Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

CÔNG tác cán bộ cấp cơ sở tại QUẬN BÌNH tân, THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH HIỆN NAY – THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.52 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN HẬU

CÔNG TÁC CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Ngành: Chính trị học
Mã số: 8.31.02.01

GVHD:
TS. VŨ MẠNH TỒN

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu được
sử dụng trong luận văn là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên
cứu khoa học nào. Những kết quả nêu trong luận văn chưa được sử dụng trong bất
kỳ cơng trình nào khác. Những thơng tin tham khảo trong luận văn đều được trích
dẫn cụ thể nguồn sử dụng.
Tác giả
…………………..

2


LỜI CẢM ƠN


Để hồn thành luận văn của mình, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới
Thầy Vũ Mạnh Toàn - người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ và động viên
cá nhân tơi trong suốt q trình thực hiện luận văn. Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới
các thầy cơ giảng dạy chương trình Cao học chuyên ngành Chính trị học tại Viện
Khoa Học Xã Hội đã truyền dạy những kiến thức quý báu trong suốt q trình tơi
được học tập và nghiên cứu ở Trường. Những kiến thức này không chỉ hữu ích đối
với việc trình bày luận văn mà cịn giúp tơi rất nhiều trong công việc và nghiên cứu
khoa học.
Tôi xin cảm ơn các thầy, cô trong Hội đồng khoa học đã đóng góp những ý
kiến góp ý có ý nghĩa rất quan trọng để tơi có thể hồn thiện luận văn này.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế, tôi xin chân thành cảm ơn
các đồng chí lãnh đạo và cán bộ, cơng chức của UBND quận Bình Tân, UBND các
phường trên địa bàn quận Bình Tân đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện và cung
cấp các số liệu để tơi có thể hồn thiện luận văn
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn các thầy, cô của khoa Sau Đại học và Viện Khoa
Học Xã Hội đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt q trình tơi tham gia học tập và
nghiên cứu tại Trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

Trang

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Khái niệm cán bộ, công tác cán bộ, cấp cơ sở

1.2. Khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác cán bộ
TIỂU KẾT CHƯƠNG I

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TẠI
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát chung về quận Bình Tân
2.2. Thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp phường của
quận Bình Tân.
2.3. Thực trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở tại
quận Bình Tân
2.4. Đánh giá chung về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp phường
của quận Bình Tân
TIỂU KẾT CHƯƠNG II
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Phương hướng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở ở Quận
Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
3.2. Giải pháp chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Quận Bình Tân
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
4


CNH - HĐH

Cơng nghiệp hóa - Hiện đại hóa


CBCC

Cán bộ cơng chức

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân



Nghị định

CP

Chính phủ

ĐTBD

Đào tạo bồi dưỡng

CBCC

Cán bộ Công chức

CBCCS


Cán bộ cấp cơ sở

CBCCVC

Cán bộ công chức viên chức

THPT

Trung học Phổ thông

THCS

Trung học cơ sở

BHXH

Bảo hiểm xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh rằng, trong bất cứ thời kỳ nào của
cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng là vấn đề trọng yếu, chẳng những có ý

nghĩa to lớn đối với cơng tác xây dựng Đảng mà cịn góp phần quyết định sự thành
bại trong tổ chức và lãnh đạo cách mạng của Đảng. Với vị trí là cầu nối giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là những người đem
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân
dân; đồng thời cũng là người chỉ đạo, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi chủ
trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Người đã thường xuyên
căn dặn rằng: Khi đã có được chính sách đúng đắn thì sự thành cơng hay thất bại
của chính sách đó nằm ở các khâu tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và khâu
kiểm tra việc thực hiện. Nếu 3 khâu ấy thực hiện sơ sài thì dù chính sách đúng đến
đâu cũng trở thành vơ ích. Chính vì vậy trong tiến trình lãnh đạo cách mạng gần 90
năm qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác cán bộ được
Đảng luôn chú trọng quan tâm nhằm xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có đức có
tài, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Thực hiện công tác cán bộ, Đảng đã triển khai nhiều Nghị quyết Đại hội
Đảng, Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước tại Hội
nghị Trung ương 3 khóa VIII (6/1997), Nghị quyết Trung ương 4 khóa X
(01/2007) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về
đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã
hội và xây dựng, hồn thiện hệ thống chính trị tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa
XII) (5/2013),v.v… đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương đã không ngừng
lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, từng
bước đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới
và hội nhập sâu rộng…
6


Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác cán bộ nói chung,
mà cụ thể cơng tác cán bộ cấp cơ sở ở quận còn bộc lộ những hạn chế như việc
thực hiện một số nội dung còn mang tính hình thức, khâu đánh giá cán bộ vẫn chưa
phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, khơng ít trường

hợp cịn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ tại một số địa
phương còn tiến hành dàn trải, thiếu tính tổng thể, cơng tác đào tạo cán bộ chưa
được đổi mới, chưa thực sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiến công việc,
theo mức độ quy hoạch và theo các chức danh. Việc thực hiện chủ trương luân
chuyển cán bộ và bố trí một số chức danh không phải là người địa phương, đặc biệt
là chức danh Bí thư cấp ủy tại các cấp còn tồn tại một số bất cập, chưa thực sự đạt
được đúng ý đồ, mong muốn do cấp trên đề ra. Việc sắp xếp, bố trí, phân cơng, bổ
nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử tại một số địa phương vẫn xảy ra tình trạng đúng
quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc; mang nặng tính họ hàng. Cơng tác
tuyển dụng, thi nâng ngạch cơng chức, viên chức cịn hạn chế, chất lượng chưa
cao, có nơi cịn xảy ra sai phạm, tiêu cực; chủ trương thu hút nhân tài chậm được
cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp, kết quả thu hút trí thức trẻ và
người có trình độ cao nhưng làm việc chưa đạt yêu cầu. Chính sách đãi ngộ đối với
cán bộ cịn thiếu tính thống nhất, chế độ tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua
khen thưởng, các loại đãi ngộ khác còn ở mức thấp, chưa thực sự tạo ra động lực
để cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ trẻ yên tâm, tồn tâm tồn ý với cơng việc. Việc
kiểm tra, giám sát cịn thiếu tính chủ động, chưa được tiến hành thường xuyên, một
số địa phương khi tiến hành kiểm tra còn nặng về việc phát hiện và xử lý vi phạm
mà thiếu đi việc đề ra các biện pháp để ngăn ngừa các sai phạm. Việc đầu tư xây
dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng
lực và uy tín của khơng ít cán bộ làm cơng tác cán bộ có biểu hiện dao động, cơ
hội, bè phái, tham ơ, sách nhiễu nhân dân... từ đó đã làm giảm uy tín, niềm tin nhân
dân đối với một bộ phận cán bộ, đồng thời giảm hiệu quả quản lý cơ sở. Để có đội
7


ngũ cán bộ tốt, công tác cán bộ phải được triển khai bài bản, có kế hoạch, có lộ
trình nhằm đào tạo được đội ngũ cán bộ các cấp toàn diện về chính trị, tư tưởng,
chun mơn, nghiệp vụ, đạo đức cách mạng, phong cách công tác, v.v… theo đúng
tiêu chí, tiêu chuẩn, chức danh quy định. Đó là những cán bộ nói chung, cịn cán

bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
trung thành với sự nghiệp cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; có trí tuệ và năng lực tư duy khoa học, độc lập, sáng tạo trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quần chúng; có phong cách quần chúng, gần dân, gắn
bó mật thiết với nhân dân dân; có tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
v.v… để quy tụ, lãnh đạo nhân dân đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống.
Từ thực tiễn trên, địi hỏi có một sự nghiên cứu tồn diện về cơng tác cán bộ
cấp cơ sở, góp phần nâng cao trình độ chun mơn, năng lực công tác của đội ngũ
cán bộ cơ sở của quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới, tác
giả đã lựa chọn đề tài: “Công tác cán bộ cấp cơ sở quận Bình Tân, Thành Phố Hồ
Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp” đề làm luận văn thạc sỹ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề cơng tác cán bộ cấp cở sở xã (phường, thị trấn) được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu, đã có nhiều cơng trình khoa học, sách chuyên khảo, các
Hội thảo từ cấp Trung ương, các nhà khoa học tổ chức, nghiên cứu về nội dung nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức. Một số cơng trình tiêu biểu như sau:
Tác giả Nguyễn Phú Trọng, trong đề tài khoa học: “Luận chứng khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” đã tổng kết cơng tác cán bộ nói chung và trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế xã hội làm cơ sở để đưa ra các định
hướng, biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ.

8


Trong tác phẩm Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước”, tác giả Nguyễn Phú Trọng và
Trần Xuân Sầm một lần nữa khẳng định vị trí, vai trị và u cầu cấp thiết và khách
quan của nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Hệ thống hóa luận cứ khoa

học việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức để làm cơ sở đưa ra các
giải pháp định hướng về công tác cán bộ cho phù hợp tình hình nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, nội dung tác phẩm chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu đối tượng CBCC
nói chung ở cấp vĩ mô, chưa thực sự đi sâu vào đối tượng đặc thù là CBCCS tại 1
địa phương cố định.
Tác giả Tần Xuân Bảo trong tác phẩm: “Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý Kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” đã khái quát nội dung và đánh
giá thực trạng công tác ĐTBD lãnh đạo quản lý để làm căn cứ đổi mới công tác
ĐTBD lãnh đạo quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố Hồ Chí Minh
đến trước năm 2012.
Bài viết ),“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị
trấn” trên Cổng thông tin điện tử nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - sự thật ngày
17/7/2013 của TS Dương Trung Ý.
ThS. Trần Thị Hạnh (3/7/2015),“Chất lượng đội ngũ cán bộ, cán bộ cấp cơ
sở từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng sản.
Tại cuộc Hội thảo: “Xây dựng đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam,
kinh nghiệm của Trung Quốc”, trong bài viết đã: “Xuất phát từ đại cục, hướng tới
lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ cán bộ dự bị tố chất cao”, tác giả Chu Phúc
Khởi (Trung Quốc) đã nhận định: Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn xem đội ngũ
cán bộ dự bị là nguồn quan trọng của ban lãnh đạo các cấp, từ đó khẳng định rằng:
Nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ chiến lược là nhiệm vụ chiến lược liên quan
đến đại cục lâu dài . Đây là công tác tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các địa
phương của Trung Quốc, đồng thời đó cũng là kinh nghiệm Việt Nam có thể
9


nghiên cứu, học tập và áp để tiếp tục nghiên cứu cho tạo nguồn cán bộ ở trong
nước.
Ngoài ra, đã có nhiều cơng trình khoa học, bài viết trên các tạp chí khoa học,
luận án, luận văn đề cập và nghiên cứu nội dung này. Tuy nhiên, do giới hạn thời
lượng của luận văn nên tác giả không đề cập đến các cơng trình này. Có thể khẳng

