Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác lênin (phần II, III) ở trường cao đẳng kinh tế tài chính vĩnh long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 134 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ TRỌNG HƯNG

VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH
CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN
LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
(PHẦN II, III ) Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG KINH TẾ TÀI CHÍNH VĨNH LONG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

ĐỒNG THÁP - NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ TRỌNG HƯNG

VẬN DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN (PHẦN II, III) Ở TRƯỜNG
CAO ĐẲNG KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨNH LONG

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
BỘ MƠN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Viết Quang



ĐỒNG THÁP, 9/2012


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tơi xin tỏ lịng
biết ơn sâu sắc đến T.S. Trần Viết Quang, khoa Giáo dục Chính trị, Trường
đại học Vinh luôn quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới q thầy, cơ trong khoa Giáo dục
Chính trị trường đại học Vinh đã đóng góp ý kiến, tạo điều kiện thuận lợi để
tơi được hồn thành luận văn này.
Tôi cũng biết ơn các nhà nghiên cứu, các học giả đã xuất bản những ấn
phẩm có liên quan đến đề tài, làm cơ sở lý luận cho tác giả thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn sự hỗ trợ nhiều mặt của trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh
Long, Bộ mơn Lý luận Chính trị, sinh viên khóa 7 Cao đẳng chính quy và sinh
viên hai lớp K7- KTDN 1, K7 – KTDN2, trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính
Vĩnh Long để tơi thực hiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc nhất tới những người thân
trong gia đình, bạn bè, những người luôn bên tôi, động viên, giúp đỡ về nhiều
mặt trong suốt q trình tơi hồn thành khóa học.
Đồng Tháp, tháng 9 năm 2012
Tác giả
Lê Trọng Hưng


BẢNG QUY ĐỊNH CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH
GD
PP

PPGD
PPDH
QTDH
TB-BGDĐT

Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa
Giáo dục
Phương pháp
Phương pháp giảng dạy
Phương pháp dạy học
Qúa trình dạy học
Thơng báo-Bộ giáo dục đào tạo


MỤC LỤC


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử nhân loại đã bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của
thông tin và tri thức. Thông tin và tri thức được coi là tài sản vô giá, là quyền
lực tối ưu của mỗi quốc gia. Sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật
và công nghệ đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng khối lượng tri thức của
nhân loại cũng như tốc độ ứng dụng vào đời sống xã hội tạo nên sự đa dạng
của thế giới. Tình hình đó đã làm thay đổi những quan niệm về giáo dục.
Ngày nay, giáo dục được xem là chìa khóa vàng để mỗi người, mỗi quốc gia
tiến bước vào tương lai, là ngành sản xuất mà lợi nhuận của nó khó có thể
đong đếm được. Giáo dục khơng chỉ có chức năng chuyển tải những kinh

nghiệm lịch sử xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau, mà quan trọng là trang
bị cho mỗi người phương pháp học tập, tìm cách phát triển năng lực nội sinh,
phát triển tư duy nội tại, thích ứng được với một xã hội học tập thường xuyên,
học tập suốt đời. Để giúp người học đáp ứng được những yêu cầu đó, việc cải
cách, đổi mới giáo dục (GD) là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách,
trong đó, đổi mới phương pháp giảng dạy (PPGD) là khâu then chốt nhất
trong quá trình đạt đến mục tiêu đổi mới GD.
Nhận thức được việc đổi mới PP giảng dạy và học tập là một trong
những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng như Bộ
giáo dục và đào tạo đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việc đổi
mới PP dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học. “Đổi mới phương pháp dạy và
học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực đào tạo của người học, coi trọng
thực hành, thực nghiệm, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét. học
vẹt, học chay”. Luật giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2005 (điều 5 khoản 2) đã ghi: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người
học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn


2

lên”. Bộ giáo dục và đào tạo cũng có thơng báo số: 4157/TB-BGDĐT, kết
luận của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân tại Hội thảo
Giảm tải, nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Đại học, Cao đẳng”, nhằm tích cực hố
hoạt động học tập, phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo và năng lực tự
học, tự nghiên cứu của người học. Nhà giáo giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ
chức, điều khiển, định hướng q trình dạy học, cịn người học giữ vai trị chủ
động trong q trình học tập và tham gia nghiên cứu khoa học”.
Trong những năm qua, việc giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác – Lênin ở các trường Đại học và Cao đẳng đã đạt được
những kết quả nhất định, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng
giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin theo
đúng tính chất của một mơn học.
Cùng với nhiều trường Đại học, Cao đẳng trong nước, Trường Cao
đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long rất chú trọng việc đổi mới phương pháp
giảng dạy. Giáo viên Bộ mơn Mác – Lênin đã tham gia những khóa bồi
dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ do Bộ giáo dục và đào tạo tổ chức, các lớp
học về nghiệp vụ sư phạm và phương pháp giảng dạy, hội thi giáo viên giỏi,
v.v.. Tuy nhiên, phần lớn các giảng viên chủ yếu giảng dạy theo phương pháp
thuyết trình truyền thống, mà chưa vận dụng các phương pháp dạy học tích
cực, do đó, chưa phát huy được tính tích cực của sinh viên trong quá trình
chiếm lĩnh tri thức.
Xuất phát từ thực tế nói trên và từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp
giảng dạy, tác giả chọn vấn đề: “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
trong giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin
(phần II, III) ở trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long” làm đề tài luận
văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


