vấn đề xây dựng kết cấu tác phẩm, nhưng lối sáng tác cũ còn ảnh hưởng không nhỏ đối với ông. IV.- KẾT LUẬN - Về mặt nội dung, sáng tác của Phan Bội Châu đã thể hiện được nhiều vấn đề mới, có đóng góp đáng kể cho tiến trình hiện đại hoá văn chương Việt Nam. - Về nghệ thuật, Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở mức độ cách tân nghệ thuật văn chương của nhà nho, những đổi mới đó chưa đáp ứng được yêu cầu mới của thời đại.. Tác phẩm Tác phẩm cách mạng . Việt Nam Quốc sử khảo (1909).                     . Ngục Trung Thư (1913) (loc) – Sài Gòn: NXB Tân Việt, 1950 Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư (19??) Việt Nam vong quốc sử (1905) Việt Nam Quốc sử bình diễn ca (1927) Cao Đẳng Quốc Dân Di Cảo (19??) (loc) – Huế: NXB Anh-Minh, 1957 Chủng diêt dự ngôn(19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa hoc xã hội, 1991 Tân Việt Nam (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Cục lưu trữ nhà nước, 1989 Thiên Hồ Đế Hồ (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, 1978 Khuyến quốc dân du học ca (19??) Hải ngoại huyết thư (1906) Dĩ cửu niên lai sở trì chủ nghĩa (19??) Hà thành liệt sĩ ca (19??) Truyện Lê Thái Tổ (19??) Tuồng Trưng nữ vương (19??) Gia huấn ca (19??) Giác quần thư (19??) Nam quốc dân tu tri (19??) Nữ quốc dân tu tri (19??) Truyện Chân tướng quân (1917) Truyện tái sinh sinh (19??) Truyện Phạm Hồng Thái (19??). Tác phẩm biên khảo, thi ca . Kí niệm lục (19??).     . Vấn đề phụ nữ (19??) Luận lí vấn đáp (19??) Sào nam văn tập (19??) Hậu Trần dật sử (19??) (loc) – Hà Nội: NXB Văn hóa-thông tin, 1996 Khổng Học Đăng (19??) (loc) – Houston, TX: NXB Xuân Thu, 1986.

<span class='text_page_counter'>(23)</span>   . Phan Bội Châu Niên Biểu (19??) (loc) – Sài Gòn: Nhóm nghiên-cứu Sử Địa, 1971 Phan Bội Châu Toàn Tập (19??) (loc) – Huế: NXB Thuận hóa: Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001 Trùng Quang Tâm Sử (19??) (loc) Hà Nội: NXB Văn học, 1971 [12].. Phan Châu Trinh Phan Châu Trinh còn có hiệu là Tây Hồ, Hy Mã , tự là Tử Cán. Ông sinh năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ nay thuộc Xã Tam Lộc Huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Thân sinh là Phan Văn Bình, một võ quan nhỏ, từng tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm chuyển vận sứ phụ trách việc quân lương, nhưng về sau trở thành nạn nhân của sự chia rẽ nội bộ. Năm 1888, thân phụ ông mất khi ông mới 16 tuổi. Năm 1892, ông đi học và nổi tiếng học giỏi. Bạn cùng học với ông là Huỳnh Thúc Kháng (kém ông 4 tuổi). Năm 1900, ông đỗ Cử nhân. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1902, ông vào học Trường Hậu bổ, sau ra làm Thừa biện Bộ Lễ. Ít lâu sau ông bỏ quan, hoạt động cứu nước. Ông kết giao vơi nhiều sĩ phu yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ông và Phan Bội Châu tâm đắc về nhiệt huyết cứu nước, nhưng ông không tán thành đường lối của Phan Bội Châu dựa vào Nhật để đấu tranh vũ trang chống Pháp. Ông cùng các bạn đi khắp Việt Nam cổ vũ đấu tranh và liên kết trí thức, văn sĩ yêu nước. Năm 1905, ông sang Nhật Bản rồi sang Pháp chủ trương dựa vào Pháp để tiến hành cải cách, thực hiện tự do dân chủ, lật đổ chế độ phong kiến, làm cho dân giàu, nước mạnh, tiến lên giải phóng dân tộc. Năm 1906, ông bí mật sang Nhật Bản gặp Phan Bội Châu, khởi xướng duy tân, cải cách nước nhà. Sau khi về nước, ông ra sức tuyên truyền chủ trương cải cách của mình và đã trở thành một trong những người lãnh đạo xu hướng cải lương hồi đầu thế kỷ 20. Tháng 7-1907, Phan Châu Trinh ra Hà Nội tham gia giảng dạy ở Đông Kinh nghĩa thục, những buổi diễn thuyết của ông có rất đông người đến nghe. Ông mở rộng giao du với cả một số người Pháp. Năm 1908, vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội và phong trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ nổ ra và bị thực dân Pháp đàn áp, ông bị bắt đày ra Côn Đảo. Đến năm 1910, nhờ có Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, ông được trả lại tự do, nhưng bị quản thúc tại Mỹ Tho. Tuy nhiên, ông viết thư cho Toàn quyền đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Đảo, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho. Vì vậy, nhân dịp có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật. Sang Pháp, ông ở nhà luật sư Phan Văn Trường, mở một hiệu sửa ảnh, sống thanh bạch (Nguyễn Tất Thành cũng từng làm việc tại cửa hiệu của ông). Ông tìm cách liên hệ với những người trong Liên minh Nhân quyền và Đảng Xã hội Pháp. Ông cũng có những cuộc tiếp xúc với các nhóm Việt kiều và các đảng phái tiến bộ, thảo luận vấn đề độc lập, tự do, dân chủ. Năm 1914, ông lại bị bắt giam vì tình nghi có liên hệ với nước Đức. Nhờ sự can thiệp của Đảng Xã hội Pháp, nên ông mới được thả ra..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Ngày 19 tháng 6 năm 1919, ông cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn "Bản Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc, làm nổ ra "quả bom chính trị" chấn động tại nước Pháp. Năm 1922 khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội Khải Định 7 điều và khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể (quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều). Năm 1925, ông về Sài Gòn tiếp tục hoạt động theo xu hướng cải lương, kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí. Ông mất ngày 24 tháng 3 năm 1926 tại Sài Gòn. Sau khi mất, tinh thần yêu nước của ông vẫn cổ vũ phong trào trong nước, đặc biệt là trong thanh niên, học sinh đã dấy lên phong trào đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu và để tang Phan Châu Trinh. Lễ tang ông được nhân dân tổ chức rất trọng thể ; bất chấp sự ngăn cản của thực dân, cả nước dấy lên phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh , là một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ . Trong bài thơ thương tiếc ông của Phan Bội Châu có đọan : Cờ xã hội những toan lên thẳng bước Gánh giang sơn chẳng chút chiụ nhường ai Đau đớn thay! Trời chẳng chìu người, Người bước tới mà trời giằng kéo lại Công nghiệp sống chưa ra vòng thất bại Tuổi chết nay đã trải chẵn muời năm Nhớ bạn xưa khôn nỡ khóc thầm Một hàng chữ gởi thôn tâm cùng thiên cổ! Kẻ tiền đạo ấy ai là người hậu lộ?. Tác phẩm          . Ðầu Pháp chính phủ thư (1906) Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907) Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm) Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan thúc Duyên năm 1910) Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911) Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915) Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922) Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (hồm hơn 7.000 câu thơ lục bát, soạn 1912-1913) Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền) Bức thư trả lời cho người học trò tên Ðông (1925).