định, những cơng trình khoa học kể trên đã cung cấp nhiều tư liệu về cơ sở lý luận,
về kiến thức, kinh nghiệm xây dựng đội ngũ cán bộ nhà nước nói chung và cán bộ
cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) nói riêng để tác giả tham khảo trong quá trình
nghiên cứu đề tài của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Từ nhận thức lý luận về cơng tác cán bộ cấp cơ sở và thực trạng
cán bộ cấp cơ sở tại quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh, từ đó đề xuất một số giải
pháp phát triển nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở
trên địa bàn quận Bình Tân trong những năm tới, đáp ứng yêu cầu phát triển và sự
nghiệp CNH - HĐH đất nước.
Nhiệm vụ: - Làm rõ một số vấn đề cơ bản về lý luận công tác cán bộ cấp cơ
sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác cán bộ cấp cơ sở tại quận Bình Tân,
TP Hồ Chí Minh trong những năm gần đây.
- Đề xuất các giải pháp phát triển công tác cán bộ tại tại quận Bình Tân, TP
Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu về cơng tác cán bộ cấp
cơ sở trong hệ thống chính trị (phường) của quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh;
khơng bao gồm Tịa án nhân dân và Viện kiểm sốt nhân dân.

10


Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cơng tác cán bộ cấp cơ
sở tại quận quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh trong thời gian khoảng 3 năm từ năm
2015 đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận trong q trình

hồn thiện luận văn.
Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn tác giả sử dụng tổng hợp các
phương pháp sau:
* Phương pháp thống kê - phân tích
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích trong việc thu thập số
liệu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cán bộ cơ sở như: cơ cấu tuổi, giới tính,
trình độ văn hóa, trình độ chun mơn, thâm niên cơng tác, thành tích đóng góp,
khen thưởng, báo cáo tổng kết các năm. Từ đó, phân tích những mặt đạt được, hạn
chế trong việc đảm nhận, thực hiện công việc, chất lượng cán bộ cấp cơ sở đã cơng
khai và trên website quận Bình Tân.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả đã lập phiếu điều tra bằng bảng
hỏi và phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Ủy ban nhân dân các phường của quận Bình
Tân đối với một số cán bộ đang cơng tác tại các phường.
- Phương pháp so sánh, đánh giá: tác giả so sánh (các chỉ số liên quan đến
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức) qua các năm để thấy rõ nét sự thay đổi, tính
hiệu quả của các cơ chế, chính sách của địa phương và những nỗ lực của các cấp
chính quyền trong việc nâng cao chất lượng công tác cán bộ cấp cơ sở.
- Nguồn số liệu:
Thu thập tại các bảng, biểu thống kê, báo cáo hàng năm tại phịng Nội vụ
quận Bình Tân, Văn phịng UBND quận Bình Tân...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
11


Ý nghĩa lý luận
- Luận văn đã góp phần vào hệ thống hóa lý luận các khái niệm, các vấn đề
lý luận liên quan đến cán bộ, công tác cán bộ cấp cở sở trong giai đoạn hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm tư liệu tham khảo cho các
cấp quản lý ở các cơ quan hành chính nhà nước, địa phương trong việc thực hiện

cơng tác cán bộ ở địa phương mình, đáp ứng yêu cầu phát triển và sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn này ngoài các phần Phần Mở đầu, Kết luận, phụ lục, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung chính chia làm 3 chương:
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
Chương II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TẠI
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN
2015 - 2018
Chương III. GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TẠI QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

12


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠNG TÁC CÁN BỘ
1.1. Khái niệm cán bộ, cơng tác cán bộ, cấp cơ sở
a) Một số khái niệm
- Cán bộ:
Nghĩa của từ cán bộ nhìn từ góc độ chiết tự, “Cán” là gánh vác, cán đáng
một công việc nhất định trong một tổ chức, cơ quan, đơn vị, trong một cộng đồng
xã hội. “Bộ” là bộ phận, một phần trong tồn thể. Cán bộ có thể hiểu là đảm nhận
một bộ phận, đảm đương một trọng trách nhất định trong hệ thống tổ chức.
Tại tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm
1947, Người đã đề ra khái niệm về cán bộ: “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Những quan
điểm, chỉ dẫn của Người là kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước ta trong mọi hoàn
cảnh, đặc biệt là trong công tác xây dựng xây dựng lề lối, tác phong, chuẩn mực đạo
đức, năng lực làm việc... của đội ngũ cán bộ. Điều này có ý nghĩa lớn lao đối với q

trình cải cách hành chính (CCHC) ở nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Trong tác phẩm “Từ điển tiếng Việt 2003”, tác giả Hoàng Phê đã đưa định
nghĩa về cán bộ: Cán bộ là người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ
quan Nhà nước. Cán bộ Nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị.
Tuy nhiên, do tính chất chính trị nên “cán bộ” được quy định cụ thể hơn
trong Luật cán bộ, công chức (số 22/2008/QH12) của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (ban hành ngày 13/11/2008) quy định: “Cán bộ là công
dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo
nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở

13


quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh , ở xã, phường, thị trấn trực thuộc huyện
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước”.
Như vậy, cán bộ được hiểu theo nghĩa chung nhất là người công dân Việt
Nam, có chức vụ lãnh đạo, quản lý, làm việc trong các cơ quan, tổ chức Đảng ủy,
chính quyền, đồn thể chính trị - xã hội hoặc đảm nhiệm 1 chức danh chuyên môn,
nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã (phường, thị trấn), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; hình thành từ cơ chế bầu cử, tuyển dụng, bổ
nhiệm, đề bạt và được phân cơng cơng tác… có trách nhiệm qn triệt và triển khai
thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, bổ sung, hồn thiện đường
lối, chính sách.
- Cơng tác cán bộ:
Công tác cán bộ là tổng thể các biện pháp của các cơ quan Đảng, Nhà nước,
đoàn thể trong xây dựng tiêu chuẩn cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch cán bộ; đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ; luân chuyển, điều động cán bộ; bố trí, sử dụng, bổ nhiệm,
đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ,… nhằm phát huy năng lực đội ngũ cán bộ theo

hướng bố trí số lượng hợp lý, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ
chun mơn, nghiệp vụ (vừa hồng vừa chuyên), đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu
hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới.
Cơng tác cán bộ bao gồm: việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách
về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ và đội
ngũ cán bộ, những tiêu chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện đồng bộ
các khâu trong công tác cán bộ: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và thực hiện chính
sách cán bộ.
b) Vai trị, đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở
Hệ thống tổ chức quản lý hành chính của Nhà nước ta đến nay gồm 4 cấp:
Trung ương - tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - quận, huyện, thị xã, thành
14


phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc thành phố - Xã, phường, thị trấn. Hệ
thống quản lý này được tổ chức theo một ngành dọc: Từ trên xuống là trung ương địa phương và cơ sở; từ dưới lên là cơ sở - địa phương và Trung ương. Vậy, nói
đến cấp xã, phường. thị trấn là nói đến cấp cơ sở.
Cấp cơ sở về cơ bản là mơ hình thu nhỏ của một hệ thống chính trị tổng thể
cấp trên, gồm có: Đảng bộ cơ sở, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các đoàn
thể quần chúng trong 1 địa giới hành chính và số dân cư của xã/phường/thị trấn đó
quản lý. Chính quyền cơ sở có tư cách pháp nhân rõ ràng, được pháp luật công
nhận sự tồn tại vì mục đích quản lý nhằm thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cấp cơ sở trong một xã (phường, thị trấn) thuộc tỉnh hoặc thành phố của một
quốc gia. Trong cơ cấu đó, Đảng bộ cơ sở đóng vai trị là hạt nhân lãnh đạo Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và các đồn thể chính trị - xã hội, nắm vai trò
lãnh đạo việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, các chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Những nguyên tắc trong việc hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở:

+ Đảng bộ cơ sở, Ban Chấp hành Đảng bộ (Đảng ủy) cơ sở lãnh đạo toàn diện
bằng cách ban hành các nghị quyết, định hướng các nhiệm vụ trọng tâm, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp cơ
sở, kiếm tra cán bộ, công chức về việc thực hiện các chính sách, pháp luật của Nhà
nước, đồng thời lựa chon nhân sự để giới thiệu vào các vị trí trong bộ máy chính
quyền cấp cơ sở.
+ Chính quyền địa phương (HĐND và UBND) là nơi trực tiếp điều hành,
quản lý xã hội duy trì trật tự, an ninh, ổn định chính trị; tổ chức, triển khai thực
hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
đồng thời cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng bộ cơ sở bằng các nghị
quyết, quyết định.
15


+ Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị xã hội có vai trị thay mặt nhân
dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng, quản lý Nhà nước ở địa phương và
giám sát công tác thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp. Bên cạnh
đó, Mặt trận Tổ quốc cùng các đồn thể có vai trị tun truyền, vận động nhân
dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
ở cơ sở, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc tại địa phương.
Như vậy, cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị các cấp (Trung
ương, Tỉnh - thành phố trực thuộc Trung ương, Quận - Huyện - Thành phố trực
thuộc Tỉnh, Xã - Phường - Thị trấn), nhưng vẫn mang đầy đủ những đặc trưng của
bộ máy quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị ở nước ta, bao gồm các tổ chức
Đảng, chính quyền và các đồn thể nhân dân, được vận hành theo cơ chế: Đảng
lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ và khơng ngừng hồn thiện nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Cán bộ cấp cơ sở
Cán bộ cấp cơ sở là toàn bộ là những người được bầu cử hoặc bổ nhiệm giữ