3

Liên quan đến đề tài nghiên cứu, từ trước đến nay có rất nhiều nhà
khoa học trong và ngồi nước bàn tới dưới nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà tư tưởng thời cổ đại như Khổng Tử, Socrate hay các tư tưởng
thời Phục hưng như Jean Jacqes Rouseau, S.Mong-te-xki-ơ... đã bàn nhiều
đến vấn đề giáo dục, đặc biệt là vấn đề phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học.
Và vấn đề đổi mới PPDH theo hướng vận dụng các PPDH tích cực vào

q trình dạy học lấy người học làm trung tâm nhằm phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học cũng đã và đang được các nhà nghiên cứu, các nhà
quản lý giáo dục trên thế giới và Việt Nam bàn đến, đặc biệt là trong những
năm gần đây.
- Liên quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực đã có một số cơng trình tiêu biểu như: Luận
văn thạc sĩ của Trần Thị Hồng “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong
dạy học mơn Giáo dục công dân lớp 10 ở trường Trung học phổ thông Đơng
Sơn I, tỉnh Thanh Hố” (2006); Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Minh: “Kết
hợp phương pháp dạy học truyền thống với phương pháp dạy học tích cực để
nâng cao hiệu quả dạy học môn Giáo dục công dân lớp 10 - phần thứ nhất
(Qua thực tế các trường Trung học phổ thơng Hải Phịng) (2007); Luận văn
Thạc sĩ của Nguyễn Thị Kim Ngân: “Vận dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong phần “Cơng dân với việc hình thành thế giới quan, phương pháp
luận khoa học” ở trường Trung học phổ thông hiện nay” (Qua thực tế một số
trường Trung học phổ thông tỉnh Nghệ An) (2008); Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Thảo: “Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy
học phần “Cơng dân với đạo đức” chương trình Giáo dục cơng dân lớp 10
nhằm nâng cao nhận thức của học sinh Trung học phổ thông về các giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc” (Qua khảo sát một số trường Trung học phổ
thông thuộc huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa).


4

Nhóm cơng trình này đã chỉ ra được quan niệm về PPDH tích cực, các
PPDH tích cực cụ thể, những đặc trưng của các PPDH tích cực và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu vận dụng các PPDH tích cực. Các cơng trình đã
đưa ra được một số quy trình và điều kiện vận dụng các PPDH tích cực vào
một số bài cụ thể trong chương trình GDCD lớp 10. Tuy nhiên, đây là những

đề tài nghiên cứu và áp dụng trong chương trình GDCD bậc THPT. Chưa đưa
ra được những quy trình và giải pháp vận dụng các PPDH tích cực trong
QTDH mơn Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin (phần II) trình
độ Cao đẳng.
- Nhóm các bài viết đăng trên báo và các tạp chí có liên quan đến vấn
đề này gồm có: Vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giảng
dạy học phần “Lý luận dạy học địa lý” nhằm phát huy năng lực tự học, tự
nghiên cứu cho sinh viên sư phạm địa lí của tác giả Đậu Thị Hịa, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục, số 3/2006; Sổ tay Phương pháp giảng dạy và đánh giá,
Trường Đại học Nha Trang, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Đại học Đà
Nẵng, số 2 (25)/ - 2008; Nâng cao hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm
trong giảng dạy mơn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin của
tác giả Nguyễn Trung Hiếu, Tạp chí Giáo dục, số 6 – 2009...
Các cơng trình nêu trên đều khẳng định vai trị của phương pháp thảo
luận nhóm là phương pháp tích cực, sáng tạo của người học và tìm kiếm các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp này trong dạy học
- Đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy các mơn Lý luận
chính trị trong các trường đại học và cao đẳng có các bài viết, các cơng trình
nghiên cứu như: Phùng Văn Bộ, Một số vấn đề về phương pháp giảng dạy và
nghiên cứu triết học, Nxb Giáo dục, 2001; Lê Hữu Ái: “Giải pháp nâng cao
chất lượng giảng dạy các môn Mác- lênin ở các trường Đại học”, Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, số 1/2000; PGS.TS. Đoàn Minh Duệ: “Hướng tới việc
dạy học mơn triết học có hiệu quả hơn, Kỷ yếu hội thảo khoa học về đổi mới