<span class='text_page_counter'>(25)</span> . Đông Dương chính trị luận (1925). Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết về Đạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa, một số thơ (không nằm trong Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902-1912.... Tản Đà Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 - mất ngày 7 tháng 6 năm 1939[1]) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng củaViệt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Trong văn đàn Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.. Cuộc đời Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 (20 tháng 4 năm Kỷ Sửu, Thành Thái nguyên niên), tại làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội), nguyên quán ở làng Lủ tức làng Kim Lũ, huyệnThanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội). Ông thuộc dòng dõi quyền quý, có truyền thống khoa bảng. Tổ tiên ông xưa kia có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. Sau Gia Long lên ngôi, dòng họ này thề sẽ không đi thi, không làm quan với tân triều. Đến thời cha ông là Nguyễn Danh Kế (阮名繼), do hoàn cảnh gia đình cực khổ, lại phải nuôi mẹ già, đành lỗi ước với tổ tiên. Nguyễn Danh Kế thi đỗ cử nhân, làm quan cho triều Nguyễn đến chức Ngự sử trong Kinh, giữ việc án lý, nổi tiếng là người có tài văn án trong triều. Ông Kế vốn là người phong lưu tài tử, thường lui tới chốn bình khang và quen với bà Lưu Thị Hiền ở phố. Bà Lưu Thị Hiền (流氏賢) có nghệ danh Nhữ Thị Nhiêm (汝氏蚦), là một đào hát tài sắc ở Hàng Thao - Nam Định, bà lấy lẽ ông Nguyễn Danh Kế khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà là người hát hay, có tài làm thơ chữ Nôm. Tản Đà là con trai út của cuộc lương duyên giữa tài tử và giai nhân này. Trong những người anh em còn lại, có người anh ruột (cùng cha khác mẹ) với Tản Đà là Nguyễn Tái Tích, là người có nhiều những ảnh hưởng to lớn tới cuộc đời sau này của Tản Đà. Ông Tích sinh năm 1864, nối nghiệp cha đi thi đỗ Phó bảng và ra làm quan. Ông là người thanh liêm chính trực, nên đường hoạn lộ cũng không yên ổn, sau làm ở cục Tu thư, rồi Hiệu trưởng trường Tân Quy, Đốc học Vĩnh Yên. Tản Đà từ nhỏ sống với ông, phải nhiều lần di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm: Yên Mô - Ninh Bình, Vụ Bản -Nam Định, Quảng Oai - Sơn Tây, Vĩnh Tường - Vĩnh Yên. [sửa]Thiếu. niên. Thời niên thiếu của Tản Đà trải nhiều giai đoạn khóc cười. Năm lên 3 tuổi, bố mất, cuộc sống gia đình trở nên cùng túng. Năm sau, vì bất hoà với nhà chồng, bà Nghiêm bỏ đi, trở lại nghề ca xướng. 8 năm sau, xảy ra chuyện chị ruột ông cũng theo mẹ làm nghề đó (năm Tản Đà 13 tuổi). Những sự kiện đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong tâm hồn. Tản Đà hấp thụ nền Nho giáo từ nhỏ, được ông Tích nhiệt tình hướng vào con đường cử nghiệp. Theo hồi ký trong 1 bài thơ thì 5 tuổi ông học Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi, Dương tiết,... 6 tuổi học Luận ngữ, kinh, truyện và chữ quốc ngữ, 10 tuổi biết làm câu đối, 11 tuổi làm thơ văn. Ông rất thích làm văn, lại được anh hết lòng chỉ dẫn, nên 14 tuổi đã thạo các lối từ, chương, thi, phú. Lúc còn học ở trường Quy thức - một trường học thực nghiệm cải cách của Pháp mở ở Hà Nội- ,.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> ông viết bài "Âu Á nhị châu hiện thế" bằng Hán văn, được các báo ở Hồng Kông đăng trong mục xã thuyết. Năm 15 tuổi, ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây. Giai đoạn niên thiếu của Tản Đà phần lớn giành cho chuyện thi cử, đến năm 19 tuổi, ông mới có những rung cảm tình ái đầu đời. Đó là mối tình với con gái nhà tư sản Đỗ Thận. Năm sau ông lại yêu con gái ông tri huyện phủ Vĩnh Tường. Nhưng 2 mối tình này đều không được trả lời. Năm 1909 (Kỷ Dậu), ông tham dự kỳ thi hương ở Nam Định, rồi trượt trong lần đi thi đầu tiên này. Ông về lại nhà ở Phủ Vĩnh Tường ôn tập. Trong thời gian này, ông say mê một cô gái bán tạp hoá ở phố hàng Bồ. Vì nhà nghèo, không có tiền hỏi cưới, ông đành nuôi hy vọng bằng cách tiếp tục đường khoa cử. Kỳ thi xảy đến, ông dùng bằng Ấm sinh để thi hậu bổ, nhưng bị rớt vì môn vấn đáp bằng tiếng Pháp. Mùa thu năm ấy, ông lại đi thi hương, nhưng lại trượt. Chuyện tình với cô bán sách tan vỡ, cô đi lấy chồng. Ông chán nản bỏ về Hòa Bình tìm khuây lãng. Tại đây nhờ sự giới thiệu của anh rể là nhà thơ trào phúng Nguyễn Thiện Kế, Tản Đà kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Hai người bạn mới gặp đã như quen, cùng vào dãy Hương Sơn, ngọn Chùa Tiên, đêm ngày uống rượu, làm thơ, đọc sách, thưởng trăng, sống theo lối "tịch cốc". Lúc này lần đầu tiên ông đọc Tân thư, sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi. Nhiều bài thơ và tư tưởng đặc biệt của ông ra đời trong giai đoạn này. Năm 1913, anh cả Nguyễn Tài Tích mất. Tản Đà về Vĩnh Yên làm nghề báo, tờ báo ông cộng tác đầu tiên là "Đông Dương tạp chí" củaNguyễn Văn Vĩnh, phụ trách mục "Một lối văn nôm". Đến năm 1915, ông lấy vợ là bà Nguyễn Thị Tùng, con gái ông Nguyễn Mạnh Hương tri huyện ở tỉnh Hà Đông, trở thành anh em cột chèo với nhà văn Phan Khôi. Ông Hương là thân sinh của nhà văn Nguyễn Tiến Lãng. Cũng năm này ông có tác phẩm hay, đăng trên "Đông dương tạp chí", nhanh chóng có được tiếng vang trên văn đàn. Năm 1916, ông lấy bút danh Tản Đà là tên ghép