chức vụ hoặc chức danh nào đó trong hệ thống chính trị ở cấp xã (phường, thị trấn)
có trách nhiệm thực hiện lãnh đạo, tổ chức, điều hành, triển khai các nhiệm vụ ở
địa phương và phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình trước tập thể, trước
nhân dân và trước cấp trên của mình.
Ngày 13/11/2008, Quốc hội khóa XII đã thơng qua dự thảo và ban hành Luật
Cán bộ Cơng chức. Trên cơ sở đó, ngày 22/10/2009, Chính phủ tiếp tục ban hành
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP “Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách
đối với CBCC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã (phường, thị trấn)”. Theo đó, chính quyền cơ sở các cấp gồm có các
chức danh cán bộ, cơng chức sau:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy xã/phường/thị trấn.
16


+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND xã/phường/thị trấn.
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã/phường/thị trấn.
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã/phường/thị trấn.
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản xã/phường/thị trấn.
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã/phường/thị trấn.
+ Chủ tịch Hội Nông dân xã (áp dụng với đơn vị có có tổ chức Hội Nơng
dân Việt Nam và có hoạt động nơng, lâm, ngư, diêm nghiệp).
+ Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã/phường/thị trấn.
+ Trưởng Công an xã/phường/thị trấn.
+ Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Qn sự xã/phường/thị trấn.
+ Cơng chức Văn phịng - thống kê xã/phường/thị trấn.
+ Cơng chức Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (áp dụng với thị
trấn, phường) hoặc cơng chức Địa chính - nơng nghiệp - xây dựng và môi trường
(đối với xã);
+ Công chức Tài chính - kế tốn xã/phường/thị trấn.
+ Cơng chức Tư pháp - hộ tịch xã/phường/thị trấn;

+ Công chức Văn hóa - xã hội xã/phường/thị trấn.
- Số lượng CBCC chính quyền cấp cơ sở được bố trí theo loại đơn vị hành
chính cấp cơ sở, cụ thể như sau:
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 1: không quá 25 người;
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 2: khơng q 23 người;
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 3: khơng q 21 người.
- Số cán bộ hoạt động không chuyên trách ở cấp cơ sở:
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 1: khơng q 22 người.
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 2: khơng q 20 người.
+ Chính quyền cấp cơ sở loại 3: không quá 19 người.
1.2. Khái quát quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác cán bộ
17


- Khái quát quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ.
Quán triệt sâu sắc tinh thần của Chủ nghĩa Mac - Lenin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi trọng công tác cán bộ của Đảng ta, đồng thời Người cho rằng đó là
cái gốc của sự nghiệp cách mạng. Từ việc xác định vai trò, tầm quan trọng của cán
bộ và đội ngũ cán bộ, Người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết cho việc xây dựng
đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hồn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Nhìn
một cách tổng quan, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ
có thể khái qt tại một số điểm như sau:
Về quan điểm đánh giá cán bộ: Người coi việc đánh giá cán bộ là một khâu đặc
biệt quan trọng. Công tác đánh giá cán bộ gồm các nội dung:
Thứ nhất: Việc đánh giá cán bộ cần phải được tiến hành thường xuyên, mục
đích giúp cho tổ chức “biết rõ cán bộ”, nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách
và biện pháp thích hợp khơi dậy những điểm tốt, điểm mạnh cũng như nhận ra
những điểm yếu của cán bộ, qua đó đưa ra cơ sở cho việc quyết định bố trí, sử
dụng cán bộ hợp lý, tạo động lực, niềm tin cho cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao.

Thứ hai: Đối với người được phân công đánh giá cán bộ cần phải xây dựng
cho mình một cái nhìn khách quan, biện chứng, mọi sự vật, hiện tượng luôn luôn
biến đổi. Tương tự, khi đánh giá cán bộ, nhiều trường hợp cán bộ trước đây đã
từng đi theo cách mạng, nhưng nay lại quay sang phản cách mạng. Có người trước
đây chưa biết đến cách mạng, chưa đi theo cách mạng nhưng nay lại tham gia cách
mạng. Cũng có trường hợp cán bộ nay đang theo cách mạng nhưng sau này cũng
có thể phản bội lại cách mạng, phản bội lợi ích dân tộc. “Quá khứ, hiện tại, tương
lai của một người không nhất thiết phải giống nhau”(1). Vì thế khi xem xét, đánh
giá cán bộ “quyết không nên chấp nhất” mà phải có cái nhìn tồn diện, bao qt,
tổng thể về q trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ.
(1)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2011, tr.318.