5

phương pháp giảng dạy học tập môn triết học Mác- Lênin trong các trường
Đại học toàn quốc”, Hà Nội, tháng 12/2002.
TS. Trần Viết Quang: “Bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận

khoa học cho sinh viên thông qua việc giảng dạy triết học Mác- Lênin”, Đề tài
KHCN cấp Bộ/2000; “Hướng tới việc dạy, học mơn triết học có hiệu quả
hơn”. Kỷ yếu hội thảo khoa học về đổi mới phương pháp giảng dạy học tập
môn triết học Mác- Lênin trong các trường Đại học toàn quốc, Hà nội, 12/
2002.
Các cơng trình nêu trên đều đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng phát huy tích tích cực của sinh viên ở các trường đại
học.
Như vậy, các cơng trình, các bài viết trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh
khác nhau của việc đổi mới PPDH theo hướng vận dụng các PPDH tích cực
vào q trình dạy học cả về mặt lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến thời
điểm hiện nay, chưa có một cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một
cách có hệ thống và cụ thể về việc vận dụng các PPDH tích cực vào giảng dạy
mơn Những ngun lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác- Lênin (phần II) nhằm phát
huy tính tích cực của sinh viên thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng các PPDH tích cực
trong giảng dạy và từ thực nghiệm sư phạm, luận văn đưa ra quy trình và giải
pháp vận dụng các PPDH tích cực trong giảng dạy mơn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II) ở Trường Cao Đẳng Kinh tế - Tài
chính Vĩnh Long.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên thì luận văn có các nhiệm vụ sau:


6

- Làm rõ sự cần thiết vận dụng các PPDH tích cực trong giảng dạy mơn

Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II, III).
- Khảo sát, đánh giá thực trạng vận dụng các PPDH tích cực trong
giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II,
III) ở trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long.
- Tiến hành thực hiện các giáo án thực nghiệm dạy học một số chương
trong môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II, III) ở
trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long.
- Xây dựng quy trình và đề ra giải pháp vận dụng các PPDH tích cực
trong giảng dạy mơn Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần
II, III).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc dạy học trên lớp, với phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp đàm thoại (vấn đáp), phương pháp nêu vấn trong giảng
dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II, III).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu sự vận dụng một số PPDH tích cực trong
giảng dạy mơn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần
II,III) ở Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng cộng
sản Việt Nam về giáo dục; nội dung, chương trình mơn học Những ngun lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (phần II, III) dùng cho sinh viên khối khơng
chun ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trình độ Đại học, Cao đẳng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu


7


Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp quan sát
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm rõ thêm yêu cầu, quy trình và giải pháp vận dụng
các PPDH tích cực trong giảng dạy mơn Những ngun lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (phần II, III).
- Với những kết quả đạt được, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo
trong giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
(phần II, III) ở các trường đại học, cao đẳng.
7. Giả thuyết khoa học
Giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin ở
các trường đại học nói chung và ở trường Cao đẳng Kinh Tế - Tài chính Vĩnh
Long nói riêng có những hạn chế nhất định. Các phương pháp dạy học tích
cực, nếu được vận dụng một cách khoa học trong giảng dạy học phần Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (phần II, III) sẽ phát huy được
tính tích cực cho sinh viên, qua đó nâng cao được chất lượng và hiệu quả
giảng dạy môn học ở Trường Cao đẳng Kinh Tế - Tài chính Vĩnh Long
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng các phương
pháp dạy học tích cực vào giảng dạy mơn Những ngun lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác-Lênin (phần II, III) ở Trường Cao đẳng Kinh tế -Tài chính Vĩnh
Long.



8

Chương 2: Thực nghiệm vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào giảng dạy mơn Những ngun lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin (phần
II, III) ở Trường Cao đẳng Kinh tế-Tài chính Vĩnh Long.
Chương 3: Quy trình và giải pháp vận dụng các phương pháp dạy học
tích cực vào giảng dạy dạy môn Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa MácLênin (phần II, III)


9

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG CÁC
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO GIẢNG
DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN (PHẦN II, III) Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨNH LONG
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng các phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin (phần II, III)
1.1.1. Lý luận về phương pháp dạy học tích cực
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học tích cực
Tư tưởng nhấn mạnh đến vai trị tích cực, chủ động của người học, xem
người học là chủ thể của q trình nhận thức đã có từ rất lâu. Vào thế kỷ XVII,
J.A.Komensky đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm,
phán đốn đúng đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho phép
người giáo viên dạy ít hơn và sinh viên học nhiều hơn”. Tư tưởng này bắt đầu
rõ nét vào khoảng thế kỷ XVIII – XIX và đã trở nên rất phổ biến trong thế kỷ