giữa núi Tản, sông Đà, và chính thức chọn con đường của một người viết văn, làm báo chuyên nghiệp.. Thời kỳ vinh hiển Từ 1915 đến 1926 là những năm tháng đắc ý nhất của Tản Đà. Năm 1915, cuốn sách đầu tiên của Tản Đà được xuất bản, gây tiếng vang lớn, đó là tập thơ "Khối tình con I". Sau thành công đó, ông viết liền cuốn "Giấc mộng con" (cho in năm 1917) và một số vở tuồng: "Người cá", "Tây Thi", "Dương Quý Phi", "Thiên Thai" (diễn lần đầu năm 1916 tại Hải Phòng). Năm 1917, Phạm Quỳnh sáng lập ra "Nam Phong tạp chí" , và bài của Tản Đà có trên tạp chí này từ số đầu tiên. Năm 1918, Phạm Quỳnh ca ngợi cuốn "Khối tình con I" và phê phán cuốn "Giấc mộng con I", cả khen lẫn chê đều dùng những lời lẽ sâu cay, biến Tản Đà trở thành một hiện tượng trên văn đàn. Sau bài phê phán tư tưởng của "Giấc mộng con", Tản Đà thôi cộng tác với Nam Phong tạp chí và mở một số cuộc hội đàm để chống lại những lời phê phán đó, sự kiện này cũng được nhiều giới quan tâm. Từ 1919 tới 1921, Tản Đà viết một loạt sách; truyện thì có "Thần tiền", "Đàn bà Tàu" (1919); sách giáo khoa, luân lý thì có "Đài gương", "Lên sáu" (1919), "Lên tám" (1920), thơ thì có tập "Còn chơi" (1921). Thời kỳ này ông quen với một nhà tư sản nữa là ông Bùi Huy Tín, cùng nhau du lịch khắp Bắc, Trung kỳ và làm chủ bút "Hữu thanh tạp chí" một thời gian. Năm 1922, Tản Đà thành lập "Tản Đà thư điếm" (sau đổi thành "Tản Đà thư cục"), đây là nhà xuất bản riêng đầu tiên của ông. Tại đây đã xuất và tái bản hết những sách quan trọng trong sự nghiệp của Tản Đà; "Tản Đà tùng văn" (tuyển cả thơ và văn xuôi, trong đó có truyện "Thề Non Nước", 1922); "Truyện thế gian" tập I và II (1922), "Trần ai tri kỷ" (1924), "Quốc sử huấn nông (1924), và tập "Thơ Tản Đà" (1925). Ngoài ra thư cục này còn cho xuất bản sách của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật. Năm 38 tuổi (1926), Hữu Thanh tạp chí đình bản, Tản Đà cho ra đời "An Nam tạp chí" số đầu tiên với tòa soạn ở phố Hàng Lọng. Sự ra đời của "An Nam tạp chí", tờ báo mà Tản Đà dành hết tâm huyết, đã bắt đầu quãng đời lận đận của ông.. Qua đời Ngày 7 tháng 6 năm 1939 (tức 20 tháng 4 năm Kỷ Mão), ông mất (51 tuổi) sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, trên cái giường nát tại nhà riêng số 71 ngã tư Sở, Hà Nội, để lại vợ và tám đứa con. Di thể của ông được an táng tại nghĩa trang Quảng Thiện, Hà Nội..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Sự nghiệp [sửa]Thơ Từ thập niên 1920 cho đến nửa đầu thập niên 1930, văn đàn Việt Nam không có một nhà thơ nào nổi tiếng và được yêu mến như Tản Đà. Kể cả khi phong trào thơ mới xảy ra, thì Tản Đà, sau khi "phái thơ mới" bị đả kích kịch liệt lại được chính những người đả kích mời về ngồi chiếu trên. Trong cuốn "Thi nhân Việt Nam", cuốn sách bình luận thơ mới rất giá trị, Hoài Thanh và Hoài Chân đã đặt bài tưởng niệm Tản Đà lên những trang đầu, với lời lẽ tôn kính. Thơ cũng là lĩnh vực quan trọng nhất trong sự nghiệp phong phú của Tản Đà. Ông được coi là một thi sĩ, hơn hết các nghề khác. Ông sáng tác rất nhiều thơ, nhiều thể loại - cả về nội dung lẫn hình thức. Thơ ông hay diễn tả cảm giác say sưa, chán ngán đời thực, đắm chìm trong cõi mộng, những mối tình với người tri kỷ xa xôi, song cũng có những bài mang tính ẩn dụ, ngầm phê phán hiện thực. Thơ Tản Đà thường làm theo thể cổ phong, cũng có khi làm bằng Đường luật, đường luật phá thể, lục bát, song thất lục bát. Ông còn có tài sáng tác thơ dựa trên từ khúc, một hình thức âm nhạc của Trung Hoa, những bài "Tống biệt", "Cảm thu tiễn thu" nhờ sự phá cách, phối hợp nhiều thể loại thơ, có thể coi là cách tân về hình thức khá táo bạo. Một kiểu văn vần đặc biệt nữa mà ở đó, Tản Đà được sánh ngang với Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát..., là hát nói hay ca trù (nay được xem như một thể loại thơ). Hát nói của Tản Đà thể hiện một triết lý sống phóng khoáng, một tâm hồn hay mơ mộng, hoài cổ nhưng man mác nỗi sầu nhân thế. Ngoài thơ tự sáng tác, thơ dịch của Tản Đà cũng được đánh giá rất cao. Những bài thơ lục bát dịch từ thơ Đường của Tản Đà thường được cho là hay hơn các bản dịch khác, có bài hay hơn cả nguyên tác, vì sự tự nhiên, không bị gò bó mà chuyển tải cả tâm hồn mình vào đó. Ngoài thơ Đường, ông còn dịch những bài thơ dài như Trường Hận ca, dịch ra thể Song thất lục bát, được đánh giá rất cao, Bùi Giáng trong cuốn "Đi vào cõi thơ" tuy không đề cao thơ Tản Đà nhưng gọi bản dịch này là "vô tiền khoáng hậu". [sửa]Hát nói [sửa]Thơ ca dân gian [sửa]Văn [sửa]Báo. chí. Làm báo chí là một phần trong sự nghiệp rất phong phú của Tản Đà. Ông có phong cách làm báo đặc biệt, thường xuất hiện trong những cuộc bút chiến với những giọng điệu khó lẫn. Từng là cộng tác viên cho "Nam Phong", sau đó do bất đồng với Phạm Quỳnh mà sang làm chủ bút cho "Hữu Thanh". Về sau ông sáng lập ra "An Nam tạp chí" nhưng ba lần phải chịu cảnh đình bản vì lý do tài chính. Ở giai đoạn cuối đời còn cộng tác với "Văn học tạp chí" và cả "Ngày nay", tờ báo trước đó đã mạt sát ông nặng nề. Có thể nói sự nghiệp báo chí của Tản Đà, cũng như cuộc đời của ông, thường gặp gian nan trắc trở. Song những đóng góp của ông trong thời buổi sơ khai của báo chí Việt Nam, là một cái giá trị mà người ta phải công nhận. [sửa]An Nam tạp chí Xem chi tiết hơn trong bài An Nam tạp chí Tản Đà là