18


Việc xem xét cán bộ không đánh giá một cách phiếm diện các biểu hiện bên
ngồi của cán bộ đó, mà phải đặt mình vào cương vị cán bộ đó để đi sâu tìm hiểu
bản chất của người được đánh giá, khơng thể chỉ nhìn vào một việc làm của họ, mà
phải tìm hiểu quá trình họ thực hiện các nhiệm vụ được phân cơng, giao phó;
khơng thể chỉ xem xét cán bộ tại thời điểm đó mà phải tìm hiểu về lịch sử của họ.
Khi đã nắm bắt được toàn diện của sự việc, người đánh giá cán bộ mõi có thể xem
xét một cách khách quan, đúng đắn về người mà mình đánh giá. Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln nhắc nhở, có khơng ít bệnh đã xuất hiện khi đánh giá cán bộ như bệnh
tự cao tự đại, ưa cấp dưới nịnh nọt mình, hoặc có thể xuất phát từ lòng yêu, ghét cá
nhân đối với người được đánh giá, đem những khuôn khổ cứng nhắc của bản thân
để lắp vào nhiều người khác nhau. Đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến công tác đánh giá cán bộ thiếu đi tính minh bạch, chính xác và khách quan,
khiến cho người làm công tác đánh giá cán bộ bị mờ mắt mà không thấy rõ được

sự thạt của những cái mình được thấy.
Thứ ba: Để đánh giá cán bộ đúng đắn và khách quan, những người làm công
tác cán bộ, những người tham gia đánh giá cán bộ, trước hết bản thân người cán bộ
đó phải “tự biết mình” tức là biết sự phải trái của mình, đã khơng tự biết mình thì
khó mà biết người. Muốn đánh giá, phê bình người khác thì trước hết phải biết tự
đánh giá, tự phê bình chính bản thân mình trước. Do đó, phải biết, phải hiểu rõ cán
bộ mới nhắc nhở những người làm công tác cán bộ dũng cảm nhìn nhận và kiên
quyết khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của mình; đồng thời đưa ra cách sử
dụng cán bộ cho phù hợp với trình độ, khả năng của họ.
Về vấn đề huấn luyện cán bộ - nội dung quan trọng trong công tác cán bộ.
Đây cũng chính là một trong những biện pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ
đủ đức, đủ tài, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng. Người từng tuyên
dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người. Mục đích của việc huấn luyện cán bộ là không ngừng xây dựng và hoàn
19


thiện đội ngũ cán bộ cả về năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng ngày càng cao, khơng chỉ cho hơm nay mà cịn cho mai sau. Phải đào tạo
một đội ngũ cán bộ có tâm, có tầm dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Người nhận định việc đào tạo cán bộ như người làm vườn vun trồng cây cối quý
không thể và không được phép làm qua loa, đại khái cho xong chuyện(2).
Về việc sử dụng cán bộ: cần thực hiện tốt bốn nội dung sau:
Thứ nhất, về phát hiện và lựa chọn cán bộ. Trong tuyển chọn cán bộ, cần lựa
chọn những người thật sự có đức, có tài, khơng thiên tư, thiên vị, khơng phân biệt
người trong hay người ngồi Đảng. Người quan điểm: Phong trào cách mạng sôi
nổi đã sản sinh ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Đối với những nhân tài này,
chúng ta không được kỳ thị, bỏ rơi, trù dập mà phải đoàn kết, nâng đỡ, đem tài
năng của họ phục vụ sự phát triển của đất nước, dân tộc. Việc lựa chọn cán bộ phải
dựa trên bối cảnh với tình hình của đất nước, phù hợp với các mục tiêu chính trị.

Vì vậy, việc lựa chọn cán bộ cần dựa trên các tiêu chuẩn: 1: Trung thành và hăng
hái, nhiệt tình, tận tâm trong cơng việc. 2: Sống trong long quần chúng, có mối
quan hệ mật thiết với nhân dân. Nắm bắt kịp thời ý nguyện, đặt lợi ích của nhân
dân lên hang đầu. Đó là điều kiện tiên quyết để nhận sự tin tưởng và tín nhiệm của
nhân dân đối với người lãnh đạo. 3: Có thể đảm đương, giải quyết các vấn đề khó
khăn trong điều kiện trở ngại. Nếu cán bộ mà né tránh trách nhiệm, sợ phụ trách,
thiếu sáng kiến, sáng tạo thì khơng phải và khơng xứng trở thành người lãnh đạo.
Người lãnh đạo phải có bản lĩnh: bình tĩnh trước thất bại, khiêm tốn khi thắng lợi,
khơng ngại khó khan, kiên quyết, kiên cường khi thực hiện các nghị quyết. 4:
Luôn luôn giữ vững kỷ luật, nề nếp”
Thứ hai: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật dùng cán bộ. Chủ tích Hồ
Chí Minh quan điểm: Khéo dùng cán bộ là phải tinh tế nâng cao ưu điểm, tế nhị

(2)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2011, tr.313.

20


sửa chữa nhược điểm, dụng nhân như dụng mộc(3). Nếu sắp xếp cán bộ đúng sở
trường, đúng ngành nghề đào tạo thì cơng việc sẽ đạt hiệu quả cao, ngược lại, phân
công không đúng sở trường, chuyên môn nhiệm vụ thì sẽ rất vất vả, khó khăn, dẫn
đến chán nản, bỏ bê công việc, kết quả công việc không đạt yêu cầu. Ngoài ra,
khéo dùng cán bộ là phải tin tưởng, tạo điều kiện, khích lệ phát huy dân chủ và tinh
thần trách nhiệm của bản thân họ. Đối với cấp dưới, người lãnh đạo phải thường
xuyên lắng nghe, góp ý, tự phê bình và phê bình. Với ý kiến không đúng, cấp trên
không nên trách mắng, quát tháo mà nên từ tốn giải thích cho họ hiểu và khích lệ
họ nỗ lực hơn trong công tác và phát triển bản thân.
Thứ ba, về cất nhắc, bố trí sử dụng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng

cất nhắc cán bộ đừng làm như giã gão hết nâng lên rồi lại đặt xuống. Phải thật sự
cân nhắc kỹ, thận trọng khi “nhấc lên” hoặc “đẩy xuống”. Khi “nâng lên” không
xem xét kỹ, không hỗ trợ họ, đến khi sai lầm thì đẩy xuống, đến khi họ làm khá thị
lại nhấc lên. Một cán bộ bị “nâng lên”, “đẩy xuống” vài ba lần như vậy thì “hỏng
cả đời”. Việc sử dụng, bố trí cán bộ phải đảm bảo tính kế thừa và phát triển, giữa
cán bộ trẻ, cán bộ mới với cán bộ lâu năm; phải chú ý tạo nguồn cán bộ kế cận,
phải bồi dưỡng cán bộ cách mạng cho đời sau, tránh việc sử dụng cán bộ “như vắt
chanh, bỏ vỏ”.
Thứ tư, về cách đối xử với cán bộ: dù làm việc ở bất cứ cương vị nào, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đều đối xử với cán bộ một cách đúng mực, hài hòa, tinh tế, nhân
văn. Theo Người, có 5 cách ứng xử với cán bộ:
- Chỉ đạo cấp dưới: Việc chỉ đạo thực thi chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước thống nhẩt từ Trung ương đến địa phương.
Phân công, phân cấp gắn với giao quyền phải rõ ràng, không chồng lấn, khơng phải
việc gì cấp trên cũng phải trực tiếp nhúng tay vào, biến cán bộ cấp dưới thành cái
máy. Mục đích của công tác cán bộ là phát triển năng lực chun mơn, sáng kiến
(3)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2011, tr.72.

21


của cán bộ cho đúng đường lối của Đảng, chính sách pháp luật, xứng tầm với sự
phát triển của đất nước.
- Tự nâng cao bản thân: phải luôn luôn tự giác nâng cao bản thân, có ý thức
vươn lên để hồn thành tốt cơng việc trong mọi hồn cảnh. Tự bản thân phải đổi
mới, thường xuyên cập nhật những thông tin kiến thức từ thực tiễn cơng việc, từ đó
từng bước nâng cao năng lực của cá nhân và cả tập thể trong công tác quản lý.
- Kiểm tra: Mục đích chính là xem xét để đánh giá quá trình cơng tác và học

tập từ đó nhận ra sự tiến bộ, ưu điểm hoặc những khuyết điểm, hạn chế để tuyên
dương những người xuất sắc, rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm đối với
những cá nhân còn yếu kém, chưa hồn thiện. Kiểm tra cán bộ là một q trình
thường xuyên nhưng không phải ngày nào cũng kiểm tra, không phải là soi mói,
bới lơng tìm vết.
- Tự rút kinh nghiệm, sửa chữa lỗi lầm, cải tạo bản thân: Cổ nhân dạy rằng:
nhân vơ thập tồn, tức là mỗi chúng ta dù có tài giỏi đến đâu cũng khó có những
hạn chế, sai lầm. Do đó, khi cán bộ thuộc cấp sai lầm, thiếu sót thì với cương vị
người lãnh đạo, quản lý cần phải xem xét kỹ bối cảnh chủ quan và khách quan dẫn
tới sai lầm đó, phải có thái độ điềm tĩnh, chân thành để họ nhận ra sai lầm, rút kinh
nghiệm và sửa chữa kịp thời. Tất nhiên, chúng cũng cần phải nghiêm khắc, nghiêm
túc và kiên quyết xử phạt đối với cán bộ phạm phải sai lầm. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: Nếu không xử phạt với sai lầm thì sẽ mất tính kỷ luật. Nhất nhất khơng
dùng xử phạt là hồn tồn khơng đúng. Chút gì cũng xử phạt là cũng khơng
đúng”(4).
- Giúp đỡ cán bộ phát huy năng lực chuyên môn, bản thân: Cần tạo những
điều kiện thuận lợi giúp cán bộ môi trường và làm việc thật tốt; không ngừng giúp
cán bộ ổn định và nâng cao đời sống về vật chất lẫn tinh thần để cán bộ yên tâm

(4)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2011, tr.324.