XX. Đặc biệt, trào lưu giáo dục hướng vào người học xuất hiện đầu tiên ở Mỹ,
sau đó ảnh hưởng sang Tây Âu và sang châu Á mà chủ yếu là ở Nhật Bản, thể
hiện ở các thuật ngữ “Dạy học hướng vào người học”, “Dạy học lấy người học
làm trung tâm”.
Theo quan điểm của PGS.TS.Vũ Hồng Tiến cho rằng phương pháp dạy
học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những
phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy


10

tính tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích
cực của người dạy. Tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì
giảng viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động [29; 1].
Theo Từ điển tiếng Việt: Tích cực trái với tiêu cực, có ý nghĩa, có tác
dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển. Tỏ ra chủ động, có những hoạt động
nhằm tạo ra sự biến đổi theo hướng phát triển như: đấu tranh tích cực, phương
pháp phịng bệnh tích cực. Theo một nghĩa khác, Tích cực là đem hết khả
năng và tâm trí vào việc làm [30; 981].
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc tổ chức cho người học
học tập thông qua các hoạt động. Tạo mọi điều kiện để người học tham gia
các hoạt động một cách sáng tạo, tự giác, tích cực, chủ động. Do đó vận dụng
các phương pháp dạy học tích cực, giảng viên với vai trị là người hướng dẫn
rèn luyện cho sinh viên phương pháp tự học, phát huy sự tìm tịi độc lập, sáng
tạo của từng sinh viên hoặc thơng qua từng nhóm sinh viên, thơng qua thảo
luận nhóm, thâm nhập thực tế của sinh viên theo mục tiêu của chương trình,
bài học. Giảng viên tổng hợp các ý kiến, những kinh nghiệm, vốn hiểu biết
của từng sinh viên và tập thể lớp học để xây dựng nội dung bài học.

Chúng tôi nhận thức rằng phương pháp dạy học tích cực là một tập hợp
các phương pháp mà khi vận dụng vào dạy học người dạy đóng vai trị là người
hướng dẫn, tổ chức cho người học thực hiện các hoạt động học tập để từng
bước lĩnh hội được các nội dung tri thức của môn học, đạt được các mục tiêu
của bài học.
1.1.1.2. Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực
Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học thì người học
đóng vai trị là chủ thể của hoạt động học được cuốn hút vào các hoạt động do
người dạy tổ chức và chỉ đạo, thông qua các hoạt động này người học được tự
mình khám phá những điều mình chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu
những tri thức đã được sắp đặt sẵn thông qua sự thuyết giảng của người dạy.


11

Như vậy, “Tri thức trở thành kiến thức thực sự khi người học chiếm lĩnh nó
bằng chính sức lao động, sức sáng tạo của mình” [17; 13]. Phương pháp dạy
học tích cực là những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ
động, tính độc lập và tính sáng tạo của người học, nhằm hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học.
Phương pháp dạy học tích cực bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
- Đối với người học phải tập trung cao độ trong học tập, chủ động tìm
tịi khám phá nội dung học tập, chủ động giải quyết các vấn đề phù hợp với
khả năng hiểu biết của mình, đề xuất các ý tưởng sáng tạo và tự nguyện trình
bày, diễn đạt các ý kiến của mình.
- Đối với người dạy phải luôn luôn linh hoạt, mềm dẻo, sẵn sàng tạo cơ
hội để cho người học tham gia và làm chủ hoạt động nhận thức. Người dạy
xây dựng được môi trường có khả năng thúc đẩy người học tự điều khiển hoạt
động học tập, cung cấp những nhiệm vụ học tập có mức độ phù hợp với đối
tượng người học, tạo điều kiện cho người học được phép lựa chọn, tự lập kế

hoạch, tự đưa ra mục đích hoạt động, tự mình hoặc hợp tác để thực hiện
nhiệm vụ học tập, cuối cùng tự nhận xét đánh giá kết quả học tập của bản
thân. Người dạy chỉ là người tổ chức và hướng dẫn quá trình nhận thức cho
người học.
- Nội dung kiến thức giảng dạy không đi sâu vào từng chi tiết cụ thể mà
sắp xếp thành các vấn đề liên kết hoặc sắp xếp theo nguyên lí cơ chế để kích
thích tư duy và tính chủ động sáng tạo của người học trong cách giải quyết
các vấn đề.
1.1.1.3. Một số yêu cầu đối với việc vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực
Trong những thập kỷ gần đây, phương pháp dạy học tích cực phát triển
với những hình thức mới. Bởi vì mục tiêu của dạy học đặt ra khơng chỉ là dạy
học mà cịn là đào tạo. Vì thế sự xuất hiện phương pháp giáo dục theo mục