người sáng lập ra tờ báo chuyên về văn học đầu tiên của Việt Nam: tờ "An Nam tạp chí". Số đầu tiên ra ngày 1 tháng 7 năm1926, Tản Đà làm chủ báo, thư ký tòa soạn là Ngô Tất Tố. Tờ báo xem như gắn liền với sự nghiệp làm báo của Tản Đà, song nó không hoạt động yên ổn như ý, cho đến ngày chính thức "chết", tờ báo đã trải qua ba lần đình bản. "An Nam tạp chí" đình bản lần đầu tiên vào tháng 3 năm 1927, sau khi ra được 10 số. Sau đó, đến năm 1929, Tản Đà hợp tác với một người ở Hàng Gai, cho tái bản tạp chí. Theo ông Lâm Tuyền Khách, sự tái bản này là ý của người kia, ra tạp chí để có dịp thu nợ vì Tản Đà nợ ông một món không dễ trả. Trên bìa "An Nam tạp chí" lúc ấy ghi Tản Đà là "chủ sự", còn ông nọ là "chủ nhân". Cũng theo ông Lâm Tuyền Khách, còn một lý do nữa là nếu ngày ấy An Nam tạp chí không tái bản thì sẽ bị thu giấy phép..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Lần tái bản này chỉ ra được vài số rồi lại đình bản. Đến tháng 4 năm 1931, "An Nam tạp chí" lại tái bản, lần này hoạt động đến ngày 1 tháng 3 năm 1933 thì đình bản vĩnh viễn vì lý do tài chính. Tản Đà là cây bút chủ lực của "An Nam tạp chí", cách làm báo của ông có thể coi là khá đặc biệt. Theo Lâm Tuyền Khách, ban ngày ông không làm việc, chỉ uống rượu, nói chuyện hay đọc sách, đến hai - ba giờ đêm ông mới trở dậy thắp đèn viết cho đến sáng. Trong tờ báo nhiều khi độc giả thấy những bài viết đang liền mạch, tự nhiên bị bỏ dở trong 1 thời gian dài mới thấy Tản Đà xuất hiện viết tiếp. Tờ "An Nam tạp chí" tuy tổng cộng chỉ có 48 số, lại hoạt động thất thường, thiếu chuyên nghiệp nhưng được coi là một trong những tờ đầu tiên có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn học Việt Nam thời cận đại theo khuynh hướng hiện thực. Bên cạnh đó nó thể hiện một cách kín đáo lòng yêu nước của Tản Đà, qua những bài tiểu luận, bài thơ đăng rải rác. [sửa]Tranh luận văn học [sửa]Kịch [sửa]Dịch. thuật, nghiên cứu. Danh mục tác phẩm Thơ: . Khối tình con I (1916).   . Khối tình con II (1916) Tản Đà xuân sắc (1918) Khối tình con III (1932). Văn: . Giấc mộng con I (1917).    . Giấc mộng con II (1932) Giấc mộng lớn (1932) Thề non nước (1922) Tản Đà văn tập (1932). Kịch: . Tây Thi (1922). . Tống biệt (1922). Dịch thuật: . Liêu Trai chí dị (1934). Nghiên cứu: . Vương Thúy Kiều chú giải (1938). . Một số bài báo.... [sửa]Viết. về Tản Đà. . Uống rượu với Tản Đà của Trương Tửu (1939). . Tản Đà uống rượu làm tôi say đến bay giờ của Vũ Bằng (1970).

<span class='text_page_counter'>(29)</span> . Người ghét Tản Đà của Vũ Bằng. Trần Tuấn Khải Trần Tuấn Khải (4 tháng 11 năm 1895 – 7 tháng 3 năm 1983) là một nhà thơ Việt Nam, nổi danh từ thời tiền chiến. Các bút danh của ông là: Á Nam (thường dùng), Đông Minh, Đông Á Thị, Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách, Giang Hồ Khách, Lôi Hoàng Cư Sĩ.. [sửa]Tiểu. sử. Trần Tuấn Khải người làng Quan Xán, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân là nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước. Cha ông là Trần Khải Thụy, đỗ cử nhân khoa thi Hương tại Nam Định năm Canh Tý (1900). Năm lên 6 tuổi, ông bắt đầu học chữ Hán với cha. Nhờ mẹ ông cũng là người thuộc nhiều ca dao, thi phú, lại hết lòng dạy dỗ con, vì vậy mới 12 tuổi, ông đã biết làm đủ các thể thơ bằng chữ Hán. Năm Giáp Dần (1914), cha ông lâm bệnh mất tại nơi nhiệm sở. Khi ấy, Trần Tuấn Khải vừa đúng 19 tuổi và cũng vừa lấy vợ được một năm. Qua năm 1919, ông trở lại làng Quang Xá dạy học, được ít tháng ông lại xuôi ngược khắp miền Bắc, rồi đưa vợ ra Hà Nội. Nhưng ít lâu sau, thấy chồng ghét cảnh náo nhiệt, bà Khải bán nhà đến mua một trang trại ở ấp Thái Hà, ven đô Hà Nội. Năm 1921, ông xuất bản tập thơ thứ nhất Duyên nợ phù sinh I, được giới văn chương đương thời chú ý. Năm sau, ông được mời vào Ban biên tập nhật báo Khai Hóa tại Hà Nội và nhận lời viết giúp cho nhiều báo khác. Đến khi ông cho xuất bản Bút quan hoài I, gồm nhiều bài bi tráng, được nhiều người hoan nghênh, thì Pháp ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ tập thơ đó (1927). Mấy lần, Trần Tuấn Khải định xuất dương mà không thành: 1915-1916: dự định qua Đông Hưng (Trung Quốc), 1927: dự tính sangPháp. Nhà cầm quyền Pháp dò la biết ông có ý định trên, đồng thời có đến liên hệ các nhà cách mạng, như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng ở Huế và những nhà hoạt động lưu vong như Đào Trinh Nhất, Hoàng Tích Chu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Trường Tam ở Sài Gòn...nên cho người lùng bắt ông. Nhờ có người báo tin, ông lẻn ra ẩn trốn nơi động Huyền Không trong dãy Ngũ Hành Sơn (Quảng Nam). Năm 1932, tác phẩm Chơi xuân năm Nhâm Thân được xuất bản, nhưng ngay sau đó bị Pháp ra lệnh tịch thu, khám nhà rồi bắt giam Trần Tuấn Khải và chủ nhà sách Nam Ký. Ông bị giam hơn 2 tháng rồi bị kêu án 2 tháng tù treo về tội viết sách "phá rối trị an, xúi dân nổi loạn". Trong nhà giam Hỏa Lò, Trần Tuấn Khải gặp được Nghiêm Toản và nhiều nhà tri thức có tâm huyết khác [1]. Ra tù, vợ chết, con nhỏ chết. Chôn cất vợ con xong, ông trở về Thái Hà, lại bắt đầu viết bài cho các báo. Năm 1938, ông cưới người vợ thứ họ Nguyễn. Năm 1954 ông di cư vào Nam, làm việc tại Thư viện quốc gia, Viện Khảo cổ, chuyên viên Hán học tại Nha văn hóa và các báo Đuốc Nhà Nam, Văn hóa nguyệt san, Tin văn....