22


cơng tác. Đó là nền tảng để cán bộ có thể tận tâm cống hiến tài năng, trí tuệ vào
cơng việc mà Đảng, Nhà nước giao phó.
Chính sách cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan
điểm, chủ trương, biện pháp nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ đồng bộ,

có chất lượng, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ cách mạng. Chính sách về cán bộ
gồm hai nội dung chính là: chính sách sử dụng, quản lý cán bộ và chính sách đào
tạo - bồi dưỡng. Mục đích chính sách cán bộ là đảm bảo lợi ích và động viên tinh
thần cán bộ tạo điều kiện tốt nhất có thể để bản thân cán bộ có cuộc sống tốt và n
tâm cơng tác; giúp cho đội ngũ cán bộ phát huy trí tuệ, khả năng của mình để cống
hiến cho cách mạng.
Năm là, chống các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ. Để chống tham
nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, cán bộ phụ trách công tác tổ chức cán bộ
phải không ngừng phấn đấu, học tập, rèn luyện. Cán bộ phụ trách công tác cán bộ
phải chú ý phòng và tránh bốn vấn đề:
Vấn đề đầu tiên là ham dùng người thân, anh em, bà con, bạn bè, quen biết.
Bác cũng chỉ ra hiện tượng không ít những cán bộ nâng đỡ người thân, anh em, họ
hang, thân thiết, tạo ra hiện tượng một người làm quan cả họ được nhờ. Những cán
bộ này cất nhắc bà con, bạn hữu đặt vào việc này chức nọ mà không quan tâm đến
việc làm được hay không. Khi hỏng việc thì tập thể gánh chịu, chỉ cần người thân,
bằng hữu có địa vị là được(5).
Vấn đề thứ hai là ưa dùng những kẻ xu nịnh mà không trọng dụng hoặc gét
bỏ nhân tài, người chính trực. Người cũng chỉ ra: những kẻ xu là những kẻ cơ hội.
Kẻ cơ hội gồm có những kẻ cơ hội chính trị, kẻ cơ hội tư lợi tầm thường, vụn vặt.
Chính vì điều này, nên công tác cán bộ cần phải cân nhắc kỹ, đề phòng, loại trừ
những kẻ cơ hội. Nếu để những những kẻ cơ hội này nắm giữ những chức vụ trong

(5)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2011, tr.90.

23


Đảng, chính quyền và các đoàn thể, gây tác hại rất lớn ảnh hưởng đến uy tín và sự

phát triển chung của dân tộc và đất nước.
Vấn đề thứ ba là ưa dùng những người tính tình hợp với mình và khơng
dung hoặc tìm cách loại trừ những người khơng hợp với mình mà khơng xét đến
yếu tố năng lực. Trong bộ máy cán bộ chỉ quan tâm những điểm về tính cách mà
không chú ý đến phẩm chất và năng lực, coi đó là điều kiện tiên quyết trong việc
dùng cán bộ thì sẽ sa vào bè phái, dẫn đến phe nhóm, chia rẽ gây mất đồn kết.
Vấn đề thứ tư là hiện tượng cục bộ địa phương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ ra yêu cầu cấp thiết từ rất sớm là phải bảo đảm về công tác luân chuyển cán bộ
một cách hợp lý để tránh hiện tượng cục bộ địa phương, đồng thời phải tẩy cho
sạch bệnh địa phương. Người cho rằng việc phân phối cán bộ cần phải dung đúng
người, đúng việc, tránh kéo bè kết phái chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ (6).
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, là những
vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa thể hiện những nguyên tắc cơ bản
của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa chứa đựng những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta; những quan điểm, tư tưởng của Người mãi là “kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng”.
- Khái quát đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về công tác cán bộ.
Trải qua 88 (1930 - 2018) năm tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ,
Đảng ta trong mọi thời điểm lịch sử, lúc thuận lợi, lúc khó khăn, ln nhận thức
sâu sắc được tầm quan trọng của công tác cán bộ trong cơng tác xây dựng Đảng,
khẳng định đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong suốt những năm lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Trải quả 21
năm (1997 - 2018), vận dụng thực hiện vào thực tế Nghị quyết Trung ương 3 (khóa
(6)

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, H.2011, tr.314.

24



VIII) về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương xuống địa
phương đã có những bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng của
cán bộ các cấp ngày càng được nâng cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cùng với những mặt tích cực cũng là những hạn chế, bất cập cịn tồn tại
dai dẳng. Để khắc phục tình trạng trên, tại Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) năm
2018, Đảng đã kế thừa, bổ sung và tiếp tục xác định 5 quan điểm cơ bản quan
trọng của về công tác cán bộ đó là:
Thứ nhất, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác
cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây
dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả; đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư
cho phát triển lâu dài, bền vững.
Thứ hai, nhất quán với nguyên tắc: Đảng trực tiếp lãnh đạo, thống nhất một
cách tồn diện về cơng tác cán bộ, quản lý cán bộ trong toàn hệ thống chính trị.
Xây dựng và chuẩn hóa kỷ cương, siết chặt kỷ luật, song song với việc thúc đẩy
kiến thiết thể chế, kiến tạo môi trường, tạo điều kiện phát huy tính sáng tạo đổi
mới, khuyến khích và bảo vệ những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì sự
phát triển của đất nước và lợi ích chung. Phân công công việc và phân cấp gắn với
giao quyền, ràng buộc trách nhiệm rõ ràng, không chồng chéo, đồng thời tăng
cường thanh tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm sai sót, sai phạm.
Thứ ba, tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi
mới công tác cán bộ để thực sự phù hợp với tình hình thực tiễn, nhất là trong bối
cảnh hiện nay. Công tác cán bộ phải dựa trên hoạt động thực tiễn, yêu cầu và
nhiệm vụ phù hợp với bối cảnh của từng thời kỳ. Công tác cán bộ cần phải đặt
trong tổng quan của quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công tác cán bộ phải gắn
25



×