12

tiêu, với chương trình học được thiết kế mềm dẻo theo khả năng và cơng cụ
trí tuệ, cho phép giải quyết thành công những mục tiêu đề ra, nhằm đào tạo
năng lực thích nghi, tự chủ, giáo dục ý chí hành động, ý thức, trách nhiệm, tự
giác.
Trong quá trình giảng dạy nói chung và giảng dạy mơn Những ngun
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (phần II, III) nói riêng, phương pháp dạy
học tích cực được vận dụng một cách tương đối phổ biến ở các trường đại
học, cao đẳng trên cả nước. Để vận dụng tốt các phương pháp dạy học tích
cực nhằm mang lại hiệu quả trong giảng dạy, đòi hỏi phải thực hiện nghiêm
túc các yêu cầu như:
Một là, do đặc điểm của môn học Những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác –Lênin (phần II, III) được Bộ giáo dục và Đào tạo tích hợp từ mơn
Kinh tế chính trị và mơn Chủ nghĩa xã hội khoa học trên cơ sở những nguyên

lý cơ bản khái qt nhất cơ đọng nhất, vì vậy, việc vận dụng PPDH môn học
này cũng hết sức đa dạng, mỗi chương, mỗi phần đòi hỏi một cách thức giảng
dạy phù hợp. Trong khi đó, mỗi PPDH đều có mặt tích cực và mặt hạn chế, để
phù hợp với từng chương, từng phần riêng của giờ giảng. Vì vậy, khơng nên
q lạm dụng hoặc phủ định hồn tồn một PPDH nào đó. Cần thiết phải lựa
chọn và vận dụng kết hợp một số PPDH một cách hợp lý vào bài giảng .
Hai là, trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học - công nghệ và của kinh tế tri thức, trình độ nhận thức của đội ngũ
giảng viên ở các trường Đại học, Cao đẳng trên phạm vi cả nước ngày càng
được nâng cao để đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chuyên môn việc vận dụng
PPDH vào môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần
II,III) nói chung, đặc biệt là vận dụng các PPDH tích cực cần phải thường
xuyên được bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện. Điều này được thực hiện thông
qua những kinh nghiệm trong giảng dạy của giảng viên và được khái quát về


13

lý luận để phù hợp với thực tế luôn biến đổi, phù hợp với nội dung khoa học
của môn học.
Tuy nhiên, để vận dụng tốt các PPDH tích cực trong giảng dạy môn
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần II,III) thì địi hỏi
người giảng viên cần phải có sự đầu tư, suy nghĩ, cơng phu và nghiêm túc
trong việc lựa chọn PPDH tích cực nào cho phù hợp để phục vụ nội dung của
từng chương, từng phần giảng. Nhằm khai thác một cách tối ưu nhất những
thế mạnh của phương pháp đó.
Ba là, phương tiện dạy học được coi là yếu tố có ý nghĩa quan trọng
trong việc vận dụng các PPDH tích cực, do đó, giảng viên cần phải biết khai
thác các phương tiện này. Cùng với xu hướng đổi mới giáo dục, hiện nay các
trường Đại học, Cao đẳng trong cả nước từng bước trang bị nhiều phương tiện

dạy học hiện đại có vai trị đặc biệt quan trọng trong q trình truyền đạt tri
thức tới người học. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là sử dụng đa
phương tiện trong dạy học. Đó là các thiết bị máy tính, projector, máy ảnh kỹ
thuật số, máy quay phim, các thiết bị âm thanh, mạng Internet…
Ở Việt Nam, q trình dạy học mơn Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (phần II, III) ở các trường Đại hoc, Cao đẳng trên cả nước
nói chung thường sử dụng một số phương tiện dạy học như: Tivi, băng hình,
đĩa hình, phim video, phim truyền hình, các phương tiện kỹ thuật số như máy
ảnh kỹ thuật số, máy quay phim, máy tính, phần mềm máy tính học trực
tuyến. Phương tiện dạy học khơng chỉ có tác dụng minh họa bài giảng mà cịn
có tác dụng tới việc hình thành, phát triển, củng cố tri thức khoa học cho
người học.
1.1.1.4. Một số phương pháp dạy học tích cực
* Phương pháp vấn đáp
Vấn đáp đàm thoại: là phương pháp trong đó giảng viên đặt ra câu hỏi
để sinh viên trả lời, hoặc sinh viên có thể tranh luận với nhau và với cả giảng


14

viên; qua đó sinh viên lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất
hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp:
Vấn đáp tái hiện: giảng viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu sinh viên nhớ lại
kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, khơng cần suy luận. Vấn đáp tái
hiện khơng được xem là phương pháp có giá trị sư phạm. Đó là biện pháp
được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học.
Vấn đáp giải thích – minh họa: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó, giảng viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh
hoạ để sinh viên dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi
có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe – nhìn.