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Năm 1966, ông cùng một số trí thức tiến bộ ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa trực tiếp hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hòa bình, nên bị buộc nghỉ việc[2]. Sau đó, ông là chủ tịch danh dự lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc năm 1966 – 1967[2]. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất vì bệnh già tại cư xá Trần Quốc Toản (cư xá Liautey của Pháp), hưởng thọ 88 tuổi (1983).. [sửa]Tác. phẩm. [sửa]Thơ . Duyên nợ phù sinh I (1921). . Duyên nợ phù sinh II (1922). . Bút quan hoài I (1924). . Hồn tự lập I (1924). . Bút quan hoài II (1927). . Hồn tự lập II (1927). . Với sơn hà I (1936). . Với sơn hà II (1949). . Hậu anh Khóa (1975). [sửa]Tiểu. thuyết. . Gương bể dâu I (1922). . Hồn hoa (1925). . Thiên thai lão hiệp(1935- 1936). [sửa]Kịch . Mảnh gương đời (1925). [sửa]Dịch. thuật. . Thủy hử (1925). . Hồng lâu mộng (1934). . Đông Chu liệt quốc (1934). . .... [sửa]Thành. . tựu nghệ thuật. Trong Tự điển văn học:.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Văn xuôi của Trần Tuấn Khải tựu trung vẫn là lối văn cổ, từ hình thức đến nội dung đều có phần lạc hậu, chưa theo kịp đà phát triển của văn xuôi lúc bấy giờ. Thơ ca mới là phần chính trong sự nghiệp sáng tác của Trần Tuấn Khải và cũng là phần ông đạt được một số thành công nhất định. Thơ Trần Tuấn Khải thường nói đến tình cha con, nghĩa vợ chồng, tình làng nghĩa nước, nghĩa đồng chủng, đồng bào, lòng thủ chung , nhân ái... đó là nếp sống, là đạo đức truyền thống của dân tộc. Và thơ ông đều có ngụ ý nhắc nhủ về non sông, đất nước. Đất là cái nhìn ưu thời mẫn thế của tác giả, đồng thời đấy cũng chính là tình cảm phổ biến của nhiều người lúc bấy giờ: thiết tha với độc lập dân tộc... Chính vì thế mà thơ ca của ông được quần chúng yêu thích. Các bài như "Gánh nước đêm", "Tiễn chân anh Khóa", "Mong anh Khóa", "Gửi thư cho anh Khóa", trong một thời gian dài đã được truyền tụng rộng rãi. Về mặt nghệ thuật, ngoài những bài được sáng tác theo thể thơ Đường luật, ông còn viết bằng các thể thơ thuần Việt như: lục bát,song thất, các điệu hát ví, hát xẩm, sa mạc, hát nói... và phần thành công chính là ở đây. . [3]. Trong Việt Nam thi nhân tiền chiến:. Thơ Trần Tuấn Khải không chứa đựng triết lý bí hiểm, tư tưởng cao siêu, nó giản dị như một chân tình, nó rỡ ràng như sự phơi bày trọn vẹn cả tấc lòng. Người đọc dễ dàng đạt ý và rung động qua trực cảm, vì Á Nam đã cấu tạo thơ mình bằng nhạc điệu quen thuộc của dân tộc, cho nên sức truyền cảm rất bén nhạy. Khảo sát thơ ông, chúng tôi bắt gặp đó đây những tư tưởng đã thành châm ngôn và cũng không ngoài việc gieo vào lòng người một ý chí bất khuất, một hùng khí ngùn ngụt, một nghĩa vụ thiết yếu của con người đúng với danh nghĩa “làm người” của nó[4].

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Vũ Đình Liên Vũ Đình Liên (12 tháng 11 năm 1913- 18 tháng 1 năm 1996), là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt Nam. [sửa]Tiểu. sử. Vũ Đình Liên sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932, từng dạy học ở các trường: Trường tư thục Thăng Long, Trường Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính (còn gọi là sở Đoan) Hà Nội. Năm 1936, ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh Hoa. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội[1]. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. [sửa]Tác. phẩm. . Một số bài thơ: Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá.... . Đôi mắt (1957). . Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957) [2]. . Nguyễn Đình Chiểu (1957). . Thơ Baudelaire (dịch-1995). [sửa]Nhận. xét. Mặc dù được biết đến trong phong trào Thơ mới nhưng Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Đầu năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh, lúc Hoài Thanh làm cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đình Liên viết "Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên đã lâu tôi không làm thơ nữa". Hoài Thanh nhận xét Vũ Đình Liên hạ mình quá đáng, nhưng ông cũng hiểu nỗi đau của Vũ Đình Liên [3]. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời gian: ...Ông đồ vẫn ngồi đấy, Qua đường không ai hay, Lá vàng rơi trên giấy; Ngoài giời mưa bụi bay. Năm nay đào lại nở, Không thấy ông đồ xưa. Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?. Thế Lữ Thế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, hoặc Thứ Lễ. Thứ Lễ nói lái thành Thế Lữ: Người khách phiêu du qua trần thế. Ông dùng bút hiệu Lê Ta, và cả Lê Tây khi viết văn vui (bài Lê Tây viết cho Lê Ta, Ngay Nay,số 169 trang 15) . Các tên của ông lập thành một vế câu đối, không ai đốI nổi.: Thế Lữ làm quà hai thứ lễ : Một quả Lê tây, một quảy Lê ta. Thế Lữ sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại Thái Hà Ấp, Hà Nội. Bố là Nguyễn Thuận, làm xếp ga đường săt, người làng Phù Đổng, Tiên Du, Bắc Ninh, nay là Gia Lâm, Hà Nội. Mẹ quê Nam Định, theo đạo Thiên chúa, lúc trẻ đi buôn tơ, vượt phép gia đình lấy ông xếp ga. Sau về Hải Phòng làm nghề thuốc chữa bệnh trẻ con gia truyền, là bà Lang Thụ (Thụ là tên con trai lớn). Khi Thế Lữ còn nhỏ, cụ nội bắt về Lạng Sơn làm con nuôi vợ cả của bố để mong bà cả chóng có con. Suốt mười năm tuổi thơ, buồn nhớ mẹ ở xa và bố đi vắng quanh năm, chú bé Lễ đã sống thấm đẫm không khí rừng núi tỉnh Lạng, đầy cảm giác nhớ và sợ. Tám tuổi học chữ nho, sợ đòn đi trốn, bị trói gánh về trường, nên càng sợ. Đến năm mười tuổi, anh chú Lễ bị bệnh mất. Mẹ chú bầy mưu đánh tháo mang về Hải Phòng, từ đó mới được sống với mẹ. Mẹ đưa lên nhà thờ làm “của lễ”, vì là con thứ, nên gọi là Thứ Lễ. Thế Lữ bắt đầu đi học trường bảo hộ Pháp Việt, đến năm thứ ba trung học thì xin nghỉ. Năm 17 tuổi, lập gia đình với cô Nguyễn thị Khương, 19 tuổi, thuộc họ đạo tỉnh Hà Nam, do mẹ hỏi cưới cho.