Vấn đáp tìm tòi (đàm thoại Ơxrixtic): giảng viên dùng một hệ thống câu
hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng sinh viên từng bước phát hiện ra bản chất
của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham
muốn hiểu biết. Giảng viên tổ chức sự trao đổi ý kiến – kể cả tranh luận –
giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trị với trị, nhằm giải quyết một vấn đề xác
định.
Đánh giá về phương pháp đàm thoại (vấn đáp)
Ưu điểm: Điều khiển có hiệu quả hoạt động tư duy của sinh viên, kích
thích tính tích cực hoạt động nhận thức của họ. Bồi dưỡng cho sinh viên năng
lực diễn đạt bằng lời những vấn đề khoa học một cách chính xác, đầy đủ, súc
tích. Giúp giảng viên thu được tín hiệu ngược từ sinh viên một cách nhanh,
gọn, kịp thời để kịp điều chỉnh hoạt động của mình và của sinh viên. Đồng
thời qua đó mà sinh viên cũng thu được tín hiệu ngược để kịp thời điều chỉnh
hoạt động nhận thức – học tập của mình. Ngồi ra, thơng qua đó mà giảng
viên có khả năng chỉ đạo hoạt động nhận thức của cả lớp và của từng sinh
viên.
Nhược điểm: nếu vận dụng phương pháp này không khéo sẽ dễ làm mất
thời gian, ảnh hưởng đến kế hoạch lên lớp, biến vấn đáp thành cuộc đối thoại


15

giữa giảng viên và một vài sinh viên, không thu hút toàn lớp tham gia vào
hoạt động chung. Nếu câu hỏi đặt ra chỉ đòi hỏi nhớ lại tri thức một cách máy
móc thì sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy logic, tư duy sáng tạo của
sinh viên.
*Phương pháp nêu vấn đề:
Phương pháp nêu vấn đề được xem như một cách xây dựng tổng thể
một đề cương giảng dạy hoặc là một trong những cách được người dạy áp
dụng để xây dựng đề cương giảng dạy cho một môn học. Phương pháp này

xuất hiện vào năm 1970 tại trường Đại học Hamilton - Canada, sau đó được
phát triển nhanh chóng tại Trường Đại học Mastricht - Hà Lan.
Việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp dạy học này đã được tiến
hành tại một số trường và thu được những kết quả đáng kể. Theo Nguyễn
Ngọc Quang, phương pháp dạy học nêu vấn đề là: “một hệ phương pháp phức
hợp”. Vậy thực chất phương pháp dạy học nêu vấn đề là gì? Và dạy như thế
nào? Các nhà nghiên cứu, giảng viên đã đưa ra nhiều nhận định khác nhau,
nhưng nhìn chung khơng có sự khác biệt và mâu thuẫn lớn.
Nhà giáo dục Ba Lan V.Okon cho rằng: “Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ
các hoạt động như tính chất, tình huống có vấn đề, diễn đạt các vấn đề, chú ý
giúp đỡ cho sinh viên những vấn đề cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra
cách giải quyết đó và cuối cùng là hệ thống hóa và cũng cố các kiến thức đã
tiếp thu được” [16;103]. Cấu trúc một bài học (hoặc một phần bài học) theo
phương pháp đặt và giải quyết vấn đề thường được thể hiện như sau:
- Đặt vấn đề, xây dựng bài tốn nhận thức có nghĩa là giảng viên phải
tạo ra tình huống có vấn đề sinh viên phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh
cần giải quyết.
- Giải quyết vấn đề, đặt ra có nghĩa là người giảng viên phải hướng cho
sinh viên đề xuất cách giải quyết vấn đề cũng như lập được kế hoạch giải
quyết vấn đề và thực hiện kế hoạch giải quyết vấn đề đó như thế nào.


16

- Kết luận vấn đề, là việc thảo luận kết quả và đánh giá kết quả nghiên
cứu nhằm khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra trước đó. Trên cơ sở đó
phát biểu kết luận và đề xuất vấn đề mới.
Như vậy thực chất của dạy học nêu vấn đề là việc giảng viên đặt câu
hỏi hoặc nêu vấn đề và tình huống có vấn đề, cịn sinh viên thì tự lực suy
nghĩ, thảo luận, giải đáp vấn đề dưới sự định hướng của giảng viên. Quá trình

suy nghĩ, thảo luận, giải đáp là điều kiện tốt để kích thích tính năng động sáng
tạo, sự độc lập suy nghĩ, sinh viên dần dần tiếp thu kinh nghiệm hoạt động
sáng tạo hình thành phong cách học tập.Trong q trình đó, giảng viên vừa là
người cung cấp thông tin, truyền đạt kiến thức (bằng cách nêu vấn đề) để sinh
viên lĩnh hội, vừa là người kích thích tự giác, tích cực suy nghĩ sáng tạo của
sinh viên trong học tập đồng thời tạo ra bầu khơng khí dân chủ giữa thầy và
trò để đạt hiệu quả cao trong học tập.
Tuy nhiên, cần lưu ý trong q trình đó giảng viên khơng phải là người
độc quyền đưa ra các vấn đề và phương pháp giải quyết các vấn đề đó mà cần
khêu gợi, gợi mở cho sinh viên suy nghĩ, tìm tịi sáng tạo để đưa ra cách giải
quyết mới, ý tưởng mới. Thậm chí trong các ý tưởng mới đó lại là một vấn đề
mới được đặt ra và có thể vấn đề mới đó vượt qua khả năng kiểm sốt của
giáo viên, đòi hỏi người giáo viên phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ.
Chính vì vậy, Anbe Anhxtanh đã viết: “Khi tôi giảng, tôi tạo điều kiện để sinh
viên có thể dạy tơi”. Như vậy, dạy học theo phương pháp nêu vấn đề là quá
trình dạy cho sinh viên không những nắm được những tri thức cần thiết trong
chương trình đào tạo mà cao hơn thế nữa là biết vận dụng những tri thức đó
vào để giải quyết các vấn đề và tình huống gặp phải trong học tập và công tác
sau này.
Rõ ràng là, điểm mấu chốt của phương pháp dạy học nêu vấn đề chính
là “phương pháp dạy phương pháp”, đó là một phương pháp dạy đại học hiện
đại. Tác động của thầy dù là quan trọng đến đâu, có hiệu lực đến mấy vẫn là


17

ngoại lực, vẫn chỉ là hỗ trợ, thúc đẩy, xúc tác, tạo điều kiện. Sức tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên dù còn yếu kém đến đâu vẫn là nội lực quyết định sự
phát triển của bản thân người học. Yêu cầu của phương pháp dạy học này là
không chỉ truyền thụ cho sinh viên một lượng tri thức khoa học cần thiết mà

cái cần đạt tới là giáo dục, xây dựng cho sinh viên có một phương pháp khoa
học trong nghiên cứu tìm hiểu và giải quyết mọi vấn đề gặp phải trong quá
trình học tập trước mắt và trong q trình cơng tác sau này.
Khi vận dụng phương pháp dạy học này, có ý kiến cho rằng vai trò của
giảng viên được giảm nhẹ. Ngược lại, nếu xét về bản chất của phương pháp,
ta thấy công việc của người thầy trở nên cực kỳ khó khăn. Thầy phải nghiên
cứu cho một bài giảng công phu hơn, phải kết hợp tốt chuyên môn khoa học
và năng lực sư phạm. I.V.Lênin đã từng nói: “Khơng ai thay thế được ông
thầy trong nhà trường”. Như vậy, người giảng viên có vai trò quyết định trong
việc thực hiện phương pháp dạy học này, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo.
Đánh giá về phương pháp nêu vấn đề
Ưu điểm: Sinh viên nắm vững được tri thức với các phương pháp lĩnh
hội khác nhau. Phát triển tư duy sáng tạo, bồi dưỡng lòng ham học và khả
năng tự học của sinh viên. Rèn luyện năng lực thích ứng với cuộc sống hiện
đại thông qua kỹ năng biết đặt và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh trong
quá trình học tập và trong cuộc sống thực tế. Giảng viên kiểm tra, đánh giá
năng lực của sinh viên thông qua các hoạt động học tập như tiếp cận và xử lý
tình huống, xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề.
Nhược điểm: Phụ thuộc vào trình độ, năng lực vận dụng phương pháp
của giảng viên và trình độ nhận thức của sinh viên. Giảng viên sẽ cần nhiều
thời gian trong quá trình chuẩn bị thiết kế bài giảng và triển khai bài giảng
trên lớp.
* Phương pháp thảo luận nhóm:


18

Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 7 đến 10 người. Tuỳ mục
đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có

chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được
giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Nhóm tự bầu nhóm
trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân cơng mỗi người một phần việc.
trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, khơng thể ỷ lại
vào một vài người hiểu bết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm
giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong khơng khí thi đua với các nhóm
khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung
của cả lớp. Để trình bày kết quả làm việc của nhóm trước tồn lớp, nhóm có
thể cử ra một đại diện hoặc phân cơng mỗi thành viên trình bày một phần nếu
nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ
các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức
mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình
độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì.
Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận
thụ động từ giảng viên. Cách thức chia nhóm và đánh giá ưu nhược điểm của
phương pháp thảo luận nhóm như sau;
Hình thức
nhóm
1. Nhóm gồm
những SV tự
nguyện, chung
2. Các nhóm
ngẫu nhiên