( Ông bà được ba trai, một gái. Con trai đầu là Nguyễn Đình Nghi, sau này được ông hướng dẫn, bồi đắp đã trở thành một đạo diễn xuất sắc.) Thế Lữ là một người con rất có hiếu, trong thời gian làm việc ở Hà Nội, tháng tháng đều về Hải Phòng thăm nom mẹ và vợ con. 1928-1932 học bàng thính tự do trường Mỹ thuật Hà Nội, một năm thì bỏ. Quen nhiều bạn, chia sẻ nhau sách vở, văn chương…lập thành một salon văn chương nhỏ, cùng tập viết văn quốc ngữ và dịch sách. Thế rồi vì bệnh lao, ông về Hải Phòng nghỉ dưỡng ở vùng quê, vẫn chăm chú viết thơ, văn. Truyện Vàng và Máu và nhiều bài thơ đầu tiên được viết trong thời kỳ này. Bắt đầu có bài đăng báo, sách xuất bản. 1932 khỏi bệnh lao, về Hà Nội làm nhà in, ông gửi truyện ngắn, thơ đến báo Phong Hóa, bài nào cũng được đăng. Thơ Thề Lữ bừng sáng rực rỡ với phong cách hoàn toàn khác lạ, từ ngôn từ tới giai điệu, từ ý tưởng tới cách chọn lọc chữ. Nhất Linh công nhận chất sáng tạo mới của ông trong: “Nguyễn Thế Lữ, một nhân vật mới trong làng thơ mới” trên báo Phong Hóa số54,1933. Thế Lữ ra nhập ban biên tập Phong Hóa, và trở thành thành viên Tự Lực Văn Đoàn 1934 ngay khi Nhất Linh thành lập. Ông hoạt động tích cực cùng các bạn văn nghệ sĩ trên hai báo Phong Hóa, Ngày Nay từ 1932 tới 1940. Thời kỳ 1934-1937, sau khi Mấy Vần Thơ ra đời, ông được người đời ưa thích nhất trong số các nhà thơ mới. Ông là người tiên phong trong việc xây dựng nền thơ mới, những câu thơ của ông còn mãi trong lòng người yêu thơ như:… Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu! (Hổ Nhớ Rừng) Hay:.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Rũ áo phong sương trên gác trọ Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang…(Giây Phút Trạnh Lòng)… Hay : Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên (Lời Than Thở Của Nàng Mỹ Thuật) Những tiêu mục Tin Thơ, Tin Văn Vắn… của ông, là những bài phê bình thơ, dậy cách làm thơ, thưởng thức thơ được thanh niên đón đọc sôi nổi. Ông đã đỡ đầu nhiều nhà thơ trẻ như Xuân Diệu, Huy Cận…. Ngoài ra, những truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện trinh thám … của ông cũng rất được hâm mộ… vì chúng đột nhiên cùng ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam. Thế Lữ còn là một người làm báo tài hoa. Với bút hiệu Lê Ta, (Lễ =Lê ngã, với chữ nho ngã = Ta, một cách đùa với luật chiết tự, phân tích chữ.), ông viết phóng sự, bút chiến, văn vui…rất thu hút, như loạt bài Lê Ta Làm Báo, Lê Ta Xuống Hải Phòng… Khi nền móng thơ mới thiết lập xong, rực rỡ hơn bao giờ hết với hàng loạt thi sĩ đầy tài năng: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, … mà nhiều thi nhân đã được chính ông khám phá và giới thiệu. Thế Lữ quay sang kịch nói, tuy vẫn viết, vẫn làm báo Ngày Nay. Là một nghệ sĩ say mê kịch, đầy tài năng, tự học trước một thể loại hoàn toàn mới, ông đã trở thành một diễn viên kỳ đặc, một nhà dàn cảnh (đạo diễn) xuất sắc đầu tiên. Ông muốn xây dựng nền kịch nói riêng của Việt Nam. Vì sân khấu bao giờ cũng là bộ mặt văn hoá của một nước. Đó là lúc ông tìm thấy nơi dừng lại, sau bao nhiêu tìm kiếm, khám phá, xây dựng, rồi để lại con đường cho người đi sau: Có lẽ chỉ nơi sân khấu đầy biến đổi, những màn kịch phù du, như thật như ảo… là phù hợp với tâm hồn vô trụ, lúc nào cũng đi tìm cái mới của ông. 1937 Thế Lữ dàn cảnh, huấn luyện diễn viên cho ban kịch Tinh Hoa của Đoàn Phú Tứ. 1938 Tại Hà Nội, kết bạn cùng cô giáo Song Kim Phạm thị Nghĩa, một người say mê và giỏi thiên bẩm về kịch, để phụng sự sân khấu nghệ thuật. 1940 Báo Ngày Nay bị Pháp đóng cửa..         . 1942 Lập ban kịch Thế Lữ, rất thành công, nhưng phải rã cánh vì những đòi hỏi của thực dân Pháp lúc đó. 1943 Lập ban kịch Anh Vũ cùng Vũ Đức Diên. Ông phụ trách dàn cảnh và diễn kịch. 1945-1946 Lưu diễn miền Trung, tới Quy Nhơn vì chiến tranh quay về Bắc. 1947 Tham gia kháng chiến chống Pháp, viết kịch, dựng vở diễn liên tục. 1957 Chủ tịch hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tới khi nghỉ hưu. 1977 Thế Lữ trở về sum họp với gia đình vợ con tại TP HCM tới khi mất 3-6-1989, hưởng thọ 82 tuổi. Tác phẩm của ông, một phần lớn đã được nxb Đời Nay ấn hành trước 1945: Mấy Vần Thơ Vàng và Máu Bên Đường Thiên Lôi Mai Hương và Lê Phong Lê Phong Phóng Viên Gói Thuốc Lá Gió Trăng Ngàn Trại Bồ Tùng Linh… Thoa (trong Giai Phẩm Đời Nay1944) Sau 1945 có: Tay Đại Bợm, và nhiều truyện ngắn, sách dịch, kịch bản….

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Tế Hanh Tế Hanh (1921 - 2009), tên thật là Trần Tế Hanh [1]; là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.. [sửa]Tiểu. sử. Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn; nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông là Trần Tất Tố, làm nghề dạy học và làm thuốc. Ông có bốn anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo. Thuở nhỏ, ông học ở trường làng, trường huyện. Năm 15 tuổi, ông ra học tại trường Khải Định (tức Quốc Học Huế). Sẵn tính ham thích thơ, lại được thi sĩ Huy Cận “chỉ vẽ”[2], nên Tế Hanh bắt đầu sáng tác. Năm 1938, 17 tuổi, ông viết bài thơ đầu tiên: “Những ngày nghĩ học”. Sau đó, ông tiếp tục sáng tác, rồi tập hợp thành tập thơ Nghẹn ngào. Năm 1939, tập thơ này được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn. Năm 1941, Tế Hanh và thơ của ông ("Quê hương", "Lời con đường quê", "Vu vơ", "Ao ước") được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942). Tháng 8 năm 1945, Tế Hanh tham gia Việt Minh, tham gia công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng; và là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Từ năm 1949 cho đến năm 1954, ông ở trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V. Sau Hiệp định Genève, 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Văn nghệ. Năm 1957, Hội nhà văn Việt Nam thành lập, Tế Hanh tham gia Ban Biên tập tuần báo Văn của Hội, và nhiều năm, ông còn là Ủy viên chấp hành và Ban thường vụ của hội. Năm 1966, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I[3].