(U): Ưu điểm – (N): Nhược điểm

U
N
U

N

Số lượng từ 7-10 sinh viên trong một nhóm
Đối với SV thì đây là cách dễ chịu nhất để thành lập
nhóm, đảm bảo cơng việc thành cơng nhanh nhất.
Tạo ra sự tách biệt giữa các nhóm, vì vậy cách tạo lập
nhóm như thế khơng nên là khả năng duy nhất.
Các nhóm ln mới sẽ đảm bảo là tất cả các SV đều
có thể học tập chung nhóm với tất cả các SV khác.
Có bất đồng quan điểm, sinh viên phải làm quen để
thấy rằng cách lập nhóm như vậy là bình thường.


19

3. Nhóm ghép
hình

U
N

4. Các nhóm
với những đặc
điểm chung

N

5. Các nhóm
cố định trong
một thời gian

6. Nhóm

U

SV

viên khá để hỗ
trợ SV yếu

U
N
U
N

7. Phân chia

U

theo năng lực

N

8. Nhóm chụm
đầu hay nhóm

U

thì thầm
N


Cách tạo lập nhóm kiểu vui chơi, khơng gây ra sự đối
trọi.
Cần có chi phí để chuẩn bị và cần nhiều thời gian
hơn để tạo lập nhóm.
Tạo lập nhóm một cách độc đáo, tạo ra niềm vui và
sinh viên có thể biết nhau rõ hơn.
Cách làm này mất đi tính độc đáo nếu được sử dụng
thường xuyên.
Cách làm này đã được chứng tỏ tốt trong những
nhóm học tập có nhiều vấn đề.
Sau khi đã quen nhau một thời gian dài thì việc lập
các nhóm mới sẽ khó khăn.
Tất cả đều được lợi. Những sinh viên giỏi đảm nhận
trách nhiệm, những sinh viên yếu được giúp đỡ.
Ngồi việc mất nhiều thời gian thì chỉ có ít nhược
điểm, trừ khi những sinh viên giỏi hướng dẫn sai.
Sinh viên giỏi có thể tự xác định mục đích của mình.
Những SV yếu hơn sẽ gặp khó khăn việc xác định
mục đích của bản thân, cần sự giúp đỡ, của SV giỏi.
SV có cơ hội trao đổi kinh nghiệm hiểu biết về các
vấn đề trong học tập, sẽ đánh thức tiềm năng của
trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Một số sinh viên làm việc riêng trong quá trình làm

việc nhóm.
*Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho sinh viên thực hành một số cách
ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau :
Sinh viên được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ

thái độ trong mơi trường an tồn trước khi thực hành trong thực tiễn, đem
đến sự hứng thú và chú ý cho sinh viên, tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng


20

tạo của sinh viên, khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của sinh viên theo
chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị – xã hội và có thể thấy ngay tác
động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
* Phương pháp động não
Động não là phương pháp giúp sinh viên trong một thời gian ngắn nảy
sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Thực hiện
phương pháp này, giảng viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền
đề cho buổi thảo luận.
Cách tiến hành: Giảng viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được tìm hiểu trước
cả lớp hoặc trước nhóm, khích lệ sinh viên phát biểu và đóng góp ý kiến càng
nhiều càng tốt, liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa lên bảng hoặc giấy khổ
to, không loại trừ một ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp. Bên cạnh đó cũng
cần phân phân loại các ý kiến, để làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và
thảo luận sâu hơn từng ý.
* Phương pháp tự học, tự nghiên cứu.
Tự học là hoạt động học tập độc lập của từng sinh viên không chỉ tự
đọc sách, đọc tài liệu khi khơng có giảng viên và các bạn mà cịn phải có tinh
thần, thái độ, ý chí, phương pháp làm việc tích cực, tự giác nhằm đạt hiệu quả
trong giờ học để nắm vững và vận dụng tri thức khoa học vào đời sống.
1.1.2. Sự cần thiết vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong
giảng dạy mơn Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần
II, III)
1.1.2.1. Cấu trúc, nội dung chương trình mơn học Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (Phần II, III)

Trong các trường Đại học và Cao đẳng hiện nay, môn Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin (Phần II, III) được tổng hợp từ kiến thức
của hai mơn học trước đây là: Kinh tế chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
* Mục đích của môn học:


×