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Vào những năm 80, ông bị đau mắt và mắt ông mù dần. Từ đó ông bệnh liệt giường lúc mê lúc tỉnh. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 07 năm 2009 tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não [4].. [sửa]Tác. phẩm chính. . Nghẹn ngào (1939). . Hoa niên (1945). . Lòng miền Nam (1956). . Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960). . Hai nửa yêu thương (1967). . Khúc ca mới (1967). . Đi suốt bài ca (1970). . Câu chuyện quê hương (1973). . Theo nhịp tháng ngày (1974). . Giữa những ngày xuân (1976). . Con đường và dòng sông (1980). . Bài ca sự sống. . Tuyển tập Tế Hanh (tập I-1987). . Thơ Tế Hanh (1989). . Vườn xưa (1992). . Giữa anh và em (1992). . Em chờ anh (1993). . Tuyển tập Tế Hanh (tập II-1997). Ngoài thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ lớn trên thế giới, viết tiểu luận phê bình văn học, thơ thiếu nhi.. [sửa]Giải. thưởng. . Giải thưởng văn học Tự lực văn đoàn năm 1939.. . Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V tặng.. . Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật đợt I (1996) [5].. [sửa]Thành. tựu nghệ thuật. Tế Hanh là nhà thơ khá nổi tiếng, sáng tác cùng thời với Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận...và là một trong ba thi sĩ sinh quán tại Quảng Ngãi nổi danh ngay từ trước năm 1945: Nguyễn Vỹ, Bích Khê, Tế Hanh. Trích một số nhận xét viết về thơ của ông:. . Nhà văn Nhất Linh: "Tế Hanh có rất nhiều hứa hẹn trở nên một thi sĩ có tài, ông có một linh hồn rất phong phú, có những rung động rất sâu sắc; và để diễn tả tâm hồn, ông có đủ nghệ thuật và cách đặt tìm câu chữ" [6]..

<span class='text_page_counter'>(37)</span> . Nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân: "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi"... [7]. . Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn:. "Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập "Nghẹn ngào" từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên,Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh" [8]. . Nhà thơ Thanh Thảo:. "Ngay từ lúc xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ Tế Hanh đã là hiện tượng vì sự "mộc mạc, chân thành", vì sự "trong trẻo, giản dị như một dòng sông" [9].. Tố Hữu Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002) là một tác gia có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạngViệt Nam. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.. Thiếu niên Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920, tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyệnQuảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu. [1] Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx,Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maxim Gorky,... qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936Ông gia nhập Đoàn thanh niên.. Quan điểm chính trị . Là nhà thơ đã chọn con đường Cách mạng từ thời thanh niên, trải qua những năm tháng tù đày, thơ của ông là tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng. Ông quan niệm: "Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng ; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân..

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng." . . Ông cũng được đánh giá là con người khá bảo thủ, khi bị phê bình về các tác phẩm của mình thì thường có phản ứng rất quyết liệt (theo nhận định của Văn Cao thì chính lí do này khiến ông bị nghi hoặc là có liên quan đến việc đẩy mạnh dập tắt phong trào Nhân văn-Giai phẩm và không được nhiều cảm tình từ phía các nghệ sĩ khác) [cần dẫn nguồn]. Ngoài vai trò nhà thơ, ông còn là một nhà chính trị, có một số bài thơ ca ngợi các lãnh tụ cộng sản quốc tế như Stalin (Đời đời nhớ Ông) hay Mao Trạch Đông (Đường sang nước bạn).. Đóng góp văn học [sửa]Các. tác phẩm. . Từ ấy (1946).        . Việt Bắc (1954) Gió lộng (1961) Ra trận (1962-1971) Máu và Hoa (1977) Một tiếng đờn (1992) Ta với ta (1999) Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973) Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981). [sửa]Bài. thơ tiêu biểu. . Bác ơi. . Bài ca xuân 1961. . Bài ca quê hương. . Bầm ơi!. . Có thể nào yên?. . Đi đi em!. . Đời đời nhớ Ông. . Đợi anh về (tập thơ dịch, 1998). . Em ơi... Ba Lan. . Gặp anh Hồ Giáo. . Hai đứa trẻ. . Hồ Chí Minh. . Hãy nhớ lấy lời tôi. [sửa]Tác. . Hoa tím. . Hoan hô chiến sĩ Điện Biên . Tâm tư trong tù. . Kính gửi cụ Nguyễn Du. . Tương tri. . Khi con tu hú. . Theo chân Bác. . Lạ chưa. . Tiếng chổi tre. . Lượm. . Tiếng hát sông Hương. . Mẹ Suốt. . Tiếng ru. . Mồ côi. . Vườn nhà. . Một tiếng đờn. . Việt Bắc (thơ, 1954). . Mưa rơi. . Việt Nam máu và hoa. . Sáng tháng Năm. . Xuân đang ở đâu.... . Ta đi tới. . Xuân đấy. . Từ ấy. phẩm dịch ra tiếng nước ngoài. [sửa]Phong. tặng và Giải thưởng văn học chính. . Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc).   . Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ "Một tiếng đờn". Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996) Huân chương Sao Vàng (1994).

<span class='text_page_counter'>(39)</span> [sửa]Phong [sửa]Về. cách nghệ thuật. nội dung. Thơ Tố Hữu mang đậm chất trữ tình chính trị sâu sắc: Trong việc biểu hiện tâm hồn, thơ, Tố Hữu luôn hướng đến cái ta chung:. . Hồn thơ Tố Hữu luôn hường đến cái ta chung, lẽ sống lớn, niềm vui lớn của dân tộc và của Cách mạng. Cái. . tôi nếu có là cái tôi của người chiến sĩ, cái tôi nhân danh Đảng và dân tộc. Vì thế có ý nghĩa khái quát, rộng lớn. [2] Cảm hứng thơ Tố Hữu thường bắt đầu từ cảm hứng chính trị, từ những tình cảm lớn cao cả, tiêu biểu: tình. . yêu lý tưởng, lãnh tụ, đồng bào đồng chí,....[2] Trong việc miêu tả đời sống, thơ Tố Hữu mang đậm chất sử thi:. . Đối tượng thể hiện chủ yếu trong thơ Tố Hữu là những sự kiện lớn của dân tộc, những vấn đề có ý nghĩa. . lịch sử, có tình chất toàn dân, những biến cố quan trọng tác động đến vận mệnh dân tộc → cảm hứng chủ đạo trong thơ là cảm hứng lịch sử dân tộc, là vận mệnh của cộng đồng. [2] Các nhân vật trữ tình thường mang phẩm chất tiêu biểu cho dân tộc: anh vệ quốc quân, anh giải phóng. . quân,....[2] Tất cả những điều trên thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình rất tự nhiên đằm thắm, chân thành:. . Nhiều vấn đề chính trị kho khan được diễn tả bằng tình cảm của muôn đời: tình mẹ con, vợ chồng, tình yêu. . đôi lứa → giọng điệu của tình thương mến.[2] Đặc biệt: tác giả rung động trước đời sống cách mạng trong kháng chiến → hướng về đồng chí, đồng bào. . mà trò chuyện tâm tình, nhắn nhủ. Những lời tâm tình đó có cội nguồn từ chất Huế trong hồn thơ Tố Hữu. [2] [sửa]Về. nghệ thuật. Nghệ thuật biểu hiện trong thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà [2] . Về thể thơ: Tố Hữu có tiếp thu những tinh hoa của phong trào Thơ mới, nhưng ông đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc. Những bài thơ lục bát mang cả sắc thái lục bát ca dao và lục bát cổ điển, dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc. Những bài thơ theo thể thất ngôn trang trọng nhưng không khuôn sáo, trái lại, hơi thơ rất liền mạch, tự nhiên, điễn tả được hiện thực đa dạng và nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau[2]. . Về ngôn ngữ: ông thường sử dụng những từ ngữ và cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt, thơ Tố Hữu đã phát huy cao độ tính nhạc phong phú của Tiếng Việt, nhà thơ sử dụng rất tài tình các từ láy, các thanh điệu, các vần thơ [2].

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Tác gia Hồ Chí Minh I/Vài nét về tiểu sử (1890 – 1969) - Quê quán làng Kim Liên huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An - Thuở nhỏ Người học trường quốc học Huế - 1911 Người ra đi tìm đường cứu nước - 1919 Gửi bản yêu sách của nhân dân An Nam đến hội nghị hòa bình ở Véc-xây - 1920 dự đại hội Tua và trở thành một trong những thành viên sáng lập ra Đảng cộng sản Pháp. - Từ 1923 – 1941 Người trở về trực tiếp lãnh đạo phong trào CM trong nước - 13/08/1942 trên đường sang TQ Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. - 1943 Người trở về nước trực tiếp lãnh đạo CM =>> 1945 cuộc khởi nghĩa đã diễn ra thành công. - 02/09/1945 tại quảng trường Ba Đình Người đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập - 1946 Người được bầu làm chủ tịch nước VNDCCH => Chủ tịch Hồ Chí Minh La nhà yêu nước, nhà CM vĩ đại đồng thời cũng là nhà văn hóa lớn. II/Quan điểm sáng tác 1, Văn chương là vũ khí đấu tranh cách mạng - Lúc sinh thời người không có ý định sẽ trở thành nhà văn, nhà thơ, nhưng trên con đường hoạt động CM Người nhận ra rằng: Văn chương phục vụ rất đắt lực cho cuộc đấu tranh. Người khẳng định rằng: “Văn học nghệ thuật là một mặt trận, anh, chị, em nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó.” Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong 2/Văn chương phải mang tính chân thật và dân tộc - Người yêu cầu người nghệ sĩ phải miêu tả cho hay, cho chân thật, hiện thực phong phú của đời sống. - Phải có ý thưc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tránh những lối viết cầu kì, xa lạ. - Đề cao sự sáng tạo của người nghệ sĩ. 3/ Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến mục đích, đối tượng, hình thức.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> - Người đặt vấn đề: + Viết cho ai? (Đối tượng) + Viết để làm gì? (Mục đích) + Viết như thế nào? (Hình thức) - Người luôn nhấn mạnh ý thức và vai trò của người cầm bút. III/ Sự nghiệp văn học 1, Văn chính luận - Sáng tác với mục đích đấu tranh chính trị, thể hiện nhiệm vụ CM qua các trặng đường lịch sử, mang tính chiến đấu hết sức mạnh mẽ. - Những áng văn chính luận viết bằng lí trí sáng suốt, trí tuệ, sắc sảo, lời văn ngắn gọi, súc tích. - Tiêu biểu: “Bản án chế độ thức dân Pháp” lên án chính sách tàn bạo của TD Pháp, kêu gọi người nô lệ đoàn kết đâu tranh. - “Tuyên ngôn Độc lập” là áng văn chính luận mẫu mực, tiêu biểu. - “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” 2/Truyện và kí - Được viết bằng lối văn sắc sảo, cô đọng, ý tưởng thâm thúy, kín đáo, trí tuệ, sâu sắc viết theo lối văn vừa truyền thống vừa hiện đại. - Truyện kí của Người có tính chiến đấu và nghệ thuật trào phúng sắc bén. - Tiêu biểu: + Lời than vãn của bà Trưng Trắc + Vi hành + Những chò lố của Varen hay Phan Bội Châu 3/ Thơ ca - Đây là lĩnh vực quan trọng trong sáng tác văn chương của Người - Tác phẩn “Nhật kí trong tù” (Ngục trung nhật kí) được sáng tác (1942 -1943) gồm 134 bài thơ tứ tuyệt viết bằng chữ Hán - Nội dung: Phơi bày bộ mặt xấu xa, tàn bạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch và là bức chân dung tự họa về con người có tâm hồn, dũng khí có trí tuệ lớn. - Là sự kết hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại - Kết hợp giữa trong sáng giản dị, thâm trầm sâu sắc - Thơ HCM và thơ chữ Hán của HCM phản ánh tâm hồn và nhân cách của người chiến sĩ. => Sự nghiệp văn học khá phong phú và đa dạng, nhiều thể loại mang tầm vóc tư tưởng lớn. IV/ Phong cách nghệ thuật 1/Văn chính luận - Bộc lộ 1 tư duy sắc sảo, giàu trí thức văn hóa, gắn liền với lí luận thực tiễn - Lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, luận cứ tiêu biểu, văn phong sắc sảo =>> Giàu tính chiến đấu. - Giọng văn đa dạng khi hì hùng hồn, đanh thép, khi thì ôn tồn lặng lẽ thấu tình đạt lí. 2/Truyện và kí - Chất trí tuệ và tính hiện đại là nét đặc sắc trong thể loại truyện và kí, cách tạo ra mâu thuẫn là bật cười, châm biếm, sắc sảo, thâm thúy và tinh tế. - Cách tạo ra tình huống độc đáo, trí tuệ còn thể hiện ở ngôn ngữ hóm hỉnh, hài hước. 3/ Thơ ca - Bút pháp uyển chuyển, linh hoạt - Phong cách thơ chia làm 2 loại: + Thơ ca nhằm mục đích tuyên truyền - Được viết như một bài diễn ca, dễ nhớ, dễ thuộc - Giàu màu sắc dân gian +Thơ nghệ thuật: - Thơ người nó ít hiều nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lắng. =>> Ý ở ngoài lời - Phong cách thơ Bác là sự kết hợp hài hoài giữa bút pháp cổ điển và hiện đại được thể hiện qua ngôn ngữ giản dị, hàm xúc, tú thơ độc đáo. - Bút pháp chấm phá, như ghi lấy linh hồn của tạo vật =>> Phong cách nghệ thuật của HCM rất đa dạng, phong phú về nội dung, thể loại nhưng thống nhất cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ thuật nghệ thuật.

<span class='text_page_counter'>(42)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×